Chương 5: Về đời sống con người

07/05/20216:05 SA(Xem: 2738)
Chương 5: Về đời sống con người
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
PHẬT ĐIỂN THÔNG DỤNG:
LỐI VÀO TUỆ GIÁC PHẬT
Chủ biên bản dịch tiếng Việt
THÍCH NHẬT TỪ
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO 2021

PHẦN II: GIÁO PHÁP

 

CHƯƠNG 5

VỀ ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

 

THƯỢNG TỌA BỘ

CHU KỲ TÁI SANH (SASĀRA: LUÂN HỒI)

Quan điểm tất cả chúng sanh tái sanh từ kiếp này sang kiếp khác, được quyết định bởi khuynh hướng nhận thức và phẩm chất đạo đức trong hành vi của họ (nghiệp) là nền tảng đối với Phật giáo. Đoạn trích *L.15 giải thích về việc bản thân đức Phật đã nhớ lại cuộc đời của mình trong các kiếp quá khứ như thế nào, cũng như chúng sanh tái sanh do nghiệp của họ ra sao. Điều này diễn ra trong đêm đức Phật thành đạo, sau khi tâm trí của Ngài vào trạng thái thiền an tĩnh đạt tới sự tĩnh lặng và nhạy bén sâu sắc.

Th.55 Điểm bắt đầu không thể giải thích

Đoạn này giới thiệu khái niệm luân hồi - chu kỳ tái sanhchúng sanh phải “luân chuyển,” do vô minh về tinh thần (không phải do thiếu thông tin, mà do hiểu biết sai lầm về bản chất của sự thật) và lòng ham muốn đóng vai trò thúc đẩy quá trình này, không có điểm bắt đầu của tất cả các chu kỳ trên. Vì thế đạo Phật không có ý niệm về sự hình thành tối sơ của vũ trụ và mọi loài.  

Này các Tỳ-kheo, vòng lưu chuyển luân hồi này cứ tiếp tục mà không có điểm khởi đầu được khám phá. Không thể nhận biết được điểm đầu tiên của chúng sanh đang trôi lăn và lưu chuyển trong vòng luân hồi. Này các Tỳ-kheo, ví như một người trong cõi Diêm­phù-đề (Jambudīpa)1 này cắt cỏ, cây, cành và tán lá trên toàn cõi, tập hợp tất cả lại với nhau và buộc lại thành từng bó khoảng mười phân, người ấy [lần lượt] nói rằng: “Đây là [đại diện cho] mẹ tôi; đây là mẹ của mẹ tôi…,” thì những người mẹ của người ấy sẽ không bao giờ kết thúc dù rằng cỏ, cây, cành và tán lá trên cõi Diêm-phù-đề này cũng có lúc tàn úa và kết thúc hẳn. Lý do là gì? Đó là vì vòng luân chuyển này không có điểm khởi đầu được nhận biết. Điểm khởi đầu dẫn đến việc trôi lăn và lưu chuyển trong vòng luân hồi của chúng sanh do vô minh ngăn trở và do ham muốn trói buộc thì không biết được. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, đã một thời gian dài, các thầy đã chịu nhiều đau khổ kinh khủng, đã chịu nhiều bất hạnh, cái chết ngày càng tăng thêm, nhiều đến mức cũng đủ khiến các thầy tỉnh ngộ, buông bỏ, giải thoát tất cả mọi thứ có điều kiện.

(Kinh Cỏ và củi: Kinh Tương ưng II.178, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.56 Bản chất của tái sanh và nghiệp

Đoạn trích này nhấn mạnh sự sai lầm và nguy hiểm khi phủ nhận kiếp sau, khi phủ nhận làm thế nào con người tái sanh phụ thuộc hành vi đạo đức của họ, cũng như khi phủ nhận có người giác ngộ trực nhận sự thật của các vấn đề này.

Này các gia chủ, có một số sa-môn và Bà-la-môn có học thuyếtquan điểm rằng: “Không có [giá trị trong] việc bố thí cúng dường hay lễ hy sinh [bản thân] nào cả; không có kết quả hay sự chín muồi của hành động (nghiệp) về các việc làm tốt hay xấu; không có đời này, không có đời sau (tức là kiếp này không có thật và không ai phải chuyển sang cảnh giới khác sau khi chết); không có mẹ, không có cha (không đáng để tôn trọng cha mẹ: những người đã sinh ra ta trên cuộc đời này); không có chúng sanh nào tự động sanh ra (hóa sanh) (tức không có cảnh giới tái sanh mà trong đó chắc chắn có những dạng thiên thần sanh ra không cần cha mẹ); trên đời này không có Sa-môn và Bà-la-môn nào đạo đức chân chánh, thực hành

1 Chỉ cho cả tiểu lục địa Ấn Độ và toàn thế giới nói chung.

đúng phương pháp cả, cũng như [không có] những vị chỉ ra có thế giới này và thế giới khác sau khi đã nhận chân được chúng nhờ vào trí cao tột của chính họ (không thể có sự phát triển tâm linh [như vậy]; con người không thể đạt đến trí định tĩnh trực tiếp (thắng trí) [để biết] về sự tái sanh trong đa dạng loại thế giới khác nhau)” – đối với những vị này, điều được thấy là họ sẽ tránh xa ba việc lành mạnh (thiện) này: hành vi tốt đẹp của thân, của lời nói và của suy nghĩ và sẽ chấp nhận ba việc không lành mạnh (bất thiện) này: hành vi xấu xa của thân, của lời nói và của suy nghĩ. Tại sao như vậy? Tại vì những Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính này không thấy được sự nguy hiểm, sự thoái hóa và sự ô nhiễm của các trạng thái không lành mạnh, họ cũng không thấy được lợi ích của việc vượt thoát sự ham muốn khoái lạc cũng như khía cạnh trong sáng trong các trạng thái lành mạnh.

Bởi vì thực tế có kiếp sống về sau, nên khi một người cho rằng “không có kiếp sau” là quan điểm sai lầm (tà kiến). Bởi vì thực tế có kiếp sống về sau, nên khi người ấy khăng khăng rằng “không có kiếp sau,” tức là cố chấp quan điểm sai lầm (kiến thủ).

(Kinh Không gì chuyển hướng: Kinh Trung bộ I.402, do P.H. dịch tiếng Anh).

Th.57 Tin có tái sanh và nghiệp là “lựa chọn đúng nhất”

Trong khi tái sanh và nghiệp là những chứng thực được đức Phật xác nhận, trừ phi một người cũng trực tiếp xác thực được sự tồn tại của mình, không thì họ vẫn giữ nguyên lập trường rằng đây chỉ là tín ngưỡng. Đoạn này biện luận rằng niềm tin ấy vẫn hữu ích dù người đó có trải nghiệm sự thật hay là không.

Này các người Kālāma, khi các vị đệ tử thánh ấy làm cho tâm không thù oán, không sân hận, không nhiễm bẩn và thanh tịnh, tức vị ấy có được bốn điều chắc chắn ngay trong kiếp này. Điều chắc chắn thứ nhất mà vị ấy có được là: “Nếu có kiếp sau, nếu có kết quả và sự chín muồi của những việc xấu và tốt đã làm, thì có khả năng sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên cõi thiện lành, cõi trời.” Điều chắc chắn thứ hai mà vị ấy có được là: “Nếu không có kiếp sau, nếu không có kết quả và sự chín muồi của những việc xấu và tốt đã làm, thì chính ngay bây giờ, trong kiếp sống này, ta sẽ sống an lạc, không thù oán, không sân hận.” Điều chắc chắn thứ ba mà vị ấy có được là: “Giả sử quả báo xấu sẽ đến với người tạo tội. Vậy, nếu ta không chủ tâm gây tổn hại cho ai, thì làm sao đau khổ có thể ảnh hưởng đến ta - người không gieo hạt giống ác?” Điều chắc chắn thứ tư mà vị ấy có được là: “Vì rằng quả xấu ác không xảy đến với người làm việc xấu ác. Thế thì chính tại đây ta thấy mình thanh tịnh ở cả hai phương diện [không làm việc xấu ác cũng không trả quả báo xấu ác].”

(Kinh Kesaputta hay Kinh Kālāma: Kinh Tăng chi I.192, do P.D.P. và P.H. dịch tiếng Anh).

Th.58 Các cảnh giới tái sanh chính

Đoạn này liệt kê sơ lược năm cõi tái sanh chính, dù đôi khi có thêm cõi thứ sáu, là cõi A-tu-la hoặc bán thần.

Này các Tỳ-kheo, thế nào là đa dạng của hành vi (nghiệp)? Có hành vi [mà quả của nó] sẽ dẫn vào cảnh giới địa ngục, thế giới động vật, lãnh địa ngạ quỷ, thế giới loài người, hoặc [là thiên thần] ở các cõi trời…

Này các Tỳ-kheo, thế nào là sự chín muồi (trổ quả) của hành vi (nghiệp)? Theo Ta nghiệp có ba lần chín muồi: kiếp này, kiếp kế tiếp hoặc kiếp về sau nữa.

(Kinh Một pháp môn quyết trạch: Kinh Tăng chi III.415, do P.H. dịch tiếng Anh).

THÂN NGƯỜI QUÝ BÁU

Th.59 Tái sanh làm người là một cơ hội hiếm có

Đoạn kinh sau khẳng định rằng có rất nhiều chúng sanh tái sanh ở các cõi không phải cõi người, vì thế việc chú tâm đến bản chất hành động của mình là điều trọng yếu. Hiển nhiên số lượng của các động vật sống trên cạn, chim, cá, côn trùng đông đúc hơn rất nhiều so với dân số trên hành tinh của chúng ta.

Lúc đó, đức Phật lấy một ít đất trên đầu ngón tay của mình và nói với các Tỳ-kheo rằng: “Này các Tỳ-kheo, cái gì nhiều hơn, nhúm đất trên đầu ngón tay Ta hay đất trên địa cầu rộng lớn này?” “… so với địa cầu rộng lớn này, một ít nhúm đất trên tay của Thế Tôn thậm chí không bằng một phần nhỏ nhất.” “Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, chỉ có một ít sinh loài được tái sanh làm người,2 trong khi đó có quá nhiều chúng sanh tái sanh làm loài khác không phải con người. Vì thế, này các Tỳ-kheo, các vị cần phải nhắc nhở bản thân thế này: “Chúng ta sẽ sống một cách cẩn thận.”

(Kinh Đầu ngón tay: Kinh Tương ưng II.263, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.60 Được sinh ra làm người có thể nghe giáo pháp là hiếm có

Phần này nêu rõ rằng được sanh ra làm người, đặc biệt khi lời dạy của Phật (giáo pháp) đang tồn tại, là một cơ hội hiếm có và quý báu. Con người có sự tự do hành động nhiều hơn so với những loài trong các cảnh giới tái sanh thấp hơn và có khả năng nhận thức để hiểu được giáo pháp.

Khó thay, được sanh làm người; khó thay, được sống bất tử. Khó thay, được nghe giáo pháp vi diệu; khó thay, gặp Phật ra đời.

(Kinh Pháp cú 182, do P.H. dịch tiếng Anh).

Th.61 Hãy nhớ cho, đời người ngắn ngủi, vì thế hãy thực hành ngay bây giờ, khi còn có thể!

Như một trận đại hồng thủy quét qua một làng quê yên ả, cái chết cuốn trôi một người có tâm trí quay cuồng chỉ bận tâm đến phồn hoa cuộc đời.

(Kinh Pháp cú 47, do P.H. dịch tiếng Anh).

THẾ GIỚI CHÚNG TA TRONG MỐI TƯƠNG QUAN CỦA VŨ TRỤ

Th.62 Các cụm thế giới trong khắp vũ trụ

Đoạn trích dưới đây chỉ ra rằng Phật giáo chưa bao giờ xem thế giới

2 Hoặc làm thiên thần, chú giải bổ sung thêm phù hợp với Kinh Tương ưng - Sayutta-nikāya V.474 cho rằng chúng sanh tái sanh vào cảnh giới thấp hơn cõi người nhiều hơn được tái sanh vào cõi người.

chúng ta là một hành tinh duy nhất ở dạng vật chất, hay nằm ở trung tâm của vũ trụ. Nó được xem như một phần trong hàng ngàn3 cụm thế giới, cứ một ngàn cụm như thế sẽ tạo nên một chùm thiên hà cấp cao hơn, cứ một ngàn cụm thiên hà cấp cao này sẽ tạo nên một cụm thiên hà cấp siêu cao. Đức Phật không được xem là người tạo ra thế giới, nhưng Ngài được xem là người có khả năng tiếp xúc với chúng sanh ở khắp (thiên hà) cấp thứ ba này.4 Mỗi thế giới riêng biệt được cho là đều có sanh loài riêng của chúng, gồm cả các tầng trời riêng của chúng.

Này Ānanda, gấp một ngàn lần thế giới mà trong đó mặt trờimặt trăng quay quanh [quỹ đạo của chúng] và chiếu sáng khắp các phương với ánh sáng của chúng: đây gọi là một ngàn hệ thế giới nhỏ đầu tiên (tiểu thiên thế giới). Tại đó, có một ngàn mặt trăng, một ngàn mặt trời, một ngàn núi chúa trung tâm, một ngàn… [một tập hợp của bốn lục địa] và một ngàn lần bốn biến lớn; [ở mỗi hệ thế giới] đều có một ngàn cõi trời Tứ vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đâu­suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa Tự tại và cõi Phạm thiên.5

Này Ānanda, gấp một ngàn lần hệ thế giới nhỏ (tiểu thiên thế giới): đây gọi là một ngàn hệ thế giới vừa thứ hai (trung thiên thế giới).

Này Ānanda, gấp một ngàn lần hệ thế giới vừa: đây gọi là một ngàn hệ thế giới lớn (đại thiên thế giới). 

Này Ānanda, Như Lai (Tathāgata) có thể phát ra [ánh hào quang và] tiếng đi xa đến mức Ngài mong muốn trong các hệ thế giới này.

(Kinh Abhibhū: Kinh Tăng chi I.227-228, do P.H. dịch tiếng Anh).

Th.63 Các chu kỳ của một kiếp (hàng thiên niên kỷ) vũ trụ 

Các thế giới được cho là trải qua bốn giai đoạn cực kỳ lớn: đi đến

3 Một ngàn, ở đây, có thể được hiểu như là đại diện cho một nhóm lớn.

4 Điều này có nghĩa là đức Phật có thể tiếp xúc với toàn cõi thiên hà cấp siêu cao, tức là bao trùm cả ba cấp (hàng ngàn cụm thế giới, cõi thiên hà cấp cao, cõi thiên hà cấp siêu cao). (ND)

5 Cõi trời Tứ vương: cõi trời bốn hướng, mỗi hướng có một vị vua trời bảo vệ; cõi trời Ba mươi ba hay cõi trời Đao-lợi gồm ba mươi ba tầng trời, mỗi tầng có một vị vua trời cai trị; cõi trời Dạ-ma (Yāma): ánh nhìn xuyên màng đêm; cõi trời Đâu-suất: cõi trời mãn nguyện (tri túc); cõi trời Hóa lạc: cõi trời vui mừng trong sự hóa tạo; cõi trời Tha hóa Tự tại: cõi trời khống chế sự hóa tạo của người khác và cõi Phạm thiên: cõi trời Tối thượng. (ND)

chấm dứt, duy trì sự trống không, phát triển trở lại, tiếp tục tồn tại và rồi lại đi đến chấm dứt.6 Bốn giai đoạn này tạo nên một hàng thiên niên kỷ (tức một kiếp) (Kinh Tăng chi - Aguttara-nikāya II.142). Đoạn dưới đây minh họa chiều dài một kiếp và số lượng của các chúng sanh luân hồi tái sanh từ đời này sang đời khác là không thể tính đếm được.

Này các Tỳ-kheo, giả sử có một ngọn núi đá khổng lồ dài bảy dặm, rộng bảy dặm, cao bảy dặm… một khối đá rắn chắc. Cứ mỗi một trăm năm, một người dùng mảnh lụa mịn lau chùi núi đá ấy một lần. Núi đá hùng vĩ kia có khi sẽ bị mòn dần và biến mất bởi tác động này, nhưng lúc này một kiếp vẫn chưa kết thúc. Như vậy, này các Tỳ-kheo, đây là quãng dài của một kiếp. Hơn nữa, trong suốt chiều dài của một kiếp như vậy, chúng ta đã luân chuyển [từ đời này sang đời khác] quá nhiều lần: nhiều đến hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn kiếp.

(Kinh Núi: Kinh Tương ưng II.181-182, do P.H. dịch tiếng Anh).

NGHIỆP

Khái niệm về Nghiệp trong Phật giáo dùng để chỉ cho những hành vi có chủ ý (P. kamma, S. karma) sẽ tạo ra kết quả nhất định một cách tất yếu: hành vi tốt đẹp đưa đến kết quả an vui và đặc trưng - tính nết tích cực, hành vi xấu cho ra quả bất antính nết tiêu cực. Kết quả [của nghiệp] không phải là “phần thưởng” hay “sự trừng phạt” vì không có bất kỳ đấng quyền năng nào được xem [có thể] quyết định kết quả [của nghiệp]. Kết quả cũng không được tạo ra như “bài học để học,” dù con người có thể hy vọng phát triển sự hiểu biết sâu sắc thông qua việc chiêm nghiệm những sự kiện xảy đã ra trong cuộc sống như kết quả có thể của những hành vi trước đó. Kết quả của nghiệp đơn thuần được xem như kết quả tất yếu, sanh khởi từ một phần quy luật tự nhiên. Một ví von phổ biến đó là nghiệp giống như hạt giống, kết quả của nghiệp giống như quả sanh ra từ hạt giống đó. Một từ được dùng để chỉ cho hành động tốt đẹp và tiềm lực mà nó mang lại kết quả [tốt đẹp] của nghiệp là “phước” (P. puñña, S. puya), đôi khi được dịch thành “hành động

6 Bốn giai đoạn: hoại, không, thành, trụ, (rồi sau đó quay lại chu kỳ hoại, …). (ND).

đáng tán dương” hay “phước lành.” Tuy nhiên, [cách dịch này] ngụ ý rằng kết quả tốt đẹp của nghiệp là phần thưởng giá trị hay xứng đáng, hơn là kết quả tự nhiên. Do đó sẽ thích hợp hơn nếu dịch từ puñña là “tác động lợi ích của nghiệp” và “phước nghiệp” hay “kết quả tốt đẹp của nghiệp.”

Th.64 Nghiệp là ý chí

Trong Phật giáo, những điều xảy đến với một người không phải là “nghiệp,” mà chúng là kết quả của những hành động có chủ ý tốt hoặc xấu mà người đó đã từng làm. Bản chất của nghiệp nằm ở ý muốn hay ý định được cụ thể hóa bằng hành vi, những hành vi không chỉ bao gồm những việc làm cụ thể của thân hay lời nói mà còn là dòng chảy không ngừng của ý nghĩ.

Này các Tỳ-kheo, ý định,7 Ta gọi đó là nghiệp. Có ý định, một người thực hiện hành động thông qua thân, lời nóisuy nghĩ

(Kinh Một pháp môn quyết trạch: Kinh Tăng chi III.415, do P.H. dịch tiếng Anh).

Th.65 Quả của các hành động xấu sẽ đến với bạn khi sớm khi muộn

Chừng nào một hành động xấu chưa được chín muồi, thì người kẻ khờ vẫn nghĩ nó ngọt như mật. Nhưng đến lúc nó chín muồi, thì kẻ khờ sẽ đối diện với khổ đau…

Những việc xấu không như sữa [ấm] được đông lại trong vòng một ngày, mà nó như một ngọn lửa âm ỉ vùi dưới tro, luôn đi theo kẻ khờ ấy.

Ác nghiệp chưa chín muồi Người ngu tưởng mật ngọt Khi ác nghiệp chín muồi Người ngu chịu khổ đau. Khi nghiệp xấu đã làm Không như sữa đông ngay Như lửa vùi dưới tro Luôn theo kẻ ngu ấy.

(Kinh Pháp cú 69 và 71, do P.H. dịch tiếng Anh).

7 Cetanā: ý định, ý chí, ý muốn, chủ ý, cố ý, v.v..., nó thường được gọi là “tư” hay “hành.”

Th.66 Hành động và suy nghĩ của một người quyết định sự tái sanh của chính họ, chứ không phải đến từ việc cầu nguyện của người khác

Đoạn này nhấn mạnh rằng việc một người được tái sanh là kết quả tất yếu đến từ hành động của chính họ, chứ không phải do cầu nguyệnlễ bái nào của người khác quyết định.

Khi đó, thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, thôn trưởng thưa Thế Tôn: “Thưa Thế Tôn, các vị Bà-la-môn của vùng đất phía Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa cỏ mọc dưới nước, họ thường dùng nước [để rửa tội] và thờ lửa để cải đổi số phận người chết, báo cho người chết biết [về vận mệnh của họ] và dẫn họ vào cõi trời. Còn Thế Tôn, vị A-la-hán, vị Phật giác ngộ hoàn toàn có thể làm gì để khiến mọi người được sanh ra trên thế giới, sau khi thân hoại, mạng chung, sẽ được sanh lên cảnh giới thiện lành, cõi trời? 

“Câu hỏi rất hay, này thôn trưởng, nhân đây Ta sẽ hỏi lại ông. Ông hãy trả lời khi thấy thích hợp. Ông nghĩ thế nào, này thôn trưởng, nếu có một người sát sanh, trộm cắp, sống lỗi lầm trong sự hưởng thụ khoái lạc tính dục, nói láo, nói lời chia rẽ, nói lời thô xấu, nói lời phù phiếm, có dục vọng mãnh liệt, có suy nghĩ xấu xa, nắm giữ những quan điểm sai lầm (tà kiến). Sau đó đám đông quần chúng, cùng đến, tập hợp lại, cầu khẩn, tán dương, chắp hai bàn tay lại đi vòng quanh [người chết đó] và nói: “Nguyện cho người này, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ được tái sanh vào cảnh giới an lạc, cõi trời!” Ông nghĩ thế nào? Người đàn ông đó, do nhân cầu khẩn, tán dương, đi vòng quanh của đám đông kia, khi thân hoại, mạng chung, liệu có được tái sanh lên cảnh giới an lạc, cõi trời không?” “Dạ không, thưa Thế Tôn.”

“Này Thôn trưởng, giả sử một người đẩy một tảng đá lớn xuống hồ nước sâu, rồi đám đông quần chúng, cùng đến, tập hợp lại, cầu khẩn, tán dương, chắp hai bàn tay lại đi vòng quanh và nói: “Hãy nổi lên mặt nước, này tảng đá lớn, hãy nổi lên, hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!” Ông nghĩ thế nào? Tảng đá to lớn ấy, do nhân cầu khẩn, tán dươngđi vòng quanh của đám đông kia, liệu nó có thể trồi lên mặt nước, nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?” “Dạ không, thưa Thế Tôn.”

“Cũng vậy bất kỳ người nào sát sanh,… [vân vân.] Dù có đám đông quần chúng, cùng đến, tập hợp lại, cầu khẩn, tán dương… thì vẫn không thể thay đổi, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, người ấy phải sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục.”

Này thôn trưởng, ông nghĩ gì về điều này? Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp… không tham lam, không có ý nghĩ tàn ác, nắm giữ tầm nhìn chân chính (chánh kiến). Rồi có đám đông quần chúng cùng đến, tập họp lại cầu khẩn,… nói rằng: “Nguyện cho người này, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục!” Người ấy sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc ... do nhân cầu khẩn, tán dương, đi vòng quanh lễ bái của đám đông kia, liệu người đó có bị tái sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục hay không?” “Dạ không, thưa Thế Tôn.”

“Giả sử một người ném một lọ bơ sữa hoặc một lọ dầu vào hồ nước sâu và làm vỡ nó. Các hạt cát và mảnh vỡ của lọ sẽ chìm xuống, trong khi bơ sữa hoặc dầu sẽ nổi lên. Rồi đám đông quần chúng cũng tụ hội, cầu khẩn, tán dương ... nói rằng: “Hãy chìm xuống, này bơ sữa và dầu! Hãy chìm sâu xuống, này bơ sữa và dầu! Hãy chìm sâu xuống tận đáy, này bơ sữa và dầu!” Ông nghĩ thế nào? Do nhân cầu khẩn, tán dương… liệu bơ sữa và dầu có chìm xuống, chìm sâu xuống, hay chìm xuống tận đáy không?” “Dạ không, thưa Thế Tôn.”

“Vì thế bất kỳ người nào từ bỏ sát sanh… [vân vân.] Dù có đám đông quần chúng, cùng đến, tập hợp lại, cầu khẩn, tán dương… nói rằng: “Nguyện cho người này, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục!” thì vẫn không thể thay đổi, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, người ấy sẽ tái sanh lên cảnh giới an lạc, cõi trời.”

(Kinh Người đất phương Tây hay người đã chết (hay Kinh Asibandhaka-putta):Kinh Tương ưng IV.312-314, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.67 Nghiệp quá khứ tạo nên sự khác nhau giữa chúng ta như thế nào

Đoạn này giải thích rằng các hành động tốt và xấu lần lượt sẽ dẫn đến tái sanh trong địa ngục hay cõi trời như thế nào, hoặc sẽ đưa đến tái sanh trong đời người vị lai xui xẻo hay may mắn ra sao. Nghiệp quá khứ không phải là nguyên nhân duy nhất tạo nên sự khác nhau giữa mọi người, sự khác nhau ấy có thể do bởi các ảnh hưởng nhất định. 

“Thưa tôn giả Gotama, do nguyên nhân gì, do điều kiện gì, giữa những chúng sanh được tái sanh làm người, có người có tình trạng xấu tệ, có người có tình trạng tốt đẹp hơn, dù tất cả mọi người đều là con người? Có người tuổi thọ ngắn, có người tuổi thọ dài, có người nhiều bệnh, có người ít bệnh, có người xấu, có người đẹp, có người kém cỏi (yếu đuối), có người quyền lực (khỏe mạnh), có người nghèo khổ, có người giàu sang, có người thuộc tầng lớp thấp, có người thuộc tầng lớp cao (thượng lưu), có người dại khờ và có người thông minh. Thưa tôn giả Gotama, tại sao lại có sự khác nhau giữa con người với nhau như thế?”

Này chàng trai, chúng sanh có nghiệp riêng của họ, là người thừa kế nghiệp của họ, sanh ra từ nghiệp của họ, dính dáng tới nghiệp của họ, dựa vào nghiệp của họ. Nghiệp phân chia chúng sanhtình trạng xấu tệ và có tình trạng tốt đẹp… Ở đây, này chàng trai trẻ, có người nữ hay người nam nào đó giết hại chúng sanh, [họ] là người tàn nhẫn, là người có bàn tay lấm máu, chuyên hủy hoại và tổn hại mọi loài không chút thương xót về sự sinh tồn của bất kỳ loài nào. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, cõi đọa đày, địa ngục. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng chỉ có thọ mạng ngắn ngủi. Này chàng trai, sát sanh, tàn bạo, bàn tay lấm máu, chuyên hủy hoại và tổn hại mọi loài không chút thương xót về sự sinh tồn của bất kỳ loài nào là con đường đưa đến tái sanh với thọ mạng ngắn ngủi. 

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào, từ bỏ và tránh xa việc hủy diệt mọi loài, bỏ gậy và vũ khí, có lương tâm, có lòng trắc ẩn và sống với sự quan tâm chia sẻ vì lợi lạc của tất cả chúng sanh. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cõi thiện lành, cõi trời. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng có thọ mạng lâu dài. Đây là con đường đưa đến tái sanh với thọ mạng lâu dài.

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào thuộc kiểu người gây hại các loài khác bằng tay, bằng nắm đất, bằng gậy hay vũ khí. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, cõi đọa đày, địa ngục. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng chịu nhiều đau đớn bệnh tật. Này chàng trai, đây là con đường đưa đến nhiều ốm đau bệnh tật.  

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào thuộc kiểu người không gây hại các loài khác bằng tay, bằng nắm đất, bằng gậy hay vũ khí. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cõi thiện lành, cõi trời. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng chịu ít ốm đau bệnh tật. Này chàng trai, đây là con đường đưa đến ít đau ốm bệnh tật.

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào dễ nóng giận và dễ kích động. Dù chỉ một lời nhận xét nhỏ nhặt nhất thì người này cũng chửi rủa, nóng giận, thù địch, phản ứng với sự bực bội, thể hiện sự căm phẩn, tức giận và bất mãn. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng đều mang dung mạo xấu xí. Này chàng trai, đây là con đường đưa đến dung mạo xấu xí.  

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào không nóng giận và không có xu hướng dễ kích động. Dù có nhiều lời nhận xét [nặng nề] thì người này cũng không lớn tiếng, không nóng giận, không thù địch, không phản ứng với sự bực bội, không thể hiện sự căm phẫn, tức giận và bất mãn. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sẽ tái sanh vào cảnh giới thiện lành, cõi trời. Giả như, nếu người đó tái sanh vào cảnh giới con người, dù được sanh ra ở bất kỳ đâu, cũng đều có dung mạo thật đẹp. Này chàng trai, đây là con đường đưa đến dung mạo đẹp đẽ.  

Này chàng trai, ở đây, có người nữ hay người nam nào có tính hay đố kỵ, là người ganh tị, ghen ghétbực bội với người khác về tiền của, sự tôn trọng, vinh dự, uy nghiêm và những thứ được dâng tặng. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại,… [tái sanh vào địa ngục hoặc nếu được tái sanh vào cảnh giới loài người]… sẽ có ít uy quyền. Đây là con đường đưa đến ít uy quyền.

Này chàng trai, ở đây, có người nữ hay người nam nào không có tính hay đố kỵ, là người không ganh tị, ghen ghétbực bội với người khác về tiền của, sự tôn trọng, vinh dự, uy nghiêm và những thứ được dâng tặng. Do nghiệp mà người đó đã thực hiện và được giữ lại,… [tái sanh vào cõi trời hoặc nếu tái sanh vào cảnh giới loài người]… sẽ có đầy uy quyền. Đây là con đường đưa đến uy quyền cao.

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào không làm phước bố thí cho các Sa-môn hay Bà-la-môn các loại đồ ăn thức uống, y phục, xe cộ, đồ ngồi, chỗ ở, đèn đuốc,… [sẽ tái sanh vào địa ngục hoặc nếu được tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người nghèo khó.

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào làm phước bố thí cho các Sa-môn hay Bà-la-môn các loại đồ ăn thức uống, y phục, xe cộ, đồ ngồi, chỗ ở, đèn đuốc,… [sẽ tái sanh vào cõi trời hoặc nếu tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người giàu có.

Này chàng trai, ở đây có một người nữ hay người nam nào [tánh tình] ương ngạnh, cao ngạo, không kính trọng người đáng kính, không đứng dậy chào hỏi tôn trọng người đáng tôn trọng, không nhường ghế cho người đáng được ngồi, không nhường đường cho người đáng được nhường, không tôn kính người đáng tôn kính… [sẽ tái sanh vào địa ngục hoặc nếu được tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người thuộc tầng lớp thấp.

Này chàng trai, ở đây có một người nữ hay người nam nào [tánh tình] không ương ngạnh, cao ngạo, kính trọng người đáng kính,… [tái sanh vào cõi thiện lành hoặc nếu tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người thuộc tầng lớp thượng lưu.

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào không đến gặp Sa-môn hay Bà-la-môn và hỏi: “Thưa ngài, thế nào là thiện và bất thiện? Điều gì là sai và điều gì là đúng? Nên làm gì và không nên làm gì? Làm gì để được lợi íchan lạc lâu dài? Hoặc làm gì thì phải chịu tai họa, đau khổ triền miên?”… [sẽ tái sanh vào địa ngục hoặc nếu được tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người thiếu sáng suốt (thiếu trí tuệ).

Này chàng trai, ở đây có người nữ hay người nam nào đến gặp Sa-môn hay Bà-la-môn và hỏi: “Thưa ngài, thế nào là thiện và bất thiện?”… [sẽ tái sanh vào cõi trời hoặc nếu tái sanh vào cảnh giới loài người]… trở thành người sáng suốt hay uyên bác (đầy trí tuệ).

Vì thế, này chàng trai…, chúng sanh có nghiệp riêng của họ, là người thừa kế nghiệp của họ, sanh ra từ nghiệp của họ, dính dáng tới nghiệp của họ, dựa vào nghiệp của họ. Nghiệp phân chia chúng sanhtình trạng xấu tệ và có tình trạng tốt đẹp.

(Tiểu kinh Phân biệt nghiệp: Kinh Trung bộ III.203-206, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.68 Các trải nghiệm và các việc làm xấu, tốt không hẳn đều do nghiệp quá khứ hay do Thượng đế [ban cho], nhưng chúng cũng không phải là không có nguyên nhân

Đoạn kinh này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình, không đổ lỗi cho nghiệp/hành động đã làm trước đây, cũng không đổ lỗi cho Thượng đế, hay nói rằng mọi việc xảy ra ngẫu nhiên nên không có cách gì để làm chủ chúng. 

Này các Tỳ-kheo, có ba hệ thống giáo lý tôn giáo sau đây, khi được tìm hiểu thấu đáo, xem xét kỹ lưỡng và thảo luận tường tận, thì cuối cùng đưa đến chủ trương không có quả báo của nghiệp (vô nghiệp). Ba hệ thống đó là gì?

Có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương và quan niệm như thế này: “Bất kỳ trải nghiệm nào: dù vui, buồn, hay không vui cũng không buồn, tất cả đều do những việc đã làm (nghiệp) trong quá khứ.”

Có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương và quan niệm như thế này: “Bất kỳ trải nghiệm nào: dù vui, buồn, hay không vui cũng không buồn, tất cả đều do đấng tối cao tạo ra.”

Có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương và quan niệm như thế này: “Bất kỳ trải nghiệm nào: dù vui, buồn, hay không vui cũng không buồn, tất cả đều do ngẫu nhiên mà có (tức là không nguyên nhân, không điều kiện).”

Ở đây, này các Tỳ-kheo, Ta đến hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn về chủ trương [thứ nhất]: “Này các tôn giả, có thật chăng điều mà tôn giả đang chủ trương…?” Khi được hỏi như vậy, các vị ấy xác nhận điều này. Rồi Ta nói: “Này các tôn giả, nếu vậy, do nhân là những hành vi (nghiệp) trong quá khứ mà một người trở thành kẻ hủy hoại sự sống, kẻ lấy của không cho, kẻ thực hiện quan hệ tình dục,8 kẻ nói dối, kẻ nói lời thô xấu, lời chia rẽ, kẻ nói lời phù phiếm, kẻ có dục vọng mãnh liệt, tâm địa thù địchquan điểm lệch lạc? Đối với những ai đỗ cho nghiệp đã tạo trong quá khứsự thật không thể thay đổi, thì [người đó] sẽ không còn hứng thú cũng như không còn nỗ lực cho điều nên và không nên làm. Trong khi trên thực tế, sự thật là người sống mất chánh niệm tỉnh giác và thiếu phòng hộ không thể biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm, ngay cả với các “sa-môn” chính danh này cũng không áp dụng [những điều này] một cách đúng đắn. [Tương tự khi nói về hai chủ trương còn lại.]

8 [Vì đức Phật đang nói với các vị Sa-môn và Bà-la-môn] – là những người xuất gia, nên quan hệ tình dục là không phù hợp; với người tại gia, trong danh sách về hành động sai lầm thuộc thân, điều này được thay thế bằng “quan hệ tình dục bừa bãi” (tà dâm).

(Kinh Sở y xứ (hay Chấp giữ học thuyết): Kinh Tăng chi I.173­176, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.69 Cảm thọ và bệnh tật không phải đều do nghiệp quá khứ

Đoạn trích này phản biện khái niệm cho rằng tất cả những cảm thọ khó chịu [và bệnh tật] phát sanh đều do nghiệp quá khứ. Nghiệp có thể là một nguyên nhân, nhưng vẫn còn có những nguyên nhân khác như cơ địa, môi trường, hoặc do hành động sai lệch hoặc do sự cố gắng quá sức của chúng ta trong hiện tại. Do đó hiểu về nghiệp theo thuyết định mệnh là sai lầm

Ngồi xuống một bên, du sĩ Moliya Sīvaka thưa với Thế Tôn: “Thưa tôn giả Gotama, có một số Sa-môn và Bà-la-môn tuyên bố và chủ trương quan điểm như vầy: “Bất kỳ trải nghiệm nào: dù vui, buồn, hay không vui cũng không buồn, tất cả đều do những việc đã làm (nghiệp) trong quá khứ.” Tôn giả Gotama nghĩ thế nào về điều này?”

“Này Sīvaka, có những cảm thọ cụ thể phát sinh do rối loạn chức năng của túi mật. Nên người đó phải tự biết rằng có những cảm thọ cụ thể phát sinh do rối loạn chức năng của túi mật. Đồng thời mọi người trên thế giới cũng đồng ý rằng có một số cảm thọ cụ thể phát sinh do rối loạn chức năng của túi mật. Này Sīvaka, những Sa-môn và Bà-la-môn nào tuyên bố và chủ trương quan điểm như vầy: “Bất kỳ cảm thọ nào: dù vui, buồn, hay không vui cũng không buồn, tất cả đều do những việc đã làm (nghiệp) trong quá khứ,” [những vị ấy] đã bỏ lỡ điều họ vừa hiểu ra, họ cũng bỏ lỡ điều mà mọi người trên thế giới chấp nhận là đúng [sự thật]. Vì thế, Ta nói đây là quan điểm sai lầm (tà kiến) của các vị Sa-môn, Bà-la-môn này.

Này Sīvaka, có những cảm thọ cụ thể phát sinh do bởi rối loạn chất nhầy (đờm)… đầy hơi… hoặc tập hợp của các triệu chứng này… chuyển mùa… sử dụng đồ vật sai cách… quá sức9… hoặc do tái sanh như kết quả của nghiệp.10

9 Opakkamikari ở đây có thể hiểu là “quá sức” [vì đây là nguyên nhân có thể gây bệnh hoặc cảm giác khó chịu], mặc dù nó cũng có nghĩa là “sự tấn công” của kẻ khác.

10 Trong Kinh Tăng chi -Anguara-nikāya V.10, những điều này được xem như một danh sách các nguyên nhân khả thi gây ra bệnh chứ không hẳn là “cảm thọ” (vedayita).

(Kinh Du sĩ Sīvaka: Kinh Tương ưng IV.230-231, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.70 Nhân cách tốt có thể chuyển nghiệp quả của các điều xấu ác

Đoạn trích này giải thích rằng cùng hành động xấu nhưng không nhất thiết lúc nào cũng nhận nghiệp quả với mức độ tương tự, vì theo lẽ thường bản chất của một người bị đánh giá là có tật xấu sẽ luôn khuếch đại kết quả của hành vi xấu cụ thể nào đó, trong khi theo lẽ thường bản chất của một người được công nhận là có đức tính tốt sẽ làm vơi bớt kết quả của hành vi xấu tương tự như trên. (Tham chiếu *M.41).

Này các Tỳ-kheo, có người như vầy: “Khi thực hiện hành động theo cách như thế nào, thì người đó nhận kết quả tương ứng với cách đó.” Này các Tỳ-kheo, nếu quả thật như vậy, thì việc sống thánh thiện không còn ý nghĩa gì và cũng không còn cơ hội nào để hoàn toàn chấm dứt khổ đau. Này các Tỳ-kheo, có người nói như vầy: “Dù theo bất cứ cách gì, [kết quả của] hành động do người đó đã làm sẽ được thọ nhận, người đó sẽ thọ nhận kết quả tương ứng với cách đó.” Này các Tỳ-kheo, nếu quả thật như vậy, thì việc sống thánh thiện không còn ý nghĩa gì và cũng không còn cơ hội nào để hoàn toàn chấm dứt khổ đau.

Ở đây, này các Tỳ-kheo, có người tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt nào đó mà khiến người đó đọa vào địa ngục. Ở đây, này các Tỳ-kheo, cũng có người khác tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt tương tự, nhưng [quả báo của nó] lại được hóa giải (trả) ngay trong kiếp này: không có quả báo nào phải thọ nhận ở đời sau nữa, không còn phát sinh thêm bất kỳ vấn đề nào liên quan đến quả báo về sau nữa. 

Kiểu người nào tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt mà khiến người đó đọa vào địa ngục? Ở đây, này các Tỳ-kheo, người nào có tính cách không được trau dồi, kỷ luật đạo đức không được trau dồi, tâm hồn không được trau dồi, trí tuệ không được trau dồi; tính nết hẹp hòi, nhỏ mọn, sống đau khổ vì những thú nhỏ nhặt. Trong trường hợp này kiểu người như vậy chỉ tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt thôi cũng khiến người đó đọa vào địa ngục.

Kiểu người nào tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt tương tự, nhưng [quả báo của nó] lại được hóa giải (trả) ngay trong kiếp này: không có quả báo nào phải thọ nhận ở đời sau nữa, không còn phát sinh thêm bất kỳ vấn đề nào liên quan đến quả báo về sau nữa. Ở đây, này các Tỳ-kheo, người nào có tính cách được trau dồi, kỷ luật đạo đức được trau dồi, tâm hồn được trau dồi, trí tuệ được trau dồi; tính nết không hẹp hòi, mà rộng rãi, sống với [lòng từ] vô hạn.11 Trong trường hợp này kiểu người như vậy có tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt tương tự, nhưng [quả báo của nó] lại được hóa giải (trả) ngay trong kiếp này: không có quả báo nào phải thọ nhận ở đời sau nữa, không còn phát sinh thêm bất kỳ vấn đề nào liên quan đến quả báo về sau nữa.

Ví như, này các Tỳ-kheo, có người lấy một ít muối và bỏ vào một bát nước nhỏ – này các Tỳ-kheo, các vị có nghĩ rằng số muối ít ỏi này sẽ làm bát nước bị mặn và không thể uống được hay không? Chính xác là vậy, thưa Thế Tôn. Vì lý do gì? Vì nước trong bát nhỏ này ít, nên do xíu muối này mà nước trở nên mặn và không thể uống được. Ví như, này các Tỳ-kheo, có người ném một ít muối vào dòng sông Hằng – này các Tỳ-kheo, các vị có nghĩ rằng nước sông Hằng sẽ mặn vì ít muối này và không thể uống được hay không? Dạ không, thưa Thế Tôn. Vì lý do gì? Vì lượng nước sông Hằng quá lớn, không vì ít muối này mà nước sẽ trở nên mặn và không thể uống được.”

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có người tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt nào đó mà khiến người đó đọa vào địa ngục… cũng có người khác tạo nghiệp xấu nhỏ nhặt tương tự, nhưng [quả báo của nó] lại được hóa giải (trả) ngay trong kiếp này: không có quả báo nào phải thọ nhận ở đời sau nữa, không còn phát sinh thêm bất kỳ vấn đề nào liên quan đến quả báo về sau nữa.

(Kinh Hạt muối: Kinh Tăng chi I.249-250, do P.D. dịch tiếng Anh).

Th.71 Tự quyết định tái sanh của mình

Đoạn trích này giải thích rằng một người, thông qua quá trình trau

11 Có thể có nghĩa là những phẩm chất “vô hạn” của lòng từ, bi, hỷ, xả.

dồi đạo đức, trí tuệ cùng nghị lực mạnh mẽ, có thể được tái sanh với những điều kiện tốt như mong muốn. 

“Này các Tỳ-kheo, bất kỳ một Tỳ-kheo nào sống thấm nhuần niềm tin, học hỏi, hào phóng và trí tuệ, vị ấy nghĩ: “Mong rằng ta sẽ được sanh vào gia tộc giàu sang thuộc giai cấp cai trị sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc!” Rồi nuôi dưỡng mong muốn ấy, kiên trì với mong muốn ấy, phát huy mong muốn ấy, khi các hoạt động tinh thần cũng như lối sống được phát huy và trau dồi theo cách thức này, sẽ đưa đến sự tái sanh tại đó. Này các Tỳ-kheo, đây là con đường, là cách thức tái sanh tại nơi đó.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, bất kỳ Tỳ-kheo nào sống thấm nhuần niềm tin,… vị ấy nghĩ: “Mong rằng ta sẽ được sanh vào gia tộc giàu sang thuộc giai cấp Bà-la-môn… hay gia tộc giàu sang trong số các gia chủ… sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc!” Rồi nuôi dưỡng mong muốn ấy ... Này các Tỳ-kheo, đây là con đường, là cách thức tái sanh tại nơi đó.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, bất kỳ một Tỳ-kheo nào sống thấm nhuần niềm tin,… và được nghe rằng cõi trời Bốn thiên vương có tuổi thọ lâu dài, có dung mạo đẹp đẽ, tràn đầy hạnh phúc. Vị ấy nghĩ: “Mong rằng ta sẽ được sanh vào cõi trời Bốn thiên vương… sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc!” Rồi nuôi dưỡng mong muốn ấy ... Này các Tỳ-kheo, đây là con đường, là cách thức tái sanh tại nơi đó.12

(Kinh Hành sanh: Kinh Trung bộ III.99-104, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.72 Nghiệp có thể trổ quả chậm, hơn nữa, quan điểm và thái độ lúc sắp chết là điều quan trọng 

Đoạn trích thứ nhất xuất hiện sau phần trình bày rằng những vị

12 Điều tương tự được lặp lại liên quan đến sự tái sanh trong tất cả các cõi trời được thừa nhận trong bài kinh này và cuối cùng được trình bày rằng có cách thức trau dồi, phát triển các hoạt động tinh thần có thể đưa đến sự hủy diệt mọi khuynh hướng không lành mạnh (lậu hoặc) – cái trói buộc [và dẫn dắt] một người tái sanh trong tương lai, đạt đến sự giải thoát cuối cùng.

có tầm nhìn siêu nhiên dựa trên nền tảng của định (thiên nhãn thông) thấy được cách chúng sanh tái sanh như thế nào, nên cẩn thận để không quá tổng quát hóa với trải nghiệm của chính mình. Người xấu thường, nhưng không phải luôn luôn, tái sanh vào cảnh giới xấu ở đời sau; đôi khi cũng có thể tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp. Người tốt thường, nhưng không phải luôn luôn, tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp ở đời sau; đôi khi cũng có thể tái sanh vào cảnh giới xấu. Do đó không nên quả quyết một cách cứng nhắc rằng tất cả người xấu sẽ tái kiếp vào cảnh giới xấu, tất cả người tốt sẽ tái kiếp vào cảnh giới tốt đẹp, cũng không nên cho rằng tư cách của một người không liên quan đến việc tái sanh trong tương lai. Điều này được giải thích như sau: Có thể có một loại nghiệp quá khứ đối lập sẽ quyết định sự tái sanh kế tiếp của người đó, hoặc họ có thể thay đổi cách nhìn của mình về sự việc khi cái chết cận kề. Người xấu có lẽ sẽ hối hận về những hành vi xấu của mình và tin chắc rằng hành động tốt là quan trọng – một loại “chuyển hóa lúc lâm chung” – hoặc người tốt có thể cực kỳ hối hận về những điều tốt của mình – một loại “thoái hoá lúc lâm chung.” Những việc làm xấu và tốt của con người đều luôn có kết quả của nó, nhưng có thể ở trong kiếp sống sau. 

Đoạn trích thứ hai được đức Phật trình bày cho một phú hộ, hơi keo kiệt về vấn đề làm phước cúng dường và cảm thấy hổ thẹnđiều đó. Đức Phật bảo đảm với ông rằng tất cả những hành động tốt đẹp và tử tế dù ít đi chăng nữa, đều sẽ mang lại kết quả [tốt đẹp] và ông không nên xấu hổ hay nghĩ rằng nó sẽ không có kết quả tốt đẹp trong tương lai. 

Này Ānanda, ở đây có kẻ giết chóc mọi loài, trộm cướp, sai lầm bừa bãi trong việc hưởng thụ các khoái lạc giác quan, nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô xấu, nói lời phù phiếm, dục vọng mãnh liệt, tâm sân hận và có quan điểm sai lầm (tà kiến) – người ấy, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục. Người đó [cũng] có thể đã làm những việc xấu ác trước đó nên có khả năng đưa đến cảm thọ khổ đau, hoặc người đó có thể đã làm như vậy sau này, hoặc người đó đã ấp ủ và tin theo những quan điểm sai lầm vào lúc sắp chết (lâm chung). Vì điều này sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc sẽ tái sanh vào… địa ngục. Vì người ấy đã giết chóc mọi loài,… tin theo những quan điểm sai lầm, nên sẽ thọ nhận quả báo ở đời này, đời sau hoặc đời sau nữa.  

Này Ānanda, ở đây có kẻ giết chóc mọi loài… tái sanh… ở cõi trời. Người ấy cũng có thể đã làm các việc tốt trước đây nên có khả năng đưa đến cảm giác an vui, hoặc người đó có thể đã làm như vậy sau này, hoặc người đó đã ấp ủ và tin theo những tầm nhìn chân chính (chánh kiến) vào lúc sắp chết. Vì điều này… sẽ tái sanh vào… cõi trời. Vì người ấy đã giết chóc mọi loài,… tin theo những quan điểm sai lầm, nên sẽ thọ nhận quả báo ở đời này, đời sau hoặc đời sau nữa.  

Này Ānanda, ở đây có người từ bỏ giết chóc mọi loài,… và có tầm nhìn chân chính – người ấy, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sanh vào cảnh giới an lành, cõi trời. Người đó cũng có thể đã làm những việc tốt đẹp trước đó nên có khả năng đưa đến cảm thọ an vui, hoặc người đó có thể đã làm như vậy sau này, hoặc người đó đã ấp ủ và tin theo những tầm nhìn chân chính vào lúc sắp chết. Vì điều này… sẽ tái sanh… vào cõi trời. Vì người ấy đã từ bỏ giết chóc mọi loài,… tin theo những tầm nhìn chân chính, nên sẽ thọ nhận kết quả ở đời này, đời sau hoặc đời sau nữa. 

Này Ānanda, ở đây có người từ bỏ giết chóc mọi loài, từ bỏ trộm cướp,… và có tầm nhìn chân chính – người ấy, sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc, sanh vào… địa ngục. Người đó cũng có thể đã làm những việc xấu ác trước đó nên có khả năng đưa đến cảm thọ khổ đau, hoặc người đó có thể đã làm như vậy sau này, hoặc người đó đã ấp ủ và tin theo những quan điểm sai lầm vào lúc sắp chết. Vì điều này sau khi thân thể tan rã, mạng sống kết thúc sẽ tái sanh vào… địa ngục. Vì người ấy đã từ bỏ giết chóc mọi loài,… tin theo những quan điểm sai lầm, nên sẽ thọ nhận quả báo ở đời này, đời sau hoặc đời sau nữa.  

(Đại kinh Phân biệt nghiệp: Kinh Trung bộ III.214-215, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Chớ khinh việc tốt nhỏ, [nghĩ rằng] “không trở lại với mình”.

Chỉ những giọt nước nhỏ, bình nước sẽ được đầy.

Cũng vậy, người có trí, được thiện nghiệp rót đầy,

Cho dù phải tích lũy, từng chút từng chút một.

(Kinh Pháp cú 122, do P.H. dịch tiếng Anh).

NHỮNG ẨN Ý VỀ NGHIỆP VÀ TÁI SANH HỖ TRỢ THÁI ĐỘ ĐỐI NHÂN XỬ THẾ

Th.73 Các bạn cũng đã từng trải nghiệm điều này

Đoạn trích này nhấn mạnh rằng, trong một số đời trước nào đó, chúng ta ắt hẳn đã từng trải nghiệm những điều tương tự với các trải nghiệm xấu tệ và tốt đẹp mà hiện tại người khác đang trải nghiệm. Do đó đồng cảm với những người đang đau khổ và không chấp giữ vào cảm thọ tốt [của mình], là người thông thái (trí)

Này các Tỳ-kheo, vòng lưu chuyển luân hồi này cứ tiếp tục mà không có điểm khởi đầu được khám phá. Không thể nhận biết được điểm đầu tiên của chúng sanh đang trôi lăn và lưu chuyển trong vòng luân hồi. Khi các vị thấy có người bị rơi vào cảnh khó khăn, bị chao đảo vì những bất hạnh, các vị nên kết luận rằng: “Chúng ta, cũng vậy, đã vừa trải qua những điều này trong khoảng thời gian dài, rất dài trước đây.”…

Khi các vị thấy có người hạnh phúcmay mắn, các vị nên kết luận rằng: “Chúng ta cũng vậy, đã vừa trải qua những điều như vậy trong khoảng thời gian dài, rất dài trước đây.”…

(Kinh Bất hạnhMay mắn Kinh Tương ưng II.186-187, P.H. dịch tiếng Anh).

Th.74 Gặp lại thiện tri thức của ta trong các đời trước

Đoạn này nhấn mạnh việc ta đã chia lìa lục thân quyến thuộc trong vô số đời trước như thế nào. Do đó ta không nên mong muốn tái sanh thêm lần nữa. Đoạn này cũng ngụ ý rằng hầu hết các chúng sinh mà ta gặp từng họ có lẽ đã từng đối tốt với ta, như một quyết thuộc thân thiết, trong vài kiếp trước, do đó bây giờ ta phải tử tế với họ - ngay cả khi họ đang gây ra cho ta đau khổ.

Này các Tỳ-kheo, vòng luân hồi cứ tiếp tục mà không có khởi điểm được khám phá. ... Chẳng dễ gì tìm thấy một người chưa từng là mẹ ta một kiếp nào đó trong quá khứ, … một người chưa từng là cha ta … là anh ta … là chị … là con trai … là con gái của ta một kiếp nào đó trong quá khứ. Do đó đã từ rất lâu ta đã lãnh thọ đau đớn, lãnh thọ phiền não, lãnh thọ tai ương, chứng kiến ngày càng nhiều các mộ phần – đủ để khiến các vị tỉnh ngộ thoát khỏi tất cả vật chấtđiều kiện, đủ để trở nên bình thản, đủ để được giải thoát.

(Sáu kinh quyến thuộc: Kinh Tương ưng II.189, P.H. dịch tiếng Anh).

ĐỜI NÀY VÀ TẤT CẢ CÁC KIẾP TÁI SANH ĐỀU DẪN ĐẾN GIÀ, BỆNH VÀ CHẾT

Th.75 Không một thứ có điều kiện nào tồn tại vĩnh cữu

Những câu kệ này đã được thiên chủ Sakka thốt lên ngay khi đức Phật diệt độ. Bài kệ này thường được tụng trong các tang lễ Phật giáo. 

Vô thường, kỳ thực, là những thứ có điều kiện

Bản chất của chúng là sinh và diệt.

Đã sanh, tất phải diệt:

Tĩnh lặng là an lạc.

(Kinh Đại Bát-niết-bàn: Kinh Trường bộ II.157, G.A.S. dịch tiếng Anh).

“Này các Tỳ-kheo, các vị có thể cầm trong tay một vật bất kì mà quý vị khao khát, vật đó tồn tại vĩnh cửu, đời đời, bất diệt và không biến dịch. Này các Tỳ-kheo, kỳ thực các vị có thấy một vật nào như thế để nắm giữ không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn.” “Lành thay! Ta cũng không thấy vật nào như vậy.” 

(Kinh Ví Dụ Con Rắn: Kinh Trung Bộ I.137, P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.76 Mong manh kiếp sống nhân sinh

đoạn trích này, một vị A-la-hán xuất thân từ một gia đình giàu có giải thích cho vua về sự mong manh của đời người.

“Thưa đức vua, có bốn giáo pháp chi tiết đã được Thế Tôn giải thích tỉ mỉ… Đầu tiên, thế giới không bền vững và đang dịch chuyển hướng đến sự chấm dứt của nó. Thứ hai, thế giới không có biện pháp phòng hộ hay bảo vệ (tức thiếu sự an toàn). Thứ ba, không có ai là chủ sở hữu của thế giới, khi ra đi con người phải bỏ lại tất cả. Thứ tư, thế giới thì không đủ và [con người] trở thành nô lệ cho chính khát khao không cùng tận [của mình].” 

“Tôn giả Raṭṭhapāla đã nói rằng thế giới không bền vững và đang dịch chuyển hướng đến sự chấm dứt của nó. Ý nghĩa của lời nói này cần được hiểu như thế nào?” “Thưa đức vua, có phải khi Ngài hai mươi hay hai mươi lăm tuổi, Ngài rất giỏi cưỡi voi, cưỡi ngựa, đánh xe, [thiện nghệ trong việc] bắn cung và múa kiếm, tay chân khỏe mạnh, có tài năng và kỹ thuật trong chiến trận?” “Đúng vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla. Tôi từng như thế, thậm chí nhiều lần tôi đã rất phấn khởi vì không thấy ai có sức mạnh sánh bằng mình.” “Thưa đức vua, Ngài có nghĩ rằng, hiện tại Ngài vẫn giống như trước đây?” “Không như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, nay tôi đã già yếu, đã đi đến cuối đời và đã sống đến tuổi thọ của mình. Tôi nay tuổi đã tám mươi tuổi. Có đôi lúc, đầu nghĩ bước sang hướng này nhưng tôi lại bước sang hướng kia.” “[Thưa đức vua,] chính vì điều này mà Thế Tôn đã nói rằng thế giới không bền vững…”

“Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, ở trong vương triều này có đội quân voi, đội quân ngựa, đội quân xe và đội quân bộ. Chẳng may gặp nguy khốn thì các quân binh này sẽ bảo vệ chúng ta. Tôn giả Raṭṭhapāla nói rằng là thế giới không có biện pháp phòng hộ hay bảo vệ. Ý nghĩa của lời nói này cần được hiểu như thế nào?” “Thưa đức vua, Ngài nghĩ thế nào? Ngài có căn bệnh mãn tính nào không?” “Tôi có, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla. Đôi khi bạn hữu và các quan thần, người thân gia đình đứng quanh tôi nghĩ rằng: “Nay vua nước Kuru sẽ băng hà.” “Thưa đại vương, Ngài nghĩ thế nào về câu nói ấy? Liệu Ngài có mong đợi rằng: “Để bạn hữu và các quan thần, người thân gia đình của tôi đến và chia sẻ cơn đau của tôi để cơn đau này vơi nhẹ đi hay chính Ngài sẽ chịu đau đớn một mình?” “Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tự tôi phải chịu cơn đau đó.” “[Thưa đại vương,] chính vì điều này mà Thế Tôn đã nói rằng thế giới không có biện pháp phòng hộ…” 

“Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, ở vương triều này có rất nhiều tiền vàng và vàng ròng cất chứa cả trong lòng đất (chôn ở dưới) lẫn trên bầu trời (trên mặt đất). Nhưng Tôn giả Raṭṭhapāla nói rằng không có ai là chủ sở hữu của thế giới, khi ra đi con người phải bỏ lại tất cả. Ý nghĩa của lời nói này cần được hiểu như thế nào?” “Thưa đại vương, Ngài nghĩ thế nào? Hiện tại, Ngài đang hưởng thụ đầy đủ năm thứ khoái lạc13 cuộc đời. Liệu sau này Ngài cũng sẽ hưởng thụ như vậy và nói: “Tôi đang có đầy đủ năm thứ khoái lạc cuộc đời và hưởng thụ chúng,” hay người khác sẽ chiếm hữu mọi thứ quý giá này và Ngài sẽ ra đi [vào lúc bằng hà] theo nghiệp của mình?” “Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi sẽ không có được sự hưởng thụ như vậy. Người khác sẽ chiếm hữu mọi thứ quý giá này, còn tôi sẽ phải ra đi theo nghiệp của mình.” “[Thưa đức vua,] chính vì điều này mà Thế Tôn đã nói rằng không có ai là chủ sở hữu của thế giới, khi ra đi con người phải bỏ lại tất cả.”

“Tôn giả Raṭṭhapāla nói rằng thế giới thì không đủ và [con người] trở thành nô lệ cho chính khát khao không cùng tận [của mình]. Ý nghĩa của lời nói này cần được hiểu như thế nào?” “Thưa đức vua, Ngài nghĩ thế nào? Phải chăng Ngài đang cai trị vương quốc Kuru phồn thịch này?” “Chính thế, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla. Tôi đang cai trị vương quốc Kuru phồn thịch này.” “Thưa đại vương, Ngài nghĩ thế nào? Giả sử có một người chính trựcđáng tin cậy từ phương Đông đến và tâu rằng, “Tâu đại vương, Ngài có biết chăng tôi từ phương Đông đến và tôi thấy ở đó có một vùng định cư rộng lớn, giàu cóthịnh vượng, dân cư đông đúc chật kín người… có thể xâm chiếm nó bằng sức mạnh quân sự như vậy. Tâu đại vương, hãy xâm chiếm nó!” Vậy đại vương có làm theo không?” “Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi sẽ xâm chiếm và cai trị vùng dân cư ấy.” “[Thưa đức vua,] chính vì điều này mà Thế Tôn đã nói rằng thế giới thì không

13 Sự khoái lạc do hình ảnh, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm của cơ thể mang lại. (Kinh Trung bộ - Majjhima-nikāya III.234.)

đủ và [con người] trở thành nô lệ cho chính khát khao không cùng tận [của mình].”

(Kinh Raṭṭhapāla: Kinh Trung bộ II.70-73, do P.D.P. dịch tiếng Anh).

Th.77 Cái chết là điều không thể tránh khỏi, hãy chấp nhận

Đoạn này nhấn mạnh rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi: Vậy khi nó xảy ra ưu sầu có ích gì?

Sự sống [con người] trong đời này, khó đoán, không biết chắc. Ngắn ngủi và gian nan, lại phủ đầy đau khổ.

Chẳng có phương cách nào, đã sanh mà không chết. Sanh, già rồi lại chết, là định luật cuộc đời, muôn loài đều như vậy.

Như trái cây đã chín, sợ rụng buổi sớm mai, cũng vậy mọi con người, đều lo sợ cái chết.

Như tất cả nồi đất, do thợ gốm làm nên, cuối cùng cũng vỡ tan, đời người là như thế.

Trẻ em và người lớn, kẻ ngốc và người khôn. Tất thảy đều nằm trong, vòng quay của cái chết, tất thảy đều đầu hàng, trước cánh cửa tử thần.

Khi một người đã chết, bước vào kiếp sống sau, cha chẳng cứu được con, bà con quyến thuộc, cũng không thể cứu được.

Hãy xem các thân quyến, đứng nhìn và than khóc, từng cái chết ra đi, như gia súc bị giết!

Như vậy, người đời này, đớn đau bởi già, chết. Bậc hiền trí biết rõ, bản chất của cuộc đời, nên chẳng ưu chẳng sầu.

Những ai không biết rõ, từ đâu đến [rồi sẽ] về đâu, hai hướng đều không biết, than khóc cho người đó, cũng chẳng có ích gì.

Nếu tiếng khóc kẻ ngu, mang lại chút lợi ích, người trí cũng sẽ làm, dù khiến mình tổn hại.

Ưu sầu và than khóc, không làm tâm bình lặng. Nó làm tăng đau buồn, chỉ tổn hại bản thân.

Người tổn hại chính mình, thân tàn, thần thái xấu, người chết chẳng sống lại, than khóc có ích gì.

Người không xả ưu sầu, sẽ gánh nhiều đau khổ, càng rên khóc người chết, càng xoáy vào đau thương.

Hãy quán sát người chết, mang theo nghiệp đã tạo, thần chết chi phối cả, ở đây thật run sợ.

Những gì ta tìm kiếm, để định dạng bản thân, nó trở nên khác biệt, với những gì ta mong.14 Mất mát cũng như vậy – là bản chất cuộc đời.

Cho dù chàng trai trẻ, sống đời trăm năm hơn, đau khổ lìa thân quyến, rồi bỏ mạng nơi này.

Do vậy hãy lắng nghe, lời của A-la-hán, khi thấy người mạng chung, gạt bên lời than khóc: “Ta không giữ được nó”.

Như ngôi nhà đang cháy, nhờ nước được dập tắt, người có trí, sâu sắc, uyên bác và khéo léo, nhanh chóng buông bỏ sầu, khi nó được sanh ra, như một làn gió đến, thổi bay miếng bông gòn.

Khóc, buồn đau, mong cầu, như mũi tên găm vào ta, ai từ tìm an lạc, nên nhổ mũi tên ra.

Tên đã rút, không vướng, có được tâm an lạc, vượt mọi thứ ưu sầu, đau khổ cũng không còn, lửa dục vọng dập tắt.

(Kinh Salla: Kinh tập 574-593, do P.D.P. dịch sang tiếng Anh).

Th.78 Tìm cầu khoái lạc cuộc đời dẫn đến phiền não như thế nào

Đoạn trích này, sau khi bàn về niềm an vui cao quý trong trạng thái an tĩnh của thiền, thì chỉ ra những nguy hiểm và tổn hại khi đuổi theo các khoái lạc tình dụccác loại khoái lạc khác của cuộc đời, điều mà người đời thường làm là: đương đầu với áp lực trong mưu sinh, với thất bại trong mưu sinh, với những mất mát thành quả lao động của mình, tranh chấp và gây chiến để giành quyền sở hữu có thể dẫn đến nạn cướp bóc và trừng phạt, [điều này] kéo theo

14 Điều này cho thấy rằng dù chúng ta mong đợi mọi thứ ổn định, không thay đổi và tiếp tục là “của tôi,” nhưng chúng không bao giờ duy trì được như vậy. 

việc tái sanh vào cõi dữ do bởi các việc làm sai lầmđộng cơ đến từ tham đắm các loại khoái lạc giác quan.

Này Mahānāma, mặc dù các đệ tử thánh bằng trí sáng thích đáng (chánh trí) thấy một cách thật rõ ràng rằng các khoái lạc cuộc đời chỉ mang lại xíu niềm vui, nhưng nhiều phiền não khổ đau, nhiều tai ương và cũng thật nhiều nguy hiểm, cho đến khi nào họ có được niềm an vui và thanh thản ngoài các thú vui tính dục và ngoài các trạng thái không lành mạnh, hoặc đạt được niềm an vui và thanh thản cao hơn,15 thì họ mới chấm dứt không tìm về các khoái lạc cuộc đời nữa… Này Mahānāma, thế nào là sự hấp dẫn (vị ngọt) của các khoái lạc cuộc đời?

Có năm nhóm loại khoái lạc ở đời này. Năm nhóm đó là gì? (1) Các hình dáng hay sắc thái được mắt nhìn thấy, dễ thương, xinh đẹp, thú vị, quyến rũ, phù hợp với các ham muốn giác quan [của con người]; hơn nữa, (2) các thanh âm do tai nghe được, dễ thương, ngọt ngào,… (3) các mùi hương được mũi nhận biết, lôi cuốn, dễ chịu… (4) các vị nếm được lưỡi nhận biết, lôi cuốn, dễ chịu… (5) các xúc chạm cơ thể qua thân, lôi cuốn, dễ chịu ... phù hợp với các ham muốn giác quan (của con người). Bất kỳ sự thích thúsung sướng nào có được từ năm nhóm khoái lạc giác quan này, thì đó được gọi là sự hấp dẫn của chúng.

Này Mahānāma, thế nào là sự nguy hiểm của các khoái lạc giác quan? Ở đây, có một thiện nam phải làm việc kiếm sống16… phải chấp nhận thời tiết nóng lạnh, phải chấp nhận nguy hiểm khi tiếp xúc với ruồi, muỗi, phải đối mặt với gió, hơi nóng, rắn rết, phải chịu nguy cơ của việc chết đói, chết khát. Đây là sự nguy hiểm của các khoái lạc giác quan ngay trong hiện tại, rồi hàng loạt lo âu khắc khoải, khổ đau vì các khoái lạc giác quan, sinh khởi từ các khoái lạc giác quan, chúng là nguyên nhân, là điều kiện chứ không phải bất cứ tác nhân nào khác.

Thiện nam này, mặc dù cố gắng và phấn đấu hết mình, nhưng [có lúc] cũng không tạo ra được tài sản. Rồi họ ưu sầu và buồn khổ,

15 Đó là, ít nhấtđạt được trạng thái thiền bậc một (sơ thiền), với niềm vui sướng và nhẹ nhàng tràn ngập khắp cơ thể.

16 Để có được những điều vị ấy muốn, cũng như để nuôi vợ và gia đình.

đấm ngực khóc than, trở nên bất lực nghĩ rằng: “Cố gắng của ta thật vô ích, phấn đấu của ta thật thảm hại.” Đây cũng là nguy hiểm của các ham muốn khoái lạc… Hoặc [có khi] thiện nam này cố gắng và phấn đấu hết mình nên tạo ra tài sản. Rồi họ trải qua khổ sở, âu lo về tinh thần khi phải bảo vệ tài sản của mình, nghĩ rằng: “Mong sao tài sản của ta không bị vua chiếm đoạt, không bị trộm cướp mất, không bị hỏa hoạn thiêu cháy, không bị nước lũ cuốn trôi hoặc bị những kẻ không đáng được thừa kế sở hữu.” Dù có canh chừng và bảo vệ tài sản, nhưng chúng vẫn rơi vào tình cảnh bị vua chiếm đoạt… Rồi người ấy than vãn… nghĩ rằng: “Bất cứ thứ gì ta có, giờ nó cũng không thuộc về ta nữa.”

Lại nữa, này Mahānāma, vì ham muốn các khoái lạc cuộc đời… vua tranh chấp với vua, giai cấp thống trị tranh chấp với giai cấp thống trị, tầng lớp giáo sĩ (Bà-la-môn) tranh chấp với tầng lớp giáo sĩ, các địa chủ, thương gia tranh chấp với các địa chủ, thương gia, mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp với mẹ, cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha, anh em tranh chấp với anh em, bạn bè tranh chấp với bạn bè. Từ đây họ dính vào các vụ tranh chấp, xung đột, tranh đoạt, tấn công lẫn nhau bằng tay, bằng đá, bằng gậy và bằng vũ khí. Từ đó dẫn nhau đến cái chết và cơn đau chí tử.

Lại nữa này Mahānāma, vì ham muốn các khoái lạc cuộc đời, họ cầm kiếm và khiên, vai mang cung tên, hai phe đồng tiến vào trận đánh. Khi mũi tên được bắn, phi lao được phóng, thanh gươm vung nhanh như tia chớp, họ bị bắn bởi mũi tên, đi đâm bởi lao, họ chém giết nhau bằng kiếm. Từ đó dẫn nhau đến chỗ chết và cơn đau chí tử…

Lại nữa, vì các ham muốn khoái lạc cuộc đời… những tên trộm đột nhập vào nhà, cướp bóc, lấy trộm, phục kích, hãm hiếp vợ người khác. Vua bắt chúng và trừng phạt bằng nhiều hình phạt khác nhau. Họ trói chúng rồi đánh bằng gậy, hoặc đánh bằng roi, hoặc quất bằng dây thừng, hoặc đập bằng gậy cứng. Chúng bị chặt tay, bị chặt chân… bị luộc trong dầu sôi, bị mang cho chó cắn, bị xiên sống lên ngọn giáo cho đến chết, bị kiếm chặt đầu.17 Đây cũng là sự nguy

17 Ở Ấn Độ cổ đại, các vị vua đôi khi sử dụng những hình phạt thật khủng khiếp – như những người ở phương Tây đôi khi cũng làm vậy.

hiểm của các khoái lạc giác quan ngay trong hiện tại, rồi hàng loạt lo âu khắc khoải, khổ đau vì các khoái lạc giác quan, sinh khởi từ các khoái lạc giác quan.

Lại nữa, này Mahānāma, vì ham muốn các khoái lạc cuộc đời… họ làm các việc sai lầm bằng thân, bằng lời nói và bằng suy nghĩ, bởi vì làm như vậy, nên sau khi chết họ sẽ tái sanh vào cảnh giới thống khổ, cõi xấu xa, đọa đày, địa ngục. Đây là mối nguy hiểm của các khoái lạc cuộc đờikiếp sau, với hàng loạt lo âu khắc khoải.

(Tiểu kinh Khổ uẩn: Kinh Trung bộ I.91-92, do P.D.P. dịch sang tiếng Anh).

ĐẠI THỪA

VŨ TRỤ CHÚNG TA

M.39 Cảnh quan vũ trụ

Đoạn trích này phác họa cảnh quan vũ trụ là hàng loạt dải ngân hà bao la, trong đó, một số dải ngân hà có đức Phật cư ngụ.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Samantabhadra (Bồ-tát Phổ Hiền) tiến đến hội chúng Bồ-tát nói rằng: “Này các Phật tử, những “đại dương đầy nước tỏa hương thơm” này, có số lượng nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật, trải dài vô tận như mạng lưới của Indra (Đế Thích: chúa tể các cõi trời), được kiến lập trong các đại dương của các dải ngân hà đang chuyển dịch theo quỹ đạo như hình dạng của đài hoa sen

Này chư Phật tử, tại tâm điểm [của các dải ngân hà trên] là một “đại dương đầy nước tỏa hương thơm” có tên là “Ánh sáng vô tận của hoa sen kỳ diệu” (Vô biên diệu hoa quang). Sâu thẳm dưới đáy đại dương là kho báu Vua Ngọc (Ma-ni vương), trong đó có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu tất cả các vị Bồ-tát. Một hoa sen thật lớn được gọi là “Vua của tất cả loại ngọc thơm” (Nhất thiết hương ma-ni vương) hiện lên từ đại dương này. Trên hoa sen này là một dải ngân hà được gọi là “Ánh sáng ngọc báu rực rỡ soi sáng mọi thứ ở mười hướng vũ trụ” (Phổ chiếu thập phương xí nhiên bửu quang minh) gồm tất cả mọi loại trang hoàng [lộng lẫy]. Số lượng hệ hành tinh (hệ mặt trời) nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật trải khắp dải ngân hà này. Bên dưới đóa sen có dải ngân hà được gọi là “Ánh sáng tối thượng soi sáng mọi thứ” (Tối thắng quang biến chiếu) được bao quanh bởi vành đai kim cương rực rỡ18 và tựa vào hoa sen [loài hoa] được làm bằng đa dạng các chất liệu quý giá. [Dải ngân hà này] có hình dạng như viên ngọc quý (ma-ni) và được bao quanh bởi những tầng mây đầy hoa sen làm bằng những chất liệu quý giá, tất cả được dàn trải và phân bố thích hợp. Ở tại dải ngân hà này có đức Phật được gọi là “Ngọn đèn nhìn thấu trong suốt không tì vết” (Tịnh nhãn ly cấu đăng) đang cư ngụ.

Vượt ngoài quỹ đạo của dải ngân hà trên, có số lượng dải ngân hà nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật, trong đó, có một dải ngân hà tên là “Trang trí đa dạng loại hoa sen thơm vi diệu” (Chủng chủng hương liên hoa diệu trang nghiêm). Dải ngân hà này được bao quanh bởi mọi loại trang hoàng [lộng lẫy] và tựa vào mạng lưới chằng chịt hoa sen được làm bằng chất liệu quý giá. Dải ngân hà này có hình dạng như bệ sư tử được bao phủ bởi các tầng mây mái vòm bằng ngọc quý đa màu sắc. Xung quanh nó là các dải ngân hà khác với số lượng nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật. Có đức Phật được gọi là “Ánh sáng sư tử chiếu soi” (Sư tử quang thắng chiếu) đang cư ngụ tại dải ngân hà này… (những mô tả tiếp theo là sự mô tả về mười bảy dải ngân hà kỳ diệu khác, trong mỗi dải ngân hà có một đức Phật đang cư ngụ và mỗi dải ngân hà có số lượng dải ngân hà xung quanh không thể kể xiết.)

Lại nữa, vượt ngoài quỹ đạo của các dải ngân hà trên, có số lượng dải ngân hà nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật, trong đó, có một dải ngân hà tên là “Ngọn đèn ngọc quý kỳ diệu” (Diệu bửu diệm). Dải ngân hà này được bao quanh bởi ngọc quý như ánh chiếu của mặt trờimặt trăngmọi nơi và tựa vào đại dương Vua Ngọc trong hình dáng phản chiếu tất cả thiên thần. Kết cấu của nó giống như viên ngọc quý được bao phủ bởi mạng lới những cây đèn

18 Các biểu tượng chỉ cho uy lực như sấm sét của tâm giác ngộ.

ngọc quý và những tầng mây được trang hoàng những chất liệu quý giá. Xung quanh nó là số lượng dải ngân hà nhiều như những hạt bụi trong vô số cõi Phật. Dải ngân hà này hoàn toàn thuần khiết và có đức Phật được gọi là “Chiếu sáng phước đức” (Phước đức tướng quang minh) đang cư ngụ.”

(Kinh Hoa Nghiêm, Đại Chánh, tập 10, đoạn 279, tr. 42b23-c09, do T.T.S. và D.S dịch tiếng Anh).

NGHIỆP

M.40 Chết không chấm dứt sự ảnh hưởng của nghiệp

Đoạn trích đầu phê bình quan điểm cho rằng nghiệp là hiện tượng tồn tại độc lập trong một thời gian, sau đó “làm nhân” gây ra những hiện tượng khác, [tuy nhiên] trên thực tế [quan điểm này] phủ nhận sự nối tiếp nhau trong chuỗi liên tục nhân-quả, vì vậy nó hàm ý một cách sai lầm rằng các hiện tượng trong hiện tại không có tác dụng nhân-quả, kể cả những hành vi (nghiệp) cũng không có ảnh hưởng đến tương lai. Đoạn trích sau nhấn mạnh rằng nghiệp tạo ra kết quả của nó trong tương lai.

Này Mahāmati (Bồ-tát Đại Huệ), có một số Sa-môn và Bà­la-môn tin rằng mọi thứ sẽ sinh ra sau khi [chúng] hoại diệt. Họ khẳng định rằng một sự vật hay hiện tượng [có mặt] là biểu hiện của nguyên nhân và kết quả, nó tồn tại theo thời gian, hơn nữa, [họ khẳng định rằng] các tổ hợp (uẩn), các yếu tố (xứ) và các nền tảng giác quan (giới) sanh ra và tiếp tục tồn tại dựa trên các nhân tố có điều kiện, hoặc họ tin tưởng rằng sau khi tồn tại, chúng hoại diệt. Này Mahāmati, họ nói rằng chuỗi liên tục nhân-quả, sự sanh khởi tác dụng, sự chấm dứt tác dụng, sự tồn tại tác dụng, sự vắng lặng (niết-bàn), con đường [giải thoát], kết quả của tác dụng (nghiệp quả) và chân lý đều bị hủy diệtkết thúc.19 Tại sao như vậy? Bởi vì họ chưa trực nhận chúng [đúng như thật] cũng như họ không thể thấu suốt nguồn gốc của chúng.

Này Mahāmati, [ví như] cái bát bị vỡ thì không còn tác dụng

19 Chủ trương học thuyết đoạn diệt. (ND)

như là cái bát, một hạt giống bị cháy thì không thể nảy mầm. Cũng vậy, này Mahāmati, nếu cho rằng sự tồn tại các tổ hợp (uẩn), các yếu tố (xứ) và các nền tảng giác quan (giới) đang kết thúc, bị buộc phải kết thúc, hay chắc chắn sẽ kết thúc, tức người đó chỉ đang thấy được tư duy hư cấu (tư duy mang tính ngôn ngữ) của chính tâm mình. [Do vậy,] không có chuỗi liên tục nhân-quả, mà chỉ có dòng chảy không gián đoạn của tư duy hư cấu.

(Kinh Lăng già, chương2, do D.S dịch tiếng Anh).

Ta thường nói tánh không, nằm ngoài thường và đoạn.

Sống-chết như giấc mộng tưởng – nhưng nghiệp không biến mất.20

(Kinh Lăng già, chương 2, v. 135, do D.S dịch tiếng Anh).

M.41 Sự vận hành linh hoạt của nghiệp quả

Đoạn trích này giải thích rằng dâng tặng cho người chuyên thực hành tâm linh,21 cho cha mẹ, hoặc cho người bệnh sẽ mang lại quả phước lớn hơn so với bố thí cho những người khác. Hơn nữa, một người có thể giảm trừ nghiệp quả của hành vi bất thiện nhờ vào trí tuệ uyên thâm (như trong *Th.70). Quả báo của việc làm xấu mà người trí đã làm sẽ đến trong đời này, với mức độ nhẹ hơn, thay vì sẽ đến trong đời sau với mức đnghiêm trọng hơn. Thậm chí người trí vượt qua các mặt hạn chế của thiện nghiệp, nhưng vì không có trí tuệ uyên thâm, nên chính thiện nghiệp này sẽ xoay chuyển vị ấy trong luân hồi. Kết quả của hành động (nghiệp quả) không vận hành một cách cứng nhắc, máy móc đồng nhất với bản chất và tình huống mà hành động (nghiệp) ấy được tạo nên, mà nghiệp quả vận hành linh hoạt hơn, dựa vào sự tương quan của các yếu tố tinh tế, [mối tương quan này] tạo điều kiện cho quá trình phát triển tâm linh của đời sống thánh thiện. Hơn nữa, đức Phật khi còn là một vị Bồ-tát, chính Ngài đã chọn địa ngục đtái sanh nhằm chuyển hoá các chúng sanh nơi ấy. 

20 Đức Phật thường dạy, mọi tồn tại đều có tính thể trống rỗng nằm ngoài chủ nghĩa nhị nguyên: một là trường tồn và hai là kết thúc. Vòng lưu chuyển luân hồi sống-chết giống như một giấc chiêm bao, giống như ảo ảnh, tuy nhiên các nghiệp đã tạo ra thì không biến mất. (ND)

21 Giống trong Kinh Trung bộ - Majjhima-nikāya III.254-255, nhưng có một vài chi tiết khác nhau không đáng kể.

Siṃhanāda (Bồ-tát Sư Tử Hống) thưa đức Phật rằng: “… Thưa Thế Tôn, điều được nói sau có ý nghĩa gì, trong kinh nói rằng (1) bố thí cho súc sanh sẽ được phước báo nhiều hơn gấp trăm lần [so với] vật được bố thí; (2) bố thí cho người chìm ngập trong dục vọng (Nhất-xiển-đề)22 thì phước báo nhiều hơn gấp ngàn lần [so với] vật được bố thí; (3) bố thí cho một người tuân thủ nguyên tắc đạo đức (giữ giới) thì phước báo nhiều hơn gấp trăm ngàn lần [so với] vật được bố thí; (4) bố thí cho một người ngoại đạo đã chấm dứt các phiền não thì phước báo không thể đếm xuể; (5) dâng tặng cho bốn hạng người đang thực tập con đường tu tập chuyển hoá hoặc đã chứng đắc quả thánh,23 cho đến các vị Phật Độc Giác thì phước báo thậm chí là vô lượng; (6) dâng cúng lên Bồ-tát không chuyển lui, lên các Bồ-tát trong kiếp sống cuối cùng của vị ấy, lên Như Lai, lên đức Phật thì phước báo vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Vậy những vị đạt được phước báo vô lượng, vô biên như vậy thì khi nào sẽ đạt được giác ngộ cao tột hoàn hảo?”  

“[Hơn nữa] thưa Thế Tôn, kinh cũng dạy rằng: “Những ai đã thực hiện các hành động tốt hay không tốt chắc chắn sẽ nhận lãnh kết quả của những hành động ấy ngay trong chính đời này, đời sau, hoặc đời sau nữa. [Như lời dạy sau:] “Này Cunda (Thuần-đà), ông đã làm những việc tốt đẹp với tấm chân tình. Những việc làm tốt đẹp này nhất định sẽ có phước báo.” Nếu chúng mang lại phước báo, vậy làm thế nào để một người đạt được giác ngộ cao tột hoàn hảo? Làm thế nào để người đó nhận chân được bản thể giác ngộ (Phật tánh) của mình?”24

“Thêm nữa, thưa Thế Tôn, kinh cũng dạy rằng phước báo của việc (1) biếu tặng cho người bệnh, (2) dâng tặng cho cha mẹ, hoặc

(3) cúng dường đến Như Lai thì không cùng tận. Lại nữa, thưa Thế

22 Nhất-xiển-đề (icchantika: người thiếu bản thể giác ngộ-Phật tánh), hay “chặt đứt” (các tố chất tốt đã bị chặt đứt hoàn toàn) , một người rất khó để giác ngộ [trong đời này] (xem thêm *V.1).

23 Những vị đang trên đại lộ hướng đến hoặc đã chứng đắc quả vị vào dòng thánh (Dự lưu), trở lui một lần (Nhất lai), không trở lui (Bất hoàn), Arahant (A-la-hán): Xem đoạn *Th.201.

24 Tức là, liệu người ấy sẽ không tiếp tục nhận lãnh quả của những thiện nghiệp trong luân hồi?

Tôn, kinh lại nói: “Phật bảo Ānanda rằng bất kỳ chúng sanh nào không tạo nghiệp trong cảnh giới đầy khát khao khoái lạc (dục giới) thì sẽ đạt được giác ngộ cao tột hoàn hảo.” Điều như vậy áp dụng trong cảnh giới hình sắc tinh tế (sắc giới) và trong cảnh giới tinh tế không hình sắc (vô sắc giới).25 Thưa Thế Tôn, như bài kệ trong Kinh Pháp cú nói: “Không bay lên bầu trời, không lặn dưới biển sâu, không ẩn trong hang núi, không đâu có thể trốn, nghiệp quả do mình làm…”26 Nếu là vậy, làm thế nào để một người nhận chân bản thể giác ngộ (Phật tánh) của chính mình và đạt được giác ngộ cao tột hoàn hảo?” 

Đức Phật đáp rằng: “Hay thay. Hay thay, này thiện nam. Chỉ có hai hạng người nhận được lợi ích của những việc làm tốt đẹp, mà các lợi ích này không thể đo lường được… các lợi ích này có thể ... khởi đầu làm di chuyển bánh xe chánh pháp tối thượng của Như Lai.27 Thứ nhất là người hỏi những câu hỏi tới nơi tới chốn, thứ hai là người đưa ra những câu trả lời tới nơi tới chốn.”

“Này thiện nam, trong số mười thần lực [trí tuệ] của Phật, thần lực [soi sáng thấu đáo] nghiệp báosâu xa nhất. Này thiện nam, có những người suy nghĩ không thấu đáo [nên] không có niềm tin vào quy luật nhân quả nghiệp báo. Để độ thoát những người như vậy, nên Ta nói ra điều này: “Này thiện nam, tất cả các loại nghiệp, dù nhẹ hay nặng, thì mỗi loại nghiệp lần lượt sẽ có hai đặc tính: kết quả hoặc cố định (không thay đổi được) hoặc biến thiên (tùy biến theo điều kiện).” Có người nói rằng: “Những hành động xấu ác không trổ quả. Nếu những hành động xấu ác luôn trổ quả, vậy cớ

25 Ba cảnh giới (ba cõi) trong vũ trụ quan Phật giáo gồm (1) dục giới (kāmadhātu: cảnh giới đầy khát khao khoái lạc, có nghĩa là những chúng sanh ở trong trạng thái chịu sự trói buộc - dẫn dắt bởi thú vui khoái lạc giác quan), (2) sắc giới (rūpadhātu: cảnh giới hình sắc tinh tế, có nghĩa là chúng sanh ở trong trạng thái hình sắc trở nên nhẹ nhàng, tinh tế, không còn bị thú vui tính dục chi phối, tức bốn thiền), (3) vô sắc giới (arūpadhātu: cảnh giới tinh tế không hình sắc, có nghĩa là chúng sanh ở trong trạng thái tinh tế không hình sắc, không chịu sự chi phối bởi thú vui tính dục, tứ không). (Dīgha-nikāyaKinh Trường bộ III.216. (ND)

26 So sánh với Pháp cú, kệ 128 (Tham chiếu. Dhammapada v.128). ND: Nội dung của bài kệ trích dẫn trên là kệ Pháp cú 127, có thể dấu “…” là kệ Pháp cú 128, nên tác giả bảng tiếng Anh chú thích là kệ Pháp cú 128.

27 Câu nói ẩn dụ cho việc bắt đầu truyền bá giáo pháp của đức Phật. (ND)

sao Aṅgulimāla (Ương-quật-ma-la)28 lại thành tựu giải thoát?” [Do vậy,] đây là lý do tại sao ông (Sihanāda) cảnh tỉnh rằng nghiệp báo của những điều đã làm có thể cố định hoặc biến thiên. Để loại trừ quan điểm sai lầm (tà kiến) dạng này nên trong kinh đã chỉ rõ: “Không có bất kỳ hành động đã làm nào mà không dẫn đến kết quả.” Này thiện nam, nghiệp nặng có thể được chuyển hóa thành quả báo nhẹ; nghiệp nhẹ có thể bị chuyển thành quả báo trầm trọng. Thật rõ ràng tất cả mọi người hoặc là người trí hoặc là kẻ ngu [chứ không phải mọi người đều như nhau]. Vì thế, ông nên biết rằng không phải tất cả mọi hành vi đều chắc chắn trổ quả và quả báo thọ nhận có thể cố định hoặc có thể biến thiên.”  

“Này thiện nam, tất cả chúng sanh được phân thành hai nhóm: người trí và kẻ ngu. Người trí, với năng lực trí tuệ của mình, có thể chuyển hóa một nghiệp nặng mà lẽ ra đã đưa người đó tái sanh vào địa ngục, thành một nghiệp với quả báo nhẹ trong đời này. Kẻ ngu có thể khiến một nghiệp nhẹ trong đời này thành một nghiệp nặng, dẫn đến tái sanh vào địa ngục.”

Siṃhanāda nói: “Nếu đúng là như thế, thì không nên tha thiết đời sống thánh thiệnquả vị giải thoát.” Đức Phật dạy: “Này thiện nam, nếu tất cả các hành động đều có nghiệp quả cố định, thì dĩ nhiên không nên tha thiết đời sống thánh thiệnquả vị giải thoát. Tuy nhiên, bởi vì nghiệp thì bất định (biến thiên), nên người đó có thể tha thiết đời sống thánh thiệnquả vị giải thoát.” 

“Này thiện nam, người tránh xa mọi hành vi xấu ác sẽ nhận được quả phước tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu một người từ bỏ các hành vi tốt đẹp, thì nghiệp quả sẽ xấu tệ. Nếu nghiệp quả của tất cả các hành vi đều cố định, thì không cần phải thực hành theo con đường thánh thiện. Nếu không thực hành theo con đường thánh thiện, thì không thể giải thoát. Những bậc thánh sở dĩ thực hành theo con đường thánh thiện là để chuyển hóa nghiệp nhất định phải có quả báo thành nghiệp có quả báo nhẹ và nghiệp không nhất định phải có
28 Tên cướp và kẻ sát nhân Aṅgulimāla – xem đoạn *L.45. 

quả báo sẽ không tạo thành quả báo nữa. Nếu hết thảy nghiệp đều chắc chắn trổ quả, thì họ không cần phải thực hành theo con đường thánh thiện. Nhưng nếu không thực hành theo con đường thánh thiện, thì không có cách nào để đạt đến giải thoát; một người không đạt đến giải thoát sẽ không thể thành tựu niết-bàn.” 

“Này thiện nam, nếu nghiệp quả của tất cả các hành vi đều cố định, thì những điều thiện đã làm trong cuộc đời người đó sẽ nhận được sự an vui mãi mãi. Cũng vậy, các hành động bất thiện, dù nhỏ đến đâu, [một khi] đã được tạo ra trong cuộc đời người đó, sẽ dẫn tới đau khổ khôn cùng và không bao giờ chấm dứt. Nếu đó là ý nghĩa của việc tạo nghiệp và kết quả của nghiệp, thì không thể thực hành theo con đường thánh thiện, không có giải thoát, không có niết-bàn. [Theo lý luận trên về nghiệp,] nếu con người thực hiện bất cứ việc gì [dù tốt hay xấu] thì trước sau gì cũng [tái sanh] là con người.29 Nếu Bà-la-môn thực hiện bất cứ việc gì [dù tốt hay xấu] thì trước sau gì cũng [tái sanh] là Bà-la-môn. Sẽ không có giai cấp thấp, hạng người thấp. Người thường sẽ mãi mãi là người thường, Bà-la­môn sẽ mãi mãi là Bà-la-môn. [Nếu điều này là như vậy, thì] hành động được thực hiện khi còn trẻ chỉ nhận nghiệp quả khi còn trẻ [ở kiếp sau]. Hành động được thực hiện lúc tuổi già chỉ nhận nghiệp quả lúc tuổi già [ở kiếp sau]. [Cho nên,] hành động xấu ác dẫn đến tái sanhđịa ngục được tạo ra lúc tuổi già [của một người] có thể không ảnh hưởng đến thời niên thiếu của người đó khi làm cư dân địa ngục mà phải đợi đến lúc già đi mới chịu quả báo. Nếu một người đến lúc tuổi già mới [giữ giới] không giết hại, thì họ không thể sống qua khỏi tuổi trung niên [ở kiếp sau]. Nếu không sống qua được tuổi trung niên thì làm sao có thể bước đến được tuổi già, vì nghiệp quả của người đó cố định [không thể thay đổi được]?30 Nếu

29 Trong bảng dịch tiếng Anh là “nếu ai hành động như con người thì sẽ kết thúc như con người” (if one acted like a human being, one would end up as a human being). Câu này có nghĩa là cho dù chúng ta thực hiện việc tốt đẹp hay việc xấu ác trong đời này thì đời sau chúng ta cũng vẫn là con người theo như lý luận về nghiệp cố định. (ND)

30 Có nghĩa là lúc tuổi trẻ và trung niên, người này đã từng giết hại sinh loài. Một khi thực hiện việc tước đoạt mạng sống của sinh loài khác thì tuổi thọ của người đó sẽ tụt giảm, nên sẽ không sống cho đến già để nhận phước quả mà mình đã thực hiện việc giữ giới không giết hại lúc tuổi già ở đời trước. (ND)

nghiệp quả cố định [không thể thay đổi được], vậy làm sao có thể thực hành giáo phápđạt đến niết-bàn?”

“Này thiện nam, có hai loại nghiệp, nghiệp cố định và không cố định (biến thiên). Nghiệp cố định có hai loại, một là trổ quả cố định, hai là trổ quả ở một thời điểm cố định. Một số nghiệp trổ quả cố định, nhưng không nhất thiết ở tại một thời điểm cố định. Chúng trổ quả bất cứ khi nào có các điều kiện phù hợp. Một số nghiệp còn trổ quả ở ba giai đoạn: kiếp hiện tại, kiếp saukiếp sau nữa.” 

“Này thiện nam, nếu có người làm việc tốt đẹp và việc xấu ác với lòng kiên quyết, nếu người đó tin tưởng sâu sắc vào việc mình đã làm và hài lòng với việc đó, hoặc nếu người đó phát nguyện thực hành theo Phật, giáo phápTăng đoàn: những hành động này gọi là nghiệp cố định.”  

“Này thiện nam, cội rễ các hành động thiện lành của người trí được cố định sâu chắc, [nên] khó mà lay chuyển được, do đó các vị ấy có thể hóa giải nghiệp nặng [đã tạo] thành quả báo nhẹ [sẽ nhận]. Cội rễ các hành động thiện lành của kẻ ngu không cố định sâu chắc, do đó họ có thể khiến nghiệp nhẹ [đã tạo] thành quả báo nặng [sẽ nhận]. Vì lẽ đó, không phải hết thảy các nghiệp đều được xem là cố định.”

“Các vị Bồ-tát, các chúng sanh vĩ đại,31 không thực hiện những hành động đưa họ vào địa ngục. Các vị chỉ phát nguyện sanh vào địa ngục để chuyển hóa chúng sanh ở đó. Này thiện nam, trong quá khứ xa xưa, khi ấy con người sống đến trăm tuổi, vô số chúng sanh đã chịu nghiệp báo của họ trong địa ngục. Quán sát thấy điều này, ngay lập tức Ta đã phát nguyện tái sanh làm cư dân địa ngục. Khi ấy, thực tế Bồ-tát (kiếp trước của đức Phật) không có thực hiện nghiệp xấu ác nào. Ta chỉ nhận kết quả ở địa ngục để chuyển hóa chúng sanh. Ta trải qua vô số năm tháng trong địa ngục, tại đây, Ta đã truyền giảng và giải nghĩa mười hai thể loại kinh cho cư dân địa ngục. Khi những cư dân địa ngục nghe được giáo pháp, tức thì quả báo khủng khiếp do ác nghiệp trong quá khứ đã làm [của họ] liền bị

31 Bồ-tát ma-ha-tát (Bodhisattva Mahāsattva). (ND)

hủy diệt, địa ngục trở nên trống rỗng, chỉ trừ những kẻ bị chìm ngập trong dục vọng (Nhất-xiển-đề).

(Kinh đại bát niết-bàn, Đại Chánh, tập 12, đoạn 374, chương 38,

p. 549b29-50b18, do T.T.S. và D.S. dịch tiếng Anh).

M.42 Làm thế nào để giảm nhẹ nghiệp xấu ác

Đoạn này cho thấy hy vọng để chuyển nghiệp. 

Người tu tập bản thân, tuân thủ nguyên tắc đạo đức, rèn luyện tâm định, phát triển trí tuệ hiểu rằng hành vi tốt đẹp hay hành vi xấu ác nhất định sẽ nhận lãnh kết quả, thì người ấy có thể chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, thậm chí có thể làm giảm nghiệp báo của các hành vi xấu ác. Nếu người ấy đủ phước lành gặp được những người bạn tâm linh (thiện tri thức), [họ là] ruộng phước,32 là người thực hành giáo phápthực hiện những hành vi tốt đẹp, nên họ có thể chuyển hóa quả báo của nghiệp nặng mà theo lẽ thường phải nhận lãnh ở kiếp sau, thành quả báo nhận lãnh ngay trong kiếp này.

(Kinh giới cư sĩ nam, Đại Chánh, tập 24, đoạn 1488, chương 24, tr. 1070c13-16, do T.T.S. và D.S. dịch tiếng Anh).

LÀM NGƯỜI THẬT QUÝ BÁU

M.43 Khó được làm người, khó gặp giáo pháp của đức Phật

Này các Tỳ-kheo, thật khó được gặp Phật trong đời. Thật khó được sanh làm người… Khó như đãi cát tìm vàng, như cầu tìm hoa ưu-đàm (uumbara).33 Này các Tỳ-kheo, nay các thầy đã sanh làm người và tránh được tám nạn,34 lại được gặp Ta, chớ nên để những kiếp sống của mình trôi qua vô ích

(Kinh đại bát niết-bàn, Đại Chánh, tập 12, đoạn 374, chương 3, tr. 376b16-20, do T.T.S. và D.S. dịch tiếng Anh).

Khi một người trẻ tuổi nghĩ đến việc làm tổn hại người khác,

32 Người đã phát triển tâm linh rất cao, vì vậy, cúng dường (hoặc dâng tặng) phẩm vật đến họ sẽ có được kết quả tốt đẹp vô cùng phong phú.

33 Ficus racemosa, huyền thoại Phật giáo cho rằng hoa này 3.000 năm mới nở một lần.

34 Tám tình huống cản trở gặp Phật và nghe giáo pháp.

người ấy lăng mạ, chỉ trích, phỉ báng, xúc phạm và vu oan cho người khác, người ấy nên cảm thấy hổ thẹnngay lập tức nên đưa ra một lời xin lỗi công khai mà không có ác tâm, khởi lên ý nghĩa như vầy: “Ta nay đã được làm người vốn khó được này. Sao ta lại làm điều xấu ác và lãng phí cơ hội lớn này?”

(Kinh đại bát-nhã, Đại Chánh, tập 6, đoạn 220, tr. 731c25­732a01, do T.T.S. và D.S. dịch tiếng Anh).

Có những điều kiện [tâm linh thuận lợi] như thế, để ta có thể thành tựu nguyện vọng của mình là điều rất khó có được.

Nếu không suy ngẫm về những lợi ích mà các điều kiện ấy mang lại, thì không ai biết được khi nào ta mới có thể có lại [những điều kiện đó] lần nữa?

(Nhập Bồ-tát hạnh I. 4, do D.S. dịch tiếng Sanskrit).

VÔ THƯỜNG

M.44 Tính chất tạm thời của vạn vật

Đoạn này tổng quát bản chất mong manh, vô thường của những thứ ta sở hữu. Cuộc đời ngắn ngủi, nhanh chóng vụt qua.  

Nên xem mọi thứ có điều kiện như sao băng [vụt qua], như hoa mắt [do con mắt bệnh nhìn sự việc], như ngọn đèn [trước gió], như ảo ảnh, màn sương, như bong bóng, như giấc mộng, như ánh chớp sấm sét.35

(Kinh Kim cang bát-nhã ba-la-mật-đa, mục 32, do D.S. dịch tiếng Anh).

M.45 Không có nguyên tố vật chất vĩnh cửu

Đoạn này chỉ trích quan điểm thông thường (không thuộc Phật giáo) về vô thường, cho rằng các nguyên tố vật chấtbất diệt, chỉ có các yếu tố cấu thành nên vật chất mới là vô thường. Hơn thế, quan điểm

35 Bài kệ này có thể được diễn giải theo hai cách: các sự vật hiện tượngđiều kiện nên được xem như tia chớp ... hoặc ta nên nhìn các sự vật hiện tượng như cách ta nhìn vào tia chớp ... (ND: Bài kệ âm Hán Việt: Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.)

này cho rằng thực tế [mọi thứ] chỉ là “cấu trúc ngôn ngữ”36 (do tâm tạo ra), cho nên ngay cả quan điểm về các yếu tố vật chất vô thường cũng chỉ là sự hình thành “cấu trúc ngôn ngữ” (ảnh tượng của tâm).

Những người chấp giữ quan điểm về vô thường là “sự hoại diệt của yếu tố vật chất (hình thái) bên ngoài” cho rằng khi sự tan rã diễn ra thì các nguyên tố vẫn không diệt mất. Này Mahāmati (Đại Huệ), dựa trên quan điểm này, khi phân tích mọi vật dưới cấp độ nguyên tử, sự tan rã [của vật chất] không ảnh hưởng đến sự hoại diệt của các nguyên tố, nhưng chỉ có hình thái bên ngoài là có thể biến đổi thành, ví dụ, ngắn hay dài. Ở cấp độ nguyên tử, không có gì bị hoại diệt cả – chỉ có các hình thái bên ngoài là hoại diệt. Đây là quan điểm sai lầm (tà kiến) mà trường phái Sāṃkhya (Số luận) chủ trương…  

Này Mahāmti, với Ta, không có vĩnh cửu cũng không có tạm bợ. Tại sao vậy? Bởi vì Ta không thừa nhận rằng có tồn tại đối tượng bên ngoài [dữ liệu của tâm], bởi vì Ta nói rằng, thế giới tam phân37 do [dữ liệu trong] tâm mà có, bởi vì Ta không nói rằng vật thể có đa dạng các đặc tính khác nhau, Ta không phân biệt sự khác nhau giữa các dạng tồn tại của đại nguyên tố38 dẫu chúng sanh ra hay hoại diệt. Không có tính nhị nguyên nào được xác định bởi “cấu trúc ngôn ngữ” và “đối tượng mà cấu trúc ngôn ngữ ám chỉ đến” (chủ thể và đối tượng nhận thức), cũng không có việc khái niệm hoá sự tồn tại của các nguyên tố phát sinh trong tâm trí Ta… Kệ rằng:

  1.  Các ngoại đạo mê lầm hình thành quan điểm “mang tính ngôn ngữ” (phân biệt vọng tưởng) cho rằng vô thường là sự sanh ra và hoại diệt, là sự thay đổi hình thái bên ngoài, là thực thể, là yếu tố vật chất
  2. Mọi vật không thực sự bị hoại diệt, bản thân các nguyên tố

36 Cấu trúc ngôn ngữ (verbal construction) hay mang tính ngôn ngữ là cái được sản sanh từ nhận thức thuộc từ ngữ và không có hiện vật. (Lê Mạnh Thát, Triết học Thế Thân, Đạo Sinh dịch Việt, NXB. Tổng Hợp TP.HCM, 2005:331). (ND)

37 Đây là, toàn bộ mọi sự vật hiện tượng (pháp hữu vi): tham khảo “ba cõi” trong phần Chú thích thuật ngữ (Glossary).

38 Đất, nước, lửa và gió.

ấy vẫn cứ mãi tồn tại. Bị quá nhiều quan điểm sai lầm che mờ, ngoại đạo hình thành quan điểm “mang tính ngôn ngữ” về vô thường.

120. Với các ngoại đạo này, tức không có hoại diệt cũng không có sanh ra. Các yếu tố tự nó vốn thường hằng, do đó làm sao một người có thể hình thành quan điểm “mang tính ngôn ngữ” về vô thường?

121. Không có gì ngoài bản thân dữ liệu thông tin (tự tâm). Tất thảy mọi tính nhị nguyên đều xuất phát từ [những dữ liệu thông tin] trong tâm vì sự tồn tại của “cấu trúc ngôn ngữ” và “đối tượng mà cấu trúc ngôn ngữ ám chỉ đến” (chủ thể và đối tượng nhận thức). Không có thực ngã và không có gì không có thực ngã

(Kinh Lăng già, chương 3, do D.S. dịch tiếng Anh).

KIM CANG THỪA

LÀM NGƯỜI THẬT QUÝ BÁU

V.14 Tính quý báu của đời người

Điều đầu tiên cần biết về đời sống loài người, chính là cơ hội hiếm có đthực hành giáo pháp. Ý thức về nỗi khổ của kiếp nhân sinh và về lẽ vô thường là vẹn đđối với người sáng suốt đtỉnh giấc mộng luân hồi, dù rằng số lượng người trí vừa đủ khả năng [so với những cư dân ở các cõi thấp hơn] đtham gia vào sự thực hành con đường tâm linh. Đoạn sau đây trích từ chương hai của sách “Vòng hoa báu giải thoát” của Gampopa (1079–1153) trình bày các yếu tố cấu thành nên một “đời người quý báu.”

Có người hỏi: “Nếu tất cả chúng sanh đều có bản thể giác ngộ (Phật tánh),39 thì ngoài loài người liệu năm cõi tái sanh khác40 – như chúng sanh địa ngục, ngạ quỷcác loại khác – có thể đạt được giác ngộ (quả vị Phật) ngay bây giờ được không? Câu trả lời là không thể, bởi vì chỉ có con người với “kiếp người quý báu” được hội đủ

39 Phật tạng (Buddha-garbha) hay Như Lai tạng (Tathagata-garbha), khả năng đạt đến giác ngộ (quả Phật): xem *V.1.

40 Các bán thiên (A-tu-la) không được xem như là một cõi tách biệt với hạng chư thiên, do vậy gọi đó là năm cõi chứ không phải sáu cõi.

cả hai [điều kiện], đó là sự tự do [để thực hành] và sự tương thích [với giáo pháp], hơn nữa, cũng như phải có ba loại niềm tin41 mới có được nền tảng thuận lợi để đạt đến giác ngộ...   

Tự do nghĩa là thoát khỏi tám loại môi trường không phù hợp (nghịch cảnh), tám loại này đã được liệt kê trong sách “Hồi ức về Kinh giáo pháp cao cả” (Recollection of the Sublime Dharma Sūtra): “(1) Tái sanh địa ngục, (2) ngạ quỷ, (3) súc sanh, (4) [sanh làm người] ở nơi hẻo lánh, hoặc (5) tái sanh lên cõi trời Trường thọ,

(6) [sanh làm người] giữa cộng đồng những người có quan điểm lệch lạc (tà kiến), hoặc (7) sanh vào thời điểm không có Phật, (8) sanh làm người khiếm khuyết các giác quan [và thiểu năng trí tuệ]

– đây là tám nghịch cảnh [cho việc thực hành giáo pháp].” Có người hỏi: “Tại sao chúng lại là nghịch cảnh?” Đó là bởi vì các chúng sanh trong địa ngục phải chịu đựng cơn đau triền miên, ngạ quỷ thì bị giày vò trong tham lam vô độ, còn súc sanh thì hầu hết đều ngu đần, không một chúng sanh nào trong ba cõi này có sự hổ thẹn hay khả năng kiềm chế, vì thế chúng không có cơ hội thực hành giáo pháp. Cảnh giới được gọi là “cõi trời Trường thọ” gắn liền với trạng thái vô thức,42 vì tính liên tục của tỉnh thức không tồn tạitrạng thái vô thức, nên các vị thiên thần ở cõi này không có cơ hội thực hành giáo pháp. Hơn nữa, các thiên thầncảnh giới ưa thích khoái lạc (dục giới) cũng không có cơ hội đó bởi vì so với loài người, thọ mạng của một vị thiên thần thì quá dài. Lại nữa, tất cả các loại tái sanh cõi trời đều bị nghịch cảnh vì do sự lưu luyến [về cảnh giới của mình] với các sự hưởng thụ khoái lạc tạm thời, họ không nắm bắt cơ hội hướng đến điều thiện lành. Đó là lý do tại sao đau khổ tương đối nhỏ nhặt của loài người ngay lúc này lại có rất nhiều tác dụng [thuận lợi]. [Quán chiếu thông suốt về] điều này giúp thức tỉnh giấc mộng luân hồi, dẹp yên ngã mạn của chúng ta, phát khởi lòng từ đối với chúng sanh, khiến ta tránh xa các hành vi xấu ác (nghiệp ác) và tìm thấy niềm vui trong khi làm những việc tốt đẹp (nghiệp

41 Xem *V.24.

42 Điều này chỉ cho một loại thiên thần trong các loại thiên thần trong cõi Phạm thiên thuộc cảnh giới hình sắc tinh tế (sắc giới) (xem từ “ba cõi” trong phần Chú thích thuật ngữ (Glossary).

tốt). Đây cũng là điều được nhắc đến trong “Nhập Bồ-tát hạnh” [của Shatideva]” (Bodhicaryāvatāra, BCA, VI.21): “Hơn nữa, công dụng của đau khổ giúp chuyển hóa tâm tính kiêu căng nhờ vào sự tỉnh ngộ, phát khởi lòng từ đối với chúng sanh trong cõi luân hồi, khiến ta tránh xa các hành vi xấu ác (bất thiện) và vui vẻ trong cách việc làm tốt đẹp.” Như vậy, chúng ta đã giải thích tại sao bốn hạng chúng sanh đó lại không có sự tự do thực hành giáo pháp.

Dù được làm người, nhưng sanh vào vùng hẻo lánh thì cũng rơi vào trường hợp nghịch cảnh bởi vì thật khó để gặp được người thánh thiện [người có thể dạy giáo pháp]. Có quan điểm sai lệch (tà kiến) cũng là nghịch cảnh vì người đó không nhìn thấy điều thiện lành, mà điều này là nhân giúp người đó có được sự tái sanh cao hơn và giải thoát. Sanh vào thời điểm không gặp Phật là nghịch cảnh bởi vì không có ai nói cho ta biết điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Và người bị khiếm khuyết trong nhận thức không thể tự mình phân biệt sự khác nhau giữa giáo pháp được giải thích đúng đắn và giáo pháp bị giải thích sai lệch. Do đó, khi thoát khỏi tất thảy tám điều nghịch cảnh này, thì người đó có được sự “tự do trọn vẹn” [để thực hành cho quả vị giác ngộ]. 

Có mười loại tương thích [với giáo pháp] – năm ở chính bản thân mình và năm từ phía ngoài. Năm sự tương thích ở chính bản thân mình, như đã nói: “Được sanh làm người, ở nơi trung tâm của đất nước, các giác quan không khiếm khuyết, không làm các nghiệp xấu ác, có đức tin đúng đắn.” Những điều này có ý nghĩa gì? Được sanh ra làm người tức là cùng chung số phận như loài người có bộ phận sinh dục nam hoặc bộ phận sinh dục phụ nữ. Được sanh ra ở trung tâm đất nước tức là ở nơi chúng ta có thể nương tựa vào những người thánh thiện. Các giác quan không bị khiếm khuyết là không bị thiểu năng trí tuệ hay câm điếc, vì vậy có cơ hội thực hành các điều tốt đẹp. Có đức tin đúng đắn tức là có niềm tin nơi giáo phápgiới luật (Dharma and Vinaya)43 do chính đức Phật thuyết giảng bởi đây được xem là nền tảng của tất cả mọi đức tính tốt đẹp.

43 Giới luật xuất gia.

Trong đời này, không làm các nghiệp xấu ác tức là không tạo bất kỳ nghiệp nào để phải thọ ác báo ngay lập tức.44

Năm sự tương thích từ phía ngoài đó là có Phật xuất hiệnthế giới [nơi ta được sanh ra], có những lời dạy về giáo pháp thánh thiện của Ngài, giáo pháp của Ngài tồn tại bền vững, có các đệ tử thực hành giáo pháp, có những hành động từ bi của các đệ tử này vì lợi lạc cho chúng sanh. Như vậy, những ai có đầy đủ mười sự tương thích ngay chính mình lẫn phía người khác thì người đó được gọi là có sự “tương thích trọn vẹn.” Như vậy, “đời người quý báu” là tổng hợp của cả hai sự trọn vẹn: sự tự do và sự tương thích. Có người hỏi, tại sao gọi đó là “quý báu”? Bởi vì tương tự như một viên ngọc quý như ý, được gọi là “quý báu” bởi vì khó tìm thấy và vì nó có giá trị cao.

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 17-20, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.15 Một ví dụ: thật khó có được sự tái sanh kiếp người quý báu

Đoạn trích sau tự nói lên điều này. Một ý tưởng tương tự cũng được đề cập trong Kinh điển Thượng tọa bộ (Kinh Tương ưng - Sayutta­nikāya V.455-57)

Đức Thế Tôn từng thuyết rằng để được sanh làm người thậm chí còn khó hơn việc một con rùa ở dưới nước cố gắng chui cổ vào hốc của nhánh cây đang trôi nổi trên đại dương trong khi đang bị khuấy động bởi những con sóng lớn… Nāgārjuna (Long Thọ) từng chia sẻ về điều này trong thư “Lời khuyên gửi Vua Gautamīputra (Kiều­đạt-di Phổ-đặc-la Khả-nhĩ-ni):” “Hỡi vị Nhân chủ! Động vật được tái sanh làm người thậm chí còn khó hơn việc con rùa chui cổ vào lỗ của một nhánh cây lênh đênh giữa đại dương. Do đó hãy hưởng kết quả [được sanh làm người] bằng cách thực hành giáo pháp!”

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 47-8, do T.A. dịch tiếng Anh).

44 Có năm loại hành vi nhất định sẽ tái sanh vào địa ngục ngay đời sau: giết mẹ, giết cha, giết A-la­hán, làm chảy máu thân Phật và chia rẽ Tăng đoàn.

V.16 Tinh chất mát dịu (cam lồ): cuộc đời ngắn lắm, đừng quên thực hiện lòng từ bi!

Đoạn văn là công thức súc tích của toàn bộ con đường hành đạo, được xác định dựa trên quan điểm “lìa bỏ bốn lưu luyến,” một giáo huấn chính yếu trong trường phái Sakyapa của Phật giáo Tây Tạng. Công thức này thuộc thể loại thơ kệ “rèn tâm” thường được tụng đọc mỗi ngày để thanh lọc động cơ và biểu hiện của tâm thức. Bài giáo huấn được viết bởi Jamyang Khyentse Wangpo (1829–1870), một nhân vật tiêu biểu thế kỷ XIX của trường phái Sakyapa, là người sáng lập ra phong trào Ri-may không môn phái. Tiêu đđầy đủ của bài kệ là “Rèn Tâm: Bài ca trải nghiệm sự xa lìa bốn lưu luyến”.

Nương uy đức vị thánh Guru Mañjughoṣa (Bồ-tát Văn-thù),

Nguyện cho tất cả chúng sanh khắp cõi hư không, thực hành giáo pháp thánh thiện,

Nguyện cho tất cả chúng sanh lọc sạch não phiền bằng sự an vui trên bước đi giáo pháp,

Nguyện cho tất cả chúng sanh mê mờ khởi lên [như tính không]

trong sự mênh mông của giáo pháp,

Mặc dù chúng ta sanh được làm người thật khó tìm thay,

Nhưng nếu dính chấp vào đời này, thì chúng ta không phải là

người thực hành giáo pháp;

Bởi không có gì kéo dài qua giây lát và rồi chúng ta sẽ chết,

Hãy cố gắng tránh xa những việc ác và làm các điều lành!

Mặc dù tâm chúng ta có thể quay về nương giáo pháp thánh

thiện,

Nhưng nếu dính chấp vào ba cõi, chúng ta rõ thiếu sự quyết tâm;

Vậy nên hãy phát triển một ước nguyện chưa hề dự tính 

Nhằm thoát khỏi vòng luân hồi vốn không chi ngoài đau khổ!

Mặc dù chúng ta tìm kiếm yên bình và an vui trong giáo pháp,

Nhưng nếu ràng buộc vào lợi ích của riêng mình, chúng ta chẳng

phải là Bồ-tát; Vậy nên hãy thực hiện tâm từ, lòng trắc ẩntâm giác tỉnh (bồ-đề)45 Vì lợi ích của tất cả chúng sanh, vì đã từng là cha mẹ chúng ta! Mặc dù chúng ta có thể phát triển tâm bồ-đề ở mức độ tương đối, Nhưng nếu chúng ta còn tham chấp, tức chúng ta không có

chánh kiến [về tánh không]; Vậy nên hãy tiếp tục thực hành đến cảnh giới tự do thoát khỏi

nỗi ám ảnh thuộc nhận thức,46 Để trừ tiệt gốc rễ về niềm tinlinh hồn (cái tôi) [trường cửu]! Với phước lành của việc biên soạn bài ca chứng đạo cao cả này Tinh chất mát dịu (nước cam lồ) của việc chỉ dẫn từ vị thánh

Mañjughoṣa (Văn-thù) Trao cho vị Sachen Kunga Nyingpo, rực rỡđộ lượng,47 Nguyện cho tất cả hữu tình, mọi người mẹ, nhanh chóng đạt đến giác ngộ! (Huấn luyện tâm: bài ca thể nghiệm thoát khỏi bốn chấp thủ, do T.A. dịch tiếng Anh).

NỖI KHỔ CỦA LUÂN HỒI

V.17 Lời cảnh báo để không mê đắm trong tuổi trẻ 

Đoạn này nói về những khổ đau của tuổi già, bệnh tật và cái chết, được trích từ những lời khuyên dạy của Milarepa dành cho y sĩ Yang nge và nhóm bạn của vị ấy.48

Những người bạn ở đây, hãy lắng nghe lời này.

Khi quý vị còn trẻ và tráng kiện, chẳng nghĩ đến tuổi già, nhưng tuổi già đang đến chậm rãi và đều đặn, nó như hạt giống đang nảy mầm dưới lòng đất.

45 Là “tâm giác ngộ,” là chất liệu của con đường từ bi dẫn đến Phật quả.
46 Cảnh giới xa lìa mọi suy diễn và tưởng tượng (hý luận) (tức xa lìa mọi ý tưởng có mầm mống mang tính ngôn ngữ).

47 Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158) là người sáng lập đầu tiên của trường phái Sakyapa, được cho là đã nhận giáo huấn cốt lõi về “Xa lìa bốn lưu luyến” từ Bồ-tát Manjuśrī (Văn Thù, hay còn gọi là Mañjughoṣa). 

48 Xem HSM. trang 634–635.

Khi tất thảy năm yếu tố của cơ thể phát triển khỏe mạnh, quý vị chẳng nghĩ đến bệnh đau, nhưng bệnh tật sẽ đến mạnh mẽ và dữ dội, nó như một thứ làm đảo lộn tâm trí.

Nhìn bề ngoài sự sống này dường như chắc chắn, quý vị chưa từng nghĩ cái chết đang đến gần, nhưng cái chết xảy đến rất bất chợt, nó như sét đánh ngang tai. 

Ba nỗi khổ già, bệnh, chết luôn hiện diện trước mắt, như tay miệng chẳng rời.

Như người canh gác ở đoạn đường đèo, như Diêm-la (thần chết) đang nằm chờ sẵn, để găm vào quý vị mũi tên tai họa bất ngờ. 

Ba đời: đời này, đời sautrung hữu49 được xếp thành hàng, như những con chim mù nối đuôi nhau. Hiện diện ba vị khách không tách rời như thế, sao chẳng sợ các việc xấu ác của mình? 

Ba ngõ ác: địa ngục, ngạ quỷthế giới động vật như những cung thủ hùng mạnh đang sẵn sàng một cuộc phục kích. Sự hiện diện của ba hiểm họa không thể thay đổi như thế, sao chẳng hoảng sợ trước những cơn đau mà quý vị đã vừa trải qua? 

Quý vị không sợ hãi trước khổ đau mà mình đang nếm trải? Đau khổ như sóng gợn trên mặt nước – cái này chưa qua đi, thì cái khác lại đến. Đây không phải là thời điểm để chấm dứt chúng hay sao? 

Hạnh phúcđau thương như những người bạn hai chiều – bây giờ chúng ở đây, bây giờ chúng không còn ở đây nữa. Đây chẳng phải là lúc để từ bỏ chúng hay sao? 

Tiện ích và an nhàn như hơi ấm của mặt trời. Quý vị không biết rằng vô thường, giống như bảo tuyết, chợt đến? Hãy suy ngẫm về điều này và tu hành Thánh pháp! 

(Tiểu sử của ngài Milarepa, Đức chí tôn của các hành giả, tr. 777, do T.A. dịch tiếng Anh).

49 Trạng thái trung gian giữa hai kiếp sống.

V.18 Khái quát về khổ đau của luân hồi

Đoạn này cho biết quan điểm của Phật giáo về luân hồi như là “sự xoay vòng” giữa các cõi tái sanh cao và thấp. Quan điểm này được trích từ sách “Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo” của Patrul Rinpoche (1808–1887), một cuốn cẩm nang căn bản của trường phái Nyingmapa (Ninh-mã) trong Phật giáo Tây Tạng về các giai đoạn tu đạo.50

Như vừa được giải thích,51 chúng ta được làm người có đủ sự tự do và tương thích đó là những điều vốn rất khó tìm được. Nhưng chúng không kéo dài mãi mãi, mà chúng chịu ảnh hưởng của vô thườnghoại diệt. Nếu cái chết được ví như than lửa sắp tàn hoặc nước sắp cạn, thì nó vẫn là nó không có gì tiếp diễn về sau nữa. Tuy nhiên, nếu ta chết, ta chẳng tan biến mà phải tái sanh ở các kiếp sống khác. Chừng nào còn tái sanh, chừng ấy ta không thể thoát khỏi cảnh luân hồi.

Nhìn chung, “luân hồi” có nghĩa là “sự xoay vòng” như bàn xoay của thợ gốm, như bánh xe chạy bằng sức nước, như con ruồi cứ bay tới bay lui trong chiếc lọ.52 Nếu bỏ con ruồi vào hủ và đóng nắp lại, thì nó sẽ bay chung quanh – nó sẽ không bao giờ thoát khỏi chiếc hủ này. Cũng vậy, bất luận được sanh ra trong cõi lãnh hay cõi dữ, ta cũng không thể thoát khỏi luân hồi [nếu không nương nhờ giáo pháp]. Phần trên của chiếc hũ giống như cõi trờicõi người, còn phần dưới được ví như ba cõi thấp hơn. Bị dẫn dắt bởi nghiệp tốt hay xấu với khuynh hướng không lành mạnh (ô nhiễm), ta sẽ mãi tái sanh hết nơi này đến nơi khác trong sáu nẻo tồn tại, bởi vì “sự xoay vòng” này nên gọi là “luân hồi”.

Chúng ta đã lang lang trong cõi luân hồi này từ vô thủy (không có điểm khởi đầu), trong tất cả chúng sanh không một người nào mà chưa từng làm cha mẹ của nhau, chưa từng là thù địch, bạn bè hay chưa từng là người dưng của nhau. Kinh nói rằng nếu thử đếm số lượng những người mẹ liên tiếp của ta [trong những kiếp sống trước], nếu mỗi người mẹ là một viên đất nhỏ được vo tròn bằng

50 Để xem bản dịch tiếng Anh đầy đủ, tham khảo WPT.
51 Trong phần *V.14.
52 Ít nhất đó là “khor ba,” trong tiếng Tây Tạng gọi là luân hồi (sasāra).

kích thước của một trái bách xù (juniper: loài cây nhỏ), vo hết cả địa cầu cũng không đủ trước khi người đó đếm xong chỉ với câu hỏi mỗi chúng sanh từng làm mẹ của ta bao nhiêu lần. Như bậc thánh Nāgārjuna (Long Thọ) đã từng nói: “Chúng ta ắt sẽ lấy hết đất địa cầu này để đếm số người mẹ của ta với những cục đất sét bằng kích cỡ của những quả cây bách xù.”53

Như vậy, luân hồi từ vô thủy đến nay, chưa có nẻo tái sanh nào mà ta chưa từng trải qua.54 Cho nên, ta cũng từng bị chặt đầu tay chân ở không biết bao nhiêu kiếp vì thỏa mãn khoái lạc, nếu có thể gom hết tất cả tứ chi của đàn kiến và những loài côn trùng mà ta từng được sanh vào, thì số lượng này còn cao hơn núi chúa Sumeru (Tu-di). Nếu có thể gom hết những giọt nước mắt mà ta từng khóc vì phải chịu đựng sự lạnh lẽo, đói khát, không thức ăn áo mặc, tất cả nước mắt này có thể tạo thành một hồ nước không bao giờ cạn, hồ nước ấy còn lớn hơn cả đại dương bao quanh thế giới này.55 Thậm chí lượng nước đồng sôi mà ta từng uống khi sanh vào địa ngục còn nhiều hơn cả bốn biển lớn của bốn phương. Thế nhưng những ai vẫn còn bị trói buộc bởi khoái lạc và lưu luyến trong cõi luân hồi này mà không có một tích tắc (sát-na) tỉnh ngộ nào, người đó sẽ phải còn chịu nhiều khổ đau trong luân hồi vô tận

Cho dù, với chút quả của thiện nghiệp đưa đến thọ phước báu, ta có được tuổi thọ, dung nhan xinh đẹp, giàu có, huy hoàng của một vị thiên thần như Phạm thiên hay Đế-thích (Indra), chung cuộc ta vẫn không thể thoát khỏi cảnh giới của cái chết, sau khi chết ta phải trải qua những khổ nhục của các cảnh giới thấp hơn. Nếu quả là thế, sau vài năm, vài tháng hay vài ngày chúng ta có thể bị đánh lừa bởi những hạnh phúc nhỏ nhoi xuất phát từ quyền uy, tài sản và khỏe mạnh trong đời này, nhưng một khi quả ngọt phước lành đã cạn, ta sẽ phải chịu đựng nghèo đói và khốn khổ triền miên hoặc phải trải qua cơn đau gần như không thể chịu đựng được ở trong các cõi thấp

53 “Thư gửi bạn” V.68. Xem thêm *Th.55.

54 Tham chiếu *Th.73.

55 Ý tưởng tương tự được diễn tả trong Samyuta-nikāya IL187-88, chỉ cho huyết thống mà ta đã từng có trong các đời trước. 

trái với mong muốn của chúng ta. Vậy nên, hạnh phúchiện tạiý nghĩa gì, nó như một giấc chiêm bao mà ta tỉnh mộng lúc đang nồng?

Thậm chí những ai hiện tại dường như đang cảm thấy an ổnhạnh phúc, nhờ một ít quả báo thiện lành, cũng trở nên bất lực không giữ được [trạng thái ấy] trong tích tắc (sát-na) một khi nghiệp chiêu cảm phước báo ấy đã cạn kiệt. Thậm chí vua trời, ngự trên chiếc ngài quý báu trải bằng vải cõi trời, đạt đến đỉnh cao thỏa mãn năm giác quan – các đối tượng của khoái lạc, rồi cũng sẽ thọ khổ, rơi thẳng xuống nền đất bằng kim loại đang cháy của địa ngục trong tích tắc một khi thọ mạng của người đó chấm dứt. Thậm chí cả [thần] Mặt TrờiMặt Trăng chiếu sáng khắp bốn châu cuối cùng cũng phải tái sanh giữa các thềm lục địa, trong bóng tối sâu đến nỗi các vị ấy không thể thấy được tay chân mình co duỗi được bao nhiêu. 

Vì thế, chẳng nên tin tưởng vào sự vui vẻ trên bề mặt của luân hồi. Hãy tự hạ quyết tâm rằng kiếp này phải gắng hết sức để giải thoát khỏi luân hồi, khỏi biển khổ mênh mông, đạt được sự an lạc vững bền, thành tựu sự giác ngộ trọn vẹn. Với tâm niệm này, sẵn sàng thực hành giáo pháp, trải nghiệp thực tế, đi đến mục đích.  

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 88-92, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.19 Khổ của loài người

Những đoạn văn sau đây (V.19-21) được trích từ tác phẩm “The Words of My Perfect Teacher” (Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo) là những quán chiếu sâu sắc về bản chất đau khổ của đời người. Tập trung vào “mặt tối” của cuộc sống nhưng cũng đầy sự châm biếm, nhằm làm tan ảo tưởng về [hạnh phúc] của vòng luân hồi

Khổ của con người gồm ba nỗi thống khổ chính yếukiếp người phải chịu; bốn dòng khổ chính – sanh, già, bệnh và chết; sợ khi gặp kẻ thù ghét; sợ phải chia lìa những người thân yêu, khổ khi đối diện với điều bất như ý, khổ khi không đạt được thứ ta mong cầu.56

56 Trong số các loại khổ đau khác nhau trong cõi người, những suy nghiệm về “ba khổ cơ bản” và

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 120, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.20 Ba loại đau khổ cơ bản

Đoạn này khai thác ý tưởng tương tự với *Th.152.

Khổ do biến hoại nghĩa là khi điều gì đó vừa khiến ta cảm thấy hạnh phúc ngay hiện tại thì bỗng dưng chính nó lại khiến ta thấy đau khổ. Chẳng hạn, khi vừa được ăn một bữa ăn giàu dinh dưỡng, hoàn toàn hài lòng, có thể ta vừa mới cảm thấy an ổn, nhưng sau đó lại bị đau do bởi căn bệnh dạ dày mà ở đó sán lãi đang phát triển trong bụng ta. Hoặc giả, hiện tại ta vừa mới cảm thấy an ổn, nhưng sau đó gia súc của ta bị giặc cướp, nhà cửa bị đốt cháy, ta mắc phải tâm bệnh nặng nề [giống như virút đang xâm chiếm tâm hồn], hoặc nhận tin dữ từ bên ngoài, nên hạnh phúc bỗng hóa thành khổ đau. Do vậy, nhìn chung, chẳng có khoái lạc, an yên, danh vọng nào chúng ta tưởng chừng như đang thỏa mãn trong cõi luân hồi này thậm chí với một chút điều kiệntính chất cố định và đáng tin cậy, đến cuối cùng chúng không có ý nghĩa gì ngoài đau khổ, hãy thức tỉnh về những điều này...

Khổ của các khổ [lặp đi lặp lại] là lúc, trước khi cái khổ này qua đi, thì ta phải gánh chịu một cái khổ khác. Chẳng hạn, ta bị bệnh hủi, lại có ung nhọt, và rồi, ngoài ung ngọt ấy, lại bùng phát thêm lở loét. Hoặc là, khi cha vừa mất, thì mẹ lại qua đời. Hoặc là, ta bị kẻ thù truy đuổi, đồng thời, người thân của ta qua đời. Dù sanh ra ở bất kỳ đâu trong cõi luân hồi này, ta cũng chỉ đơn giản trải qua thời gian để chịu hết đau khổ này đến khổ đau khác, thậm chí không có một chút khoảnh khắc an vui...

Hầu hết chúng ta, khi đang tự hào rằng mình đang hạnh phúc, có vẻ như thật sự không có chút cảm giác đau khổ nào, nhưng kỳ thực ta vừa mới tạo ra nhân của nổi khổ. Thực phẩm ta ăn, quần áo ta mặc, nhà cửa và tài sản, trang sức và yến tiệc của ta tất thảy được

“bốn dòng khổ lớn” được trích dịch ở đây. Những loại khổ được liệt kê ở đây là những điều được nêu trong bài Pháp đầu tiên của đức Phật: *L.27.

tạo ra từ những việc làm sai trái. Vì hết thảy các hành động của ta chúng không gì ngoại trừ những âm mưu hiểm ác, nên chúng chỉ cho ra kết quả đau khổ57... Như kết quả cuối cùng của tất thảy các hành động ấy, ta phải gánh chịu vô vàn khổ đau trong các nẻo khổ. Do đó mọi thứ có vẻ như hạnh phúc trong hiện tại trên thực tế đó chỉ là cái khổ của cái khổ đang hình thành mà thôi.58

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 120-4, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.21 Nỗi khổ của khái niệm sanh, già, bệnh, và chết

Đoạn minh họa dưới đây phác thảo những nỗi khổ diễn ra trong một cuộc đời ngắn ngủi của con người, thúc giục mọi người thực hành giáo pháp – sống theo đúng luân thường đạo đức và phát triển trí tuệđây là cách bảo vệ tốt nhất giúp ta thoát khỏi những khổ đau và sự lặp lại của đau khổ. 

Mọi người trên thế giới này được sanh ra từ bào thai. Thần thức (thần hồn: gandharva) xuất hiện trong sự kết hợp giữa tinh cha và huyết mẹ,59 rồi cảm giác khó chịu xuất hiện khi chúng chuyển thành khối nhầy (kalalam: kiết-lạt-lam), thành bọt nhão, thành cục thịt nhão, sau thành cục thịt cứng và tròn,...60 Đến khi đầu và các chi cùng với các bộ phận khác đã phát triển hoàn chỉnh, người đó

57 Để minh chứng cho tuyên bố gây sốc này, Patrul Rinpoche dẫn một số ví dụ trong cuộc sống hàng ngày, như trà. Ông chỉ ra rằng, trồng trà phải diệt rất nhiều côn trùng, việc vận chuyển trà sang Tây Tạng gây rất nhiều đau khổ cho những người khuân vác và động vật thồ. Sau đó, ông đề cập đến mưu mẹo và lừa dối trong quá trình trao đổi trà, nỗi khổ phát sinh khi sản xuất các sản phẩm làm từ động vật, như len và da cừu, để mua bán (WPT trang 79-90). Mặc dù lập luận của ông phản ánh các hình thức kinh tế của Tây Tạng thế kỷ 19, nhưng cũng thật dễ để liên tưởng với tất cả các ngành công nghiệp thực phẩm, tiếp thị, ... trong hiện tại.

58 Quan điểm cho rằng chừng nào chúng ta còn tạo ra vật chất thông qua việc khai thác các chúng sanh khác, tức chúng ta còn đang tạo ra những nguyên nhân của khổ đau.

59 Theo y học Ấn Độ, phôi thai được hình thành từ hỗn hợp tinh dịch của người cha và máu tử cung của người mẹ. Vào thời điểm thụ thai, hỗn hợp này được cho là có ý thức từ thần thức hay hương ấm (gandharva), một chúng sanh trong trung hữu. Kinh Mahi - taphi - sankhaya (Majjhima nikāya I.265– 266) nói rằng thụ thai chỉ có khi hội đủ ba điều kiện này: quan hệ tình dục giữa cha mẹ, vào đúng thời điểm chu kỳ kinh nguyệt và sự hiện diện hương ấm, một chúng sanh sắp sửa tái sanh, (tiếng Pali gọi là gandharva). Tuy nhiên, lập trường của các vị Thượng tọa bộ chính thốngkhông tồn tại trung hữu (antarabhava), khoảng thời gian giữa sự chết (tử hữu) và khởi đầu một đời sống mới (bản hữu), vì vậy đoạn văn này nêu lên vấn đề giải thích cho những vị ấy.

60 Những mô tả này tương ứng với các giai đoạn phôi thai trong bốn tuần đầu.

sẽ cảm nhận khổ như thể bị ném vào ngục tù chật chội hôi hám, bị nhồi nhét ở nơi tối tăm trong bào thai mẹ. Khi người mẹ ăn đồ nóng, nó khổ như thể bị lửa đốt. Khi mẹ ăn đồ lạnh, nó khổ như bị ném vào nước lạnh. Khi mẹ nằm xuống, nó khổ như bị ngọn núi đè. Khi mẹ đầy bụng, nó khổ như bị bóp ngặt giữa những tảng đá. Khi mẹ đói, nó khổ như bị rơi xuống ngục. Khi mẹ bước đi, ngồi xuống hoặc di chuyển xung quanh nó khổ như bị gió thổi bay. Khi nó sẵn sàng để tái sanh sau khi đủ tháng thụ thai, ngọn gió nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp quá khứ) quay đầu nó chúc xuống và đẩy nó qua đường sanh của mẹ, nó chịu đớn đau dữ dội như thể tay chân bị bóp chặt bởi một gã khổng lồ vạm vỡ và bị treo ngược lên tường. Khi nó chui ra khỏi giữa những xương chậu, nó đau đớn như bị kéo ra khỏi lỗ của một chiếc khuôn kéo dây.61 Nếu sản môn quá hẹp, nó không thể chào đời thì sẽ chết ngay lập tức; thậm chí, cả mẹ lẫn con đều có thể chết, thậm chí nếu không chết, thì cả hai cũng trải qua cơn đau như thể sắp chết...

Sau khi sanh ra, khi rơi từ trên giường xuống nó cảm giác như rơi vào hầm gai. Khi túi màng ối được gỡ khỏi lưng, nó cảm giác như bị lột da sống. Khi dịch nhầy được lau rửa khỏi cơ thể, nó cảm giác như bị một cây roi nạm đá đánh vào thân. Khi được đặt vào trong lòng mẹ, nó cảm giác như thể con chim non bị diều hâu quắp đi,... Bất cứ khi nào nó chịu khổ bởi đói, khát, hay các loại bệnh tật, nó không thể làm gì ngoài việc khóc. 

[Già:] Sau đó, ta lớn lên, ta vẫn sẽ phát triển trong một thời gian nữa, nhưng thực chất cuộc đời của ta đang rút ngắn lại từng ngày, càng ngày càng tiến gần hơn đến cái chết. Ta bận lo các công chuyện trong cuộc đời trần tục này khi chúng xảy đến liên tiếp nhau như những gợn sóng trên mặt nước, không bao giờ kết thúc. Và vì tất cả những mọi thứ ta làm đều là sai quấy, nên ta đang phải gánh chịu cơn đau cùng cực khi tạo các nhân sanh vào các cõi thấp... 

61 Bàn kéo sợi được dùng để làm cho đường kính của một sợi chỉ trở nên nhỏ hơn. Nó bao gồm một tấm kim loại có một hoặc nhiều lỗ trong đó, xuyên qua đó sợi chỉ sẽ trở nên mỏng hơn, bởi vì đường kính của lỗ trong tấm kéo nhỏ hơn đường kính của sợi dây.

Khi ta bận rộn đời mình với những thứ vô vị bất tận trong vòng luân hồi, ta không hề hay biết về cái khổ của tuổi già. Khi ấy tất cả sức lực của thân này dần suy yếu, ta không còn có thể tiêu hóa nổi thực phẩm mình muốn ăn. Khi đôi mắt giảm dần thị lực, ta không còn nhìn thấy hình sắc nếu nó quá nhỏ hoặc quá xa. Khi năng lực thính giác suy giảm, ta không còn nghe rõ nữa. Khi chức năng vị giác trở nên nhạt, ta không thể nào ném vị đồ ăn và thức uống, cũng không thể diễn đạt rõ ràng điều mình muốn nói. Khi năng lực tư duy dần kém và trí nhớ dần lờ mờ, ta trở nên cực kỳ đần độnđãng trí. Khi răng rụng, ta không còn có thể nhai thức ăn cứng và lời nói trở nên lí nhí. Khi thân nhiệt thất thoát, ta chẳng còn có thể giữ ấm bằng cách mặc thêm quần áo. Khi sức cùng lực kiệt, ta không thể nâng bất kỳ vật nặng nào. Dù vẫn muốn tận hưởng điều mình thích, nhưng ta không còn khả năng để thực hiện nữa. Khi hệ thống năng lượng của cơ thể hao mòn, ta trở nên cáu gắt và nóng nảy. Khi bị người khác khinh thường, ta cảm thấy buồn phiền và khổ sở. Khi các nguyên tố của thân này mất quân bình, các rắc rối về sức khỏe tăng lên gấp bội. Bước đi, ngồi xuống, hay bất kỳ chuyển động nào cũng đều trở nên khó nhọc gần như không thể vượt qua được...

[Bệnh:] Thân người này được hợp thành bởi bốn yếu tố phổ quát (đất/chất rắn, nước/chất dính, lửa/hơi nóng, và gió/chuyển động). Khi chúng mất quân bình, tức ta phải chịu cơn đau của bệnh tật như phong, mật hay đàm.62 Có thể ta có sinh lực tràn đầy trong độ tuổi thanh xuân, nhưng khi ốm đau ập tới, ngay lập tức ta cảm thấy như thể một con chim nhỏ bị đá ném trúng. Bỗng chốc sức mạnh của ta suy kiệt, nằm liệt giường, chỉ đơn giản việc di chuyển thôi cũng trở nên khó khăn. Thậm chí nếu có người hỏi “Có chuyện gì vậy?,” ta cũng chẳng thể đáp trả nhanh chóng được – chỉ có thể thì thào từng tiếng từ sâu trong lồng ngực mình. Bất luận là nằm nghiêng sang hướng bên phải, bên trái, nằm sấp, hay nằm ngửa, ta luôn cảm thấy không thể thoải mái. Ta mất khẩu vị, không thể nào ngủ vào buổi đêm. Ban ngày, thấy ngày như dài ra; ban đêm, thấy

62 Ba loại dịch tể trong y học Tây Tạng.

đêm như dài ra. Dù muốn dù không, ta vẫn phải chịu đựng vị đắng, cay hoặc chua của thuốc, chịu đựng luôn cả cái đau khi phải trích máu, đốt cứu, vân vân. Ta kinh sợ nghĩ rằng có thể mình sẽ chết vì căn bệnh này. Chịu kiểm soát bởi quỷ dữ63 và khả năng hồi phục kém, ta chẳng thể làm chủ được thân và tâm, thậm chí tâm sanh mê loạn hơn cả những mê lọan luân hồi thường tình. Một số người thậm chí tự sát hoặc nhảy xuống vực thẳm. Những người khổ sở vì [những bệnh khủng khiếp như] phong hủi và động kinh, thì dù sống cũng như đã chết. Bị tách biệt với xã hội loài người, bị bỏ rơi trong cô độc

Thông thường, người bệnh không thể tự chăm sóc bản thân. Khi bị bệnh tật ăn mòn, họ trở nên nóng tính và ngày càng trách móc người khác về những điều họ làm cho mình. Nếu căn bệnh dai dẳng, mọi người sẽ trở nên mệt mỏi khi phải chăm sóc và không còn lắng nghe họ nữa. Họ khổ sở triền miên khi phải chịu đựng sự dằn vặt của căn bệnh...

[Chết:] Thân ngươi ngã xuống giường và không thể nào đứng dậy. Bạn có thể nhìn thấy đồ ăn thức uống nhưng chẳng còn thèm. Kinh sợ bởi điềm báo về cái chết, bạn cảm thấy đau khổ khôn cùng. Lòng can đảm và tự tin biến mất. Bạn bắt đầu cảm thấy mơ hồảo giác. Đã đến lúc bạn phải ra đi cho kiếp tái sanh khác. Người thân và bạn bè vây quanh mọi hướng nhưng họ không thể giữ bạn ở lại. Bạn phải trải qua nỗi đau đớn của cái chết đơn độc một mình. Có thể bạn sở hữu khối tài sản không đếm xuể nhưng bạn chẳng thể mang theo. Không thể bỏ nhưng cũng không thể giữ chúng. Khi bạn nhớ lại những ác nghiệp đã tạo, bạn bắt đầu cảm thấy rất ăn năn hối hận. Nghĩ tới những đau đớn ở các nẻo dữ, mà kinh sợ. Cái chết đến bất chợt, khiến bạn cảm thấy khiếp đảng. Khi sự hiện diện của sự sống phai dần, bạn cảm thấy lạnh lẽo. 

Khi cái chết đến với người làm điều xấu ác, y tự đấm vào ngực mình ngay lúc lâm chung, chết xuống với đầy vết cào cấu trên ngực.

63 Theo quan điểm của Tây Tạng, có một vài chứng bệnh do ảnh hưởng của ma quỷ.

Nhớ lại các ác nghiệp sai trái trước đây, nó sợ mình tái sanh vào cõi dữ. Nó cảm thấy hối hận vì chẳng hành trì giáo pháp khi còn tự do để tu tập, điều này lẽ ra đã cứu nó trong giây phút lâm chung. Cảm thấy đau đớn tột cùng trong lòng, nó bấu chặt ngực, chết xuống với đầy vết cào cấu trên ngực. Có câu nói rằng, “Quan sát người làm việc xấu ác lúc lâm chung – họ là người thầy chỉ cho ta thấy sự vận hành của nghiệp quả.” Thậm chí trước khi chết, những kẻ ấy cũng bị ám ảnh bởi điềm xấu ở các cõi dữ. Chúng thấy đủ các cảnh tượng khủng khiếp, mọi cảm giác đều trở nên đau đớn. Khi các tế bào của thân tan rã, nó thở một cách khó nhọc, các chi co quắp. Nó trở nên mê loạn, rồi mắt trợn ngược và chấm dứt cuộc đời này. Nó gặp các sứ giả của Diêm vương, khi hình ảnh của cảnh giới trung hữu dần hiện ra trước mặt, nó chẳng còn người che chở hay chốn nương tựa nào nữa.

[Giáo pháp là nơi ta nương tựa:] Chẳng có gì đảm bảo rằng thời điểm bạn rời khỏi cõi đời trần trụi và trắng tay là điều không thể ra trong hôm nay. Khi ấy, một điều duy nhất chắc chắn có thể cứu rỗi bạn đó là giáo pháp thánh thiện – không một ai khác có thể làm nơi nương tựa cho bạn. Như được dạy rằng, “Hãy nghĩ đến giáo pháp ngay khi còn trong bụng mẹ. Ngay sau khi chào đời, hãy ý thức về cái chết!” Vì cái chết có thể tới bất ngờ, cả người già lẫn trẻ em, ta phải thực hành giáo pháp để tự giúp mình trong giây phút lâm chung từ khi ta được sanh ra. Nhưng đến tận bây giờ chúng ta vẫn còn chưa chiêm nghiệm về cái chết, vẫn còn tranh đấu với kẻ thù, vẫn còn bảo vệ gia quyến, bảo vệ nhà cửa và tài sản. Tất thảy thời gian đều dành cho việc luyến lưu, thù hận và ảo tưởng vì lợi ích của các người thân và bạn bè, nên ta đã mắc phải một sai lầm trầm trọng.

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 124-132, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.22 Đau khổ khi chia lìa những người và những điều ta yêu thích

Đoạn này là lời của Lạt-ma Longchen Rabjampa (1308–1364), được Patrul Rinpoche trích dẫn trong phần “khổ của việc đối mặt với điều mình không muốn”.

Ta muốn chung sống mãi với tình vợ chồng và gia đình, nhưng chắc chắn ta phải biệt ly. Ta muốn sống mãi trong ngôi nhà ấm cúng, nhưng chắc chắn ta phải bỏ lại. Ta muốn mãi vui hưởng cuộc đời sung túc hạnh phúc, nhưng chắc chắn ta sẽ mất chúng. Ta muốn giữ mãi thân người quý báu đầy đủ tự do và tương thích, nhưng chắc chắn ta sẽ chết. Ta muốn mãi học giáo pháp với thượng sư hiền thiện, nhưng chắc chắn phải giã từ. Ta muốn được đồng hành mãi với bạn đạo thân thiết, nhưng chắc chắn phải lìa xa. “Kể từ ngày hôm nay, hãy mặc áo giáp của sự tinh cần, sẵn sàng bước về phía trước để đến vùng đất an lành cao quý [của giác ngộ] không còn biệt ly nào.” Đây là lời khuyên mà Tôi “Kẻ ăn mày không biết giáo pháp”64 gửi đến tất cả đạo hữu những người tỉnh mộng sâu sắc về luân hồi.

(Những lời dạy từ người thầy hoàn hảo, tr. 139, do T.A. dịch tiếng Anh).

V.23 Lời khuyên của Milarepa: Đừng phí bất cứ cơ hội thực hành giáo pháp nào!

Giống như trên, Milarepa khuyên các các đệ tử không lãng phí cơ hội có được “kiếp người quý báu” này.65

Mặc dù Ta có dạy giáo pháp, nhưng chỉ có vài người thực hành giáo pháp.

Mặc dù Ta có dạy giáo pháp khiến tỉnh ngộ luân hồi, biển khổ đau, nhưng chỉ có ít người nhàm chán nó.

Mặc dù Ta có khuyên họ rằng không còn thời gian để chờ đợi, phần đời còn lại của họ đang cạn dần, nhưng chỉ rất ít người tỉnh thức về cái chết.

Mặc dù hiếm có cơ hội để trì giới kiên định khi được thân người quý viên mãn cả tự do và tương thích [với giáo pháp], chỉ rất ít người có thể giữ giới dù chỉ một ngày. 

Mặc dù Ta nói về những phẩm chất tốt đẹp (công đức) để được

64 Đó là cách Longchen Rabjampa tự gọi mình một cách khiêm tốn.
65 Xem HSM. trang 532-533.

vào cảnh giới cao (cõi người, cõi Trời) và giải thoát, cũng như nói về những đặc tính xấu của luân hồi, nhưng chỉ rất ít người thật sự bước vào cánh cửa giáo pháp

Mặc dù Ta có truyền dạy những chỉ dẫn uyên thâm nhất của dòng mật truyền66 không hề giấu giếm, nhưng chỉ ít người thực hành chúng. 

Mặc dù Ta đưa ra lời hướng dẫn và giới thiệu về giáo pháp thánh thiện Mahāmudrā (Pháp môn Đại-thủ-ấn),67 nhưng chỉ rất ít người hiểu được bản tánh của tâm.

Cho dù Ta luôn truyền cảm hứng về việc ẩn cư trên núi, đó là tâm nguyện của thượng sư, nhưng chỉ rất ít người thực sự sẵn lòng thực hành theo. 

Cho dù Ta công khai chỉ dẫn chẳng giấu các phương pháp sâu sắc do Nāropa (Na-lạc-ba) chỉ dạy, nhưng chỉ rất ít người cho thấy dấu hiệu của lòng nhiệt thành.

Nếu muốn làm điều có ý nghĩa trong khi đang được làm người quý báu đầy đủ tự do và tương thích, vậy hãy theo Ta tu tập!68

(Trăm ngàn bài ca của ngài Milarepa, tr. 260-61, do T.A. dịch tiếng Anh).

 

***

66 Đó là, những giáo lý tối mật, chỉ truyền miệng và truyền riêng cho từng đệ tử, như thể “thì thầm vào tai” để không ai khác có thể nghe được.

67 Mahāmudra (Đại-thủ-ấn) là giáo lý Kim cương thừa cao nhất của phái Kagyudpa, có nguồn gốc từ Đại thành tựu giả Ấn độ Tilopa (988-1069) và hàm chứa những chỉ giáo để thực chứng bản tánh của tâm tương tự như truyền thống Dzogchen (Đại Viên Mãn) (xem “V.70).

68 Chỉ cho việc thực hành “nội nhiệt” được gọi là tumo (S.caṇḍalī), phương pháp đầu tiên trong hệ thống thực hành yoga hay còn được gọi là “sáu Pháp Nāropa.” 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
28/09/2013(Xem: 53256)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.