Niết Bàn

15/05/201212:00 SA(Xem: 38025)
Niết Bàn


NIẾT BÀN

HT. Thích Trí Quảng

---o0o---

Trên bước đường tu hành, mục tiêu của hàng đệ tử Phật là giải thoát sinh tử, đến Niết bàn theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy, hay thâm nhập vào các Tịnh độ theo tinh thần Phật giáo Bắc tông. Ở đây, chúng tôi triển khai một phần về thế giới Niết bàn.

Thế giới Niết bàn hoàn toàn đối lập với thế giới hữu hạn mà chúng ta đang sống. Thật vậy, tất cả vạn vật hiện hữuthế giới Ta bà đều bị sự chi phối của định luật vô thường, khổ, không, vô ngã, không thể khác. Loài người sống trong thế giới sinh diệt cũng không thể thoát khỏi định luật này, gọi là sinh, già, bệnh, chết. Các loài thực vật cũng có bốn tướng là sinh, trụ, hoại, diệt và thế giới cũng trải qua bốn giai đoạn là thành, trụ, hoại, không. Ví dụ trái đất của chúng ta đang ở trong kiếp trụ và khi kiếp trụ chấm dứt, nó bắt đầu bị hư hoại. Thực tế cho thấy loài người đang xả chất độc làm ô nhiễm không khí, sông biển, đất đai, khai thác bừa bãi núi rừng, các túi dầu hỏa trong lòng đại dương, làm thủng tầng ozone, tất cả những việc khai thác quá mức của con người đã gây ra sự thay đổi thời tiết bất thường, lũ lụt, hạn hán, v.v… rõ ràng trái đất này đang bị suy thoái. Đến một lúc nào đó, bước vào kiếp hoại, trái đất sẽ vỡ tung thì tất cả thế giới hữu hình đều trở thành cát bụi và chuyển sang kiếp không của vũ trụ.

Với tuệ giác, Đức Phật quán sát thấy rõ tất cả vạn vật đều chịu sự chi phối của vô thườngcon người khổ đau chỉ vì muốn mọi thứ thường còn. Căn bản nhất, Phật dạy ngũ uẩn thân làm chúng ta khổ, vì bản chất của thân ngũ uẩn vốn là vô thường nên mới bị định luật vô thường chi phối. Phật dạy các Tỳ kheo tu hành phải xả ngũ uẩn, nghĩa là không để vướng mắc với thân này, chỉ cung cấp cho thân những nhu cầu tối thiểu để giữ mạng sống, không đáp ứngđiều kiện cho nó và không tạo thêm nghiệp ác của thân. Không chấp thân và sở hữu của thân, hay không chấp ta và sở hữu của ta, sẽ đạt được vô ngã. Và đạt được vô ngã là có Niết bàn.

Tỳ kheo thể nghiệm sự vô ngã, nên không lập gia đình, tức xuất thế tục gia, không còn vướng bận nhà cửa, nếp sống hữu hạn của gia đình theo thế nhân. Bỏ được những thứ này giúp cho tâm chúng ta nhẹ bớt. Phật dạy Tỳ kheo chỉ có một bát, một ca sa, ăn uống đơn giản, sống phạm hạnh, đầu đà, để không lo giữ gìn tài sản, tâm không bị kẹt vào vật chất sở hữu, tâm được thanh thản.

Về sau, chư vị Tổ sư dạy rằng tuy không có sở hữu vật chất, nhưng thầy trụ trì phải giữ gìn của Tam bảo để có phương tiện giúp cho đại chúng tu hành. Thật sự, gánh vác việc này, trụ trì cũng bận tâm lắm, mà vô tâm để hư hỏng hay đánh mất của Tam bảo lại phạm tội.

Khi sở hữu cá nhân không có, thì ham muốn, bực tức, giận dữ, si mê…, tức những tánh xấu cũng không có. Nhưng vì các thầy trụ trì, hay thầy tri sự phải giữ gìn, bảo vệ của Tam bảo nên thất thoát cũng buồn khổ. Và các thầy xây dựng chùa cũng khổ vì có chùa. Vì vậy, tuy xuất gia mà họ không thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng; chúng ta nên khởi tâm thương những người này.

Trên bước đường tu, hướng đến Niết bàn, cần dứt bỏ bốn tánh: buồn, giận, sợ, lo. Riêng tôi, thường quán tất cả pháp do nhân duyên sinh diệt, nên thấy mọi việc bình thường. Trong duyên sinh, tự nó phát triển và trong duyên diệt, mọi việc tự chấm dứt. Thí dụ quán sát một triều đại, một ngôi chùa, thấy rõ sự tồn tại, hưng suy, đều tùy thuộc vào sự vận hành của pháp sinh diệt; vì thế, chúng ta không vướng mắc, buồn phiền, lo lắng. Điển hình là Hòa thượng Thanh Từ miên mật tu hành, không bận tâm xây chùa, nhưng nhiều ngôi chùa trang nghiêm được hoàn thành tốt đẹp nhờ công đức của Hòa thượng.

Hành giả bước theo dấu chân Phật, trước nhất phải từ bỏ sở hữu vật chấtkế tiếp là đoạn trừ phiền não trong tâm bằng cách quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Để đạt được vô ngã, bước thứ nhất vào đạo, hành giả hướng đến Niết bàn phải thâm nhập Sơ thiền, được ly sanh hỷ lạc. Sống với ly sanh hỷ lạc, hành giả không tìm nguồn vui lệ thuộc vào sự vật bên ngoài; vì vui theo vật chất càng nhiều càng khổ, có cái vui nào mà không tàn. Thú vui do vật chất, do nhà cao cửa rộng, do ăn ngon mặc đẹp, do người khác mang đến… thì khi người và vật sở hữu mất rồi sẽ khổ. Niềm vui lệ thuộc vào vật chất luôn dẫn đến nỗi buồn tiếp theo là thế.

Nguồn vui trong lòng chúng ta thì không bao giờ mất. Và an trụ được nguồn vui của nội tâm, chúng ta có được tự thọ dụng thân khác với tha thọ dụng thân. Sống với tha thọ dụng thân nghĩa là sự sống luôn bị ràng buộc bởi thân vật chất, đơn giản nhất là phải ăn uống, ngủ nghỉ. Nhưng đối với người tu, nhất là người được ly sanh hỷ lạc thì ăn uống ngủ nghỉ không thể bức ngặt thân tâm họ; vì họ đã hoàn toàn chủ động bốn thứ này. Với tha thọ dụng thân, ngoài sự lệ thuộc vào thân vật chất, người ta còn chịu sự chi phối của gia đình, bạn bè, xã hội, thiên nhiên.

Tập sống vui với nội tâm bằng cách vui nghe pháp, vui suy nghĩ lời Phật dạy, lời của Tổ và nhận ra những tinh ba làm cho chúng ta thích thú, mỉm cười. Đó là nguồn vui từ trong lòng hiện ra tạo thành Pháp thân, hay tự thọ dụng thân của chúng ta. Dù tu theo Phật giáo Nguyên thủy hay Bắc tông đều phải được thành quả như vậy. Các thiền sư ẩn cư trong núi rừng, tràn đầy sự hỷ lạc của nội tâm, mới sống thanh thản được. Và từ cuộc sống nội tâm được phát huy, bỏ lần vật chất phía sau, đến lúc có tự thọ dụng thân hay đời sống tâm linh thật sự là bước thứ hai, quên mất thân vật chất này, cũng như không bị hoàn cảnh bên ngoài tác động. Riêng tôi, sống với tư duy pháp Phật, mới cảm nhận rằng “Nghiệp chướng nhiều đời bỗng lắng yên”.

Sống với hoàn cảnh bên ngoài, nên thích việc này, ghét việc nọ, làm chúng ta khổ. Nhưng bỗng đến một lúc nào đó, phiền não không sanh khởi, tâm trí lắng yên đến độ mạng sống cũng quên. Ý này được Duy Ma dạy rằng đem mạng sống ngắn ngủi của con người đổi lấy mạng sống vô cùng như Phật Di Đà gọi là Vô Lượng Thọ. Còn chúng ta chỉ có mạng sống giới hạn, nhưng theo bước chân Phật, nhận chân được mạng sống vô cùng và sống với mạng sống rất quý báu này, nên có tâm trạng ly sanh hỷ lạc. Nói cách khác, trên bước đường tu, sử dụng mạng sống ngắn ngủi, sinh diệt, chứng được vô sanh, quên cả tuổi tác, thời gian, vui buồn vinh nhục của cuộc đời. Được như vậy, đã chuyển đổi ngũ uẩn thân thành Pháp thân thì “Tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai thị nhứt thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát”. Đạt thành quả này là đạt được vô ngã, sống được với mạng sống vô cùng của chính ta; người khác trông thấy sinh tâm kính mến và phát tâm tu theo. Trái lại, nếu người không chấp nhận, không quý mến, mà bực bội, buồn phiềnsai lầm lớn, vì đã tu trên ngũ ấm ma, lạc vào đường tà mà cứ tưởng là đúng.

Tu đúng pháp, từng bước chân dẫm lên Tịnh độ hay Niết bàn, nghiệp chướng chúng ta lắng yên thì trần duyên thuận nghịch tâm không thiết. Thật vậy, đối trước cảnh thuận hay nghịch cũng không sao; vì đang sống với vô sanh, nên cảnh sinh diệt không quan trọng đối với chúng ta. Một vị thiền sư Nhật Bản nổi tiếng với hai chữ “Thế à”. Ông đã thành tựu pháp vô sanh, dòng sinh diệt không thể tác hại tâm ông. Một phụ nữ đem con đưa cho ông với lời bịa đặt rằng đó là con của ông. Ông bình thản nói “Thế à” và nhận nuôi đứa trẻ này. Một thời gian sau, đứa bé lớn lên, người phụ nữ này dẫn chồng đến đòi lại con. Ông lại bình thản nói “Thế à” và giao trả đứa bé.

Đi lần vào thế giới vô sanh, hay Niết bàn để an trụ mạng sống vô cùng thì ta và Phật, Bồ tát cùng hiện hữu trong một Tịnh độ; còn sống với ô trược Ta bà thì phiền não tràn đầy. Từ nguồn vui ngoài cuộc sống vật chất, tiến sang giai đoạn hai, không bị cuộc sống vật chất chi phối, tâm an định, có được nguồn vui không dao động, gọi là định sanh hỷ lạc.

Và tiến xa hơn nữa, chẳng những vui sống trong định, mà cả khi rời định vẫn giữ được nguồn vui trong lòng; đó là ly hỷ diệu lạc. Bồ tát trên bước đường cứu nhân độ thế luôn có nguồn vui nội tâm, dù làm việc từ thiện cực nhọc, vẫn vui; thể hiện ý nghĩa ly hỷ diệu lạc, một nguồn vui lúc nào cũng có, không phải nhập định mới được.

Cuối cùng xả niệm thanh tịnh, nguồn vui trong lòng cũng tự mất, tâm vắng lặng như mặt nước hồ thu, tất cả hình ảnh đều hiện rõ trên mặt nước, hay vạn tượng sum la từ quá khứ cho đến hiện tạivị lai, tâm hành giả đều nhận biết rõ ràng. Cũng như chim nhạn trên bầu trời bay ngang hồ nước, hình ảnh của nó được in rõ trên mặt nước; nhưng nó bay qua rồi, mặt nước không lưu giữ dấu tích gì. Tâm của thiền sư cũng vậy, biết rõ mọi việc một cách chính xác, nhưng việc trôi qua rồi, không lưu lại trong tâm, không làm vẩn đục tâm. Ý này được một vị thiền sư diễn tả rằng:

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô vi tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Thiền sư nhận biết được mọi việc, không bị sự việc chi phối, tâm an nhiên tự tại trước mọi vận hành sinh diệt của cuộc đời; đó là cảnh giới Niết bàn, quả vị cao tột của A la hán theo Phật giáo Nguyên thủy.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
10/10/2010(Xem: 48552)
11/08/2013(Xem: 44062)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.