Học Để Tu

24/10/20225:57 SA(Xem: 2870)
Học Để Tu

HỌC ĐỂ TU
Thích Trung Hữu

thich-trung-huu (2)“- Lúc này thầy làm gì?” là câu hỏi mà tôi rất thường hay được mọi người hỏi. Nếu tôi trả lời là “ở chùa tu” thì họ sẽ nói rằng: “Thầy cũng học hành đến nơi đến chốn mà không làm gì hết uổng quá vậy”.

Có lẽ đó là quan niệm thông thường của mọi người, rằng người ta phải làm một cái gì đó thì mới trở nên có giá trị trong xã hội, trong mối quan hệ cộng đồng. Làm một cái gì đó vừa chứng tỏ mình có năng lực vừa thể hiện sự thành công, thành đạt. Còn không làm gì hết thì vô dụng quá. Và không biết từ khi nào người tu thích tham gia các hoạt động bên ngoài như muốn có được một chức vụ nào đó trong Giáo hội, làm giảng sư, người dẫn chương trình… chứ ít ai chịu an phận làm một người tu bình thường ở chùa. Thật ra, tôi nghĩ rằng, làm một người tu “phó thường dân” ở chùa mới là điều bình thường của một người tu, vì việc làm chính yếu của người tu chính là tu mà, chứ đâu phải làm chức nọ, việc kia. Nếu có làm chức nọ, việc kia thì chẳng qua cũng là vì đáp ứng nhu cầu của thời đại vậy thôi, còn “bổn phận sự” của người tu chính là ở chùa tu. Ở chùa quét chùa, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thúc liễm sáu căn, trao dồi giới định huệ để đạt đến sự giác ngộ. Còn làm chức nọ, việc kia thật ra đó là việc làm bất đắc dĩ, không thể không làm chứ có gì đâu mà ham muốn hay tự hào. Vì đó không phải là bổn phận, là việc làm chính yếu của người tu.

Hãy nhớ lại lúc đầu chúng ta phát tâm xuất gia, có phải chúng ta muốn xuất gia để tìm danh lợi không? Chúng ta phát tâm xuất gia vì thấy đời sống tu hành ở trong chùa thanh cao. Ta thấy người tu là người không màng thế sự, rủ bỏ lợi danh, chỉ một lòng tầm cầu giac ngộ giải thoát mà thôi. Hoặc ta thấy người tu là những vị bồ tát giữa đời thường đang phụng sự chúng sanh một cách vô ngã. Nhưng tại sao dần dà ta quên đi những điều đó? Và ta lại đi tìm kiếm, thậm chí tranh giành những thứ mà ta từng từ bỏ trước kia?

Nói vậy sẽ có người hỏi rằng vậy người tu học nhiều để làm gì?. Câu trả lời rất đơn giản: “Học để tu”. Muốn tu thì phải biết phương pháp, con đường để tu, và học chính là tìm hiểu phương pháp, con đường đó. Không phải biết lơ mơ mà phải biết rõ ràng, biết chắc chắn, biết chính xác, cho nên cần phải học nhiều. Trong chúng ta đây, dù mới tu hay đã tu lâu rồi, có bao giờ tự hỏi mình đã thật sự biết con đường chưa? Và mình đã đặt chân trên con đường đó chưa? Rằng mình đã đi đúng trên lộ trình của một đệ tử Như Lai chưa, hay là mình đang đi trên lộ trình nào khác, để rồi nó dẫn mình đến một đích đến khác?

Học để tu. Từ thời đức Phật đã vậy rồi. Một người sau khi xuất gia, đức Phật dạy họ phương pháp tu tập và họ tu tập phương pháp đó cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát. Chúng ta ngày nay đi tu cũng thế thôi, cũng lấy giác ngộ, giải thoát làm mục tiêu. Hoằng pháp là gì? Hoằng pháp không phải là một nghề, một công việc hay một địa vị xã hội. Hoằng pháp là chia sẻ những điều mà mình đã học và tu với người khác để họ cũng biết tu như mình. Đó cũng là cách để đền ơn Phật, Tổ và các vị Thầy mà nhờ họ mình mới biết đường tu. Như vậy việc một người học xong rồi thì ở chùa tu là đúng chánh pháp, là việc cần làm, nên làm chứ làm sao lại nói rằng học ra không làm gì là uổng? Ngược lại học ra mà không áp dụng để tu mà lại đi làm việc này việc nọ thì mới là uổng chứ?

Sách “Tuân Tử” có viết: “Cổ chi học giả vi kỷ, kim chi học giả vi nhân”, có nghĩa là người xưa học vì mình, còn người nay học vì người. Học vì mình là có ý rằng học để bồi dưỡng đức hạnh của bản thân. Còn “học vì người” là xuất phát từ động cơ bên ngoài, học là để cho người khác biết đến mình. Việc học Phật Pháp cũng vậy thôi. Cho nên chỉ sợ có quá nhiều trách nhiệm bên ngoài mà không thể làm một người bình thường ở chùa để tu thôi chứ làm sao mà uổng được.

Học để tu cũng có nghĩa là mục đích của việc học là để tu chứ không phải học để kiếm một cái nghề kiếm sống, không phải để có nhiều kiến thức để khoe khoang với thiên hạ rằng mình là người học cao hiểu rộng. Nếu học để như thế thì đó là bệnh chứ không phải là điều tốt. Quả thật trong thực tế có một số người như vậy. Họ luôn luôn muốn chứng tỏ với thiên hạ về vốn kiến thức mà họ cho rằng uyên bác của mình, rằng cái gì mình cũng biết. Họ nói thao thao bất tuyệt, trên mọi lãnh vực, từ sở trường cho đến sở đoản của họ. Đức Phật không không bao giờ khen người học nhiều, càng không khen người nói nhiều. Vì nói là vọng tưởng, là hướng ngoại, và có thể gây tranh đấu. Học không đưa đến chứng đắc đạo quả. Học cũng như người đếm tiền của người khác, còn tu mới là tiền của mình. Tiền của người khác dù có rất nhiều cũng không thể xài, còn tiền của mình dù ít cũng xài được. Cũng vậy, người học nhiều, biết nhiều, nói nhiều không diệt trừ được phiền não, khi đối cảnh thì tham sân si nổi lên liền, không có chút lợi ích nào cho thân tâm cả. Còn người tu, dù tu ít cũng rất ích lợi cho thân tâm. Phiền não dần dần vơi mỏng, phát sinh trí tuệ chân thậtcuối cùngchứng đắc đạo quả.

Đạo Phật chủ trương “duy tuệ thị nghiệp”, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp của người tu. Trí tuệ ở đây là trí tuệ chân thật có được nhờ sự thành tựu từ giới và định, chứ không phải kiến thức từ bên ngoài. Cho nên ‘duy tuệ thị nghiệp” cũng có nghĩa là “duy giác ngộ thị nghiệp”, “duy minh tâm kiến tánh thị nghiệp”. Người thế gian lấy nhà cửa, đất đai, tiền bạc, địa vị, danh vọng làm sự nghiệp, còn người tu thì lấy trí tuệ, lấy sự giác ngộ làm sự nghiệp của cuộc đời mình. Chữ Đạo nghiệp ở trong Phật Pháp có nghĩa là sự nghiệp giác ngộ, giải thoát, là đạt đến niết bàn, là chấm dứt sanh tử luân hồi, điều mà trong kinh gọi là "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong; không còn trở lui lại trạng thái này nữa". Đạt được như vậy thì được gọi là thành tựu đạo nghiệp. Cũng như đức Phật và các vị thánh tăng ngày xưa, các ngài không có chùa chiền, địa vị hay danh vọng nhưng các ngài đã giác ngộ, đó mới là đạo nghiệp thật sự vậy.

Kiến thức thuộc tư tưởng, dẫn dắt chúng sanh đi trong sanh tử luân hồi; Còn trí tuệ thuộc chân tâmtác dụng phá tan vô minh, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Nếu ai tu thiền thì sẽ biết rằng kiến thức, tư tưởng, tư duy là một chướng ngại lớn cho thiền định. Chúng như những đám mây nhiều màu sắc, tuy rất đẹp nhưng lại che lấp mặt trời trí tuệ. Chỉ khi tư tưởng được buông xuống hoàn toàn thì sự giác ngộ mới xãy đến. “Đoạn trừ phiền não càng thêm bệnh/ Hướng đến chân như cũng là tà” (Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh, xu hướng chân như diệc thị tà) hay “Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở/ Vô tình cắm liễu, liễu lại xanh” chính là ý đó vậy.

Tôi học Phật Pháp mấy mươi năm, xem qua cách tu hành của các tông phái thì tôi nhận thấy rằng tất cả các tông phái Phật giáo đều có một điểm chung là hướng nội, buông bỏ tư tưởng để thâm nhập chân tâm. Người niệm Phật thì buông bỏ vạn duyên, chỉ nhớ câu niệm Phật. Niệm đến vô niệm thì “hoa khai kiến Phật”. Hành giả thiền tông không nghiên cứu kinh sách, chỉ chuyên tâm tham thiền. Khi một niệm không còn thì tự nhiên ngộ đạo, như ngài Hương Nghiêm chẳng hạn. Các tông phái Phật giáo cũng đều cho rằng cái trí tuệ của chính mình mới chân thậtbao la vô tận, như nước biển không cùng. Còn kiến thức học từ bên ngoài thì không thật, tức là khi đúng khi sai và rất hữu hạn, chỉ như hòn bọt trên mặt biển chân như vậy thôi. Điều này cũng được diễn tả ở phẩm Tùng Địa Dũng Xuất trong kinh Pháp Hoa. Rằng các vị đại Bồ Tát ở cõi nước phương khác thì đông hơn số cát của “tám sông Hằng”, trong khi đó chúng đại Bồ tátcõi Ta Bà đông hơn rất nhiều, tới “sáu muôn sông Hằng”. Ngoài ra “mỗi vị Bồ tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc”. Bồ tát ở cõi khác là chỉ cho kiến thức bên ngoài do học hỏi mà có, còn Bồ tátcõi Ta bà, từ dưới đất vọt lên, là trí tuệ vốn có của mỗi người. Và qua đó chúng ta thấy rằng pháp môn nào cũng dạy chúng ta trở về với chân tâm, với trí huệ chân thật vốn có của chính mình vậy.

Thế nên tôi không bao giờ cảm thấy uổng phí khi học xong mà không làm việc, vì mình đã xác định học là để tu. Không tu mới la uổng. Tôi luôn nghĩ rằng, mình đã bỏ tất cả để đi tu, thì phải đạt được cái gì đó về mặt tâm linh, chứ chỉ đi góp nhặt kiến thức của người khác, hoặc làm những công việc bên ngoài thì mấy mươi năm “ăn chay nằm đất” ở chùa coi như không được gì rồi. Bất quá chỉ là một người tốt mà thôi.

Thích Trung Hữu

 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/02/2021(Xem: 7227)
08/09/2015(Xem: 18118)
05/10/2014(Xem: 21412)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.