Thư Viện Hoa Sen

Thanh Tu Khổ Hạnh Của Lão Hòa Thượng Hư Vân | Thích Trung Nghĩa

27/01/20254:35 SA(Xem: 2292)
Thanh Tu Khổ Hạnh Của Lão Hòa Thượng Hư Vân | Thích Trung Nghĩa

THANH TU KHỔ HẠNH
CỦA LÃO HÒA THƯỢNG HƯ VÂN

Thích Trung Nghĩa


hu van hoa thuongTrong văn bia “Tháp Xá-lợi lão hòa thượng Hư Vân” của nhà Phật học nổi tiếngpháp sư Ấn Thuận soạn, có đoạn ghi: “Thể đạo cũng sâu thấu, thực hành cũng chân thực, làm lợi ích chúng sanh cũng dùng đức hạnh của thánh nhânhiền nhân để cảm hóa nhân dân, trải qua nơi ở đều được giáo hóa thay đổi phong tục cũ, kì diệu mà biến hóa khó lường, nắm đầu mối hệ yếu của sinh tử tồn vong, làm việc khó chịu đựng, người như Hòa thượng, có thể gọi người bất khả tư nghì”; quả thực Hư Vân là bậc cao Tăng tu hành đắc đạo. Hư Vân sống thọ đến 120 tuổi, 101 Tăng lạp, xây dựngtrùng tu hơn 80 tự viện, am, đường với kiến trúc tự viện theo phong thủy truyền thống, chủ trì 15 tòa đạo tràng Thiền tông, quy y Tam bảo cho một triệu cư sĩ tại gia, độ hơn một vạn người đắc giới.

Nghe truyền, mẹ ngài hơn 40 tuổi vẫn chưa có con, mỗi ngày đến chùa Quán Âm cầu con, đêm nọ cha và mẹ đều nằm mộng thấy một ông già râu bạc, cỡi con hổ, đỉnh đầu đội bồ-tát Quán Âm, nhảy lên dường ngủ, không lâu sau bà mang thai. Từ nhỏ ngài có ý nguyện ăn chay, không thích đọc điển tịch thế tục, nhưng thấy văn hiến thánh điển Phệ-đà thì sinh tâm vui thích. Bởi gia đình quyền quý nên năm 17 tuổi cưới cho ngài hai vợ, tuy ở chung nhưng ngài không tiếp cận nữ sắc, giảng pháp cho họ. 

Năm 1858, ngài 19 tuổi, xuất gia tại chùa Dõng Tuyền, ẩn cư ba năm trong hang đá sau Cổ sơn, suốt ngày lạy Phật, không ra khỏi núi. Tiếp đến tu khổ hạnh tại Dõng Tuyền, gánh nước bửa củi, ngày ăn tô cháo, không nhận cúng dường. Rồi lại vào hang núi, ẩn tu ba năm, đói thì ăn lá cây tùng, cỏ xanh, khát thì uống nước suối từ vách đá rò ướt, áo không che hết cơ thể, chỉ mặc một y bá nạp rách trên thân, tóc dài dài và râu bạc che cả mặt, khiến người thấy vội hoảng sợ lánh xa, ngài nhất tâm quán chiếu, niệm Phật nghiêm mật, khiến có tiểu ngộ, sau đạt đại ngộ, thể hội: “Vạn vật đều có trong ta, trong tâm hỷ duyệt tự cho là tứ thiền thiên”.Từ hành trạng kỳ đặc này, làm chúng ta liên tưởng đến thần tích “Chín năm ngồi quay mặt vào tường đá”[1] (diện bích cửu niên 面壁九年) của tổ sư Bồ-đề-đạt-ma, người đời sau thêu dệt thêm tình tiết lúc Đạt-ma diện bích, chim làm tổ trên đầu nhưng bất động, bầy chim tha mồi đậu ven vách hang rồi mọc lên dãy lúa, cây đậu vô trật tự. Trong cuốn sách Đạt-ma đại sư truyện,[2]phần Bài tựa của đại sư Tinh Vân ghi:

“Dùng diện mạo thông tục thân thiết, làm thấm nhuần tâm linh người hiện đại. Dùng hình thức bạch thoại tiểu thuyết, làm hiển hiện đạo phạmtịnh hạnh cao Tăng. Dùng tái hiện phong độ, thần tháitôn chỉ, làm đèn sáng người hiện đại xây dựng trí tuệ”.[3]

Hư Vân phát nguyện tam bộ nhất bái, từ Pháp Hoa am trên Phổ Đà sơn, đến Ngũ đài sơn thì ngừng. Trong Hư Vân hòa thượng truyện ghi, khổ tu này, trên đường bị đói khát, tuyết phủ lạnh ngắt, miệng hộc ra máu, ba lần bệnh nặng, ngoi ngóp chờ chết, bất chợt cảm thấy bồ-tát Văn Thù Sư Lợi hóa thân che chở. Sau đến thiền đường chùa Văn Yển, tay nâng tách trà, tách trà rơi đất, một tiếng vỡ toang, đốn đoạn nghi căn, bèn thuật kệ khai ngộ: “Tách trà vỡ rơi đất, nghe tiếng tỏ tiếng nước; hư không vỡ vụn, cuồng tâm lập tức dứt”; “Tay nắm bình, đập vỡ tách, gia phá nhân lời khó mở, xuân đến hoa hương nơi nơi đẹp, núi và sông, đất rộng là Như Lai”. Ngài an tường thị tịch năm 1959.  

Trong hoạt động giảng pháp, ngài chủ trương Thiền Tịnh viên dung, “Tham thiền bất khả ly khai Tịnh độ, niệm Phật cũng là một tham thiền”; “Người niệm Phật tâm tịnh Phật độ tịnh, tức là thấy tịnh độ Di-đà, nên tịnh độ và thiền là bất nhị”; “Điều kiện tiên quyết của tham thiền, cũng là trừ vọng tưởng”; “Vạn duyên phóng hạ, nhất niệm bất sanh”; đề cập một chữ “buông”, “buông tức là bồ-đề”.

Năm nọ, ngài đến Thất Tháp thiền tự, khai thị kinh Lăng Nghiêm cho các cư sĩ, nhấn mạnh tính trọng yếu của việc phá trừ tà kiến, xây dựng chánh kiến, không chấp trước thường kiếnđoạn kiến, mới “tùy duyên qua ngày, nhậm vận tiêu dao”, được đại tự tại, “Mọi hoạt động đều là nhân chân chánh của Thủ lăng nghiêm tam muội”. Ngài ví dụ việc các cư sĩ trong trai hội này, thỉnh chư Tăng đến cúng dường, chư Tăng phải dụng công thực tồn ngũ quán (食存五觀) trong một bát cơm trước khi ăn. Năm cách quán tưởng đó là:

“Nhất, kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ”, ý nghĩa: Một là đối diện cúng dường, cần xem xem mình đã làm bao nhiêu công đức, và suy nghĩ hạt gạo khó nhọc, được phẩm vật, đã trải qua nỗ lực gian nan.

“Nhị, thổn kỉ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng”: Hai là dựa vào thọ thực để phản tỉnh mình, nghĩ phẩm hạnh đạo đức của mình nhận được phẩm vật cúng dường không? 

“Tam, phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tôn”: Ba là ngăn kĩ tâm niệm, xa rời lỗi lầm, với phẩm vật ăn, không sinh tâm tham vị ngon, không sinh tâm si vị vừa, không sinh tâm sân thấp kém.

“Tứ, chánh sự lương dược, vị liệu hình khô”: Bốn là  vừa ăn thực phẩm, coi như thuốc tốt trị nuôi đói khát của cơ thể và tinh thần.

“Ngũ, vị thành đạo nghiệp, cố thọ thử thực”: Năm là cần mượn chân tu, không ăn dễ đói khát, thân yếu nhiều bệnh, khó thành đạo nghiệp, nhưng nếu ham nhiều, cũng dễ phát sinh các loại bệnh tật. Cho nên trai đường còn gọi là ngũ quán đường.

Trong Thất Tháp có Phật học viện Báo Ân, phát hành Báo Ân Phật học viện viện san, có Trưởng lão Bạc Thường nghiên cứu Hoa Nghiêm học thâm sâuđạt đến cảnh giới thượng thặng. Bạc Thường tham cứu Hoa Nghiêm kinh sớ sao của đại sư Trừng Quán, Hoa nghiêm kinh hợp luận của học giả Hoa Nghiêm Lý Huyền Thông, thấy được nghĩa lý Hoa Nghiêm học thâm áo cao vời, rồi soạn Hoa Nghiêm cương yếu thiển thuyết. Tết Cửu trùng năm 1922, lúc Bạc Thường giảng kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền, thì cỏ cát tường trong Viện bất chợt nở hoa hiện đoan tướng, thiên nhiên cảm ứng, hy hữu khó gặp.

Bài thơ Tặng pháp sư Bạc Thường của cao tăng Chi Phong[4]ghi:”Trường lão bồ-đề nghiêng giải ‘không’, đêm thâu hạo hạo trăng sáng trong, an tường chẳng đếm thiên hoa rụng, búng tay có thể huấn người ngu, Phật tánh vô phân nam và bắc, sóng nước bất biệt khác lại đồng, khiến người hướng làm cổ nhân sự, ròng như tam nhật chẳng câu thông”.

Bạc Thường luôn mượn cảnh vật tết xuân để sáng tác cổ thể thi rất ư sinh động. Trong Giải Thất Tháp pháp ngữ ghi: “Tháp chạp hoa mai nở, trải qua sương tuyết trôi, Thất Tháp lò lửa ấm, nung phàm thành thánh thai”.

Trong Du ma đài nhất lễ Nhượng Tổ tháp ghi: “Dãy núi xanh xanh bản lai chân, cả mặt gió tùng chẳng lấm trần, lại thấy mài ngói[5]lời thiên cổ, một giọt Tào khê xuân bốn mùa”. Mài ngói (磨磚), nhằm nói đến lúc Mã Tổ Đạo Nhất đến chùa Bát-nhã tu học, một lòng muốn thành Phật, suốt ngày ngồi thiền, thiền sư Hoài Nhượng đem một miếng ngói đến trước mặt Mã Tổ rồi mài lên đá, Mã Tổ cảm thấy kỳ lạ hỏi: Mài làm gì? Đáp: Làm gương. Hỏi: Mài ngói sao thành gương? Đáp: Ô hay! Mài ngói đã không thành gương,  ngồi thiền sao có thể làm Phật.

Trong Cảm hoài đêm xuân ghi: “Thích nhìn sa mạc xua vết nhạn, cố hương không ức cúi thấp đầu. Hoàng kim đất báu tùy duyên trụ, bạch ngọc băng tâm mộ đếm thu. Điên đảo tứ sanh ai cứu khổ, liễu nhiên nhất cú ta quên đền. Ca-sa buông việc gánh ngang bỏ, bích nhãn hồ Tăng cười chưa nguôi”. “Bạch ngọc băng tâm” (白玉冰心) cũng là tượng trưng thanh tịnh như nước, đạt đến cảnh giới này thì chẳng có cảm giác mến mộ mùa thu. “Bích nhãn hồ Tăng” là chỉ cho người xuất gia đạt đến cảnh giới thường lạc. Tổ sư Đạt-ma cũng gọi là Bích nhãn hồ, Bích nhãn.

Trong Tựa lan can ngắm hoàng hôn[6]ghi: “Nhàn bước thẳng lên lầu, ngắm sông núi thâu một, không hoài thiên cổ sự, xương khô khắp núi hoang, đắc ý cười gió xuân, vô tình hạc hoang lượn, thỉnh cầu cuồng khách đến, sự tình viết tâm ưu”.

Xem thêm:
Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân




[1] Theo Thần Tăng truyện (神僧传) của cao tăng Pháp Hiển thời Tấn

[2] Trình Thế Hòa (程世和, 1962, giáo sư đại học sư phạm Thiểm Tây) Đạt-ma đại sư truyện (达摩大师传), Thương vụ ấn thư quán xuất bản, 2014

[3] (以亲切通俗之面貌, 温渥现代人的心灵

以小说白话之形式, 呈显高僧道范与净行

以再现风采为宗旨, 为现代人树立智慧明灯)

 

[4] 释芝峰 (1901-1971), đệ tử của đại sư Thái Hư, giảng dạy Thành duy thức luận tại đại học Hạ Môn, Học viên Mân Nam, chủ biên qua tạp chí: Hải triều âm, Hiện đại tăng-già, Nhân hải đăng.

[5](青山綠水本來真, 滿面松風不染塵. 且看磨磚千古話. 曹溪一滴四時春)

[6] 憑欄晚眺

Tạo bài viết
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.