- Chương I. CHÁNH KIẾN – Giới thiệu
- Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN – Giới thiệu 63
- Chương III. ĐỐI TRỊ SÂN HẬN - Giới thiệu
- Chương IV. CHÁNH NGỮ
- Chương V. TÌNH BẠN TỐT ĐẸP – Giới thiệu
- Chương VI. LỢI LẠC CHO MÌNH và LỢI LẠC CHO NGƯỜI KHÁC - Giới thiệu
- Chương VII. CỘNG ĐỒNG THÀNH LẬP CÓ CHỦ ĐÍCH - Giới thiệu
- Chương VIII. TRANH CHẤP
- Chương IX. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
- Chương X. THIẾT LẬP MỘT XÃ HỘI CÔNG BẰNG
- LỜI KẾT
3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM
(1) Mười sáu loại cấu uế của tâm.
“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dục và tham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dục và tham lam bất chánh là cấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dật là cấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”
( Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88)
(2) Hai loại ý niệm
“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hận và độc hại (dục tầm, sân tầm và hại tầm) vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dung và vô hại ( ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm) vào loại thứ hai.
“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng: ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.
“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ bỏ ý niệm về ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục… Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ bỏ ý niệm về vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.
“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,
“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một ý niệm về ly dục, bao dung và vô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu, làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.
“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.
“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”
( Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265)
(3) Thực hành “ đoạn trừ phiền não ”
Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não (5) như thế này:
(1) ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.
(2) ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ sát sanh ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.
(3) ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.
(4) ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ sống độc thân ’…
(5) ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....
(6) ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói hai lưỡi’…
(7) ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói lời độc ác’...
(8) ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói lời phù phiếm…
(9) ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham dục’ ...
(10) ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...
(11) ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh kiến’ ...
(12) ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh tư duy’ ...
(13) ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh ngữ’ ...
(14) ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh nghiệp’ ...
(15) ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh mạng’ ...
(16) ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh tinh tấn’ ...
(17) ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh niệm’ ...
(18) ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh định’ ...
(19) ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...
(20) ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có chánh giải thoát’ ...
(21) ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...
(22) ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất an’…
(23) Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi ngờ ’…
(24) Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức giận’…
(25) Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung bạo’…
(26) ) Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không khinh thường’…
(27) ) Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn láo’…
(28) ) Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…
(29) Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’ …
(30) Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường gạt ’ …
(31) Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’ …
(32) Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng bỉnh ’ …
(33) Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu ngạo ’ …
(34) Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ khuyên răn dạy bảo ’ …
(35) Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …
(36) Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…
(37) Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…
(38) Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn ’…
(39) Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi biết sợ hãi khi làm điều ác ’…
(40) Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…
(41) Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…
(42) Người khác có thể không có chánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh niệm ’…
(43) Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôi có trí tuệ ’…
(44) Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.
( Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104)