- Lời Nói Đầu
- Đức Phật Của Chúng Ta
- Vai Trò Của Người Có Trí, Của Trí Tuệ Trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ Con Đường Giáo Dục Chấm Dứt Đau Khổ Sanh Tử Luân Hồi
- Chánh Pháp Và Hạnhphúc
- Hội Chúng Tỳ Kheo Trong Thời Đức Phật Còn Tại Thế
- Kinh " Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra "
- Kinh Ví Dụ Con Rắn
- Vấn Đề Tái Sanh
- Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
- Người Việt Nam Thương Mẹ, Kính Cha Qua Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam
- Sống Theo Lý Tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật Và Nếp Sống Thiên Nhiên
- Năm Giới, Nếp Sống Lành Mạnh, An Lạc, Hạnh Phúc.
- Ý Đẹp Với Mùa Xuân
- Một Nền Giáo Dục Toàn Diện
- Kinh Dịch Và Đại Học
- Chùa Việt Nam Và Mối Liên Hệ Với Nền Văn Hoá Dân Tộc
- Xuân Về Với Những Lời Phật Dạy
KÍNH CHA QUA CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM
Mùa
Vu-lan đối với người Việt Nam, nhất là người Phật tử,
là một mùa báo Hiếu, một mùa mà các người con nhớ đến
công ơn sanh thành của mẹ cha và muốn làm một cái gì tết
đẹp để đền đáp công ơn dưỡng dục của mẹ cha.
Nhớ
ơn cha mẹ và báo hiếu là những cảm giác, những suy tư,
những việc làm đã in sâu đậm trong lòng người Việt Nam,
đã được thể hiện linh động và triền miên, ngang qua các
câu ca dao tục ngữ mà chúng ta tìm thấy tràn ngập trong các
thôn quê vườn xóm.
Đâu
đâu cũng đề cao công cha như núi cao, nghĩa mẹ như biển
cả .
“Công
cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một
lòng thờ mẹ kính cha,
Cho
tròn chữ hiếu, mới là đạo con”.
Hay:
“Công
cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc
nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên
người con phải xót xa,
Đáp
đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội
ơn chín chữ cù lao,
Sanh
thành kể mấy non cao cho vừa”.
Hay
là:
“Tu
đâu cho bằng tu nhà,
Thờ
cha kính mẹ mới chân tu”.
“Công
cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi
con khó nhọc đến giờ,
Trưởng
thành con phải biết thờ song thân”.
“Mẹ
già ở tấm lều tranh,
Sớm
thăm tối viếng mới đành dạ con” .
Lòng
thương cha mến mẹ của người Việt Nam thường hay gắn liền
với hiện tượng thiên nhiên, nên chúng ta không thấy làm
lạ nhiều câu ca dao đã dùng mặt trời để nói lên lòng
thương mến cha mẹ:
“Đêm
khuya trăng rụng xuống cầu,
Cảm
thương cha mẹ dãi dầu ruột đau”.
Hay
là:
“Biển
Đông còn lúc đầy vơi,
Chớ
lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng”.
Cũng
vì thương cha mẹ, nên người con không bao giờ quên cầu khẩn
Phật Trời cho cha mẹ luôn được sống gần mình:
“Đêm
đêm khấn nguyện Phật Trời,
Cầu
cho cha mẹ sống đời với con”.
“Ngó
lên trời thấy cặp cu đang đá,
Ngó
ra ngoài biển, thấy cặp cá đang đua.
Đi
về lập miếu thờ vua,
Lập
trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha”.
Cha
mẹ săn sóc con cho từng miếng cơm manh áo, thời những người
con khi cha mẹ về già cũng phải sáng viếng tối thăm, tìm
của ngon vật lạ phụng dưỡng cha mẹ:
“Muốn
cho gần mẹ gần cha,
Khi
vào thúng thóc, khi ra quan tiền”.
“Ai
về tôi gởi buồng cau,
Buồng
trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai
về tôi gởi đôi giày,
Phòng
khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Thỉnh
thoảng, chúng ta chứng kiến cảnh những người con gái không
chịu đi lấy chồng, vì không muốn xa cha mẹ:
“Ơn
hoài thai, to như bể!
Công
dưỡng dục, lớn tựa sông!
Em
nguyện ở vậy không chồng,
Lo
nuôi cha mẹ, hết lòng làm con”.
Người
con gái đi lấy chồng xa cũng bị quở trách:
“Chim
đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng
gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai
sau cha yếu mẹ già,
Bát
cơm đôi đũa, chén trà ai dâng?”.
Mình
có hiếu với mẹ cha, thời con cháu mình sẽ có hiếu với
mình. Đây là luật đáp ứng thường tình và không vì vậy
làm giảm bớt lòng thương mẹ kính cha của người Việt Nam:
“Nếu
mình hiếu với mẹ cha,
Chắc
con cũng hiếu với ta khác gì?
Nếu
mình ăn ở vô nghì,
Đừng
mong con hiếu làm gì uổng công?”.
Hay
là:
“Hiếu
thuận sinh ra con hiếu thuận,
Ngỗ
nghịch nào con có khác chi!
Xem
thử trước thềm mưa xối nước,
Giọt
sau, giọt trước chẳng sai gì”.
“Ở
đời ai cũng có lần,
Làm
cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người
xưa khó nhọc nuôi mình,
Khác
gì mình đã hết tình nuôi con”.
Người
con cũng biết cha mẹ thương con không phải giống nhau, cha
có lòng thương của cha, mẹ có lòng thương của người mẹ,
nên người con cũng có thể phân biệt:
“Mẹ
dạy thì con khéo,
Bố
dạy thì con khôn”.
“Mồ
côi cha, ăn cơm với cá
Mồ
côi mẹ lót lá mà nằm”.
Trong
cao dao này, chúng ta đã nhận thấy sự phân biệt của người
con về cảm tình đối với cha khác, đối với mẹ khác. Nếu
như cha mất thì đã có mẹ săn sóc cho con, cho ăn cơm ăn cá
đầy đủ, nhưng chẳng may mẹ mất đi người con mới thật
khốn khổ, phảị đi lót lá mà nằm. Và vì vậy nên chúng
ta không có lạ gì, khi người con gần mẹ hơn cha, thương
mẹ hơn thương cha. Chúng ta cũng đọc rất nhiều câu ca dao
và bài thơ tán dương lòng mẹ thương con, lòng con nhớ mẹ
:
“Lên
non mới biết non cao
Nuôi
con mới biết công lao mẫu từ”.
“Ai
rằng công mẹ như non,
Thật
ra công mẹ lại càng lớn hơn”.
“Lòng
mẹ như bát nước đầy,
Mai
này khôn lớn, ơn này tính sao ".
“Nhớ
ơn chín chữ cù lao,
Ba
năm nhũ bộ biết bao thân tình”.
“Con
ho lòng mẹ tan tành,
Con
sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
“Nuôi
con chẳng quản chi thân,
Chỗ
ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
“Mẹ
ngoảnh đi, con dại,
Mẹ
ngoảnh lại, con khôn”.
“Mẹ
giàu con có, mẹ khó con không”.
“Mẹ
già như chuối ba hương,
Như
xôi nếp một, như đường mía lau” .
“Bồng
cho con bú một hồi,
Mẹ
đã hết sữa, con vòi con la”.
“Nuôi
con buôn tảo bán tần,
Chỉ
mong con lớn nên thân với đời.
Những
khi trái nắng trở trời,
Con
đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn
đời vất vả triền miên,
Chăm
lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Vì
lòng thương mẹ dạt dào, vì nhớ đến công ơn bú mớm sinh
thành, nuôi nấng, nên người con luôn luôn tưởng nhớ đến
mẹ :
“Chiều
chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó
về quê mẹ ruột đau chín chiều”.
“Giữa
đêm ra đứng giữa trời,
Cầm
tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn”.
“Trải
bao gian khổ không sờn,
Muôn
đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền”.
Đối
với công ơn trời biển của cha mẹ, các người con luôn tìm
cách báo đáp ơn nghĩa nặng và làm tất cả những gì có
thể làm được để đền ơn mẹ:
“Mẹ
già ở túp lều tranh,
Sớm
thăm tối viếng mới đành dạ con”.
“Tôm
càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã
gạo cho trắng mà nuôi mẹ già”.
“Đói
lòng ăn đọt chà là,
Nhịn
cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.
“Đói
lòng ăn trái ổi non,
Nhịn
cơm cho mẹ, cho tròn nghĩa xưa”.
“Dấn
mình gánh nước làm thuê,
Miễn
nuôi được mẹ quản gì là thân”.
“Vô
Chùa thấy Phật muốn tu,
Về
nhà thấy mẹ, công phu chưa đành”.
“Nuôi
con chẳng quản chi thân,
Bên
ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Lấý
gì đền nghĩa khó khăn,
Lên
non xắn đá, xây lăng phụng thờ”.
“Đây
bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ
ôi, đây ngọc với dây lòng.
Đây
tình con nặng trong tha thiết,
Ơn
nghĩa sanh thành, chưa trả xong”.
Ai
không làm tròn bổn phận người con đối với mẹ, thời bị
nghe lời trách móc:
“Đi
đâu bỏ mẹ ở nhà,
Gối
nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng”.
Người
con hiểu được tình thương của mẹ đối với con, nhưng
công lao mẹ đã trải qua để nuôi con khôn lớn nhất là những
hy sinh lo lắng của mẹ chiều chuộng con, săn sóc con, chịu
cực chịu khổ vì con, chẳng may người mẹ đã qua đời thì
người con đau khổ xót thương là chừng nào.
Dù
người con thương cha không bằng mẹ, nhưng không phải vậy
mà người con quên công ơn của người cha, vì vai trò của
người cha rất đặc biệt trong gia đình:
“Con
có cha như nhà có nóc,
Con
không cha như nòng nọc đứt đuôi”.
“Khôn
ngoan nhờ ấm ông cha,
Làm
nên phải đoát tổ tông phụng thờ”.
“Đạo
làm con chớ hững hờ,
Phải
đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm”.
“Còn
cha gót đỏ như son,
Một
mai cha chết gót con đen sì”.
Hình
ảnh người cha đã già nhưng vẫn làm lụng nuôi con, cũng
để lại trong tâm trí người con một nỗi biết ơn vô hạn:
“Cha
tôi tuy đã già rồi,
Nhưng
còn làm lụng để nuôi cả nhà.
Sớm
hôm vừa dấy tiếng gà,
Cha
tôi đã dậy để ra đi làm”.
Đó
là hình ảnh cảm động, khi mẹ mất rồi, người cha đóng
vai gà trống nuôi con lo cho con uống sữa:
“Nghiêng
bình mở hộp nút ra,
Con
ơi con bú cho cha yên lòng”.
Tuy
vậy, vai trò giáo dục trong gia đình, người cha đặt nặng
hơn, và giáo dục thường hay nghiêm khắc hơn như vậy ảnh
hưởng tốt đẹp cho người con, khi được một người cha
nghiêm minh dạy bảo, có tác dụng hơn người mẹ nhiều :
“Mẹ
đánh một trăm, không bằng cha ngăm một tiếng” .
Ngang
các câu ca dao, các câu cách ngôn, các mẩu chuyện, chúng ta
đã thấy lòng người Việt Nam đối với cha mẹ như thế
nào. Lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam đã được
truyền thống dân tộc Việt Nam hun đúc, tác thành, ăn sâu
vào tâm khảm của người Việt Nam. Ngoài ra, người Phật
tử Việt Nam lại được đạo Phật dạy thêm nhiều về chữ
Hiếu, soi sáng thêm nghĩa vụ làm cho mẹ, nghĩa vụ làm con,
và nhờ vậy chữ Hiếu lại càng ảnh hưởng sâu đậm vào
người Phật tử Việt Nam, vào tâm tư hành động của người
Việt Nam.
“Tâm
Hiếu là tâm Phật,
Hạnh
Hiếu là hạnh Phật”.
Chúng
ta được biết đức Phật là một vị đã đạt được Pháp
nhãn, đã chứng ngộ trí tuệ, nên cái nhìn của Ngài rất
khác lạ đối với hành động con người và sự liên hệ
giữa người và người. Khi thấy Singàla (thi-ca-la-việt) mỗi
buổi sáng, dậy sớm đảnh lễ sáu phương (Kinh Giáo Thọ
Thi-ca-la-việt), (Trường Bộ IV, 188 B), đúng theo lời dặn
của người cha để lại, đức Phật thấy rõ sự vô ích
của lễ nghi và Ngài đã giải thích theo hướng chuyển thành
hành động đúng bổn phận của mình. Phương Đông chỉ cho
cha mẹ và con cái, phương Nam chỉ cho sư đệ; phương Tây
chỉ cho vợ chồng; phương Bắc chỉ cho bạn bè; phương Dưới
chỉ cho kẻ phục vụ và phương Trên chỉ cho Sa-môn, Bà-la-môn.
Và hành động ở đây có nghĩa là bổn phận của người
con đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con, chỉ cho phương
Đông; bổn phận thầy đối với trò, trò đối với thầy,
chỉ phương Nam v.v. . . Như vậy, người con có năm bổn phận
đối với cha mẹ: “Nuôi dưỡng cha mẹ (khi cha mẹ già yếu);
giữ gìn gia đình với truyền thống, bảo vệ tài sản thừa
tự; và làm tang lễ khi cha mẹ qua đời”. Cha mẹ cũng có
năm trách nhiệm đối với con cái: “Ngăn chận con làm điều
ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp;
cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự
cho con”. Đây rõ ràng là một thông điệp trách nhiệm, một
trách nhiệm hỗ tương không phải một chiều. Con có năm bổn
phận đối với cha mẹ. Cha mẹ cũng có năm bổn phận đối
với con cái. Khi cha mẹ và con cái làm trọn bổn phận mình,
thời phương Đông được an lành hạnh phúc. Nói cho rõ hơn,
vận may chỉ đến với gia đình nào, khi trong gia đình ấy
cha mẹ trọn tình đối với con cái và con cái trọn đạo
với mẹ cha. Trong kinh Mangalasutta (Hạnh Phúc Kinh), khi được
một Thiên nhân hỏi làm sao được vận may (Mangala), với hy
vọng đức Phật sẽ dạy cho một hình thức lễ nghi lễ cầu
may cầu phước, đức Phật lại dạy cho ba mươi tám hành
động phải làm để được may mắn và một trong những hành
động ấy là phụng dưỡng mẹ cha:
“Màtàpitu
upatthànan ...
Etam
mangalamuttamam "
“Phụng
dưỡng cha và mẹ ...
Là
vận may tối thượng”
Hiếu
không phải là những gì nói suông bằng miệng, bằng những
nghi lễ cầu may cầu phước. Hiếu phải được cô đọng
bằng những việc làm cụ thể và ở đây là phải hầu hạ
và phụng dưỡng mẹ cha.
Trong
kinh Tăng Chi tập I, trang 74, cha mẹ được ví như ngọn lửa
đáng cung kính, vì chính người cha người mẹ đã đem lại
sự sống cho các người con, như ngọn lửa đem lại nguồn
nóng, sức sống cho loài Người.
“Thế
nào là lửa đáng cung kính? Ở đây, này Bà-la-môn, những
người mẹ những người cha của người ấy. Này Bà-la-môn,
đây gọi là lửa đáng cung kính. Vì cớ sao?”.
“Từ
đấy, này Bà-la-môn, khiến cho mang lại, khiến cho sanh ra (Ato
yam àhùto sambhùto). Do vậy, lửa đáng cung kính, được tôn
trọng, được cúng dường, phải đem lại chánh lạc”.
“Và
này Mahànamà, với một thiện nam tử được cha mẹ thương
tưởng, chờ đợi là sự tăng trưởng không phải là sự
giảm thiểu. Và này thật sự là vậy, người con hiếu dưỡng
cha mẹ được hưởng rất nhiều hạnh phúc”.
Trong
kinh Tương ưng tập I, trang 225, Bà-la-môn Màtaposaka đến hỏi
đức Phật:
“Thưa
Tôn giả Gotama, tôi tìm món ăn thiết thực theo thường pháp.
Sau khi tìm món ăn thiết thực theo thường pháp, tôi nuôi dưỡng
mẹ cha. Thưa Tôn giả Gotama, tôi làm như vậy, tôi có làm
đúng trách nhiệm không?”
“-
Này Bà-la-môn, người như vậy là có làm đúng trách nhiệm.
Này Bà-la-môn, ai tìm đồ ăn thiết thực theo thường pháp,
lại nuôi dưỡng mẹ cha, người ấy được nhiều công đức”.
“Người
nào theo thường pháp,
Nuôi
dưỡng mẹ và cha,
Chính
do công hạnh này,
Đối
với cha và mẹ,
Nhờ
vậy bậc Hiền Thánh,
Trọn
đời này tán thán,
Sau
khi chết, được sanh
Hưởng
an lạc chư Thiên”.
Khi
Bà-la-môn Manatthaddba hỏi đức Phật nên cung kính cúng dường
ai là tốt lành, đức Phật khuyên (Tương ưng tập I, trang
221):
“Với
mẹ và với cha,
Với
anh tuổi nhiều hơn,
Với
thầy là thứ tư
Không
nên sanh kiêu mạn,
Nên
kính trọng vị ấy,
Nên
tôn kính vị ấy,
Cúng
duớng chúng tốt lành”.
Phụng
dưỡng cha mẹ đúng pháp, được hưởng quả tốt lành như
kệ số 404 sau đây trong kinh Sut-tanipàta (Kinh Tập) đã nêu
rõ:
“Dhammena
màtàpitaro Bhareyya,
Payojage
dhammikam so vàmjìam
Etam
gihì vattayam appamatto
Sayam
pabhe nàma upetit dive”.
“Thờ
mẹ cha đúngpháp,
Buôn
bán đúng, thật thà,
Gia
chủ không phóng dật,
Được
sanh Tự Quang thiên”.
Bước
thêm một bước nữa, đức Phật trong kinh Tăng Chi tập I,
trang 147, dùng một hình ảnh táo bạo hơn, nhưng rất linh động
và chính xác để tán dương các gia đình có những người
con có hiếu. Những gia đình ấy được xem ngang bằng với
Phạm thiên, ngang bằng với các bậc Đạo sư thời xưa, gia
đình ấy đáng được cúng dường, tôn trọng. Nói một cách
rõ rệt hơn, là gia đình nào có con cháu biết hiếu dưỡng
cha mẹ, những gia dình ấy là những gia đình đáng được
cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay, ngang
bằng với Phạm thiên, là những vị Thiên cao nhất ở Dục
giới và Sắc giới, ngang bằng với các bậc Đạo sư thời
xưa, là những vị đáng được tôn trọng nhất từ xưa đến
nay.
“Những
gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ
(Pùjittà) mẹ cha ở nhà, những gia đình ấy được chấp
nhận ngang bằng với Phạm thiên. Những gia đình nào, này
các Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ ở trong
nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các Đạo sư
thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy các
con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận là đáng được cúng dường (Sàhuneyykàni)”.
“Phạm
thiên, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Các Đạo
sư ngày xưa, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
Đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa
với mẹ cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỳ
kheo, là mẹ cha đối vớì con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng
dục chúng, giới thiệu cho chúng vào đời”.
Bậc Đạo sư thời trước,
Xứng đáng được cúng dường,
Vì thương đến con cháu.
Do vậy bậc Hiền trí,
Đảnh lễ và tôn trọng,
Dâng đồ ăn và uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp (cả thân mình),
Tắm rửa cả chân tay,
Với sở hành như vậy,
Đối với mẹ và cha,
Đời này người hiền khen,
Đời sau hưởng Thiên lạc”.
(Tăng Chi II A, trang 94)
Trong mùa Vu-lan báo hiếu chúng ta đã được nghe những câu ca dao tục ngữ nói lên công lao trời biển của mẹ cha và tấm lòng hiếu thảo thương mẹ kính cha của người Phật tử Việt Nam; chúng ta cũng được nghe những lời Phật dạy về trách nhiệm báo hiếu đối với các người con Phật. Như vậy có thể nói Phật tử Việt Nam luôn được các câu ca dao tục ngữ ăn sâu vào tâm trí của người dân Việt từ nhiều thế hệ nối tiếp. Do chịu ảnh hưởng của các truyền thống một cách tự nhiên và tất nhiên ấy, nên người Phật tử Việt Nam không những tham dự các buổi lễ Báo Hiếu đông đủ và tích cực mà còn áp dụng hạnh hiếu thảo của mình đối với cha mẹ hiện tiền cũng như quá khứ trong bảy đời một cách trọn vẹn nữa.
(Bài giảng Đại lễ Vu-Lan PL. 2539 – 1995 tại Thiền Viện Vạn Hạnh)