PHÁP HỮU LẬU
Thiện Ý
Danh từ lậu hoặc không xa lạ gì lắm đối với quý vị hay tụng đọc kinh văn hoặc hay nghe giảng, và nghiên cứu. Lậu là tươm chảy ra của uế nhiễm, và hoặc là si mê. Như vậy, lậu hoặc là sự tươm chảy của những uế nhiễm khiến bị si mê, lầm lạc. Còn pháp có nghĩa là tất cả những hiện tượng hay đối tượng xảy ra, không phải là pháp (Dharma), những lời Phật dạy. Lậu hoặc có 4 loại là dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, và vô minh lậu. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ xin tập trung vào hữu lậu mà thôi.
Hòa Thượng Thiện Siêu, trong ‘Tâm Lý Phật Giáo Trong Tây Du Ký,’định nghĩa hữu lậu như sau: ‘Hiện tượng nào có khuynh hướng muốn bám víu, chấp thủ, mong muốn, tham luyến …đối với sự tương tục tồn tại, sinh hữu của nó. Đây được gọi là Hữu Lậu. Hữu lậu…được biểu thị bằng khuynh hướng muốn bám chắc vào, nhưng lúc này đối tượng của nó là sanh hữu hay sự tiếp tục hiện hữu’ Như vậy, pháp hữu lậu là những hiện tượng, hay đối tượng khiến mình sinh uế nhiễm, phiền não, với điều kiện là tâm mình bị dính mắc vào sự sinh, hữu của hiện tượng, hay đối tượng đó. Ngoài danh từ hữu lậu, đôi khi chúng ta cũng có nghe danh từ vô lậu. Nếu hữu lậu là tâm bị dính mắc sự uế nhiễm, phiền não, thì vô lậu là không còn mắc kẹt vào phiền não, uế nhiễm nữa. Đương nhiên, uế nhiễm, phiền não trên thế gian này sẽ không bao giờ hết. Nhưng vấn đề là mình có bị dính mắc hay không!
Nhan nhản trong cuộc sống mình nhìn đâu cũng thấy pháp hữu lậu, nào là tiền tài, vật chất, sức khoẻ, gia đình, con cái, bà con ruột thịt, bạn bè, v.v… với điều kiện là mình còn vướng mắc phiền não với những chuyện này. Vì vậy mà nhiều người cho rằng ‘tu là cõi phúc, tình là giây oan.’ Nói nôm na cho dễ hiểu: hữu lậu là phiền não, pháp hữu lậu là những hiện tượng hay đối tượng khiến mình sinh phiền não. Sở dĩ, có phiền não phát sanh vì mình, bằng cách nào đó, để cho những hoàn cảnh ô nhiễm, hay đối tượng bất tịnh từ từ tươm chảy, xâm nhập vào tâm và bắt đầu sanh khởi. Nó bao gồm luôn những thứ mà mình ghét bỏ, nhưng cứ giữ trong tâm. Nói tóm lại, hễ khi nào mình còn lưu giữ những pháp bất tịnh, ô nhiễm trong tâm thì phiền não sẽ vẫn tiếp tục sanh khởi. Đương nhiên là những đối tượng thanh tịnh, an lạc sẽ đem đến những pháp vô lậu.
Câu thành ngữ, ‘ghét của nào trời trao của ấy’ phản ảnh gần đúng những pháp hữu lậu mà mình mắc phải. Bạn có cảm giác rằng mình càng ghét thứ nào thì mình luôn gặp thứ ấy trong cuộc sống. Như mình ghét chó thì hình như mình thường hay gặp chó và hay bị chúng rượt! Nên đôi lúc mình hay than: ‘đúng là nghiệp chướng!’ Cho nên, loại trừ phiền não không phải dễ vì chúng không phải tồn tại bên ngoài mà chính là ở trong tâm mình. Vì chúng ở bên trong nên mình phải luôn tỉnh giác, chánh niệm thì mới có thể bắt gặp chúng.
Pháp hữu lậu thường có 4 loại: tịnh và động, thô và tế. Pháp hữu lậu động có nghĩa là mình luôn nghĩ đến chúng và do vậy mà mình hay sanh phiền não. Pháp hữu lậu tịnh, nghĩa là chúng nằm trong tàng thức (thức thứ 8) của mình và khi mình bắt gặp đúng đối tượng hay hoàn cảnh mà mình không ưa thích, và đã được chứa đựng trong tàng thức, thì phiền muộn liền phát sanh ra.
Pháp hữu lậu thô là những hoàn cảnh, đối tượng mình có thể thấy hay nắm bắt được, như ghét một ai đó thì khi thấy họ sẽ sanh phiền não. Pháp hữu lậu tế là những gì mình không thấy và hoạt động rất âm thầm, vi tế, như khi mình chỉ nghĩ đến một việc gì, hay ai đó là tức thì phiền não sanh ra ngay, không cần phải thấy.
Vì pháp hữu lậu chỉ phát sanh khi có sự vướng mắc trong tâm nên cho dù có đối tượng phiền não xuất hiện, nếu mình không dính mắc thì đó không còn là pháp hữu lậu nữa, mà biến thành vô lậu. Nên có câu chuyện về một vị thầy tu cõng một cô gái trẻ đẹp qua con suối lớn để về nhà. Có một sư đệ đi theo vị thầy này, người sư đệ rất sửng sốt khi thấy sư huynh mình làm vậy. Nhưng nể bụng không dám nói. Cho đến khi về đến chùa, vị sư đệ không nhịn được nữa, liền trách sư huynh sao lại phạm giới, cõng cô gái qua suối. Vị sư huynh cười xòa, bảo sư đệ rằng: ‘Anh đã để cô ta ở suối đó rồi, sao em còn mang cô ấy về chùa!’ Thế mới biết, khi tâm bị vướng mắc thì pháp hữu lậu, tức phiền não liền sanh.
Trong đời mình đã gặp không biết bao nhiêu là trường hợp như trên. Dù biết rằng không nên để cho dính mắc. Nhưng mình cứ bị kẹt hoài! Nên các ngài thiền sư đời trước thường dạy ‘đối cảnh vô tâm.’ Chính vậy mà các ngài thường thành tựu pháp vô lậu vì dù cảnh có đó nhưng các ngài không để cho nó xúc chạm vào tâm, luôn cả tốt lẫn xấu. Còn chúng ta, tâm phàm phu còn thích cái tốt, đẹp nên vẫn còn ham dính mắc vào, nào là quần áo, nhà cửa, xe cộ, vợ đẹp, con ngoan… Chính những dính mắc này, dù là cái tốt, nên khiến mình khó buông xả khi gặp cái xấu, ác. Giận hờn, phiền não người nào mình cứ để trong tâm dù miệng nói tha thứ, buông xả. Nên tu tập thiền quán hay niệm Phật để giữ tâm chánh niệm rất quan trọng vì nhờ vậy mới thấy rõ sự sanh khởi của phiền não bên trong.
Như vậy, mình có thể nói rằng pháp hữu lậu và vô lậu tuy hai mà một vì hễ tâm còn dính mắc thì đó là hữu lậu; bằng không bị dính mắc thì đó là vô lậu. Vậy, một hiện tượng, hay một đối tượng nào mà không thể khiến mình sinh ra đau khổ, phiền não thì đó không thể gọi là hữu lậu được, mà phải gọi là vô lậu! Chẳng hạn như khi bố thí, nếu chúng ta còn phân biệt nhiều ít thì sự bố thí đó còn trong vòng hữu lậu. Cho nên còn có tên gọi khác là phước hữu lậu. Có nghĩa là vẫn còn mang lại phiền não, dù mình đang làm việc tốt. Còn khi mình bố thí mà tâm không phân biệt, không mong cầu thì đó là phước vô lậu. Cũng như bố thí ba-la-mật, không có người cho, người nhận, và vật thí nên tâm không vướng mắc, nên không sanh phiền não được.
Thiện Ý
(tháng 5, 2015)