ĐỨC PHẬT
"Năm tháng
trôi qua và, nghĩ cho cùng,
Đức Phật hình
như không mấy
xa cách với
chúng ta; tiếng nói của Ngài vẫn
thì thầm nói khẻ bên tai và dạy rằng không nên đào tẩu, lẫn trốn cuộc chiến, mà phải
bình tĩnh đối phó, và phải thấy cuộc sống là cơ hội lớn lao hơn bao giờ hết để
chúng ta trưởng thành và
tiến bộ. Hiện nay cũng như từ thủa nào, phẩm cách
cá nhân được xem là quan trọng, và một người đã tự
thấm nhuần tư tưởng cứu nhân độ thế như
Đức Phật,
cho đến ngày nay vẫn còn là cái gì sống và
rung động mỗi khi ta tưởng nhớ đến.
Chắc chắn Ngài là một
con người tuyệt diệu -- một
con người như Barth
diễn tả, "mẫu người
tuyệt hảo,
trang nghiêm một cách
trầm tĩnh và dịu hiền,
vô cùng từ ái đối với tất cả
chúng sanh và bi mẫn với tất cả những ai
đau khổ,
con người giới hạnh nghiêm túc và đã vượt ra ngoài mọi
thành kiến.[1]" "Bức
thông điệp xưa cũ nhưng vẫn còn rất mới mẻ và đặc thù của Ngài đối với những ai dấn thân vào những
vấn đề vi tế của
siêu hình học đã
hấp dẫn cân não của hàng
trí thức và thấm sâu vào tâm tư của dân tộc."[2]
Ra đời tại Sarnath, gần thị trấn Vàrànasi (Benares),
Ấn Độ, với chỉ có năm
tín đồ vào lúc
sơ khai,
Phật Giáo thâm nhập vào nhiều lãnh thổ, và ngày nay là
tôn giáo của hơn 600 triệu người.
Sở dĩ đạo Phật được hoằng dương mau lẹ như vậy cốt yếu là do
giá trị cố hữu và
tiếng gọi hấp dẫn của mình đối với những
tâm hồn suy tư
thích luận lý. Nhưng cũng có những
yếu tố khác
phụ giúp vào
tiến bộ này: không bao giờ các nhà
truyền giáo (dhammadùtas) dùng bất luận
phương pháp bất công hay
cưỡng bách nào để
truyền bá Giáo Pháp. Khí cụ
duy nhất của các Ngài là
tâm từ và
tâm bi.
Hơn nữa,
Phật Giáo được hoằng khai trong những
quốc gia ấy một cách
ôn hòa, không gây
xáo trộn cho
tín ngưỡng căn bản sẵn có. Công cuộc
truyền giáo của
đạo Phật, mà
trong lịch sử tôn giáo hầu
như không có gì tương tợ, không bao giờ được
thực hiện bằng bạo lực hay
phương pháp cưỡng chế hay
áp bức nào.
Cưỡng bách người khác
tôn giáo theo về đạo mình là
phương pháp hoàn toàn xa lạ đối với người
Phật tử và trái nghịch với đường lối của
Đức Phật và hàng
đệ tử Ngài.
Phật Giáo không bao giờ
phỉ báng một
tín ngưỡng khác, do đó có thể tự mình chan hòa trong nhiều
văn hóa khác nhau trên cùng khắp
thế gian. "Trong
toàn thể lịch sử Phật Giáo dài dẳng,"
Tiến Sĩ T.W. Rhys Davids viết, "xuyên qua nhiều thế kỷ,
trong khoảng thời gian ấy người
tín đồ Phật Giáo cường thịnh vượt bực, không có điểm
ghi nhận nào mà tôi được biết, nói lên bất
luận sự hành hạ nào mà người
Phật tử gây
đau khổ cho những người khác đạo."
Đản SanhĐức Phật, vị thủy tổ
sáng lập Phật Giáo, sống vào thời hơn 2500 năm về trước và được biết tên là Siddhattha Gotama (Sĩ Đạt Ta
Cồ Đàm) [3]. Cha Ngài, Đức Vua Suddhodana (
Tịnh Phạn) thuộc
truyền thống Kshatriya [4], trị vì
toàn thể lãnh thổ của
Hoàng Tộc Sàkya (
Thích Ca) tại Kapilavatthu (
Ca Tỳ La Vệ), trên
biên giới Nepal. Ngài sanh trưởng trong
gia đình họ Gotama (
Cồ Đàm) nên được gọi là Suddhodana Gotama.
Công chúa xứ Koliya, Mahà- màyà (
Ma Da), là Hoàng Hậu triều Vua Suddhodana. Năm 623 trước D.L. nhằm ngày Rằm tháng Vasanta (tháng Năm), vào lúc mà ở
Ấn Độ cỏ cây
đang thời xanh tươi, bông hoa đua nở,
con người cũng như các loài chim muông đều
vui vẻ thoải mái, Hoàng Hậu Mahàmàyà
lên đường, từ Kapilavatthu ngự về
hoàng cung của
cha mẹ tại Devedaha, đúng theo phong tục thời bấy giờ, khi sanh đẻ thì về nhà
cha mẹ ruột.
Tuy nhiên, sự việc không xảy diễn đúng như vậy, vì lúc đi được
nửa đường giữa hai thị trấn thì, trong khu rừng Lumbini (
Lâm Tỳ Ni) tươi đẹp, dưới tàn bóng của những cây sala (
long thọ)
đang thời trổ bông, Bà hạ sanh một hoàng nam.
Lumbini, hiện nay được gọi là Rummindei, nằm cách Vàrànasi một trăm dặm Anh và từ đó nhìn thấy đỉnh núi Himalaya (
Hy Mã Lạp Sơn) tuyết phủ trắng phao. Tại địa điểm
lịch sử này, để tưởng niệm nơi mà
Thái Tử Siddhattha, vị Phật tương lai, giáng sanh Vua Asoka (A Dục) có cho
xây dựng một trụ cột hùng vĩ bằng đá. Năm dòng chữ được khắc ghi trên đá
bao gồm chín mươi ba chữ thời Asoka, trong đó có những chữ: "hida budhe jàte sàkyamuni. Nơi đây
Đức Phật, bậc
hiền triết, đản sanh."
Trụ cột hùng dũng ấy
đến nay vẫn còn. Trụ đá
dõng dạc oai nghi ấy có một thời bị
sấm sét làm hư, như Ngài
Huyền Trang sang
hành hương đã có thấy
vào khoảng giữa thế kỷ thứ bảy.
Thánh địa này được
khám phá và
nhận ra vào năm 1896 do nhà khảo cổ
trứ danh, Tướng Cunningham.
Vào ngày thứ năm sau khi hoàng tử ra đời, vua
triệu tập tám vị
hiền triết để chọn tên cho con và tiên đoán tương lai của em bé vương tộc. Tên được chọn là Siddhattha (phiên âm là Sĩ Đạt Ta, hay
Tất Đạt Đa), có nghĩa là người
thành tựu nguyện vọng. Tám vị
Bà La Môn bàn thảo, và bảy vị đưa lên hai ngón tay,
tuyên bố: "Muôn Tâu
Đại Vương, Hoàng Tử sẽ
trở thành bậc Cakravarti,
Chuyển Luân Thánh Vương, vị
hoàng đế vĩ đại nhất trên
thế gian, nếu Ngài muốn trị vì. Nếu
từ bỏ thế gian Ngài sẽ trở nên Sammà-sambuddha, bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác, và sẽ
giải thoát nhân loại ra khỏi vòng tăm tối
vô minh." Nhưng Kondanna, vị trẻ tuổi nhất và
sáng suốt nhất, sau khi
quan sát hoàng tử, đưa lên chỉ một ngón và nói: "Tâu
Đại Vương, một ngày nọ Hoàng Tử
đi tìm Chân Lý và trở nên vị Phật
Chánh Giác Tối Thượng."
Bảy ngày sau khi khai hoa nở nhụy Hoàng Hậu Mahàmàyà băng hà, và em bé được dì, em của mẹ, Bà Pajàpati Gotami
nuôi dưỡng.
Mặc dầu hoàng tử
trưởng thành trong
hoàn cảnh phong phú dồi dào trên nhung lụa vua cha vẫn
hết lòng chú trọng đến việc tạo cho con một nền
giáo dục đúng như một hoàng tử phải có. Ngài
tinh thông mọi ngành
kiến thức và trong nghệ thuật kiếm cung. Ngài chiến thắng dễ dàng tất cả
mọi người. Dầu sao, từ thủa còn bé Ngài vẫn
trang nghiêm,
trầm tư mặc tưởng.
Bốn Ảnh Tượng Quan TrọngKhi
thái tử trưởng thành, điều
ước mong khẩn thiết của vua cha là con mình lập nên
gia thất, chăm lo
gia đình, và xứng đáng
kế vị mình; bởi vì
lời tiên tri của nhà
hiền triết Kondanna luôn luôn
ám ảnh vua. Vua luôn luôn lo sợ một ngày nào
thái tử sẽ rời
bỏ nhà ra đi, sống đời
tu sĩ không nhà cửa. Theo tập tục thời bấy giờ,
thái tử kết duyên sớm sủa vào năm lên mười sáu, cùng với người
bà con cô cậu
xinh đẹp,
Công Chúa Yasodharà, con gái
duy nhất của Vua Suppabuddha và Hoàng Hậu Pamità xứ Koliya.
Công chúa cùng tuổi với
thái tử.
Vua cha
cung ứng cho
thái tử đầy đủ những
tiện nghi sang trọng nhất. Sách ghi rằng Ngài có ba cung điện để sống
thích hợp với ba mùa, theo
thời tiết xứ
Ấn Độ. Không thiếu gì trên đời để
thọ hưởng những
lạc thú trần gian, Ngài sống giữa cảnh đàn ca múa hát, trong
xa hoa hỷ lạc lộng lẩy, không biết gì đến khổ đau
sầu muộn.
Tuy nhiên, tất cả những
cố gắng của vua cha để giam hảm con trong nhục dục
ngũ trần và tạo cho con một
tâm hồn trần tục không đem lại
hiệu quả. Bao nhiêu
công trình để tách rời cặp mắt
tìm tòi của con khuất xa những
trạng huống khốn khổ
phiền lụy trong đời sống chỉ làm cho tánh tò mò và
ý chí quyết tìm
chân lý và
thành đạt Giác Ngộ của
Thái Tử Siddhattha càng lên cao độ. Với tuổi lớn khôn và
thành thục thái tử bắt đầu thoáng nhìn thấy nỗi
thống khổ của
thế gian.
Một hôm, khi
thái tử ngồi xe do người đánh xe Channa (
Xa Nặc) chở vào Ngự Uyển để
thưởng ngoạn thì,
hết sức ngạc nhiên, Ngài trông thấy một
cảnh tượng não nề chưa từng bao giờ thấy: một cụ già
lụm cụm ở vào
giai đoạn cuối cùng của cuộc sống, rên rỉ khóc than:
"Muôn lạy Ngài, hãy giúp tôi! giúp tôi đứng vững trên cặp chân; trời đất ơi, hãy giúp tôi!
Nếu không, tôi sẽ chết trước khi về đến nhà!." [5]
Đó là khích động mạnh mẽ đầu tiên của
thái tử. Lần thứ nhì, khi Ngài thấy một người chỉ còn
da bọc xương,
vô cùng khổ sở và buồn thảm, "quằn quại dưới một cơn bệnh dịch. Sức đã
kiệt quệ, lưng khòm, gối yếu, tất cả
sinh lực, tất cả
hy vọng và tất cả niềm vui để sống của
con người đã cạn. [6]" Lần thứ ba Ngài thấy một nhóm người than khóc van rên
thê thảm, khiêng trên vai thi hài của một
thân nhân để đi
hỏa táng. Những
ảnh tượng bất hạnh ấy mà Ngài thấy lần đầu tiên
trong đời, làm cho Ngài
vô cùng cảm kích. Và Ngài được người nài Channa
cho biết là chính Ngài,
Công Chúa Yasodharà và tất cả thân bằng
quyến thuộc lớn nhỏ, tất cả không trừ bỏ một ai, đều phải
trải qua những giai đoạn già, bệnh và chết.
Một ít lâu sau,
thái tử thấy một
tu sĩ khoan thai từng bước đi,
mắt nhìn xuống,
ung dung và
vắng lặng,
thanh thoát và
tự tại. Tác phong
trầm tĩnh của
con người từ tốn ấy đập mạnh vào tâm tư Ngài. Ngài được Channa
cho biết rằng đó là một
tu sĩ đã
lìa bỏ nhà cửa để sống đời
trong sạch, tìm
chân lý và
giải đáp cho những
bí ẩn của
đời sống.
Ý niệm xuất gia bỗng chốc thoáng qua trong tâm
thái tử và Ngài ngự về
hoàng cung,
trầm tư mặc tưởng. Nhịp tim ốm đau mòn mỏi của
nhân loại lâm chung đã tìm được một vang âm cứu chữa trong tim Ngài. Càng đụng chạm với cuộc sống bên ngoài những vách thành của
hoàng cung, Ngài càng
xác nhận rằng
thế gian quả thật không có
hạnh phúc thật sự. Nhưng trước khi về đến
hoàng cung thì có người đến báo tin
Công Chúa Yasodharà lâm bồn, hạ sanh một hoàng nam. "Lại thêm một
trói buộc cho ta", Ngài thốt ra lời than, và
trở về. Cuộc
Thoát Ly Vĩ Đại
Trong cảnh tịch mịch của một đêm trăng thanh -- đêm Rằm tháng Bảy, Àsàlha --
ý nghĩ sau đây đến với
thái tử: "Thời niên thiếu,
tuổi thanh xuân của
đời sống,
chấm dứt trong
trạng thái già nua, mắt mờ tai điếc,
giác quan suy tàn vào lúc
con người cần nhất đến nó.
Sức lực cường tráng hao mòn,
tiều tụy và những cơn bệnh
thình lình trờ tới bước vào.
Cuối cùng cái chết đến, có lẽ một cách đột ngột, bất ngờ, và
chấm dứt khoảng đời ngắn ngủi của kiếp sống.
Chắc chắn phải có một lối thoát cho cảnh bất
toại nguyện, cho cảnh già và chết."
Như vậy cuộc đầu độc vĩ đại của
tuổi thanh xuân (yobbana-mada), của
sức khỏe (àrogya-mada) và của
đời sống (jìvita-mada) đã rời xa, không còn
ảnh hưởng đến Ngài. Đã
nhận thức tánh cách phù du
ảo mộng và mối hiểm họa của
ba độc hại trên Ngài cảm nghe có một
năng lực hùng dũng thúc giục ra đi, nhằm
khám phá và
thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt,
kiên trì cố gắng vượt thoát ra khỏi cảnh đau, già, khốn khổ và chết [7], không phải chỉ riêng cho Ngài mà cho tất cả
chúng sanh đau khổ (trong đó có vợ và con Ngài). Chính
lòng bi mẫn thâm sâu đã dẫn dắt Ngài trên
con đường và
chấm dứt trong sự
giác ngộ, trong
Đạo Quả Phật. Chính
lòng bi mẫn lúc bấy giờ đã thúc giục Ngài
Thoát Ly Vĩ Đại và mở tung cửa cho Ngài thoát ra khỏi cái lồng vàng cung điện. Chính
lòng bi mẫn đã đưa Ngài đến
quyết định bất thối chuyển, chí đến lúc thoáng liếc nhìn qua để
giả từ người vợ yêu quý đang yên giấc với con sơ sinh nằm trên tay.
Lúc ấy Ngài hai mươi chín tuổi, trong thời son trẻ của
tuổi thanh xuân. Vào ngày mà bà vợ đẹp Yasodharà vừa hạ sanh hoàng nam
duy nhất, Ràhula (
La Hầu La),
Thái Tử Siddhattha
từ bỏ và
xem thường sức
quyến rũ của
cuộc đời vương giả, khinh thường và
đẩy lui những
lạc thú mà phần đông bạn trẻ
đắm đuối ham mê, ra đi,
lánh xa vợ con và một ngai vàng đầy hứa hẹn đem lại
quyền thế và
vinh quang.
Ngài dùng gươm cắt đoạn suối tóc dài, bỏ lại áo giáp của một hoàng tử và đắp lên mình tấm y vàng của người
tu sĩ ẩn dật,
đi vào rừng sâu vắng vẻ để
tìm giải pháp cho những
vấn đề khó khăn của kiếp
nhân sinh mà từ lâu vẫn làm bận tâm. Ngài đi tìm
giải đáp cho những
bí ẩn của
đời sống, không phải cái gì tương tợ, một cái gì hình như vậy, mà thật sự là
con đường vượt thoát ra khỏi mọi
đau khổ --
con đường đến
giác ngộ và
Niết Bàn. Cuộc chiến đấu để
thành đạt mức châu toàn
tối thượng của Ngài để ra khỏi mọi
trói buộc bắt đầu. Đây là khước từ, là
thoát ly vĩ đại, cuộc
thám hiểm to lớn và cao cả nhất mà
nhân loại được biết.
Đầu tiên Ngài tìm đến sự hướng dẫn của hai
vị đạo sư
nổi tiếng, Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta,
hy vọng rằng hai vị này, vốn là bậc đại
thiền sư, có thể trao truyền cho Ngài những lời
giáo huấn dẫn dắt đến mức cao siêu của
pháp môn hành thiền. Ngài hành thiền
vắng lặng và
đạt đến tầng cao nhất mà
pháp hành này có thể đưa đến, nhưng không
thỏa mãn với bất luận gì kém hơn là
Tối Thượng Toàn Giác. Nhưng tầm mức
kiến thức và
phạm vi kinh nghiệm của hai
vị đạo sư này không thể giúp
thành đạt điều hằng mong muốn, và Ngài thấy mình còn xa
mục tiêu cứu cánh.
Mặc dầu cả hai
vị đạo sư, hai lần khác nhau, đều có lời
thỉnh mời Ngài ở lại dạy dỗ nhóm
đệ tử,
đạo sĩ Gotama (
Cồ Đàm)
nhã nhặn từ chối. Từ giả thầy, Ngài lại cất
bước lên đường, đi tìm cái gì vẫn chưa từng được biết.
Trên bước
thênh thang Ngài
cuối cùng đến Uruvela, gần ngọn sông Neranjarà tại Gayà. Nơi đây Ngài
để tâm đến khu rừng rậm rạp yên tĩnh và dòng sông nước trong veo, làm êm dịu
giác quan và
kích thích tâm trí. Gần đó có xóm làng với dân cư chất phác làm ăn mà Ngài có thể đến trì bình.
Nhận thấy rằng đây là nơi
thích hợp để
tiếp tục cuộc chiến đấu nhằm
thành đạt Giác Ngộ, Ngài
quyết định dừng bước. Không bao lâu sau, năm
vị đạo sĩ mà trước kia đã
hết lòng cảm phục sự
quyết tâm và
cố gắng của Ngài -- Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahànàma và Assaji -- cũng đến cùng tu với Ngài.
Tu Khổ HạnhVào thời bấy giờ, và
đến nay vẫn còn, ở
Ấn Độ, có nhiều
đạo sĩ tin tưởng mãnh liệt rằng
lối tu khắc khe
ép xác khổ hạnh có thể thanh lọc
thân tâm và đưa đến
giải thoát cùng tột, và
đạo sĩ Gotama
quyết định trắc nghiệm
chân lý này. Tại Uruvela Ngài bắt đầu cuộc đấu tranh quyết liệt để khắc phục thân xác, với niềm
hy vọng rằng một khi đã thoát ra khỏi mọi khuấy động của thân, tâm có thể vượt đến mức độ
giải thoát cao siêu. Ngài
cố gắng đến mức cùng tột của
pháp hành này. Chỉ ăn lá và rễ cây để sống và thâu gọn vật thực đến mức
tối thiểu. Ngài
đắp y may bằng giẻ rách lượm lặt ở các đống rác, ngủ trên
giường gai hay giữa đám
tử thi.
Trạng thái rõ ràng thiếu thốn vật thực quá ư khắc nghiệt sớm biến Ngài thành một
thân hình chỉ còn
da bọc xương. Ngài nói: "Như Lai đã sống khắc khổ trong
kỷ cương của người tu
ép xác. Khắc khổ,
Như Lai đã sống khắc khổ hơn tất cả những vị khác, đến độ tay chân chỉ còn như cọng sậy úa tàn, không dùng được nữa..." Về sau, khi đã
chứng ngộ Toàn Giác Ngài
mô tả như thế ấy cho hàng
môn đệ, mức
khổ hạnh kinh hoàng của những năm đầu tiên. [8]
Sau sáu năm trường chiến đấu cam go như thế Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của thần chết, nhưng tự thấy mình không gần
mục tiêu hơn chút nào.
Lối tu khổ hạnh rõ ràng vô ích,
kinh nghiệm của chính
bản thân Ngài
dồi dào sáng tỏ như vậy. Ngài
nhận định rằng
con đường đưa đến
đạo quả mà Ngài hằng
nóng lòng quyết
thành đạt phải hướng về phía
nội tâm. Không hề nản chí, tâm của Ngài vẫn
tích cực hoạt động nhằm tìm một lối đi mới dẫn đến
mục tiêu.
Tuy nhiên, Ngài cảm nghe rằng cơ thể
hao mòn và
tiều tụy như thế ấy ắt không thể
hy vọng thành công với
lối tu tương tợ. Do đó Ngài
từ bỏ lối sống ép xác và nhịn
ăn uống đến mức cùng cực và
trở lại dùng các
thức ăn thông thường. Tấm thân gầy còm của Ngài
dần dần bình phục và
sức khỏe vô cùng kiệt quệ cũng sớm
phục hồi. Lúc bấy giờ năm
vị đạo sĩ cùng tu với Ngài thấy vậy lầm tưởng rằng Ngài đã
từ bỏ cố gắng để
trở về nếp sống dồi dào phong phú nên ra đi, làm cho Ngài
thất vọng.
Tuy nhiên, với tâm
kiên cố quyết định và
niềm tin trọn vẹn nơi
trạng thái trong sạch và
năng lực của chính mình, không có sự hỗ trợ của một
đạo sư nào, không cùng tu với bất luận ai,
Bồ Tát cương quyết thành tựu mục tiêu cuối cùng trong khung cảnh
hoàn toàn cô đơn vắng vẻ.
Vào một buổi sáng, trước
giờ ngọ ngày
Thành Đạo, trong khi
Bồ Tát ngồi hành thiền dưới bóng cây da thì Sujàtà, người con gái của một
trưởng giả, không biết Ngài là người hay
thánh thần, dâng cơm nấu với sửa và bạch: "Bạch Ngài, con xin ngưỡng nguyện Ngài sẽ thành công!" Đó là bửa cơm
cuối cùng trước khi Ngài
Thành Đạo.
Chiến Thắng Cuối CùngNgồi tréo chân dưới cội cây mà sau này được gọi là Bodhi,
Bồ Đề, "Cây Giác Ngộ", hay "Cây Trí Tuệ", bên bờ sông Neranjarà (
Ni Liên Thiền), tại Gayà (nay được gọi là Buddhagayà,
Bồ Đề Đạo Tràng), Ngài
nhất quyết nỗ lực cùng tột với lời
chú nguyện bất thối chuyển: "Dầu chỉ còn da, gân và xương, máu và thịt đã khô cạn và tan biến, ta vẫn không
xê dịch khỏi chỗ ngồi này
cho đến khi
chứng ngộ Toàn Giác (sammà-sambodhi,
Chánh Đẳng Chánh Giác)."
Cố gắng không biết mệt, nhiệt thành
không thối chuyển, Ngài
nhất quyết chứng ngộ chân lý và
thành tựu trạng thái Toàn Giác.
Bồ Tát áp dụng pháp "niệm hơi thở-vào-thở-ra" (ànàpàna sati) nhập vào, giữ vững
sơ thiền (jhàna, Skrt. dhyàna). Rồi
dần dần từng bậc Ngài tiến lên
nhị thiền,
tam thiền và
tứ thiền. Như thế ấy Ngài gội rửa mọi bợn nhơ trong tâm và, với tâm đã thanh lọc, Ngài hướng về
tuệ giác hồi nhớ những kiếp sống
quá khứ (pubbenivà-sànussatinàna,
túc mạng minh). Đó là
tuệ giác đầu tiên mà Ngài
thành đạt vào canh đầu trong đêm
Thành Đạo. Rồi
Bồ Tát hướng tâm về
tuệ giác thấy
chúng sanh hoại diệt và
tái sanh trong nhiều
hình thức khác nhau, vào những
cảnh giới nhàn hạ cũng như vào những
khổ cảnh, mỗi
chúng sanh đi và đến tùy hành động của mình (cutùpapàtanàna,
thiên nhãn minh). Đó là
tuệ giác mà Ngài
thành đạt vào canh giữa, đêm
Thành Đạo. Kế đó Ngài hướng tâm về
tuệ giác tận diệt các hoặc lậu (àsavakkhayanàna,
lậu tận minh [9]), tuyệt trừ những
ô nhiễm ngủ ngầm
từ vô lượng kiếp.
Ngài
thấu triệt vạn pháp đúng
như thật sự là vậy: "Đây là khổ (dukkha), đây là sự phát sanh của khổ, đây là sự
chấm dứt của khổ, đây là
con đường dẫn đến
chấm dứt khổ.
Ngài
thấu triệt đúng
như thật: "Đây là những hoặc lậu (àsavas), đây là sự phát sanh của hoặc lậu, đây là sự
chấm dứt hoặc lậu, đây là
con đường dẫn đến
chấm dứt hoặc lậu."
Thấu triệt như thế,
nhận thấy như thế, tâm Ngài
giải thoát, vượt ra ngoài mọi hoặc lậu: của
dục vọng (kàmàsava,
dục lậu), của mọi
luyến ái bám níu vào
đời sống (bhavàsava,
hữu lậu), và của
vô minh (avijjàsava,
vô minh lậu) [10]. Khi
tâm giải thoát như thế, phát sanh
tuệ giác hiểu biết "giải thoát" và Ngài
thấu triệt:
"Đã tận diệt sự sanh,
đời sống thánh thiện (brahmacariya,
phạm hạnh) đã
trải qua, đã làm những gì phải làm, không còn gì đến nữa" (có nghĩa là không còn thân và tâm đến rồi đi nữa, tức không còn
tái sanh nữa). Đó là
tuệ giác thứ ba mà Ngài
thành đạt vào canh
cuối cùng trong đêm ấy. Những
tuệ giác ấy được gọi là tevijjà (skt. trividyà). [11]
Lúc bấy giờ Ngài nói lên những lời
hoan hỷ chiến thắng:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống,
Như Lai thênh thang đi trong vòng luân hồi
Để tìm, nhưng không gặp, người thợ cất nhà này.
Phiền muộn thay, đời sống triền miên tiếp diễn.
Này hởi người thợ làm nhà!
Ngươi đã bị bắt gặp.
Ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả rui mè của ngươi đã gãy.
Cây đòn dong của ngươi cũng bị phá tan.
Tâm của Như Lai đã thành đạt Niết Bàn Vô Lậu
Và hoàn toàn chấm dứt mọi hình thức ái dục." [12]
Như vậy, vào ngày trăng tròn tháng Năm (Vesàkha, Vesak) năm 578 trước D.L.,
Bồ Tát Gotama [13],
lúc ấy ba mươi lăm tuổi,
thành đạt Chánh Đẳng Chánh Giác bằng cách
thấu triệt tận tường, đầy đủ và
trọn vẹn Thực Tế Vĩnh Cửu, Bốn
Chân Lý Cao Siêu,
Tứ Diệu Đế, và
trở thành Phật,
đấng Tối Thượng Y Vương và bậc
Tôn Sư Toàn Thiện có thể
trị liệu những chứng bệnh của
chúng sanh. Đây là cuộc chiến thắng vĩ
đại không lay chuyển.
Tứ Diệu Đế là bức
thông điệp vô giá mà
Đức Phật ban truyền để hướng
dẫn nhân loại
đau khổ, cởi mở những
trói buộc bất
toại nguyện, và thoát đến
Hạnh Phúc Tuyệt Đối,
Thực Tế Tuyệt Đối --
Niết Bàn.
Những
Chân Lý Thâm Diệu ấy không phải do Ngài tạo nên. Ngài chỉ
khám phá,
nhận diện ra nó. Như vậy nơi
Đức Phật ta
tìm ra một nhân vật đáng được kỉnh mộ và
tôn sùng, không phải chỉ như một vị thầy mà là mẫu người
thánh thiện trong sạch, với
đức độ hy sanh cao cả và
cuộc đời mặc tưởng trầm tư sâu sắc, một
gương sáng cho
chúng ta noi theo nếu ta muốn trở nên toàn hảo.
Một trong những
đặc điểm đáng
ghi nhận đã
phân biệt hẳn
Đức Phật và các vị
giáo chủ khác là Ngài chỉ là một
con người, không có bất luận
liên hệ nào với một
Thần Linh hay một nhân vật "Siêu Nhiên". Ngài không phải
Thần Linh, không phải
hiện thân của
Thần Linh, cũng không phải là một nhân vật trong huyền thoại thần kỳ. Ngài là một người, nhưng là một người
siêu phàm, một
siêu nhân, một
con người phi thường (acchariya manussa,
con người khác người thường), một
chúng sanh duy nhất, một người
toàn thiện,
tuyệt luân,
tuyệt hảo (purisuttama). Tất cả những gì mà Ngài
thành tựu, tất cả những gì mà Ngài
thông hiểu, là
thành quả của những
cố gắng của chính Ngài, của một
con người.
Xuyên qua kinh nghiệm bản thân, Ngài
thông suốt ưu thế của
con người.
Tùy thuộc nơi
nỗ lực không ngừng nghỉ và
bất thối chuyển của chính mình, không
nương nhờ sự giúp đỡ của một
vị đạo sư, dầu người hay
thần linh, Ngài
thành tựu sự
chứng ngộ trí thức và
tinh thần đạo đức cao
siêu nhất, tiến đến mức độ
trong sạch tuyệt đỉnh và
trạng thái toàn hảo trong những phẩm hạnh cao cả nhất mà
bản chất thiên nhiên của
con người có
thể đạt đến. Ngài là
hiện thân của
từ bi và
trí tuệ, vốn là hai nguyên tắc
chỉ đạo trong
Phật Giáo (sàsana).
Đức Phật không bao giờ tự xưng mình là vị
cứu thế, và không tự hào là mình cứu rỗi những "linh hồn" bằng một
tôn giáo thần khải. Do hạnh
kiên trì nỗ lực và
kiến thức quảng bá của chính Ngài, Ngài
chứng minh rằng bên trong
con người có ngủ ngầm một khả năng
vô cùng tận mà
con người phải
nỗ lực tinh tấn trau giồi và phát triển những tiềm năng ấy. Do
kinh nghiệm của chính
bản thân mình Ngài
chứng tỏ rằng
giác ngộ và
giải thoát trọn vẹn nằm trong tầm mức
cố gắng của
con người.
"Tôn giáo của những
tâm hồn cao cả và
toàn vẹn nhất có thể
tồn tại chung mà
hoàn toàn không có
niềm tin khải thị nào, trong
ý nghĩa chân thật nhất của danh từ, không có
niềm tin nơi
tinh chất cốt yếu của
đạo giáo thần khải, nơi một
Thần Linh vô ngã. Trong danh từ
thần linh vô ngã tôi
bao gồm tất cả những
ý niệm về cái gọi là
thần linh siêu nhân, cùng một
bản chất tinh thần và
đạo đức như một người nhưng ở tầng lớp cao hơn, hoặc một
năng lực đạo đức siêu phàm." (Julian Huxley, Religion Without Revelation, những trang 2 và 7)
Mỗi
cá nhân phải
cố gắng thích nghi để bẻ gảy những xiềng xích đã giữ chặt mình
trong vòng trói buộc, thoát đến
tự do, vượt ra khỏi mọi
thằng thúc đã siết chắc mình vào những kiếp
sinh tồn, bằng cách
kiên trì nỗ lực gia công chuyên cần và
trí tuệ minh sát. Chính
Đức Phật, lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới, đã dạy rằng
giải thoát có thể được
thành tựu mà không nhờ đến một nguyên lý
ngoại lai nào, rằng để
vượt qua khỏi mọi khổ đau của
đời sống mỗi người phải tự đặt mình lên hòn đe và
uốn nắn, đập giũa, bằng hành động của chính mình.
Không ai có thể ban bố
giải thoát cho người khác bởi vì người này chỉ làm có mỗi một việc là van vái nguyện cầu. Người khác có thể
gián tiếp giúp ta một tay, nhưng
tự do tối thượng chỉ có thể
thành đạt bằng cách tự mình liễu chứng và tự mình
thức tỉnh,
giác ngộ chân lý, không phải bằng cách khấn vái hay
thỉnh nguyện một
Chúng Sanh Tối Thượng, người hay
thần linh.
Đức Phật cảnh cáo hàng
môn đệ không nên trao
gánh nặng cho một nguyên lý
ngoại lai, Ngài khuyến khích và hướng dẫn họ theo đường lối phân biện và khảo sát, và khuyến khích họ
tinh tấn gia công trau giồi và phát triển những
năng lực và phẩm chất bên trong mình.
Những Quan Điểm Sai LầmVài người lấy làm
thỏa thích làm ra như
Đức Phật không phải là một người. Họ trích một đoạn trong bộ Anguttara Nikàya,
Tăng Nhứt A Hàm, (tr.11, 37), rồi
phiên dịch sai và hiểu sai.
Câu chuyện như thế này:
Ngày kia
Đức Phật ngồi dưới một cội cây trong
tư thế tọa thiền,
lục căn thu thúc, tâm
vắng lặng hoàn toàn được
kiểm soát và
trầm tĩnh. Vào
lúc ấy một vị
bà la môn tên Dona
đến gần Phật và bạch hỏi:
- Bạch Ngài,
phải chăng Ngài là một vị trời, deva? - Không phải, này ông
bà la môn. - Bạch Ngài,
phải chăng Ngài là
thiên thần trên cảnh trời, gandhabba (càn thác bà)? - Không phải, này ông
bà la môn. - Bạch Ngài,
phải chăng Ngài là quỷ, yakkha? - Không phải, này ông
bà la môn. - Bạch Ngài,
phải chăng Ngài là người? - Không phải, này ông
bà la môn. - Như vậy,
quả thật Ngài là gì?
Giờ đây, ta hãy
thận trọng thông hiểu câu
giải đáp của
Đức Phật:
"Này ông bà la môn, bất luận những ô nhiễm (àsava, hoặc lậu, hay những bợn nhơ ngủ ngầm trong tâm) nào mà, do sự hiện hữu của nó một chúng sanh được nhận diện là trời, thiên thần trên cảnh trời, hay quỷ, hay người, tất cả những ô nhiễm ấy bên trong ta đã được tận diệt, đã được bứng tận gốc rễ, đã được chặt đứt tận gốc, đã chết hẳn, không còn mọc lại nữa trong tương lai."
"Cũng như hoa sen xanh hay đỏ hay trắng trong nước, này ông bà la môn, sanh trưởng trong nước, và vượt lên khỏi nước mà không dính nước, ta cũng vậy, sanh trong thế gian, trưởng thành trong thế gian, đã vượt lên khỏi thế gian, và sống không vướng mắc thế gian.
Hãy nhớ đến ta là người đã giác ngộ (Buddhoti mam dhàrehi brahmana)."
Ý
Đức Phật muốn nói rằng Ngài không phải là trời hay
thiên thần trên cảnh trời, cũng không phải quỷ hay người còn vướng bận
ô nhiễm. Câu nói trên đây của
Đức Phật rõ ràng là muốn cho người
bà la môn biết rằng Ngài không phải là một người đầy hoặc lậu. Ngài không muốn người
bà la môn đặt Ngài vào bất cứ hạng nào trong những hạng kể trên.
Đức Phật sống trong
thế gian nhưng không phải là người
thế gian.
Hình ảnh hoa sen rõ ràng nói lên điều này.
Tuy nhiên có những nhà
phê bình vội vã nhảy tới chụp lấy
kết luận sai lầm, và muốn người khác tin rằng
Đức Phật không phải là người.
Cũng trong
bộ kinh Anguttara Nikàya,
Tăng Nhứt A Hàm, (1, 22) có một
đoạn Đức Phật
tuyên ngôn khẳng định rằng Ngài là một người.
"Này hởi chư tỳ khưu, có một người (puggala) mà sự đản sanh ra đời là vì an lành và hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi mẫn thương xót thế gian, vì lợi ích, vì trạng thái an lành và hạnh phúc của chư thiên (devas) và nhân loại. Ai là con người duy nhất (eka puggala) ấy? Đó là Như Lai (Tathàgata), đấng Trọn Lành (arahat), bậc Chánh Đẳng Chánh Giác (sammà-sambuddho) ... Này chư tỳ khưu, một người đản sanh vào thế gian là người phi thường, người toàn hảo tuyệt luân (acchariya manussa)."
Hãy
ghi nhận danh từ Pali "manussa", một người, một
chúng sanh trong
cảnh người. Đúng thật vậy,
Đức Phật là một người, nhưng không phải chỉ là một người như tất cả
mọi người, mà là một người toàn hảo,
tuyệt luân.
Kinh điển Phật Giáo chép rằng
Bồ Tát (Bodhisatta, là danh từ để chỉ
Đức Phật trước khi
đắc quả Phật) ở cung trời Đấu Xuất (Tusita devaloka) và giáng sanh vào
cảnh người (manussatta) trong
thế gian.
Cha mẹ Ngài, Vua Suddhodana (
Tịnh Phạn) và Hoàng Hậu Mahàmàyà (
Ma Da) đều là người.
Bồ Tát [14] đản sanh là một người,
chứng đắc Đạo Quả Phật như một người, và
cuối cùng nhập
Đại Niết Bàn (parinibbàna) như một người. Chí đến khi đã
chứng ngộ Toàn Giác Tối Thượng Ngài cũng không bao giờ tự xưng là
Thần Linh, hay Brahma, hoặc "Chúng Sanh Tối Thượng", mà chỉ là một người thường.
Tiến Sĩ S. Radhakrishnan, một người theo
Ấn Độ Giáo, đã được
giáo huấn theo
kinh điển Veda và Vedanta, nói rằng
Phật Giáo xuất nguyên từ
Ấn Độ Giáo. Ngài lặp lại và làm ra mới những
lý tưởng cũ xưa của
văn hóa Ấn Độ Giáo ..." [15]
Tuy nhiên,
Đức Phật tuyên ngôn rằng
giáo huấn của Ngài là những
chân lý do chính tự Ngài đã
khám phá, lúc bấy giờ chưa từng có ai biết, không phải là
di sản của tập tục
cổ truyền. Và như vậy, trong thời Pháp đầu tiên, đề cập đến
Tứ Diệu Đế Ngài nói:
"Này chư tỳ khưu, với ý tưởng 'Đây là diệu đế về sự khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ, đây là sự chấm dứt của đau khổ, đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.' phát sanh đến Như Lai nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng liên quan đến những gì trước kia chưa từng được nghe đến (pubbesu ananussutesu, dhammesu). [16]Lại nữa, trong khi chỉ vạch
rõ ràng cho hàng
đệ tử sự khác biệt giữa một bậc
Toàn Giác và vị
A La Hán, đấng Trọn Lành,
Đức Phật dạy:
"Đấng Như Lai, này chư môn đệ, là Toàn Giác trong khi cũng là A La Hán. Chính Ngài tuyên bố con đường trước đó chưa từng được công bố, Ngài là người hiểu biết con đường, thấu triệt con đường, thuần thục trên con đường (maggannu, maggavidu, maggakovido). Và đến nay các vị đệ tử Ngài vẫn còn là khách lữ hành bước theo dấu chân Ngài," [17]Con đường cũ xa xưa mà
Đức Phật đề cập đến là
Bát Chánh Đạo và không phải là
lý tưởng nào của
văn hóa Ấn Độ Giáo như
Tiến Sĩ Radhakrisnan tưởng tượng.
Tuy nhiên, khi đề cập đến
Đức Phật, Mahatma Gandhi, vị kiến trúc sư của nền
độc lập Ấn Độ, nói: "Bằng đức
hy sinh rộng lớn
mênh mông của Ngài, bằng hạnh từ khước vĩ đại của Ngài, và bằng phẩm hạnh
thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài đã ghi tạc lên trên
Ấn Độ Giáo những dấu vết không bao giờ
phai mờ, và đối với bậc thầy vĩ đại ấy
Ấn Độ Giáo còn mang một mối nợ phải được
tri ân muôn đời." (Mahàdev Desai, With Gandhiji in Ceylon, Madras, 1928, trang 26.)
Pháp Tùy-Thuộc-Phát-SanhLiền sau khi
chứng đắc Toàn Giác Đức Phật ngồi dưới cội
Bồ Đề suốt một tuần,
chứng nghiệm hạnh phúc Giải Thoát. Vào cuối ngày thứ bảy Ngài xuất ra khỏi định (samàdhi) và trong canh đầu của đêm ấy suy niệm về pháp
tùy thuộc phát sanh (paticca-samuppàda,
thập nhị nhân duyên, hay
thập nhị duyên khởi) theo chiều khởi phát (anuloma) của
vạn pháp như sau:
"Khi có cái này, cái kia phát sanh; với sự phát sanh của cái này, cái kia phát sanh; tức là
tùy thuộc nơi
vô minh, có hành (những hành động có
tác ý, hành động tạo nghiệp);
tùy thuộc nơi hành có thức (thức-tái-sanh);
tùy thuộc nơi thức có danh-sắc;
tùy thuộc nơi danh-sắc có
lục căn (tức năm
giác quan cùng với ý là căn thứ sáu);
tùy thuộc nơi
lục căn, xúc;
tùy thuộc nơi xúc, thọ;
tùy thuộc nơi thọ, ái;
tùy thuộc nơi ái, thủ;
tùy thuộc nơi thủ, hữu (tiến trình của sự
trở thành);
tùy thuộc nơi hữu, có sanh đến;
tùy thuộc nơi sanh có già và chết,
phiền muộn, than van,
đau khổ,
âu sầu và
tuyệt vọng. Như thế ấy phát sanh
toàn thể khối
đau khổ dukkha."
Vào canh thứ nhì của đêm ấy
Đức Phật suy niệm về pháp
tùy thuộc phát sanh theo chiều
chấm dứt (patiloma) như sau:
"Khi không có cái này, cái kia không phát sanh, với sự chấm dứt cái này, cái kia chấm dứt; tức là: với sự chấm dứt rõ ràng của vô minh, hành động có tác ý chấm dứt; với sự chấm dứt của hành, thức chấm dứt v.v... Như thế ấy, chấm dứt toàn thể khối đau khổ." Trong canh thứ ba của đêm ấy Đức Phật suy niệm về pháp tùy thuộc phát sanh của vạn pháp theo cả hai chiều, phát sanh và chấm dứt, như sau: "Khi có cái này cái kia phát sanh; với sự phát sanh của cái này cái kia phát sanh; Khi không có cái này cái kia không có; với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt; tức là: tùy thuộc nơi vô minh, hành phát sanh, v.v... Như thế ấy phát sanh toàn thể khối đau khổ. Với sự chấm dứt rõ ràng của vô minh, hành chấm dứt, v.v... Như thế ấy, chấm dứt toàn thể khối đau khổ." [18]Đức Phật trải qua sáu
tuần nhật yên tĩnh
ẩn dật ở sáu
nơi khác nhau
quanh quẩn cây Bồ Đề. Vào cuối
thời gian ấy có hai người lái buôn, Tapassu và Bhallika, đi ngang qua và dâng đến Ngài một loại bánh làm bằng gạo và mật ong và bạch: "Chúng con xin
quy y Phật và Pháp [19]. Xin Ngài thâu nhận chúng con làm
đệ tử. [20]" Đây là hai
thiện tín (upàsakas) đầu tiên.
Bài Pháp Đầu TiênTrong khi
Đức Thế Tôn sống vắng vẻ cô tịch thì
ý nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài:
"Giáo Pháp mà
Như Lai chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó
nhận thức, khó
lãnh hội,
vắng lặng, cao siêu, không nằm trong
phạm vi luận lý,
tế nhị, chỉ có bậc
thiện trí mới thấu hiểu.
Chúng sanh còn
thỏa thích,
ham vui, và mãi mê
say đắm trong nhục dục
ngũ trần. Đối với những
chúng sanh như thế ấy khó mà thấy được
pháp duyên sanh, pháp
tùy thuộc phát sanh. Cũng khó cho
chúng sanh lãnh hội sự
chấm dứt tất cả những
pháp hữu vi, sự
thoát ly ra khỏi tất cả những
tinh chất của tiến trình
trở thành, sự
dập tắt mọi
ái dục,
buông bỏ,
chấm dứt,
Niết Bàn. Nếu
Như Lai truyền dạy
Giáo Pháp và người khác không thể hiểu thì
quả thật là
phí công vô ích. [21]"
Nghĩ như vậy
thoạt tiên Ngài không sẵn sàng hoằng dương
Giáo Pháp, nhưng với nhãn
quan tinh thần Ngài
quan sát thế gian và thấy
chúng sanh kẻ ít người nhiều cát bụi trong mắt, kẻ thì có khả năng
hiểu biết bén nhạy người
chậm chạp nặng nề, người có phẩm cách cao quý, người
thấp hèn, người
dễ dạy, người khó, vài người
nhận thức được mối hiểm họa mà họ phải gánh chịu trong tương lai vì hành động sai quấy trong
hiện tại, vài người không. Thấy như vậy Đức
Tôn Sư tuyên ngôn sẵn sàng
công bố Giáo Pháp với những lời lẽ
long trọng như sau:
"Apàrutà tesam amatassa dvàrà
Ye sotavanto pamuncantu saddham."
"Cửa Vô Sanh Bất Diệt đã rộng mở.
Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin." [22}
Khi xét suy sẽ dạy
Giáo Pháp cho ai
trước tiên, Ngài nghĩ đến Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta, hai
vị đạo sư đã dạy Ngài thủa xưa, bởi vì Ngài biết rằng hai vị này là bậc
thiện trí minh mẫn. Nhưng không thể được vậy, hai vị đã
viên tịch. Rồi
Đức Thế Tôn quyết định trao truyền
chân lý cho
năm đạo sĩ trước kia là
huynh đệ đồng tu với Ngài,
đến nay vẫn còn giữ vững
lối tu khổ hạnh cùng cực, vốn không đem lại
thành quả. Biết rằng
năm đạo sĩ hiện ở Benares, trong khu Vườn Lộc Giả tại Isipatana (ngày nay là Sarnath),
Đức Thế Tôn rời Gayà đi từng giai đoạn đến Benares, cách đó độ 150 dậm Anh. Trên đường đi, không mấy xa Gayà Ngài gặp
đạo sĩ Upaka, rất
ngạc nhiên trước diện mạo
trong sáng và tác phong
trầm tĩnh của Ngài.
Vị đạo sĩ hỏi: "Thầy của
đạo hữu là ai?
Đạo hữu truyền bá giáo lý của ai?"
Đức Phật trả lời: "Một
đạo sư, ta không có, một người như ta không có trên
thế gian, bởi vì ta là
Tôn Sư Vô Song, bậc
A La Hán, chỉ có ta
duy nhất là
Toàn Giác Tối Thượng. Đã tận diệt tất cả mọi
ô nhiễm, ta đã
chứng ngộ trạng thái vắng lặng của
Niết Bàn. Ta đang đến thành Kàsi (Benares) để vận
chuyển Bánh Xe Pháp Bảo. Giữa
thế gian mù quáng ta sẽ gióng lên hồi trống
Vô Sanh Bất Diệt."
"Này
đạo hữu, như vậy
đạo hữu tự xưng là bậc siêu hùng, người chiến thắng
toàn thể vũ trụ," Upaka nói.
Đức Phật trả lời: "Những ai đã
chấm dứt mọi
nhiễm ô, những người ấy,
quả thật vậy, là bậc siêu hùng như ta. Tất cả
bất thiện pháp, ta đã
chinh phục. Như vậy, ta là đấng siêu hùng."
Upaka lắc đầu, chua cay
ghi nhận, "Có thể được vậy chăng,
đạo hữu," và rẽ sang một
con đường nhỏ.
Đức Phật tiếp tục cuộc
hành trình và
lần hồi đến Vườn Lộc Giả, tại Isipatana. Năm
vị đạo sĩ thấy
Đức Phật từ xa đến, bàn thảo
với nhau: "Này chư
đạo hữu, kìa
đạo sĩ Gotama đang đi đến ta.
Đạo sĩ ấy bán đồ nhi phế, đã
từ bỏ cuộc chiến đấu và
trở về lối sống xa hoa phong phú. Ta không nên
niềm nở đón chào." Nhưng khi
Đức Phật đến gần, phong cách
trang nghiêm của Ngài
cảm xúc mạnh mẽ cả năm và tất cả đều bỏ
ý định. Người thì đến rước y và bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa chân.
Đức Phật ngồi trên chỗ đã dọn sẵn, và năm vị
quây quần bu lại đón mừng với
tư cách huynh đệ,
xưng hô với Ngài là "àvuso", có nghĩa
đạo hữu.
Đức Phật nói, "Không nên gọi
Như Lai bằng danh từ "àvuso". Này chư
đạo sĩ,
Như Lai là bậc ùng Cúng (
A La Hán), đấng
Toàn Giác Tối Thượng. Hãy lắng nghe, này chư
đạo sĩ,
Như Lai đã
thành tựu trạng thái Bất Diệt.
Như Lai sẽ giảng, sẽ dạy
Giáo Pháp. Nếu hành đúng theo lời dạy, chính các thầy sẽ
thông hiểu và tự mình
chứng ngộ trong kiếp sống này
mục tiêu thanh tịnh tối thượng mà bao nhiêu người con trong các
gia tộc quý phái sẽ rời nhà để theo cuộc sống không nhà cửa." Đến đây
năm đạo sĩ nói: "Này
đạo hữu Gotama, trước kia dầu đã
thực hành khổ hạnh ép xác đến mức cùng cực
đạo hữu đã không
thành đạt trí tuệ nào
siêu phàm và
tuệ minh sát. Giờ đây
đạo hữu đã
trở về lối sống xa hoa lợi dưỡng và
từ bỏ cuộc chiến đấu thì làm sao có thể có
trí tuệ siêu phàm và
tuệ minh sát?"
Đức Phật đáp: "Như Lai không
chấm dứt cố gắng và
trở về lối sống xa hoa phong phú.
Như Lai là bậc
Toàn Giác Tối Thượng. Hãy lắng nghe, này chư
đạo sĩ,
Như Lai đã
thành tựu trạng thái Bất Diệt.
Như Lai sẽ giảng.
Như Lai sẽ dạy quý thầy
Giáo Pháp."
Lần thứ nhì năm
vị đạo sĩ lặp lại lời thắc mắc như cũ, và lần thứ nhì
Đức Phật lặp lại lời
giải đáp. Lần thứ ba, năm
vị đạo sĩ hỏi như trước.
Mặc dầu Đức Bổn Sư khẳng định, năm vị không thay đổi
thái độ. Lúc bấy giờ
Đức Phật nói như sau: "Hãy
thú nhận, này chư
đạo sĩ, trước đây có lần nào
Như Lai đã nói với quý vị như thế không?" Cảm kích trước những lời kêu gọi
chân thật của
Đức Thế Tôn, năm
vị đạo sĩ khuất phục và
công nhận: "Quả
thật không, Bạch Ngài." Như thế ấy bậc
Trí Tuệ Tối Cao, bậc
Điều Ngự Trượng Phu,
điều ngự tâm của năm
vị đạo sĩ bằng
nhẫn nhục và
từ bi, bằng
trí tuệ và
tài năng. Những lời của
Đức Phật cảm hóa năm đạo sĩ, lúc bấy giờ
tỏ ra sẵn sàng lắng nghe
Đức Phật.
Trung ĐạoLúc bấy giờ nhằm ngày trăng tròn tháng Bảy, 589 năm trước D.L. Vào buổi chiều, lúc
mặt trời đang
dần dần lặn và
mặt trăng Rằm đang ló dạng, tại Vườn Lộc Giả, Isipatana,
Đức Phật dạy:
"Này chư tỳ khưu, có hai
cực đoan mà người
tu sĩ ẩn dật phải tránh. Hai là gì?
Lợi dưỡng, dể duôi trong
dục lạc là
thấp hèn,
thô bỉ,
phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc
Thánh Nhân, và đưa đến
tổn hại; và
ép xác khổ hạnh là
đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc
Thánh Nhân, và đưa đến
tổn hại.
Con đường Trung Đạo, này chư tỳ khưu, mà
Như Lai đã
chứng ngộ, tránh xa
cực đoan, đem lại
pháp nhãn và
tri kiến và đưa đến tĩnh lặng,
liễu ngộ,
toàn giác và
Niết Bàn. Và này chư tỳ khưu,
Trung Đạo ấy là gì? Đó là
Bát Chánh Đạo, tức:
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định."
Rồi
Đức Phật giải thích Tứ Diệu Đế cho
năm đạo sĩ:
chân lý thâm diệu về sự khổ,
chân lý thâm diệu về
nguyên nhân sanh khổ,
chân lý thâm diệu về sự
chấm dứt đau khổ, và
chân lý thâm diệu về
con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ. [23]
Như thế ấy Đức
Tối Thượng Sư
tuyên bố chân lý và vận
chuyển Bánh Xe Pháp Bảo (dhamma-cakka-pavattana). Thời Pháp đầu tiên, bức
thông điệp Lộc Giả này là phần nòng cốt của
Phật Giáo. Cũng như
dấu chân của tất cả mọi loài trên mặt đất đều có thể nằm bên trong
dấu chân thớt tượng, pháp
Tứ Diệu Đế bao trùm
toàn thể giáo huấn của
Đức Phật.
Giải thích từng
diệu đế,
Đức Bổn Sư dạy, "Như vậy, này chư tỳ khưu,
pháp nhãn,
tri kiến,
trí tuệ,
tuệ minh sát, và ánh sáng, phát sanh đến
Như Lai.
Như Lai đã
thành đạt những gì mà trước kia chưa từng được biết. Này chư tỳ khưu, ngày nào mà
tuệ giác của
Như Lai,
tri kiến tuyệt đối như thực của
Như Lai về
Tứ Diệu Đế chưa được
hoàn toàn sáng tỏ thì
Như Lai không khẳng định là mình đã
chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và
lúc ấy phát sanh đến
Như Lai tuệ minh sát và
tri kiến: tâm của
Như Lai đã
giải thoát bất thối chuyển (akuppà me ceto vimutti), đây là kiếp
cuối cùng của
Như Lai, không còn
tái sanh nữa. [24]"
Đức Phật tuyên ngôn như thế, và năm vị tỳ khưu lấy làm
hoan hỷ,
tán dương lời dạy.
Vào ngày 2 tháng 12, năm 1930, trong một buổi dạ tiệc do
Hoàng Gia Thụy Điển khoản đãi tại
hoàng cung, khi đến lượt ông nói, Sir C. V. Raman,
lúc ấy vừa đoạt giải thưởng Nobel ngành
vật lý học, gác qua một bên
vấn đề khoa học, và trước một
thính giả kinh ngạc gồm những bậc
thượng khách nổi tiếng trên
thế giới, đọc lên một bài
diễn văn vô cùng hùng biện về
Đức Phật và thời
quá khứ vinh quang của xứ
Ấn Độ. "Trong khu thành Benares," Sir Venkata Raman nói, "có một
con đường mòn mà theo tôi là địa điểm
thiêng liêng nhất của xứ Ấn. Trên
con đường ấy một ngày nọ
Thái Tử Siddhartha đã
trải qua sau khi
từ bỏ tất cả
sự nghiệp trần gian để đi cùng khắp
thế gian và
công bố tình thương." (The Bosat, Quyển 5, số 1, 1942, Vajirarama, Colombo, trang 8). Rừng Cây Sinsapa
Vị thế tối quan trọng của pháp
Tứ Diệu Đế trong
Phật Giáo được
nhận thấy dồi dào và
rõ ràng từ
thông điệp tại khu Rừng Sinsapa (Rừng Trâm) cũng như bức
thông điệp tại Vườn Lộc Giả. Một ngày kia
Đức Phật ngự trú tại Kosambi (gần Allahabad), trong khu Rừng Sinsapa.
Lúc ấy, nắm trong tay
một nắm lá trâm (sinsapa),
Đức Thế Tôn hỏi
chư Tăng:
"Các con nghĩ thế nào, này chư tỳ khưu, số lá cây nằm trong tay
Như Lai so với số lá trong toàn khu rừng sinsapa này, cái nào nhiều hơn?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, nắm lá trong tay Ngài
quả thật không
đáng kể, so với số lá trong toàn khu rừng sinsapa này."
"Cũng nhiều như lá trong toàn khu rừng, này chư tỳ khưu, những gì mà
Như Lai hoàn toàn chứng ngộ; chỉ ít thôi, như số lá nắm trong tay,
Như Lai tuyên dạy các con. Và tại sao, này chư tỳ khưu,
Như Lai không truyền dạy hết? Này chư tỳ khưu, vì nó
không hữu ích, không khẩn yếu cho
đời sống thiêng liêng thanh tịnh, không dẫn đến
nhàm chán,
buông bỏ,
chấm dứt, tĩnh lặng, thấu đáo
toàn diện, không đưa đến
Toàn Giác,
Niết Bàn.
Vì lẽ ấy, này chư tỳ khưu,
Như Lai không tuyên dạy.
"Và
Như Lai tuyên dạy gì? Đây là
đau khổ (dukkha) -- điều này
Như Lai tuyên dạy. Đây là sự phát sanh của
đau khổ -- điều này
Như Lai tuyên dạy. Đây là sự
chấm dứt đau khổ -- điều này
Như Lai tuyên dạy. Đây là
con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ -- điều này
Như Lai tuyên dạy. Và tại sao, này chư tỳ khưu,
Như Lai tuyên dạy những
chân lý ấy?
"Vì nó
quả thật hữu ích,
quả thật khẩn yếu cho
đời sống thiêng liêng thanh tịnh, dẫn đến
nhàm chán,
buông bỏ,
chấm dứt, tĩnh lặng, thấu đáo
toàn diện, đến
Toàn Giác,
Niết Bàn.
Vì lẽ ấy, này chư tỳ khưu,
Như Lai tuyên dạy. Như vậy, này chư tỳ khưu,
cần phải tinh tấn để
chứng ngộ: Đây là
đau khổ, đây là sự phát sanh
đau khổ, đây là sự
chấm dứt đau khổ, đây là
con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ." [25]
Đức Phật cương quyết khẳng định: "Như Lai làm
sáng tỏ một điều:
đau khổ và sự
chấm dứt đau khổ" (dukkhamceva pannàpemi, dukkhassa ca nirodham). Thấu
hiểu rõ ràng Phật ngôn không thể nhầm lẫn này tức thấu hiểu
Phật Giáo; bởi vì
toàn thể giáo huấn của
Đức Phật không có gì khác hơn là
áp dụng nguyên tắc
duy nhất này. Cái gì mà có thể gọi là
khám phá của
Đức Phật chỉ là
Tứ Diệu Đế. Từ nghìn xưa, đó là
giáo huấn đặc thù của chư Phật.
Tối Thượng Y VươngĐức Phật cũng được tôn là bậc
Tối Thượng Y Vương (bhisakko, vị
lương y vô song), nhà giải phẩu không ai bì (sallakatto anuttaro).
Quả thật vậy, Ngài là vị
lương y độc nhất vô nhị.
Phương cách mà
Đức Phật trình bày
Tứ Diệu Đế có thể
so sánh với
phương pháp trị bịnh của một
lương y. Cũng giống như
bác sĩ, Ngài bắt đầu chẩn mạch,
tìm hiểu chứng bịnh, kế đó tìm
nguyên nhân sanh ra bịnh hay bịnh phát sanh như thế nào, rồi nghiền ngẩm khảo sát phương thức
trị liệu, và
cuối cùng áp dụng, cho thuốc chữa bịnh.
Đau khổ (dukkha) là chứng bịnh;
ái dục (tanhà) là sự phát sanh, hay
nguyên nhân, căn cội của chứng bịnh (samudaya); bằng cách
diệt trừ ái dục, căn bịnh cũng được
diệt trừ, và đó là phương thức
trị liệu (nirodha-nibbàna);
Bát Chánh Đạo (magga) là phương thuốc.
Một vị
bà la môn muốn biết tại sao
Đức Bổn Sư được gọi là Phật. Lời
giải đáp của
Đức Phật rõ ràng cho thấy rằng
không có lý do nào khác hơn là vì Ngài
hoàn toàn thông suốt Tứ Diệu Đế.
Đây là lời của
Đức Phật:
"Ta đã
thông hiểu những gì phải được
thông hiểu, Đã trau giồi những gì phải được trau giồi, Đã dứt bỏ những gì phải được
buông bỏ. Do đó, này người
bà la môn, ta là Phật --
đấng Giác Ngộ. [26]"
Với thời Pháp (Dhamma) được
công bố lần đầu tiên, với sự vận
chuyển Bánh Xe Pháp Bảo, và với sự thâu nhận năm
vị đạo sĩ làm
đệ tử, Vườn Lộc Giả tại Isipatana
trở thành nơi chôn nhau cắt rún của
Phật Giáo (Buddha-sàsana) và của
Giáo Hội Tăng Già (sangha). [27]
Hoằng Dương Giáo PhápSau đó
Đức Phật trải qua mùa hạ (vassa) [28] nơi Vườn Lộc Giả, tại Isipatana, ngày nay là địa điểm
thiêng liêng (động tâm) của hơn sáu trăm triệu người. Trong ba tháng của mùa mưa này -- ba tháng hạ, vassa -- năm mươi vị khác do Yasa, một thanh niên khá giả, hướng dẫn
gia nhập vào
Giáo Hội. Giờ đây
Đức Phật có sáu mươi
đệ tử, tất cả đều là
A La Hán, những vị đã
chứng ngộ Giáo Pháp và có đầy
đủ khả năng để dạy người khác. Khi
mùa an cư kiết hạ chấm dứt Đức Bổn mở lời dạy các
đệ tử thân tín như sau:
"Này chư tỳ khưu,
Như Lai đã thoát ra khỏi mọi
trói buộc, dầu ở
cảnh người hay cảnh trời. Các con cũng đã
giải thoát ra khỏi mọi
thằng thúc, dầu ở
cảnh người hay cảnh trời. Giờ đây, các con hãy ra đi đó đây vì
tình trạng an lành và
hạnh phúc của
chư thiên và
nhân loại. Mỗi người đi một ngã, hai người không đi chung về một hướng. Hãy
công bố Giáo Pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn cuối, đầy đủ
ý nghĩa trong
tinh thần và theo
văn tự, và
rõ ràng là toàn hảo. Hãy
công bố đời sống trong sạch,
đời sống thiêng liêng, thanh cao và
tinh khiết tột bậc. Có những
chúng sanh với ít nhiều cát bụi trong mắt, họ sẽ
lạc lối vì không được nghe
Giáo Pháp, cũng có những người sẽ
lãnh hội,
Như Lai sẽ đi về phía Uruvela, đến Senanigama để hoằng dương
Giáo Pháp." [29]
Như thế ấy
Đức Phật bắt đầu cuộc
truyền giáo cao cả kéo dài đến giây phút
cuối cùng của
cuộc đời. Cùng với chư vị
đệ tử Ngài đi trên các
con đường lớn và các nẻo nhỏ của xứ
Ấn Độ, bủa rộng vừng
hào quang từ bi vô lượng vô biên.
Mặc dầu khởi đầu với sáu mươi vị tỳ khưu,
Giáo Hội Tăng Già sớm phát triển đến hằng ngàn vị và, do số
chư Tăng càng ngày càng tăng, số
tự viện cũng ngày càng tăng dần, và về sau các
đại học Phật Giáo ở Ấn như Nàlandà, Vikramasilà, Jagaddalà, Vikrampuri và Odantapuri
trở thành những
trung tâm văn hóa có
ảnh hưởng đến
đời sống tâm linh của
nhân loại.
Sau bốn mươi lăm năm hoằng dương
Giáo Pháp và
thành công một cách
vẻ vang,
Đức Phật viên tịch lúc tám mươi tuổi thọ, giữa hai cây Song
Long Thọ (gọi là "song long thọ" vì là một cặp, hai cây
long thọ, mỗi cây chia làm hai nhánh
giống hệt như sanh đôi), tại Kusinàrà, ngày nay là Uttara Pradesh, khoảng 120 dậm Anh cách Benares. [30]
Công Trình Hoằng Pháp Của Đức PhậtTrong bốn mươi lăm năm
hoằng Pháp độ sinh dài dẳng,
Đức Phật đi bộ cùng khắp các châu quận miền Bắc xứ
Ấn Độ. Nhưng vào mùa
nhập hạ thông thường Ngài ở lại một nơi. Sau đây là tóm lược những nơi Ngài
nhập hạ, được
ghi nhận trong
kinh điển.
* Năm đầu: Vàrànasi -- Sau khi
Chuyển Pháp Luân vào ngày trăng tròn tháng Bảy D.L.
Đức Phật nhập hạ đầu tiên tại Isipatana, Vàrànasi.
* Hạ thứ nhì, thứ ba và thứ tư: Ràjagaha -- Ngài lưu ngụ trong khu Veluvana (
Trúc Lâm). Trong hạ thứ ba này Sudatta, một
trưởng giả tại thành Sàvatthi (
Xá Vệ) mà người ta thường gọi là Anàthapindika, "người nuôi ăn những kẻ bị bỏ rơi" nghe nói đến
Đức Phật, tìm đến, lắng nghe Ngài và đặt
niềm tin (saddhà) nơi
Đức Bổn Sư, nơi
Giáo Huấn của Ngài và những vị đã được Ngài dạy (Phật, Pháp, Tăng),
đắc quả Tu Đa Huờn (sotàpatti,
nhập lưu), tầng Thánh đầu tiên trong
Tứ Thánh. Ông
nổi tiếng là vị
thí chủ (dàyaka) chính của Đức
Tôn Sư. Ông Anàthapindika (
Cấp Cô Độc)
kiến tạo ngôi chùa
trứ danh Jetavana (
Kỳ Viên) tại Sàvatthì, ngày nay là Sahet-mahet, rồi dâng lên
Đức Phật và các
đệ tử Ngài. Những phế tích của ngôi chùa
đến nay vẫn còn được thấy.
* Hạ thứ năm: Vesàli --
Đức Phật nhập hạ trong
bảo tháp Kùtàgàrasàlà. Vào lúc này Đức Vua Suddhodana lâm trọng bịnh. Ngài
trở về viếng cha và
thuyết giảng Giáo Pháp. Đức Vua cha
chứng đắc A La Hán sau khi
nghe Pháp và băng hà sau khi
thọ hưởng quả phúc
giải thoát trong bảy ngày.
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni cũng được
thành lập trong khoảng thời gian này. (Xin xem phần "Hàng
Phụ Nữ Trong
Văn Học Phật Giáo, chương 12).
* Hạ thứ sáu: Đồi Mankula -- Nơi đây
Đức Phật dùng phép yamaka pàtihàriya, làm cho nước và lửa cùng một lúc phun ra từ lỗ chân lông. Lần đầu tiên tại Kapilavatthu Ngài cũng dùng phép ấy để khắc phục
tính ngã mạn của những người dòng Sakya,
thân quyến Ngài.
* Hạ thứ bảy: Cung Trời Đạo Lợi (Tàvatimsa,
Tam Thập Tam Thiên) -- Nơi đây
Đức Phật thuyết giảng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma,
Giáo Lý Cao Siêu) cho những vị Trời (devas), do mẹ Ngài hướng dẫn. Sau khi hạ sanh Hoàng Tử Siddhattha được bảy ngày thì Hoàng Hậu Mahàmàyà băng hà và
tái sanh vào cảnh Tàvatimsa.
* Hạ thứ tám: Rừng Bhesakalà, gần Sumsumàragiri -- Tại nơi đây đôi vợ chồng khắng khít
thương yêu nhau, Nakulapità và vợ, đến hầu Phật, nói lên cuộc sống
gia đình nhiều
hạnh phúc của mình và
ước nguyện mãi mãi chung sống an vui đầm ấm trọn kiếp sống
hiện tiền và
lâu dài trong những kiếp về sau. Hai người này được
Đức Phật khen là đứng hàng đầu trong những người có
niềm tin nơi
Tam Bảo.
* Hạ thứ chín: Kosambi -- trong hạ này
Đức Phật lưu ngụ tại Chùa Ghosita.
* Hạ thứ mười: Rừng Pàrileyyakka -- Trong hạ thứ mười này, tại Kosambi, vụ
tranh luận xảy ra giữa hai nhóm tỳ khưu vì có một vị
phạm giới không
đáng kể, nhưng rồi hai phe không thể
hòa giải. Chính
Đức Phật bổn thân đứng ra giàn xếp cũng không xong. Ngài bỏ vào
nhập hạ trong rừng. Vào cuối hạ (vassa) cuộc
tranh luận được giảng hoà êm thuận,
chư Tăng đến Sàvatthi xin
sám hối và cung thỉnh
Đức Thế Tôn về chùa.
* Hạ thứ mười một: Làng Ekanàla (trong xứ Magadha,
Ma Kiệt Đà) -- Nơi đây
Đức Phật gặp vị
bà la môn nông dân Kasìbhàradvàja. Vị này có những lời thiếu
lễ độ, nhưng
Đức Thế Tôn vẫn
bình tĩnh,
thản nhiên giải đáp những câu hỏi của ông. Bhàradvàja
trở thành một
thiện tín nhiệt thành của
Đức Phật. Chính trong cơ hội này Ngài giảng thời Pháp rất đáng chú ý Kinh Kasìbhàradvàja Sutta (Sutta Nipàta). (Xin đọc quyển "The Book of Protection" cùng một
tác giả, do nhà xuất bản BPS
ấn hành).
* Hạ thứ mười hai: Veranjà -- Lời tựa của Tạng Luật (Vinaya) được xem là được
ban hành trong hạ này. Cũng trong hạ này vị
bà la môn Veranjà đến gặp
Đức Phật, bạch hỏi một loạt nhiều câu hỏi, xin
quy y, và cung thỉnh
Đức Phật cùng
chư Tăng nhập hạ (vasssa) tại làng Veranjà. Vào
lúc ấy có nạn đói trong xứ,
Đức Phật và chư vị
đệ tử Ngài phải dùng những
thức ăn rất thô sơ do một người lái ngựa dâng cúng. Theo thường lệ, sau khi
ra hạ Đức Phật giả từ ông
bà la môn thí chủ để
lên đường. Ông ta
thú nhận là
mặc dầu cung thỉnh
Đức Thế Tôn và chư vị tỳ khưu
đệ tử nhập hạ, ông đã
thiếu sót bổn phận suốt trọn
thời gian kiết hạ vì phải mắc bận
công chuyện nhà.
Dầu vậy, ngày hôm sau ông dâng y và
cúng dường đầy đủ vật thực.
* Hạ thứ mười ba: Tại tảng đá Càliya (gần thị trấn Càlika) -- Trong hạ này
Đại Đức Meghiya
làm thị giả Ngài, thấy khu rừng xoài ở cạnh mé sông rất xinh tươi và
thuận tiện để hành thiền, nên xin phép
Đức Phật đến đó
hành đạo.
Mặc dầu Đức Phật khuyên sư hãy
đợi chờ đến khi có một vị
thị giả mới thay thế, sư vẫn lặp lại lời xin.
Đức Phật cho phép. Vị tỳ khưu ra đi, nhưng rồi
hết sức ngạc nhiên cảm nghe còn luôn luôn mang nặng những
tư tưởng tham dục,
sân hận và hung bạo. Sư
thất vọng trở về. Lúc bấy giờ
Đức Phật mở
lời khuyên dạy: "Này Meghiya, để
giải thoát cái tâm chưa
thuần thục, có năm điều hỗ trợ cho nó trở nên
thuần thục: 1. một người bạn lành; 2. phẩm hạnh thanh cao trong khuôn khổ của những
quy tắc tu tập; 3. bàn thảo
chân thành, những
lời khuyên bảo có chiều hướng
buông bỏ,
vắng lặng,
chấm dứt,
Giác Ngộ và
Niết Bàn; 4.
tinh tấn loại trừ những
tư tưởng bất thiện và 5.
thành đạt trí tuệ phân biện
trạng thái phát sanh và
hoại diệt của
vạn pháp." [31]
* Hạ thứ mười bốn: Tại ngôi chùa Jetavana (
Kỳ Viên), Sàvatthi -- Trong hạ này
Đại Đức Ràhula,
lúc ấy còn là
sa di (sàmanera),
thọ Cụ Túc Giới (upasampadà). Đúng theo Vinaya (Luật), phải đến hai mươi tuổi mới được
thọ giới này. Như vậy,
lúc ấy Ngài Ràhula vừa đúng tuổi
thọ giới để trở nên tỳ khưu.
* Hạ thứ mười lăm: Kapilavatthu (nơi chôn nhau cắt rún của
Thái Tử Siddhattha) -- Trong hạ này Đức Vua Suppabuddha, cha của
Công Chúa Yasodharà, băng hà.
* Hạ thứ mười sáu: Thị trấn Àlavi -- Trong hạ này
Đức Phật cảm hóa Alavaka, quỷ
Dạ Xoa ăn thịt người. Quỷ nêu lên những thắc mắc, được
Đức Thế Tôn giải thích thỏa đáng và xin
quy y Phật. (Về những câu hỏi của Alavaka và
giải đáp của
Đức Bổn Sư, xin đọc Àlavaka Sutta, trong Sutta Nipàta hoặc "The Book of Protection" trang 81, do
Đại Đức tác giả sách này, nhà xuất bản BPS
ấn hành.)
* Hạ thứ mười bảy: Ràjagaha (
Vương Xá), tại ngôi chùa Veluvana (
Trúc Lâm). Trong hạ này cô gái
giang hồ nổi tiếng, Sirimà em của vị
lương y Jivaka, chết.
Đức Phật đến dự lễ
hỏa táng và nói với nhà vua hãy truyền rao cho dân chúng, xem có ai muốn mua cái thi hài ấy không -- cái
thân hình mà lúc nào, khi còn sống, đã
quyến rũ thu hút bao nhiêu người. Không ai màng đến, dầu khỏi phải trả tiền. Nhân cơ hội
Đức Phật truyền dạy đám đông với lời kệ:
"
Hãy nhìn cái hình ảnh xinh đẹp kìa, Một thể xác đầy đau thương, Một đống (xương), đầy bệnh tật, Được nhiều người bận tâm lo lắng, nhưng trong đó Không chứa đựng gì trường tồn hay ổn định." -- Dhammapada, Kinh Pháp Cú, 147* Hạ thứ mười tám: Tảng đá Càliya -- Trong hạ này một
thiếu nữ, con gái người thợ dệt, đến hầu Phật và được nghe
thuyết giảng thời Pháp dạy
quán tưởng về sự chết (maranànussati). Trong một cơ hội khác, nhờ
thường xuyên suy gẫm về những lời giảng của
Đức Phật nàng
giải đáp đúng tất cả bốn câu hỏi của Ngài. Cuộc
vấn đáp có tánh cách triết lý này vượt khỏi tầm
hiểu biết của
đại chúng, vốn không thường suy niệm theo
lời Phật dạy.
Đức Phật ca ngợi nàng và mở lời dạy
mọi người bằng
kệ ngôn:
"Thế gian này mù quáng; ở đây, người sáng suốt quả thật hiếm hoi Như số chim thoát khỏi lưới, Chỉ ít người vào nhàn cảnh." -- Dhammapada, Kinh Pháp Cú, 174Nàng lắng nghe
Giáo Pháp và
chứng ngộ tầng Thánh thứ nhất (sotàpatti,
Nhập Lưu hay
Tu Đà Huờn), nhưng rồi lìa đời một cách bất ngờ. (Xin đọc
Chú Giải Kinh Pháp Cú, Quyển lll, trang 170, hoặc Buddhist Legends,
tác giả Burlingame, Phần 3, trang 14. Cũng xin đọc chương "Hàng
Phụ Nữ Trong
Văn Học Phật Giáo", trong phần sau sách này.)
* Hạ thứ mười chín: Tảng đá Càliya.
* Hạ thứ hai mươi: Ràjagaha, tại chùa Veluvana.
* Từ hạ thứ hai mươi mốt đến hạ thứ bốn mươi ba: Sàvatthì. Trong hai mươi bốn năm này, Ngài
nhập hạ mười tám lần tại
Tịnh Xá Jetavana, sáu hạ tại Pubbàràma. Ông Anàthapindika (
Cấp Cô Độc) và Bà Visàkhà là hai vị
đại thí chủ.
* Hạ thứ bốn mươi bốn: Beluva (một làng nhỏ có thể ở gần Vesàli) -- Nơi đây
Đức Phật dùng
năng lực của
ý chí đè nén một cơn bịnh
trầm trọng.
Vào năm thứ bốn mươi lăm sau khi
Thành Đạo,
Đức Phật viên tịch tại Kusinàrà trong tháng Năm (vesàkha), trước ngày
nhập hạ.
Trong hai mươi mốt hạ đầu tiên, những vị tỳ khưu Nàgasamàla, Nàgita, Upavàna, Sunakkhatta, Sàgatta, Ràdha và Meghiya và
sa di (sàmanera) Cunda hầu cận Ngài, nhưng không
đều đặn.
Tuy nhiên, đến hạ thứ hai mươi mốt,
Đức Phật muốn có một
thị giả thường xuyên theo với Ngài. Tất cả tám mươi vị
đại đệ tử A La Hán, như quý Ngài Sàriputta (
Xá Lợi Phất) và Moggallàna (
Mục Kiền Liên) đều
tỏ ý tình nguyện. Nhưng
Đức Phật không nhậm lời. Có lẽ Ngài nghĩ rằng chư vị
A La Hán này sẽ giúp ích cho
nhân loại nhiều hơn.
Trong suốt thời gian ấy
Đại Đức Ànanda giữ
im lặng. Chư vị tỳ khưu thỉnh Ngài xin Phật. Ànanda Thera đáp rằng, "Nếu
Đức Bổn Sư muốn tôi
làm thị giả cho Ngài thì Ngài sẽ nói."
Lúc ấy Đức Phật nói: "Này Ànanda, chớ nên để người khác
thuyết phục. Chính con có thể tự nguyện hầu cận
Như Lai." (Xem chương 2, đề cập đến Ngài Ànanda).
Đạo Quả Phật Và Các Thánh QuảTrạng thái hoàn toàn giác ngộ, sự
khám phá và
chứng ngộ Tứ Diệu Đế (tức
Đạo Quả Phật) không phải là
đặc ân riêng của một
chúng sanh tốt phước nào đã được
Thần Linh Thiên Hựu chọn trước, cũng không phải là diễn biến
duy nhất không bao giờ còn lặp lại
trong lịch sử nhân loại. Đây là
thành quả mà bất luận ai cũng có thể
thành đạt nếu tận lực
tinh tấn chuyên cần tự thanh lọc
thân tâm và khai triển
trí tuệ đến mức
tuyệt hảo và có đủ
ý chí sắt đá,
kiên trì trau giồi mười
pháp ba la mật (pàrami) và
Bát Chánh Đạo, những phẩm hạnh tất yếu để
chứng ngộ Đạo Quả Phật.
Đã có những vị Phật trong
quá khứ xa xôi, và trong tương lai sẽ có những vị Phật, khi cần và hội đủ
điều kiện thuận lợi. Nhưng ta không
cần phải nghĩ đến tương lai xa vời; giờ đây, trong giây phút
hiện tại, "cánh cửa
Vô Sanh Bất Diệt" đang rộng mở. Những ai bước vào,
đạt đến trạng thái tuyệt đối trọn lành (Arahatta),
cuối cùng giải thoát, vượt ra khỏi mọi
đau khổ (Nibbàna).
Đức Phật long trọng tuyên bố rằng trên
phương diện tận diệt
ô nhiễm và
thành đạt mục tiêu giải thoát cùng tột, những vị ấy cũng đứng
ngang hàng với Ngài:
"Là những người chiến thắng như ta, quả thật vậy, Những ai đã tận diệt mọi ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm" [32]
Tuy nhiên,
Đức Phật cũng vạch rõ cho hàng
môn đệ sự khác biệt giữa vị
Toàn Giác và chư vị Arahat (
A La Hán) [33], những bậc
Thánh Nhân Trọn Lành:
"Như Lai, này chư tỳ khưu, trong khi cũng là Arahat, là
Toàn Giác, là bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác, là người
công bố Con Đường chưa được
công bố, là người thấu đạt
Con Đường, là người tận tường
hiểu biết Con Đường, là người
thuần thục kinh nghiệm, vẹn toàn
trải qua Con Đường. Và giờ đây, các
đệ tử của
Như Lai là khách lữ hành bước
theo dấu chân của
Như Lai. Đó là sự khác biệt, này chư tỳ khưu, là những điểm đặc thù
phân biệt Như Lai, cũng là Arahat (
A La Hán), là bậc
Toàn Giác, với hàng
đệ tử, những người đã
thành đạt giải thoát bằng
trí tuệ minh sát. [34]"
Đặc Điểm Nổi Bật Của Giáo Pháp (Dhamma)Không có những hóc hẻm
đen tối của
si mê, không có những mạng nhện đầy
bí hiểm, không có những gian phòng mịt mù khói tỏa bao trùm
bí ẩn, không có "giáo lý bí truyền", không có những
tín điều được dấu nhẹm, trong
giáo huấn của
Đức Phật, vốn được rộng mở
sáng tỏ như ban ngày và
trong suốt như
thủy tinh. "Giáo pháp và
giới luật mà
Đức Phật công bố sáng chói tỏ rạng khi được
mở rộng, không phải lúc bị
che đậy, giống như
mặt trời và
mặt trăng, tỏ rạng khi trời quang mây tạnh và
lu mờ lúc bị mây che án."
Đức Bổn Sư
không chấp nhận lối
giáo huấn bao gồm "Mật nghĩa". Ngài dạy, "Mật nghĩa là dấu hiệu của những
giáo lý giả mạo."
Ngỏ lời cùng Đức Ànanda
Đức Bổn Sư
tỏ bày như sau: "Này Ànanda,
Như Lai truyền dạy
Giáo Pháp mà không có sự
phân biệt nào giữa
giáo lý công truyền và
giáo lý bí truyền; vì
tôn trọng chân lý, này Ànanda,
Như Lai không bao giờ làm những việc như có bàn tay nắm lại của một ông thầy còn giấu lại một vài
bí ẩn chánh yếu, không truyền hết cho học trò. [35]"
Một vị
Phật quả thật
vô cùng hiếm hoi, nhưng không phải là
xa lạ trong lịch sử nhân loại. Ngài không dành cho riêng mình sự
giác ngộ tối thượng. Đối với người
Phật tử, một
quan điểm tương tợ thật là
vô nghĩa và đáng gạc bỏ qua một bên, và đối với
Đức Phật đó là một
ước vọng rõ ràng không thể
quan niệm được. Với
tâm từ và
tâm bi,
Đức Phật ban truyền những lời dạy mà không giữ lại
pháp môn nào
cần thiết để
giải thoát con người ra khỏi xiềng xích của vòng
luân hồi (samsàra), cuộc đi
bất định triền miên lặp đi lặp lại.
Giáo huấn của
Đức Phật từ đầu đến cuối được rộng mở cho tất cả những ai có mắt để thấy và có tâm để
hiểu biết.
Phật Giáo không bao giờ đưa họng súng hay dùng gươm đao để
áp bức,
cưỡng bách ai. Người
Phật tử không bao giờ
ép buộc người khác theo
tôn giáo mình.
Phương pháp cưỡng chế không bao giờ
thích nghi đối với
Đức Phật.
Đề cập đến
lòng bi mẫn của
Đức Phật, H. Fielding Hall viết trong quyển "The Soul of a People": "Không bao giờ có thể có một cuộc chiến tranh
Phật Giáo. Không
quốc gia xâm lăng nào
mục kích lòng hăng say chiến đấu của những người
Phật tử; không người nào bị
sát hại, đổ máu giữa nhà, vì kẻ sát nhân lấy
danh nghĩa của
Đức Phật. Ngài, và
niềm tin nơi Ngài không hề mang một vết máu. Ngài hoằng dương một
giáo lý đem lại
An Lành Vĩ Đại,
tình thương,
lòng từ ái, bi mẫn, và lời dạy của Ngài
trong sáng rõ rệt đến độ không bao giờ có thể nhầm lẫn."
Trong khi
truyền bá Giáo Pháp (Dhamma)
Đức Phật không có bất
luận sự phân biệt nào giữa hàng
môn đệ, không bao giờ chọn riêng vị
đệ tử nào để ban
ân huệ, không bao giờ có
tình trạng thiên vị. Giữa các
môn đệ Ngài, là những vị đã
đắc Quả A La Hán, đã tận diệt
ô nhiễm và đã phá tan mọi
thằng thúc cột trói
chúng sanh vào một kiếp
sinh tồn mới, các vị ấy đã tiến
đạt đến mức
thanh tịnh tuyệt đỉnh,
trong sạch như nhau.
Tuy nhiên có vài vị, vì
đặc biệt lỗi lạc hơn trên
phương diện trí tuệ hay
thực hành nào, và nhờ đó được
ưu đãi hơn về mặt
tinh thần, như được
huynh đệ trọng vọng hơn; nhưng
Đức Bổn Sư không bao giờ ban bố
đặc ân cho vị nào mà xem tất cả như nhau. Như Ngài Upàli chẳng hạn,
xuất thân từ một
gia đình thợ cạo, được
Đức Bổn Sư
giao phó nhiệm vụ Tăng Trưởng trong những
vấn đề giới luật (vinaya), thay vì
chỉ định những vị
A La Hán khác mà trước kia thuộc dòng
quý phái và chiến sĩ (kshatriya). Hai Ngài Sàriputta và Mahà Moggallàna, sanh trưởng trong
gia đình bà la môn, là hai vị
đại đệ tử của
Đức Phật, vì đó là nguyện vọng của các Ngài từ trong nhiều
tiền kiếp xa xôi. Ngài Sàriputta (
Xá Lợi Phất)
ưu tú về
trí tuệ (pannà), còn Ngài Moggallàna (
Mục Kiền Liên), về
thần thông (iddhi).
Đức Phật không bao giờ muốn rút tỉa nơi hàng
tín đồ một
đức tin mù quáng và quỳ lụy phục tùng Ngài hay
giáo lý của ngài. Ngài luôn luôn đặt nặng
công trình quán xét phân biện và khảo sát
sáng suốt. Với những lời lẽ
quả quyết, trong một thời Pháp mà về sau được gọi rất đúng là
hiến chương đầu tiên về
tự do tư tưởng, Ngài mạnh mẽ khuyến khích người Kàlàmas nên
sáng suốt quán xét.
Vội vã
chấp nhận bất luận điều gì rồi đặt
niềm tin vào đó
quả thật không nằm trong
tinh thần Phật Giáo, và ta có thể
nhận thức điểm này
xuyên qua cuộc
đàm thoại giữa
Đức Thế Tôn và một số
đệ tử: "Nếu bây giờ , biết và chấp giữ
tin chắc điều này, các con có nói chăng rằng, 'Chúng ta tôn vinh
Đức Bổn Sư, vì
quý trọng Ngài
chúng ta tôn kính những lời dạy của Ngài?' 'Bạch
Đức Thế Tôn, các con không nói như vậy.' 'Điều nào mà các con
xác nhận, này chư
đệ tử, có phải vì chính tự các con đã
nhận thức, trông thấy
rõ ràng và nắm vững điều ấy không?' 'Đúng vậy, Bạch hóa
Đức Thế Tôn.'" [36]
Đức Phật đối diện với những
sự kiện và từ chối không
thừa nhận hoặc tán thành điều gì không
phù hợp với
chân lý. Ngài không muốn
chúng ta chấp nhận bất cứ gì một cách
mù quáng, không
suy xét trước. Ngài muốn
chúng ta thông hiểu sự vật đúng như sự vật là vậy, tập trung mọi
cố gắng cần thiết và
gia công chú niệm nhằm
thành đạt giải thoát.
"Các con phải chuyên cần tinh tấn Các đấng Như Lai chỉ là người vạch ra con đường." [37]
"Các con hãy tự mình cải thiện, tự vươn lên, Và mở lòng đón nhận giáo huấn của Đức Phật. Hãy rung chuyển đạo binh của tử thần, Như thớt tượng rung chuyển một mái chòi tranh." [38]
Lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới Đức Phật dạy rằng không nên tìm
giải thoát bằng cách
tùy thuộc nơi một đấng
cứu thế, dầu vị ấy là người hay
thần linh.
Ý niệm chủ trương rằng có ai đó
nâng đỡ con người từ thấp lên một tầng lớp cao hơn
trong đời sống, và rốt cùng
cứu thoát luôn, có chiều hướng làm cho
con người trở nên lười biếng và
yếu hèn,
suy nhược, và cuồng si.
Tin tưởng như vậy là hạ thấp
giá trị con người và làm ngộp tắt mọi
tia sáng phẩm cách phát sanh từ
đời sống đạo đức.
Bậc
Toàn Giác kêu gọi hàng
tín đồ nên tự tin, tự nương tựa nơi chính mình, không
ỷ lại nơi ai khác. Người khác có thể
gián tiếp đưa đến ta một cánh tay hỗ trợ, nhưng
trạng thái siêu thoát ra khỏi mọi khổ đau phải được mỗi người tự mình
trau chuốt cho mình và
gia công chuyên cần, đập đẽo, gọt giũa trên hòn đe, bằng
chính hành động của mình.
Thanh Tịnh Thật SựĐể
hiểu biết tận tường sự vật,
niềm tin và lòng kinh sợ không có một
vai trò nào trong
tư tưởng người
Phật tử.
Chân lý của
Giáo Pháp (Dhamma) chỉ có thể
thành đạt bằng
trí tuệ minh mẫn, không bao giờ bằng
đức tin mù quáng hay bằng cách sợ sệt một
chúng sanh, đã được hay không được biết.
Chẳng những
Đức Phật không tán thành
đức tin mù quáng và lòng kinh sợ một
Thần Linh toàn năng,
xem như điều ấy không
thích nghi để thấu đạt
chân lý, mà Ngài cũng
bác bỏ những
nghi thức tế lễ không bổ ích, bởi vì những
phương cách từ khước
kiêng cữ bề ngoài như nhịn đói, xuống sông tắm để gội rửa
tội lỗi, làm thịt thú để tế lễ
thần linh và những
nghi thức tương tợ không có chiều hướng thanh lọc
con người, không làm cho
con người trở nên
thánh thiện và cao quý. Sau đây là cuộc
đàm thoại giữa
Đức Phật và vị
bà la môn Sundarika Bhàradvàja: Lần nọ
Đức Thế Tôn ngỏ lời cùng chư vị tỳ khưu,
giải thích cặn kẻ như thế nào người mong tìm
giải thoát phải
tu tập, và sau đó Ngài dạy thêm rằng người mà
tâm không còn
mảy may ô nhiễm, người mà
cuộc đời trong sạch đã đến mức toàn hảo, người đã làm xong những gì
cần phải làm, người ấy có thể được gọi là tắm rửa
nội tâm.
Lúc bấy giờ Bhàradvàja, ngồi bên cạnh
Đức Phật, nghe như
vậy thì bạch hỏi:
"Đức Gotama có xuống tắm
dưới sông Bàhuka không?"
"Này Ông
Bà La Môn, tắm
dưới sông Bàhuka thì có
lợi ích gì? Con sông Bàhuka có thể làm gì cho ta?"
"Quả thật vậy, Bạch Đức
Tôn Giả Gotama, nhiều người
tin tưởng rằng sông Bàhuka rất
linh thiêng. Nhiều người đã xuống tắm
dưới sông Bàhuka để rửa sạch
tội lỗi (pàpa, hành động
bất thiện) của mình.
Đức Phật giải thích cho Bhàradvàja rằng tắm nước sông không thể gội rửa những bợn nhơ của
tội lỗi, và Ngài dạy ông:
"Này Ông
Bà La Môn, hãy tắm rửa nơi đây (tức trong
Giáo Pháp và
Giới Luật này), hãy ban bố
trạng thái châu toàn cho tất cả
chúng sanh. Nếu Ông không nói lời
giả dối, hoặc không
sát sanh hay không
trộm cắp, nếu Ông đáng được
tin cậy và không
xấu xa đê hèn thì đi tắm
dưới sông Gayà (tên một con sông ở
Ấn Độ vào thời
Đức Phật) có
lợi ích gì? Cái giếng nước của chính nhà Ông cũng là một con sông Gayà rồi." [39]
Vấn Đề Giai CấpGiai cấp là
vấn đề tối quan trọng đối với người
bà la môn Ấn Độ, nhưng đối với
Đức Phật thì
rõ ràng không đáng
lưu tâm đến. Ngài mạnh dạn
đả kích hệ thống phân chia đẳng cấp, xem đó là
đê hèn.
Giáo Hội Tăng Già gồm đủ người ở tất cả mọi tầng lớp
xã hội, giống như sông rạch khắp cùng đều tụ hội, tuông chảy về biển cả. Những vị này gác bỏ lại danh tánh,
giai cấp, đẳng cấp và
trở thành những thành viên của một
cộng đồng --
Tăng Già (Sangha).
Nói về tánh cách
bình đẳng của tất cả những thành viên trong
Giáo Hội Tăng Già Đức Phật dạy:
"Này chư tỳ khưu, cũng dường những ngọn sông to lớn như Gangà, Yamunà, Aciravati, Sarabhù và Mahì, khi đổ ra biển thì bỏ lại tên riêng và lý lịch của mình, rồi được xem là biển cả, cùng thế ấy, này chư tỳ khưu, từ
bốn giai cấp (vannas) ... những người ly gia cắt ái,
trở thành tu sĩ không nhà cửa trong
Giáo Pháp và
Giới Luật mà
Như Lai công bố, cũng mất đi danh tánh và lý lịch của họ và được xem là con dòng Sàkya (
Thích Ca)" (Udàna 55).
Quan điểm của người
Phật tử về
vấn đề chủng tộc và kỳ thị
chủng tộc đã được
tỏ bày rõ rệt.
Quan điểm ấy cũng được
phản ảnh trong chủ trương
đạo đức và khoa học của UNESCO trong thế kỷ
hiện đại (
Tuyên ngôn về
Chủng Tộc và
Thành Kiến Chủng Tộc, UNESCO 1978). [40]
Để
trả lời vị
bà la môn Sundarika Bhàradvàja, muốn
tìm hiểu dòng dõi Ngài,
Đức Phật nói:
"Ta không phải bà la môn, không phải hoàng tử, Không phải nông dân, hay gì khác. Tất cả đẳng cấp trong thế gian, ta đã biết, Nhưng đã biết, ta đi con đường của ta Chỉ giản dị là không ai hết. Không nhà cửa, trong bộ y người tu sĩ, Với đầu cạo trọc làm vương niệm, ta đi Đơn độc trên con đường của ta, tĩnh lặng Hỏi dòng dõi của ta là vô ích." [41]
Trong
trường hợp khác, một người
bà la môn có ý
phân chia đẳng cấp, mắng chưởi
Đức Phật là "bọn tăng lữ!", hạng "cùng đinh!"
Đức Bổn Sư không hề cảm nghe
ô nhục vì thế mà ôn tồn
giải đáp:
"Sự sanh trưởng không làm cho con người là cùng đinh, Không làm cho con người là bà la môn; Hành động làm cho người này là cùng đinh, Hành động làm cho người kia là bà la môn." -- Sutta-nipàta, v. 142.và Ngài
thuyết giảng trọn thời Pháp,
bài kinh Vasala Sutta (Sutta-nipàta)
giải thích cho vị
bà la môn từng
chi tiết những
đặc điểm của người thật sự là
cùng đinh (vasala). Được
cảm hóa, vị
bà la môn ngạo mạn xin
quy y với
Đức Phật (Xem "The Book of Protection, trang 91, cùng
Đại Đức tác giả).
Đức Phật thâu nhận vào
Giáo Hội một cách
tự do và
bình đẳng, những người đến với Ngài từ mọi
chủng tộc và mọi đẳng cấp, khi biết rằng người ấy có thể sống đời
thánh thiện, và vài người này đã trở nên
lỗi lạc.
Đức Phật là vị
giáo chủ duy nhất trong thời
hiện đại đã
cố gắng pha trộn lẫn nhau trong
tinh thần khoan dung và
thuận thảo, những người mà
nếu không, sẽ bị phân cách trong những tầng
giai cấp khác nhau.
Ngài Upàli, vị
Tăng Trưởng trong
vấn đề Vinaya --
giới luật của
Giáo Hội -- trước khi
xuất gia là một người thợ cạo, nghề sinh sống mà thời bấy giờ được xem là hạ cấp nhất. Sunìta, về sau
đắc Quả A La Hán, là người hốt rác, một nghề hạ tiện khác. Trong
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni có hai bà Punnà và Punnikà, cả hai là người
nô lệ. Theo Mrs. C.A.F. Rhys Davids, tám phần trăm rưởi (8 1/2%) trong số các vị tỳ khưu ni đã có
đủ khả năng chứng ngộ đạo quả là những người đã đến từ những
giai cấp hạ lưu, phần đông là thất học. [42]
Những Vị Đại Đệ TửRàjagaha (
Vương Xá), kinh đô của vương quốc Magadha (
Ma Kiệt Đà), là một trong những địa điểm được
Đức Phật quang lâm đến trước nhất sau khi
Thành Đạo. Khi còn là
đạo sĩ du phương, trong những ngày đầu tiên sau khi
xuất gia,
Đức Phật đã có
lời hứa với Vua Bimbisàra (
Bình Sa Vương) xứ Seniya rằng sau khi
viên mãn thành tựu mục tiêu Ngài sẽ
trở lại viếng Ràjagaha. Vua Bimbisàra
vui mừng không xiết kể khi gặp lại
Đức Phật. Sau khi
nghe được một thời Pháp vua liền xin
quy y. Lòng nhiệt thành
quý mến Đức Phật cao đến độ trong vài ngày vua dâng ngự uyển Veluvana lên
Đức Phật, để
thiết lập một ngôi chùa.
Vào thủa bấy giờ Ràjagaha là một
trung tâm văn hóa to lớn, nơi có nhiều
hệ thống triết học đang thời kỳ
dồi dào phong phú. Một trong các
hệ thống tư tưởng này do Sanjaya
lãnh đạo; và trong hàng
môn đệ của Sanjaya có hai, trong hai trăm năm mươi vị, là Upatissa và Kolita, mà về sau
trở thành Sàriputta (
Xá Lợi Phất) và Moggallàna (
Mục Kiền Liên), hai vị
đệ tử đứng hàng đầu của
Đức Phật. Một hôm nọ, khi Upatissa đang rão bước trên đường phố Ràjagaha thì chàng lấy làm cảm kích trước
phong độ thanh nhã,
trầm lặng và phẩm cách cao quý của vị
đệ tử đầu tiên của
Đức Phật, Ngài
A La Hán Assaji (
A Tư Đà),
lúc ấy đang đi trì bình.
Tất cả
tâm thành, tất cả những
công phu mà từ nhiều kiếp sống Upatissa đã
kiên trì gia công để
thành tựu viên mãn, giờ đây đã đến lúc thâu hoạch
thành quả. Upatissa không
trở về với thầy mình mà theo chân vị
A La Hán Assaji đến nơi Ngài ngồi lại nghỉ,
nóng lòng muốn biết Ngài học
giáo lý của ai và
giáo lý ấy như thế nào.
"Này
Đạo Hữu," Upatissa nói, "diện mạo của
Đạo Hữu thật là
trang nghiêm,
trầm lặng,
dung nhan của
Đạo Hữu trong suốt sáng ngời. Ai khuyến khích
Đạo Hữu từ bỏ thế gian? Ai là thầy của Đạo Hữu?
Đạo Hữu thực hành Giáo Pháp nào?" Ngài Assaji vốn người
ít nói, từ tốn
trả lời: "Sư không thể
giải thích dong dài
Giáo Pháp và
Giới Luật, nhưng có thể
vắn tắt tóm lược
ý nghĩa." Câu nói của Upatissa đáng được chú ý: "Đúng như vậy, này
Đạo Hữu,
nói nhiều hay ít cũng được, điều tôi muốn nghe chỉ là
ý nghĩa. Tại sao phải dùng nhiều lời?" Lúc bấy giờ vị
A La Hán Assaji nói lên một câu kệ
bao gồm toàn thể giáo lý nhân quả của
Đức Phật:
"Ye dhammà hetuppabhavà -- tesam hetum tathàgato àha Tesam ca yo nirodho -- Evam vàdi mahà samano."
"Về các pháp phát sanh do nhân, Như Lai đã chỉ dạy nhân ấy, (Phương pháp) để chấm dứt, Như Lai cũng chỉ dạy. Đó là giáo huấn của bậc Đại Sa Môn." -- Vinaya Mahàvagga
Trong tức khắc, Upatissa
lãnh hội ý nghĩa và
chứng đắc tầng Thánh đầu tiên,
thấu triệt "bất luận gì có bản chất của sự phát sanh, tất cả những gì có bản chất của sự chấm dứt" (yamkinci samudaya dhammam sabbam tam nirodha dhammam).
Lòng
vui mừng khấp khởi, Upatissa mau mau về tìm bạn, Kolita, để thuật rõ cuộc gặp gở vị
A La Hán và
giáo huấn được thọ nhận. Kolita cũng vậy, tức khắc
chứng đắc tầng Thánh đầu tiên khi nghe Upatissa lặp lại
Giáo Pháp. Rồi cả hai cùng nhau đến gặp Sanjaya thầy mình, khuyên thầy theo về
Đức Phật. Nhưng Sanjaya từ chối vì sợ mất tiếng
đạo sư. Upatissa và Kolita liền từ giả thầy, đến
Tịnh Xá Veluvana (
Trúc Lâm) xin
xuất gia với
Đức Phật.
Đức Phật hoan hỷ đón mừng với lời kêu gọi, "Hãy lại đây, này tỳ khưu,
Giáo Pháp đã được
công bố đầy đủ. Hãy sống đời
thánh thiện để
trọn vẹn chấm dứt đau khổ (dukkha)," và
chấp nhận hai vị vào
Giáo Hội. Về sau hai Ngài
thành tựu giải thoát và trở nên hai vị
đứng đầu trong hàng
đệ tử Phật.
Một nhân vật quan trọng khác được thâu nhận vào
Giáo Hội trong lúc
Đức Phật lưu ngự tại Veluvana là vị
bà la môn hiền triết Mahà Kassapa (
Ma Ha Ca Diếp). Ngài
từ bỏ một
sự nghiệp đồ sộ để tìm
giải thoát. Chính Ngài
Đại Đức Mahà Kassapa, ba tháng sau khi
Đức Phật nhập
Đại Niết Bàn (parinibbàna), đã
triệu tập cuộc họp chư vị
A La Hán (
Kết Tập Tam Tạng Lần Thứ Nhất), tại Động Sattapanni gần Ràjagaha, dưới sự
bảo trợ của Vua Ajàtasattu (
A Xà Thế), để thu thập và
kết tập Giáo Pháp và
Giới Luật.
Giáo Hội Chư Tỳ Khưu NiTrong những ngày đầu tiên, chỉ có người nam mới được
chấp nhận vào
Giáo Hội Tăng Già (Sangha) vì
Đức Phật không sẵn sàng thâu nhận
nữ giới.
Tuy nhiên trong hàng
thiện tín, phái nữ có nhiều người
tâm đạo nhiệt thành,
hết lòng mong muốn sống đời
xuất gia.
Lòng thành thật khẩn khoản mong cầu ấy thúc giục Bà Pajàpati Gotami,
kế mẫu của
Đức Phật, cùng một nhóm nhiều vị mạng phụ
phu nhân đến kính
cẩn bạch Phật xin cho người
phụ nữ được
xuất gia. Nhưng
Đức Phật còn
do dự.
Nhận thấy nỗi băn khoăn
thất vọng và nhiệt tâm của các bà, Đức Ànanda đứng ra
ủng hộ, khẩn khoản
thỉnh cầu Đức Phật.
Cuối cùng Đức Phật chấp thuận, nhưng
ban hành tám
giới căn bản cho hàng
phụ nữ xuất gia.
Như vậy, lần đầu tiên
trong lịch sử,
Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunì Sàsana) được
thành lập vào năm thứ năm sau khi
Đức Phật Thành Đạo, trước đó
chưa bao giờ có một
Giáo Hội để cho hàng
phụ nữ có thể
xuất gia sống
độc thân. Từ mọi tầng lớp
trong đời sống,
mọi người phụ nữ đều có thể
gia nhập Giáo Hội. Đứng hàng đầu là hai vị Khemà và Uppalavannà.
Đời sống của một số đông các vị tỳ khưu ni cao quý ấy, mức độ
gia công chuyên cần của các bà nhằm
thành đạt mục tiêu cứu cánh và những
bài kệ khải hoàn mà các bà
hoan hỷ đọc lên khi tâm
được giải thoát, đã được
mô tả một
cách sống động trong những bài Thánh Thi của chư Tỳ Khưu Ni (Therigàthà).
Tại Kapilavatthu
Trong khi lưu ngự tại Ràjagaha,
Đức Thế Tôn hay tin vua cha mong muốn được Ngài
trở về thăm, nên
lên đường về Kapilavatthu (
Ca Tỳ La Vệ).
Tuy nhiên, Ngài không đi ngay vào
hoàng cung mà, theo lệ thường, dừng chân nghỉ trong một cái động phía ngoài thành. Ngày hôm sau, tay mang bát, Ngài đi từ nhà này sang nhà kia trên đường phố Kapilavatthu. Vua Suddhodana (
Tịnh Phạn) nghe biết vậy lấy làm
kinh ngạc, vội vã đến gặp
Đức Phật và bảo: "Bạch
Đức Thế Tôn, tại sao Ngài làm nhục nhã
hoàng tộc như vậy? Tại sao Ngài lại đi
khất thực như vậy? Trong
dòng dõi chúng ta chưa có ai từng đi
xin ăn như thế."
Đức Phật trả lời: "Tâu
Đại Vương,
Đại Vương và những người trong
hoàng tộc có thể xưng là con cháu dòng vua.
Như Lai thuộc về
dòng dõi của chư Phật từ ngàn xưa, và chư Phật
khất thực, chỉ sống nhờ vật thực đi bát."
Rồi
giải thích Giáo Pháp,
Đức Bổn Sư nói, "Hãy
thức tỉnh, luôn luôn chú niệm và có cuộc sống chân chánh. Hãy chân chánh sống
hạnh phúc trong
thế gian này và
thế gian sau này." Đức vua
kiên cố vững bước trên
Con Đường và
chứng ngộ Giáo Pháp. Lúc bấy giờ vua cung thỉnh
Đức Phật về
hoàng cung, nơi đây tất cả
hoàng thân đều ra đón mừng và
đảnh lễ Ngài, ngoại trừ
Công Chúa Yasodharà. Ngài đến với bà. Bà phủ phục
đảnh lễ dưới chân Ngài. Rồi
Đức Phật thuật
câu chuyện Túc Sanh Truyện Candakinnara Jàtaka [43] kể lại những phẩm hạnh của bà cao cả như thế nào trong kiếp sống ấy, và hướng dẫn bà vào
Giáo Pháp.
Về sau, khi
Đức Phật được cung thỉnh
thành lập Giáo Hội dành cho
nữ giới, bà
trở thành một trong những vị tỳ khưu ni đầu tiên, rồi
chứng ngộ Đạo Quả A La Hán, tầng Thánh cao nhất.
Khi
Đức Phật vào đến
hoàng cung,
Công Chúa Yasodharà
ăn mặc chỉnh tề cho con là Ràhula (
La Hầu La), rồi chỉ
Đức Phật và nói, "Kìa là
cha con, này Ràhula, hãy đến cha và xin cái
gia tài của con."
Hoàng Tử Ràhula đi đến
Đức Phật, đứng
trước mặt Ngài và bạch: "Quả thật
mát mẻ, này bậc
Sa Môn, cái bóng của Ngài
quả thật mát mẻ dễ chịu."
Khi
Đức Phật độ thực xong và rời
hoàng cung Hoàng Tử Ràhula
đi theo Ngài xin, "Xin Ngài trao lại cho con phần
di sản của con." Lúc bấy giờ
Đức Phật nói với vị
đại đức A La Hán Sàriputta, "Như vậy, này Sàriputta, hãy đưa Ràhula vào
Giáo Hội."
Đức Sàriputta làm
lễ xuất gia cho Ràhula [44]. Bộ Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, một trong năm bộ
A Hàm của
Tạng Kinh trong
kinh điển Pali, có ba
bài kinh (số 61, 62, 147) tựa đề Ràhulovàda hay những
lời khuyên dạy Ràhula do
Đức Phật thuyết giảng cho
sa di Ràhula. Ba thời kinh này
hoàn toàn khuyên dạy về
giới luật và
pháp hành thiền. Sau đây là một đoạn được trích từ Kinh Mahà Ràhulovàda Sutta [45]:
"Hãy trau giồi pháp
niệm tâm từ (mettà), này Ràhula; bởi vì
tâm từ được trau giồi sẽ diệt
sân hận. Hãy trau giồi pháp
niệm tâm bi (karunà), này Ràhula, bởi vì
tâm bi được trau giồi sẽ diệt tánh hung bạo. Hãy trau giồi pháp
niệm tâm hỷ (mudità), này Ràhula, bởi vì
tâm hỷ được trau giồi sẽ diệt lòng
ganh tỵ. Hãy trau giồi pháp
niệm tâm xả (upekhà), này Ràhula, bởi vì tâm xả được trau giồi sẽ diệt thù hận. Hãy trau giồi pháp
niệm thân bất tịnh (asubha), này Ràhula, bởi vì
niệm thân ô trược sẽ diệt tâm
tham ái. Hãy trau giồi pháp niệm
lý vô thường (anicca-sannà), này Ràhula, bởi vì
niệm vô thường sẽ diệt
kiêu căng ngã mạn (asmi-màna). Hãy trau giồi pháp niệm hơi thở-vô-thở-ra (ànàpàna sati), này Ràhula, thở-vô-thở-ra với chú niệm, này Ràhula, được trau giồi và
thường xuyên thực hành, sẽ đem lại nhiều
thành quả tốt đẹp, rất
lợi ích."
Nữ Giới Trong Phật GiáoNhìn tổng quát, vào thời
Đức Phật, do
ảnh hưởng của
Hồi Giáo, pháp quyền của người
phụ nữ không mấy được
thừa nhận, đôi khi cũng bị khinh khi và làm
nô lệ cho đàn ông. Chính
Đức Phật nâng cao phẩm giá của
nữ giới và có nhiều
trường hợp cho thấy rằng người
phụ nữ rất
uyên thâm trong
vấn đề triết học. Ngài
mở rộng tâm từ,
tâm bi, luôn luôn
tôn trọng nữ giới và chỉ dạy cho hàng
phụ nữ con đường đưa đến
thanh bình an lạc,
trong sạch và
thánh thiện.
Đức Thế Tôn nói: "Mẹ là bạn lành trong
gia đình. Vợ là người bạn cao quý nhất của chồng."
Đức Phật không từ chối lời cung thỉnh
trai tăng của Ambapàli
mặc dầu bà
mang tiếng xấu [46]. Dù
thức ăn mà bà dâng lên Ngài như thế nào, Ngài
chấp nhận, và trả lại, Ngài ban truyền cho bà
Pháp Bảo (dhammadàna), quà tặng
chân lý. Trong tức khắc, lời dạy của Ngài
cảm hóa bà và,
từ bỏ cuộc sống không
chánh đáng trong
thế tục, bà xin
gia nhập Giáo Hội chư Tỳ Khưu Ni. Nhiệt thành với
đạo pháp và
tinh tấn chuyên cần thực hành, bà sớm
chứng ngộ Thánh Quả.
Bà Kisàgotami là một thiếu phụ khác đã được
tâm bi vô lượng của
Đức Phật chiếu cố đến.
Câu chuyện của bà là một trong những mẫu chuyện cảm kích nhất được ghi chép trong
kinh điển. (Xin xem chương 12, "Người
Phụ Nữ Trong
Văn Học Phật Giáo"). Nhiều
thí dụ khác cho thấy
Đức Phật giúp đỡ và
an ủi những người
phụ nữ đau khổ trong cuộc sống
thăng trầm.
Chăm Sóc Người BịnhLòng bi mẫn của
Đức Bổn Sư đối với người bệnh
quả thật không bờ bến. Một hôm
Đức Thế Tôn thấy một vị sư bịnh,
Đại Đức Pùtigatta Tissa, trăn trở trên giường đầy những đớm vấy bẩn vì một ung nhọt lở loét. Tức thì Ngài đun nước nóng, và cùng với Ngài Ànanda, tự chính tay
dịu dàng săn sóc, rửa sạch ung nhọt, và truyền dạy
Giáo Pháp, giúp cho sư
đắc Quả A La Hán trước khi
viên tịch. Trong một
trường hợp khác, Ngài chăm sóc một vị sư bịnh và dạy hàng
môn đệ như sau:
"Bất luận ai
hết lòng chăm sóc người bịnh, này chư tỳ khưu, là hành theo lời dạy của
Như Lai (cũng như chăm sóc
Như Lai, tôn vinh
Như Lai) [47].
Khi vị
A La Hán Tissa
viên tịch,
nghi lễ hỏa táng được
thực hành đầy đủ và
Đức Phật dạy đem
xá lợi Ngài tôn trí trong một
bảo tháp [48].
Tâm từ (mettà) của
Đức Phật bao trùm cùng khắp
càn khôn vũ trụ và
vô lượng vô biên. Lời kêu gọi khẩn thiết của Ngài đến hàng
môn đệ là:
"Cũng giống như bà từ mẫu tâng tiu bảo bọc con, Người con duy nhất của bà, Dầu có hy sinh mạng sống cũng vui lòng, Dường thế ấy, Tâm từ của các con phải bao trùm tất cả sanh linh." [49]
Hành động của Ngài luôn luôn
nhất trí với những điều Ngài dạy, lúc nào cũng
thấm nhuần từ ái và bi mẫn.
Trong khi
du hành từ làng này sang làng khác,
từ thị trấn nọ đến thành phố kia, để
giáo huấn,
giác tỉnh và đem
hạnh phúc đến cho nhiều người,
Đức Phật nhận thấy trong dân gian những hạng người
dị đoan mê tín, những người đã lún sâu dưới lớp bùn
vô minh,
sát sanh hại vật để tế lễ
thần linh. Ngài nói với họ:
"Sự sống, tất cả mọi người đều có thể cướp Nhưng không ai có thể cho, Đời sống quả thật kỳ diệu, thân ái và dễ mến, Đối với mọi người, Chí đến (sự sống của) người xấu số nhất ..." [50]
Như vậy, trong khi
con người van vái
thần linh để được
thương xót, chính họ lại không
đoái thương loài
cầm thú, trong khi xứ
Ấn Độ bị hoen ố vì tập tục
hy sinh những con thú vô tội, đặt trên
bàn thờ để tế lễ những
thần linh tưởng tượng, trong khi
nghi thức tế lễ của những
vị đạo sĩ và những vị
bà la môn đem lại
tai ương và
đau khổ tàn bạo, thì
Đức Phật Đại Từ Đại Bi chỉ dạy
Con Đường Cũ Xa Xưa của các bậc
Toàn Giác, của
lối sống chân chánh, của
tình thương và của tâm
hiểu biết lẫn nhau.
Mettà, hay
tâm từ, là phương
thuốc giải độc công hiệu nhất để
đối trị lòng
sân hận bên trong
chúng ta.
Tâm từ cũng là món
thần dược công hiệu nhất để
đối trị lòng
sân hận của người khác đối với
chúng ta. Hãy
nới rộng tình thương, tung rải đến tất cả những ai cần, với tâm
tự do và
vô lượng.
Ngôn ngữ của tâm,
ngôn ngữ xuất phát từ tấm
lòng chân thật lúc nào cũng
đơn giản, dịu hiền và đầy
năng lực.
Tâm Xả Và Trầm LặngGiữa những
thăng trầm của cuộc sống -- được và thua,
danh thơm và
tiếng xấu,
tán dương và khiển trách,
hạnh phúc và
đau khổ --
Đức Phật không bao giờ lay chuyển. Ngài
vững chắc như một tảng đá
kiên cố. Trong
hạnh phúc hay trong
đau khổ, Ngài không phấn khởi cũng không để
tinh thần sút kém. Ngài không bao giờ khuyến khích cãi vã
ồn ào hay
ác cảm thù hận. Có lần Ngài nói với các vị tỳ khưu: "Như Lai không cãi vã với
thế gian, chính
thế gian cãi vã với
Như Lai. Người đi trên
con đường của
Giáo Pháp (Dhamma) không cãi vã với bất luận ai trong
thế gian." [51]
Ngài dạy chư vị
đệ tử với những lời lẽ như sau:
"Như voi chiến lâm trận địa, hứng lãnh lằn tên mũi đạn, cùng thế ấy, Như Lai sẽ chịu đựng lời nguyền rủa và bất thân thiện của kẻ khác." [52]
Devadatta
Một
thí dụ điển hình về
thái độ tinh thần của
Đức Phật được thấy rõ rệt trong mối
liên hệ của Ngài đối với Devadatta (
Đề Bà Đạt Đa). Devadatta là em họ của
Đức Phật, có
gia nhập vào
Giáo Hội và
chứng đắc nhiều
thần thông tại thế (puthujjana-iddhi). Nhưng về sau, vì mãi ôm ấp trong lòng
tham vọng nắm quyền
lãnh đạo Tăng Già (sangha), ông bắt đầu sanh tâm
ganh tỵ và
ác cảm đối với
Đức Phật và hai vị
đại đệ tử, Sàriputta và Moggallàna.
Devadatta khéo léo lấy được lòng, và trở nên người
thân tín của Hoàng Tử Ajàtasattu (
A Xà Thế), con Vua Bimbisàra (
Bình Sa Vương). Ngày nọ, khi
Đức Thế Tôn ngự tại
Tịnh Xá Veluvana (
Trúc Lâm) cùng với một nhóm tỳ khưu, có cả vua
hiện diện, Devadatta
đến gần Đức Phật,
đảnh lễ và bạch: "Bạch
Đức Thế Tôn,
đến nay thì Ngài đã già yếu. Kính xin
Đức Bổn Sư hãy an
nghĩ thanh nhàn, khỏi phải
lo lắng mệt nhọc. Con sẽ đứng ra
dìu dắt Giáo Hội."
Đức Phật bác bỏ lời
thỉnh cầu, và Devadatta tức giận ra về, lòng
bồi hồi nuôi dưỡng thù hận và
ác cảm với
Đức Thế Tôn. Với
ác ý cố tình chia rẽ, ông đến với Hoàng Tử Ajàtasattu và khơi dậy nơi hoàng tử ngọn lửa
tham vọng tai hại. Ông xúi giục:
"Này hởi Hoàng Tử trẻ tuổi, nếu giờ đây Hoàng Tử không hạ sát vua cha để chiếm ngôi báu thì đến chết Ngài cũng chưa được làm vua. Phần tôi, sẽ giết
Đức Phật và
trở thành Giáo Chủ."
Do đó Ajàtasattu giết vua cha và
lên ngôi. Devadatta thuê mướn bọn hung tàn
ám sát Đức Phật, nhưng thất bại. Chính ông lăn đá từ đỉnh cao xuống, ngay lúc
Đức Phật đang trèo lên ngọn núi Gijjhakùta trong thành Ràjagaha (
Vương Xá). Đá lăn nhanh xuống, bể ra làm hai và một mảnh vụn làm
tổn thương Đức Thế Tôn. Về sau Devadatta cho voi uống rượu rồi chạy sả vào tấn
công Đức Phật, nhưng
Đức Phật lấy
tâm từ cảm hóa, và voi say khấu đầu quỳ lạy dưới chân Ngài. Kế đó Devadatta lại
âm mưu chia rẽ
Tăng Già, nhưng mối
bất hòa giữa
chư tăng không kéo dài. Bị thất bại từ
âm mưu này đến
âm mưu khác Devadatta về già
trở thành người thất chí và
suy nhược. Sau khi ngã bịnh, trên giường bịnh ông sớm
ăn năn hối hận về những điên rồ của mình, ngõ lời muốn đến hầu Phật. Nhưng
ước vọng ấy không
thành tựu; bởi vì khi được khiêng đi
dọc đường thì ông qua đời. Dầu sao, trước khi chết ông thốt ra những lời
hối tiếc và mong tìm nương tựa nơi
Đức Phật. [53]
Những Ngày Cuối CùngKinh Mahà Parinibbàna Sutta (
Kinh Đại Niết Bàn) [54],
bài kinh đề cập đến cảnh
Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, có tường thuật với nhiều
chi tiết rất
cảm động, tất cả những diễn biến xảy ra trong những ngày tháng
cuối cùng của
Đức Phật.
Giờ đây
Đức Thế Tôn đã tám mươi tuổi thọ; hai vị
đại đệ tử Sàriputta và Mahà Moggallàna, đã
viên tịch được ba tháng. Hai bà Pajàpati Gotami và Yasodharà cùng với
Đại Đức Ràhula cũng không còn.
Lúc bấy giờ
Đức Phật ngự tại Vesàli, và mùa mưa sắp đến. Ngài cùng một nhóm đông tỳ khưu đi Beluva để
an cư kiết hạ. Một cơn bệnh
trầm trọng làm cho Ngài
đau đớn vô cùng nhưng
Đức Thế Tôn, luôn luôn
giác tỉnh chú niệm và tự làm chủ lấy mình, vẫn
trầm tĩnh nhẫn nại
chịu đựng. Ngài đã gần đến lúc
lâm chung nhưng cảm nghe không nên
viên tịch mà không có lời nào
giả từ Giáo Hội. Do đó, Ngài
cố gắng vận
dụng ý chí đè nén cơn đau, và bám lấy sự sống. Bịnh
dần dần thuyên giảm. Khi đã
bình phục lại như thường Ngài gọi Đức Ànanda, vị
thị giả thân tín, và bảo:
Này Ànanda, nay
Như Lai đã niên cao tuổi lớn, cuộc
hành trình của
Như Lai đã đến mức tận cùng.
Như Lai đã
trải qua suốt
cuộc đời, giờ đây đã tám mươi tuổi thọ; và cũng như chiếc xe quá
cũ kỹ, này Ànanda, chỉ có thể xử dụng được nếu ta
hết sức thận trọng gìn giữ, cùng thế ấy, cơ thể của
Như Lai chỉ có thể
hoạt động nếu được
bồi bổ với nhiều
ý chí. Chỉ khi
Như Lai ngưng hẳn, không
lo nghĩ việc ngoài đời và
không kinh nghiệm những
cảm xúc của
thế gian, tiến đến
tâm định không dấu hiệu (animita), và sống trong
trạng thái ấy -- chí đến chừng ấy thân của
Như Lai mới
thoải mái dễ chịu.
"
Như vậy, này Ànanda, hãy lấy chính con làm hải đảo của con. Chính con làm nương tựa cho con. Không nên ỷ lại nơi ai khác để làm chỗ nương tựa. Hãy bám sát
Giáo Pháp như một
hải đảo. Hãy bám sát
Giáo Pháp như chỗ nương tựa. Không
trông cậy nơi ai để làm chỗ nương tựa. Bất luận ai, này Ànanda, dầu trong
hiện tại hay sau khi
Như Lai viên tịch, lấy chính mình làm
hải đảo cho mình, không còn phải nương tựa nơi nào ở
ngoại cảnh -- chính những người ấy trong nhóm
môn đệ của
Như Lai, này Ànanda, sẽ tiến
đạt đến mức cao tuyệt đỉnh! Nhưng những người ấy phải tận lực
gia công để
tiến hóa."
Từ Beluva
Đức Phật đi đến Mahavana. Nơi đây Ngài
triệu tập tất cả quý vị tỳ khưu
lúc ấy cư ngụ trong vùng Vesàli, và khuyên dạy: "Này chư
môn đệ,
Giáo Pháp mà
Như Lai chứng ngộ,
Như Lai đã làm cho các con
chứng ngộ. Các con hãy
vững vàng làm chủ
Giáo Pháp, hãy
thực hành,
quán niệm Giáo Pháp và
truyền bá hoằng dương; vì
lòng bi mẫn thương xót thế gian, vì sự
tốt đẹp,
vì lợi ích và
hạnh phúc của
chư thiên và
nhân loại."
Và
Đức Phật kết thúc lời kêu gọi:
"Tuổi thọ của
Như Lai đã cao,
đời sống của
Như Lai đã đến mức tận cùng; từ giả các con,
Như Lai ra đi, chỉ
trông cậy nơi
một mình chính Như Lai! Hãy
chuyên cần, này chư
môn đệ,
nuôi dưỡng tràn đầy những
tư tưởng thánh thiện! Hãy
quyết tâm vững chắc! Hãy
theo dõi canh phòng tâm! Kẻ nào không
chán ngán mệt mỏi mà bám sát nắm vững
Giáo Pháp và
Giới Luật sẽ
vượt qua biển
trầm luân của
đời sống,
chấm dứt sầu muộn."
Đức Thế Tôn giờ đây đã
suy yếu bịnh hoạn, chân mỏi gối dùn,
tiếp tục cuộc
hành trình một cách khó khăn,
theo sau có Đức Ànanda và đông đảo chư tỳ khưu. Chí đến trong chuyến đi dài dẳng và cam go
cuối cùng này,
Đức Phật cũng không bao giờ ngừng chăm lo kẻ khác. Ngài khuyên dạy người thợ rèn Cunda, đã dâng cúng buổi cơm
cuối cùng, rồi trên đường đi, dừng bước để
giáo hóa Pukkusa, một
đệ tử của Àlàra Kàlama, giải tỏa những thắc mắc của ông, và truyền dạy
Giáo Pháp. Pukkusa xin theo về nương tựa nơi Phật, Pháp, Tăng.
Đức Thế Tôn giờ đây đã đến Rừng
Long Thọ (Sala Grove) của dòng Mallas, tại Kusinàrà (
Câu Thi Na) -- mức cùng của cuộc
hành trình. Biết rằng đây là nơi dừng chân
cuối cùng, Ngài bảo
Đại Đức Ànanda: "Như Lai đã
mệt mỏi, này Ànanda, và sẽ nằm. Con hãy trải cho
Như Lai chỗ nằm giữa hai cây song
long thọ, đầu về hướng Bắc."
Rồi Ngài
nằm nghiêng mình bên phải,
trầm lặng và
giác tỉnh chú niệm, chân này đặt trên chân kia. Ngõ lời với
Đại Đức Ànanda
Đức Thế Tôn truyền dạy:
"Những ai đã làm xong bổn phận lớn và nhỏ, những ai sống chân chánh, những ai đi
xuyên qua cuộc đời thích ứng với
giới luật -- chính những người ấy làm
vinh dự,
sùng bái và
tôn kính Như Lai, đấng
Toàn Thiện, với lòng kỉnh mộ xứng đáng nhất. Như vậy, này Ànanda, hãy
vững chắc thực hành những bổn phận lớn và nhỏ, sống chân chánh, và đi
xuyên qua cuộc đời thích ứng với
giới luật. Này Ànanda, con nên
tu tập như thế ấy."
Vị Đệ Tử Cuối CùngVào lúc bấy giờ tại Kusinàrà có một
đạo sĩ du phương tên Subhadda,
nghe tin Đức Phật sắp
nhập diệt thì vội vã đến khu Rừng
Long Thọ để nhờ
Đức Phật làm
sáng tỏ vài thắc mắc đã khuấy động tâm ông. Nhưng Ngài Ànanda không để cho Subhadda vào
mặc dầu ông cố
nài nỉ, vì không muốn
Đức Phật phải bận lòng vào giờ phút
cuối cùng.
Đức Thế Tôn nghe được. Ngài biết liền rằng Subhadda thật lòng muốn
tìm hiểu và biết rằng ông ta có
đủ khả năng lãnh hội lời dạy một cách dễ dàng. Ngài bảo cho Subhadda vào.
Hoài nghi của Subhadda là không biết các vị
lãnh đạo của những
hệ thống tư tưởng khác như Pùrana Kassapa, Nigantha Nàtaputta và những vị khác nữa có thật sự
hiểu biết chân lý không. Lúc bấy giờ
Đức Thế Tôn dạy:
"Trong bất luận
Giáo Pháp và
Giới Luật nào (dhamma-vinaya), này Subhadda, không có
Bát Chánh Đạo thì không có hạng
nhất đẳng sa môn, cũng không có
nhị đẳng,
tam đẳng hay
tứ đẳng sa môn [55]. Và trong bất luận
Giáo Pháp và
Giới Luật nào, này Subhadda, có
Bát Chánh Đạo thì cũng có hạng
nhất đẳng sa môn, cũng có hạng
nhị đẳng sa môn, hạng
tam đẳng và
tứ đẳng sa môn. Giờ đây, trong
Giáo Pháp và
Giới Luật này, Subhadda, có
Bát Chánh Đạo, và trong ấy cũng có những bậc
sa môn đã thật sự
chứng đắc bốn tầng thánh. Trong
hệ thống của những vị
lãnh đạo khác không có ai thật sự
chứng đắc thánh quả. Và trong
Giáo Pháp và
Giới Luật này, Subhadda, có những người sống chân chánh, như vậy
thế gian sẽ không
vắng bóng các bậc
A La Hán."
Nghe qua những
lời Phật dạy Subhadda càng
vững chắc niềm tin, xin
quy y Phật, Pháp và Tăng. Hơn nữa, ông xin được
xuất gia, và
Đức Phật dạy Ngài Ànanda
truyền giới và thâu nhận vào
Giáo Hội Tăng Già. Như vậy Subhadda
trở thành vị
đệ tử cuối cùng của
Đức Thế Tôn. Không bao lâu, nhờ nhiệt tâm
chuyên cần tinh tấn, Subhadda đắc tầng Thánh
cuối cùng,
Đạo Quả A La Hán.
Quang Cảnh Cuối CùngLúc bấy giờ
Đức Thế Tôn ngỏ lời khuyên dạy:
"Như Lai đã truyền dạy
Giáo Pháp, này Ànanda, mà không có sự
phân biệt giữa
giáo huấn bí truyền và
giáo huấn công truyền, bởi vì đối với
Chân Lý, Ànanda,
Như Lai không có gì giống như 'bàn tay nắm lại' của một vị thầy còn giấu học trò một vài
sở kiến chánh yếu nào.
"Này Ànanda, có thể vài người trong các con nghĩ rằng, 'Tiếng nói của
Đức Bổn Sư đã
chấm dứt.
Chúng ta không còn thầy giảng dạy.' Nhưng Ànanda, chúng con không nên suy tư như thế.
"Giáo Pháp và
Giới Luật (dhamma-vinaya) mà
Như Lai đã đặt để và
ban hành cho các con, sau khi
Như Lai nhập diệt, hãy nhận
Giáo Pháp và
Giới Luật ấy là thầy của chúng con. Này chư tỳ khưu, có thể vài người trong các con còn
hoài nghi về Phật, hay về Pháp, hay về
Con Đường (magga), hay về
Phương Pháp (patipadà). Hãy
tự do khảo sát và
tìm hiểu, này chư tỳ khưu. Không nên
ăn năn tự trách, nghĩ rằng: 'Khi còn diện
đối diện với thầy tại sao ta không nêu lên
vấn đề để được
Đức Thế Tôn giảng giải.'"
Khi
Đức Phật dạy như thế thì tất cả
chư Tăng đều
im lặng.
Lần thứ nhì và lần thứ ba
Đức Thế Tôn lặp lại, và
chư Tăng vẫn giữ
im lặng.
Đại Đức Ànanda bạch với
Đức Phật, "Quả thật
kỳ diệu,
Bạch Đức Thế Tôn,
quả thật tuyệt diệu! Đúng vậy, con nghĩ rằng trong
toàn thể chư tỳ khưu hội hợp tại đây không có vị nào còn
hoài nghi hay thắc mắc gì về
Đức Phật hay
Giáo Pháp hoặc
Con Đường hoặc
Phương Pháp."
Đức Thế Tôn xác nhận lời của Ngài Ànanda và thêm rằng trong
toàn thể chư tỳ khưu hội hợp lúc bấy giờ, dầu người chậm trể nhất cũng
chắc chắn sẽ
được giải thoát cùng tột. Và không bao lâu sau đó
Đức Bổn Sư nói lên lời kêu gọi cùng tột đến những ai muốn
thực hành Giáo Huấn Ngài, trong
hiện tại và trong tương lai.
"Hãy lắng nghe đây, này chư tỳ khưu, Như Lai khuyên nhủ các con: tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tận lực chuyên cần chú niệm để thành đạt giải thoát" (vaya dhammà samkhàrà, appamàdena sampàdetha). [56]
Đó là
di huấn tối hậu của
Đức Phật. Rồi
Đức Bổn Sư
tuần tự nhập vào chín tầng Thiền (jhàna) càng lúc càng
tế nhị hơn:
trước tiên bốn Thiền Sắc Giới (rùpa-jhàna), rồi
bốn Thiền Vô Sắc Giới (arùpa-jhàna), và
cuối cùng trạng thái diệt thọ tưởng định (sannà-vedayita-nirodha). Từ đó Ngài
tuần tự trở xuống đến
Sơ Thiền Sắc Giới, rồi trở lên, nhập
trở lại Tứ Thiền (tầng Thiền được
mô tả là "trạng thái
thanh tịnh của
tâm chú niệm do nhờ
hoàn toàn xả")
Đức Phật nhập diệt (parinibbàna). [57]
Kinh Mahà Parinibbàna Sutta (
Kinh Đại Niết Bàn) có ghi chép, với nhiều
chi tiết rất
cảm động tất cả những diễn biến xảy ra trong những ngày
cuối cùng của
Đức Bổn Sư.
Trong lịch sử nhân loại không có người nào như
Đức Phật Tối Thượng, đã
cống hiến trọn
cuộc đời của mình để tạo
an lành hạnh phúc cho
toàn thể chúng sanh, bất kể
giai cấp, đẳng cấp,
chủng tộc hay
nam nữ. Từ giờ phút
chứng đắc Toàn Giác cho đến khi
chấm dứt cuộc đời, Ngài
cố gắng không ngừng nghỉ, không biết mệt, một cách
trầm lặng, để
nâng cao phẩm giá
con người, dầu cam go khổ nhọc đến đâu và bất chấp những
trở lực trên đường đi. Ngài luôn luôn tận lực
gia công vì
hạnh phúc chung và không bao giờ
mệt mỏi hay
suy giảm tinh thần.
Mặc dầu cơ thể
lắm khi không đủ
mạnh khỏe,
tinh thần Ngài vẫn luôn luôn
dũng mãnh cương quyết và
giác tỉnh. Do đó có lời:
"Ồ!
Tuyệt diệu thay bậc Chiến Thắng,
Tận lực
cố gắng không bao giờ biết mệt,
Vì
phúc lợi của tất cả
chúng sanh,
Vì
tình trạng an lành cho mọi cuộc sống."
Mặc dầu hai mươi lăm thế kỷ đã
trôi qua từ ngày
Đức Phật Nhập Niết Bàn, bức
thông điệp từ bi và
trí tuệ của Ngài vẫn còn được
lưu truyền,
tinh khiết trắng trong và mạnh mẻ
ảnh hưởng đến vận mạng của
nhân loại. Cả rừng bông hoa
hằng ngày đã được dâng lên
cúng dường trên
bàn thờ Ngài và
vô số triệu cặp môi
hằng ngày lặp lại câu: Buddham saranam gacchàmi, con xin về nương tựa (
quy y) nơi
Đức Phật, trong
ý nghĩa, "Con xin gởi thân dưới bóng
từ bi của Đức Phật". Ánh
vinh quang của Ngài
sáng tỏ như vừng
thái dương, và
Giáo Pháp (dhamma) của Ngài vẫn còn vẩy tay mời khách
hành hương mệt mỏi vào
Niết Bàn, châu toàn và
thanh bình an lạc.
________________________________________
Chú thích:
[1] Jawaharlal Nehru, The Discovery of India (Calcutta: Signet Press, 1946) trang 143.
[2] Cùng sách trên, trang 137.
[3] Sanskrit là Siddhartha (tên riêng) Gautama (tên tộc).
[4] Chiến sĩ
[5] Edwin Arnold, The Light of Asia.
[6] Trong cùng
tác phẩm trên.
[7] Anguttara-Nikàya,
Tăng nhứt A Hàm, trang 146.
[8] Để có thêm
chi tiết về điểm này, xin xem Majjhima-Nikàya,
Trung A Hàm, trang 36, bản dịch của I.B. Horner trong Middle Length Sayings, tập I (PTS). Cũng xin đọc R. Abeysekara, "The Master's Quest for Light" (Kandy BPS) Bodhi Leaves A7.
[9] Mahà Saccaka Sutta, Majjhima Nikàya, trang 36.
[10] Có nơi kể thêm hoặc lậu thứ tư là ditthàsava,
tà kiến lậu.
[11] Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, 36; Majjhima Nikàya 249.
[12] Dhammapada,
Pháp Cú Kinh, câu 153-154.
[13]
Bồ Tát (Bodhisatta, skt. Bhodhisattva) là người có
chú nguyện, hoặc có
chí hướng (satta), thiên về
lý tưởng giác ngộ -- tức
thông suốt Tứ Diệu Đế (bodhi). Trong
ý nghĩa này, danh từ Bodhisatta có thể
áp dụng cho bất cứ ai có
chí hướng thành tựu giác ngộ, nhưng thật sự chỉ
đặc biệt áp dụng cho người có
chú nguyện chứng đắc Toàn Giác (sammà-sambodhi), Một vị
Bồ Tát (Bodhisatta) trau giồi đầy đủ mười đức tánh toàn hảo, hay
ba la mật (pàrami), vốn là những phẩm hạnh chánh yếu
vô cùng cao cả khởi đầu bằng
tâm bi, và luôn luôn đượm nhuần sự
hiểu biết sáng suốt, hay
trí tuệ minh mẫn, không
mảy may nhượm màu
ái dục,
tà kiến và
ngã mạn (tanhà, ditthi và màna), những phẩm hạnh của người có
chú nguyện thành tựu Đạo Quả Phật. Mười
ba la mật là:
bố thí (dàna),
trì giới (sìla),
xuất gia (nekkhamma),
trí tuệ (pannà),
tinh tấn (viriya),
nhẫn nại (khanti),
chân thật (sacca),
quyết định (adhitthàna),
tâm từ (mettà) và
tâm xả (upekkhà).
[14] Xin xem
chú giải ở trên.
[15] 2500 Years of Buddhism, Foreword, ix, Government of India, 1971.
[16] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, I. 10; V, 420.
[17] Samyutta-Nikàya,
Tạp A Hàm, 66.
[18] Udana l. Xem chương 8 của sách này, Pháp
Tùy Thuộc Phát Sanh.
[19] Vào lúc bấy giờ chưa có
Giáo Hội Tăng Già (sangha)
[20] Vinaya Pitaka l. Mahavagga.
[21] Majjhima-Nikàya,
Trung A Hàm, 26/l. 167-168.
[22] Cùng sách trên.
[23] Để hiểu thêm những
chân lý thâm diệu, hay
diệu đế này, xin xem quyển "The Buddha's Ancient Path" cùng
tác giả; Three Cardinal Discourses (Kandy, BPS) loại Wheel, số 17,
tác giả Nanamoli; The Four Noble Truths (Kandy: BPS) loại Wheel 34/35,
tác giả Francis Story; The Word of the Buddha, (Kandy: BPS),
tác giả Nanàtiloka.
[24] Dhamma-cakka-pavattana Sutta, Kinh
Chuyển Pháp Luân, Samyutta-Nikàya. v. trang 420.
[25] Samyutta-Nikàya,
Tạp A Hàm, v, trang 437.
[26] Samyutta-Nikàya,
Tạp A Hàm, v, 588; Majjhima-Nikàya,
Trung A Hàm, l, 245; Theragatha,
Trưởng Lão Tăng Kệ v, 828.
[27] Vào năm 273 trước D.L. Đại Đế Asoka (A Dục) đến
hành hương nơi
Thánh Địa này và cho xây cất một số đền đài và một trụ cột tưởng niệm với tượng đá
sư tử trên đầu trụ. Đầu trụ cột với tượng đá bốn
sư tử tuyệt đẹp khiêng "Bánh Xe Pháp Bảo" (Dharmacakra) ngày nay vẫn còn được trưng bày tại
Bảo Tàng Viện Sarnath, Benares, và hiện còn là
biểu tượng chánh thức của xứ Ấn. Ngày lễ Dharmacakra vẫn còn được
cử hành tại Sri Lanka (
Tích Lan). Jawaharlal Nehru viết: "Tại Sarnath gần Benares, dường như tôi vẫn còn thấy
Đức Phật đang
thuyết giảng bài Pháp đầu tiên, và những lời dạy của Ngài văng vẳng từ xa vang lại, đang còn
thì thầm bên tai tôi,
xuyên qua hai ngàn năm trăm năm. Trụ cột đá Asoka với những lời
ghi khắc trên đó dường như nói lên cho tôi bằng những
ngôn từ tuyệt mỹ về một
con người,
mặc dầu cũng là
hoàng đế, nhưng vĩ đại hơn bất luận vua chúa hay
hoàng đế nào." -- The Discovery of India (Calcutta; Signet Press 1946) trang 44.
[28] Mùa "Nhập Hạ", hay "An Cư Kiết Hạ", là ba tháng mưa nhiều ở
Ấn Độ -- khoảng từ tháng Bảy đến tháng Mười D.L. --
Đức Phật và
chư Tăng ở lại một nơi.
[29] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, Mahavagga.
[30] Theo một lối nhìn, ta có thể
ghi nhận một cách hứng thú rằng
Đức Phật, nhà
Truyền Giáo Vĩ Đại Nhất xứ
Ấn Độ, Đản Sanh dưới một cội cây trong một khu vườn,
Thành Đạo dưới cội
Bồ Đề (một nhánh đâm về hướng Nam của cây này được vị
Trưởng Lão A La Hán,
Sư Bà Sanghamitta, vốn là
công chúa, con Đại Đế Asoka xứ Ấn, đem qua
Tích Lan trồng, vào thế kỷ thứ 3 trước D.L. nay vẫn còn tươi tốt sum sê tại Anuradhapura. Đây là cội cây già
nhất thế giới được
ghi nhận),
Chuyển Pháp Luân tại Vườn Lộc Giả, dưới một cội cây và sau cùng,
Nhập Diệt dưới bóng cặp song
long thọ. Hầu hết đời Ngài
trải qua trong rừng và trong làng mạc.
[31]
Toàn thể bài Pháp này được ghi trong bộ Anguttara-Nikàya, iv, 354; Udàna, trang 34; và được tóm lược trong Dhammapada Commentary, Bản
Chú Giải Kinh Pháp Cú. l, 287. Trong bộ Theragàthà,
Trưởng Lão Tăng Kệ, câu 66 ghi rằng
Đại Đức Meghiya vốn là người trong
hoàng tộc Sakya.
Kinh Pháp Cú, câu 33 và 34, dạy: "Cái tâm, chập chờn, chao động, khó canh phòng, khó
kiểm soát -- bậc
thiện trí giữ vững tâm ngay ngắn giống như thợ chuốc tên
uốn nắn cho mũi tên ngay thẳng." (Câu 33). "Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên đất khô như thế nào, thì tâm chao động cũng dường thế ấy. Vậy, phải
lánh xa cảnh giới của
dục vọng. (Câu 34)
[32] Ariya-pariyesana Sutta, Majjhima-Nikàya 26/I, 264.
[33] Danh từ Arahat (
A La Hán) chỉ dành cho những ai đã
hoàn toàn tận diệt mọi
ô nhiễm. Trong định nghĩa này
Đức Phật là vị
A La Hán đầu tiên trong
thế gian, như Ngài đã nói với Upaka. Chính Ngài đã
khám phá và
trải qua con đường tận diệt
ô nhiễm.
[34] Samyutta-Nikàya,
Tạp A Hàm, iii, 66.
[35]
Kinh Đại Niết Bàn, Mahà Parinibbàna Sutta, Dìgha-Nikàya,
Trường A Hàm 16/II, 100.
[36] Majjhima-Nikàya,
Trung A Hàm, 38/I 264.
[37] Dhammapada,
Kinh Pháp Cú, câu 276.
[38] Samyutta-Nikàya,
Tạp A Hàm, I, 156.
[39] Kinh Vatthùpama Sutta, Majjhima-Nikàya,
Trung A Hàm, 7. Cũng xin đọc The Simile of the Cloth, của ĐĐ Nyanaponika do nhà xuất bản BPS, Kandy,
ấn hành theo loại Wheel, số 61-62.
[40] "The Buddhist Concept of A Just Social & Political Order" trong quyển Young Buddhist, Singapore.
Tác giả: P.D. Premasiri.
[41] Sutta Nipàta, câu 455 và 456. Bản dịch ra Anh ngữ của Chalmer (Harvard Oriental Series).
[42] Xem G.P. Malalasekera và K.N. Jayatilleke, Buddhism and the Race Question (Kandy: BPS) Wheel 220/201.
[43] Jàtaka, Túc Sanh Truyện, số 485.
[44] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, I, Mahàvagga. Xin đọc Ordination in Theravàda Buddhism (Kandy: BPS) Wheel 56,
tác giả Piyadassi Thera và J.F. Dickson.
[45]
Bài Kinh số 62. Trọn
bài Kinh này được nhà xuất bản BPS, Kandy
ấn hành theo loại Wheel, dưới tựa đề Advice to Ràhula.
[46] C.F. Rhys Davids, Psalms of the Early Buddhists -- The Sisters, P.T.S., trang 120.
[47] Vinaya Mahàvagga, Civarakkhandhaka. Cũng xem I.B. Horner, Book of the Discipline, phần 4, trang 431.
[48] Trong bản tường trình của ngành khảo cổ học, Archaeological Report, 1862-3 của ông, Tướng Alexander Cunningham viết: "Về phía Đông Bắc ngôi Jetavana (
Tịnh Xá Kỳ Viên) có một
bảo tháp (stupa) được
xây dựng,
đánh dấu nơi
Đức Phật rửa tay và chân một vị tỳ khưu đang lâm bịnh ... Phần còn lại của ngôi
bảo tháp, bằng gạch, hiện vẫn còn được thấy cách khoảng 550 bộ Anh (feet) cách
Tịnh Xá Jetavana. Trong bản đồ thành phố Sàvatthi của Tướng Cunningham (nay là Sahet-Mahet), địa điểm của
bảo tháp được
đánh dấu bằng chữ "H". -- Archaeocological Survey of India (Simla 1871) trang 341.
[49] Mettà Sutta, Sutta Nipàta, 149.
[50] Edwin Arnold, The Light of Asia.
[51] Đó là atta loka-dhamma,
tám pháp thăng trầm của
thế gian. Cũng được gọi là
bát phong,
tám ngọn gió của
đời sống làm chao động
ngọn đèn tâm.
[52] Dhammapada,
Kinh Pháp Cú, câu 320.
[53] Bản
Chú Giải Kinh Pháp Cú, Commentary on the Dhammapada, quyển I, trang 147.
[54] Dìgha Nikàya,
Trường A Hàm, 16; bản dịch tựa đề Last Days of the Buddha (Kandy:BPS).
[55] Bốn tầng Thánh đó là: sotàpatti (
nhập lưu); sakadàgàmi (
nhất lai); anàgàmi (
bất lai); và arahatta (a-la-hán, tầng Thánh
cuối cùng). Bậc
A La Hán, hay
Ứng Cúng, đã phá tan mọi
thằng thúc và tận diệt mọi
ô nhiễm.
[56] Dìgha Nikàya,
Trường A Hàm, 16,
bài kinh Mahà Parinibbàna Sutta, trong đó ghi chép với nhiều
chi tiết cảm động, tất cả những diễn biến xảy ra trong những ngày tháng sau cùng của
Đức Bổn Sư.
[57] Những đoạn trên đây được trích và
sửa đổi chút ít từ "Book of the Great Decease" trong Dialogues of the Buddha, phần II, Dìgha Nikàya, Phần II.