Chứng NgộVãng Sanh Cực Lạc

15/05/201312:00 SA(Xem: 31233)
Chứng Ngộ Và Vãng Sanh Cực Lạc
CHỨNG NGỘVÃNG SANH CỰC LẠC
Nguyễn Xuân Chiến

blankĐiểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy?

Vãng sanhmục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.

Trong giáo lý Nguyên thủy, để xiển dương năng lực thọ trì Bát quan trai, kinh điển Nikaya ghi rằng: “Một Phật tử nọ sau khi thọ trì Bát quan trai nửa ngày, đi ra khỏi tịnh xá và bị xe bò húc chết. Đức Phật tuyên bố rằng, ông ta được thác sanh lên cõi Trời, nhờ vào công đức thọ Bát quan trai dù chỉ một buổi”. (Trích The Buddha and His Teachings của Hòa thượng Narada, Phạm Kim Khánh dịch Đức PhậtPhật pháp)

Trong buổi sơ khai của đạo Phật, biết dân chúng vốn có thói quen của Bà-la-môn, (tập quán ưa thích sanh lên cõi trời) nên Đức Phật đã khuyến dụ các đệ tử tại gia là: thực hiện Bát quan trai thì được sanh Thiên (sanh lên cõi trời). Thật ra, ngay khi rời Bồ- đề đạo tràng, Ngài đã xác quyết mục tiêucon đường diệt tận khổ đau, phiền nãogiải thoát chúng sanh khỏi luân hồi trong ba cõi, cho nên giáo lý “sanh Thiên” chỉ là giáo lý thi thiết tạm thời.

Do đó, nhiều Phật tử đã nhầm lẫn rằng, “Vãng sanh Cực Lạc” có ý nghĩa tương tự như thác sanh lên cõi Trời (thiên đường), nhưng có thể là một thiên đường khác! Ngay cả một số người theo pháp môn Tịnh độ cũng vậy, họ nhận thức cuộc đờikhổ não, giả tạm, chỉ đưa đến những kết quả ngoài ý muốn, nên họ phát tâm tịnh tu để lúc lâm chung, được Phật rước về sống nơi an vui vĩnh hằng!

Thái độ này vẫn còn nhiều sơ sót. Lý do: thứ nhất,vẫn tỏ ra mình chưa hiểu mấy về ý hướng chân chánh của Phật khi ban tặng pháp môn Tịnh độdanh hiệu A Di Đà cho tất cả chúng ta! Thứ hai, trong khi thực hành niệm Phật, họ đã quên gắn bó Bồ-đề tâm vào thái độ sống của mình. Mà kinh Hoa Nghiêm dạy: “Quên mất Bồ-đề tâmtu hành các thiện pháp, thì đó là hành động theo ma vương”. Thứ ba, đạo Phật không phải là một tôn giáo thần quyền luôn hứa hẹn một cõi thiên đường khoái lạc sau khi chết để ru ngủ tín đồ, như lắm người lầm tưởng!

Do những khúc mắc như vậy, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm những kinh sách hiện có trong tay, để tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ “vãng sanh Cực Lạc”, rồi đối chiếu với từ ngữ “chứng ngộ”. Và kính mong sự góp ý của chư vị thiện hữu tri thức.

“Vãng sanh Cực Lạc” có nhiều ý nghĩa:

1. Cực Lạc là cõi Tâm Linh, vãng sanh là đi về Cõi Tâm Linh

Có thể nói rằng, đạo Phậtđạo Tâm, cho nên cõi lý tưởng của nhà Phật tạm gọi là cõi Tâm. Cõi Tâm không có địa chỉ, chỗ đến (không phương sở), không tên gọi, không thể đo đạc, ước lượng được, chỉ cảm nhận mà thôi…

Mà tâm rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới và nói nhỏ thì nhỏ hơn hạt cải. Muôn sự không ngoài tâm. Điều này dường như khó hiểu đối với những người duy lý, những người tìm hiểu mọi sự qua suy luận, bằng cứ cụ thể, xác đáng. Đó gọi là “không thể nghĩ và bàn”, nghĩa là vượt lên trên mọi suy tư và diễn tả. Hình như cái gì gọi là Tâm Linh thì ta không thể sử dụng bất cứ phương tiện thế gian nào để nắm bắt, ngoại trừ cái trực cảm của mình và Cơ Duyên của mỗi người.

Thân Loan, Tổ sư Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, cũng nói rằng: Cõi Cực Lạc của A Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy giữa các thiên hà xa xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự của Tâm Linh, vượt lên trên tất cả tư duydiễn tả của thế gian tầm thường. (Trois Sutras et Un Traité sur La Terre Pure, Jean Eracle, Editions de Seuil, 1994)

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc nghĩa là tái sanh về cõi của tâm linh của Phật, Bồ-tát.

2. Vãng sanh Cực Lạc là tên gọi khác của từ ngữ “đi vào Niết-bàn”

Theo lời dạy của Đức Phật, Niết-bàn đâu phải là một chỗ dành cho các linh hồn trú ẩn? Niết-bàn là trạng thái Giác Ngộ. Đức Phật Thích Ca đạt Niết-bàn khi giác ngộ, tại ngay thế gian này. Sau đó nhiều đệ tử của Ngài (Xá-lợi-phất, Tu- bồ-đề, Ma-ha Ca-diếp, Mục-kiền-liên, A-nan…) cũng đạt Niết-bàn, trở thành A-la-hán, ngay khi còn sống.

Tổ Huệ Năng xác định Niết-bàn nằm ngay trước mắt ta (Pháp Bảo Đàn kinh). Người tu ThiềnNhật Bản đi từ trạng thái giác ngộ (satori) này đến giác ngộ khác, khi còn sống. Mặt khác, đạo Phật cũng có một trú xứ gọi là Cực lạc của Phật A Di Đà, dành cho những tâm linh niệm Phật trước khi lâm chung, nhưng không phải là thiên đàng như mọi người hiểu.

Người tu Tịnh độ chỉ hướng vào Cực Lạc cũng như đắc Niết-bàn. Thật ra, chỉ khác nhau tên gọi chứ không khác nhau ở nội dung giải thoát. Vãng sanh Cực lạc tức là cách nói khác của “nhập Niết-bàn”.

Vấn đề ở đây là Niết-bàn theo cấp độ nào, trình độ nào… thì tùy thuộc việc tu chứng của từng cá nhân.

3. Vãng sanh Cực Lạc theo tông Tịnh Độ

Trong lời tựa bản dịch cuốn Hai thời công phu ngài

Trí Quang thượng nhân viết (khá cô đọng!):

Người tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ thì hoặc sinh Cực Lạc rồi trở lại hoá độ ta-bà trước hết, hoặc sinh Cực Lạc ngay nơi ta-bà mà hóa độ trước, mặt nào cái nguyện sinh Cực Lạc cũng là vì thế giới ta-bà này, nên tôn giả A- nan đã nói, “ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”.

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc luôn luôn có hai ý nghĩa: chứng ngộgiải thoát. Bởi vì đó là cốt lõi của đạo Phật, cho nên vãng sanh tức là: một, chứng ngộgiải thoát ngay lúc lâm chung, gọi là lâm chung vãng sanh, hai, chứng ngộgiải thoát ngay trong đời sống hiện tại, gọi là hiện tiền vãng sanh.

a) Lâm chung vãng sanh: Chứng ngộgiải thoát ngay khi lâm chung, nghĩa là:

Vãng sanh nghĩa là từ bỏ thân xác phàm phu nghiệp báo này, để tái sanh trong cảnh giới an lành của Cực lạc Tây phương. Mà Cực lạc Tây phương là nơi an trú của Phật, Bồ-tát, với những thuộc tính Đại Từ Bi, Đại Trí Tuệ, Đại Giải Thoát, Đại Nguyện Lực… Cho nên cõi ấy không bao giờ là chốn yên nghỉ cho những tâm hồn sật sờ ngái ngủ, bệnh hoạn, mà ngược lại, đó là nơi tập kết của các tâm hồn thao thức, có chí rộng lớn, cường liệt, nhiệt thành, để cùng nhau tu tập dưới sự hướng dẫn và hộ trì của Phật, Bồ-tát. Hơn nữa, Cực lạc Tây phương mãi mãi còn là một thao trường vĩ đại để chúng ta rèn luyện bồ-đề tâm, bồ-đề nguyện trước khi bước vào con đường độ sanh vô cùng dài xa và khó nhọc.

An lạc tập, ngài Đạo Xước ghi: “Hiện nay là đời có năm thứ trược ác, con đường tu tập của các bậc thông tuệ, giới đức (thánh đạo môn) thì nghĩa lý sâu xa, khó thực hành, không hợp thời cơ, chỉ có Tịnh độ môn (con đường tu tập bằng Đức Tin) là đạo lý quan trọng mà mọi người có thể cùng vào. Với lòng đại từ bi, Đức Phật khuyên chúng sanh nên cầu sinh Tịnh độ: dù cho một đời tạo ác, nhưng lúc lâm chung mà định ý, chuyên tâm, mười niệm liên tục tiếp nối nhau mà xưng danh hiệu Phật, thì tất cả chướng nạn được tiêu trừ, nhất định được vãng sanh. Đây thuộc về tha lực dị hành đạo”.

Ngài Tỉnh Am đại sư, vị Tổ sư 11 của Tịnh độ Trung Hoa, dạy rằng: “Tu hành tại cõi thế gian này thì sự tiến đạo rất khó. Vì là khó, cho nên lắm kiếp chưa chắc đã hoàn thành. Vãng sanh cõi Cực Lạc thì sự thành Phật cũng dễ. Vì là dễ, cho nên một đời chắc chắn sẽ thực hiện được. Thánh giả ngày xưa, hiền nhân ngày trước, ai cũng quay đầu hướng về Tịnh Độ. Kinh cả ngàn, luận cả vạn, văn bản nào cũng chỉ lối cho chúng ta đến Tây phương”.

Huống chi đối với hạng phàm phu chúng ta, thì vãng sanh Cực Lạc phải là con đường tất yếu vậy.

b) Hiện tiền vãng sanh

Nghĩa là chứng ngộgiải thoát ngay khi còn sinh hoạt với tư cách một người bình thường. Khi còn đang mang xác thân nghiệp báo của con người mà đã giải thoátchứng ngộ rồi, mặc dù thân còn ở đây nhưng tâm đã ở Cực Lạc.

Theo giáo sư Suzuki, trong tác phẩm Thiền luận, thì vãng sanh là cải biến tâm linh, chuyển hóa tâm thức. Trong thế gian hỗn loạndơ bẩn này, từ thân tâm cho đến môi trường sinh hoạt, không có cái gì là chẳng bị nhiễm ô. Mục tiêu chân chính của đạo Phật vẫn là giúp chúng ta cải biến tâm thức của mình, vì khi tâm thức được chuyển hóa thì mọi sự sẽ được chuyển hóa ngay lập tức, và hành giả sẽ đạt Tam-muội (Sâmadhi) ngay trong đời sống.

Đối với những người đầy đủ cơ duyên, thì họ có thể vãng sanh ngay trong đời sống hàng ngày, tuy báo thân vẫn còn quanh quẩn trong thế gian này nhưng tâm thức đã là người Tịnh độ.

4. Theo ngài Suzuki: “Chứng tam-muội và vãng sanh là một”

Cuốn sách Thiền luận, nổi tiếng thế giới vì đã đem nhiều người Âu Mỹ đến ngưỡng cửa Thiền, tác giả của nó, Suzuki, là một nhà nghiên cứu đồng thời cũng là người tu thiền, đã viết:

Thật ra, tam-muội và vãng sanh là một, nhưng được mô tả theo hai cách khác nhau. Nhưng vì tam-muội có thể đạt được trong đời sống này, còn vãng sanhthể đạt được sau khi lâm chung. Nên phải nói tam-muội đồng nghĩa với vãng sanh theo một chiều hướng hoàn toàn đặc biệt, tức là chúng ta không nên coi vãng sanh như một biến cố khách quan và tùy thời, mà là một thứ đoan quyết chủ quan của những gì chắc chắn phải diễn ra. Nếu vậy, vãng sanh chỉ cho sự tái tạo tâm linh, và theo đó, có thể cho là đồng nhất với tam-muội.

“Lòng tin phải được thiết lập vững chãi bằng sự thể hiện tam-muội, tin tưởng vào bản nguyện của Phật A Di Đà, nhờ đó hành giả vững tin vào số phận tương lai của mình. Bởi vì tam-muội được chứng đắc khi mà tâm hành giả hoàn toàn hợp nhất với tâm của Phật A Di Đà, ý thức nhị nguyên hoàn toàn bị xoá bỏ. Đây là một kết luận phải đến, không những chỉ ở luận lý, mà cả trên phương diện sự thực. Rồi ra, tất cả kiến trúc của triết lý đạo Phật được đặt trên nhất nguyên luận duy tâm; mà thực tại luận của Tịnh độ cũng không thể biệt lệ.

“… Ta thấy rằng, niệm Phật hay danh hiệu hay Nam- mô A Di Đà Phật, là tâm điểm của đức tin. Khi thể nghiệm được điều này, kẻ sùng mộ đạt được “sự kiên cố của đức tin” ngay cả trước khi hắn thực sự được vãng sanh Tịnh độ. Vì vãng sanh Tịnh độ không còn là một biến cố sau khi chết, mà vãng sanh ở ngay trong cái “thế gian giới” này, cái thế giới của những đặc thù này”. (Thiền luận II)

5. Vãng sanh hay chứng ngộ?

Theo Chang Chen Chi (Trương Thiền Trí) là một thiền sư, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, thì:

“Đức Bổn sư thường dạy chư vị Tỳ-kheo phải buộc tâm ý vào sáu chỗ buộc niệm, đó là Lục Niệm Xứ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Từ chỗ buộc niệm này, người tu dần dần đi sâu vào chánh định Như Lai, tức là niệm Phật tam-muội. Lúc ấy, chúng ta muốn gọi trạng thái giải thoát ấy là gì cũng được, quan trọng chi đâu? Có thể gọi là Đốn Ngộ, vãng sanh, giải thoát, chứng quả, thành đạo… đều được cả”.

Gần đây, nhiều người có đầu óc phân biệt môn phái, thường rạch ròi giữa Thiền và Tịnh độ. Thật ra, về bản chất và điểm đến, thì hai pháp môn này không có gì chống trái nhau, vì cùng phát xuất từ một gốc chứng ngộgiải thoát như nhau, chỉ khác phương thức tu trì mà thôi.

Đại khái, Thiền chủ trương “Tức tâm tức Phật”, trong khi Tịnh độ chủ trương “Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”, như vàng ròng và vàng trang sức, tuy khác mà không khác, chỉ khác ở tên gọi và cách thể hiện bề ngoài. Còn nội dung đều là pháp tu chứng của nhà Phật cả, thì có gì đáng bàn đâu?

Hãy nghe lời dạy của Hư Vân hòa thượng khi ngài trả lời học giả John Blofeld.

Ông John Blofeld là một người Tây Âu đã lưu trú Trung Hoa nhiều năm để tu học, quen thói phân biệt chia chẻ, cho nên ông ta đã cho rằng Tịnh độ và Thiền là hai pháp môn hoàn toàn khác nhau, mà cái gì khác nhau thì không thể dung nhiếp lẫn nhau và hỗ trợ nhau trong việc hành trì (!). Ông ta đã may mắn diện kiến Ngài Hư Vân và đã nghe Ngài giải thích cặn kẽ như sau:

“… khi những dân quê hiền lành chất phác đến nghe ta nói pháp, phải chăng ta sẽ giảng cho họ nghe về Thực Tại Vô Ngã? về tánh Không? hay con đường Bất Nhị? Những điều này có nghĩa gì đối với họ? Phải chăng đó chỉ là những danh từ trừu tượng, trống rỗng, không thể hiểu và chẳng có ích lợi gì.

“Nhưng nếu ta giảng cho họ về Đức Phật A Di Đà, về bản nguyện tiếp dẫn của Ngài, về cõi Tây phương Cực lạc, thì họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát tâm muốn được sinh về cõi đó. Nếu suốt ngày họ trì niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật này thì khi làm ruộng, khi nghỉ ngơi, khi gặt lúa, lúc lùa trâu về chuồng, họ trì niệm cho đến lúc Nhất Tâm Bất Loạn, thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệtchúng sanh có chư Phật, sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ thực tại mầu nhiệm ngay. Dù người ta gọi đó là Vãng sanh Cực Lạc, gọi là Chứng ngộ, “tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà”, gọi là Thiền, hoặc gọi là Nhất Tâm, thì điều này có gì khác biệt đâu?

Cái khả năng giải thoát mà người ta cho rằng vốn ở bên ngoài (tha lực), thật ra vẫn ở bên trong (tự lực), lúc nào cũng vẫn sẵn có kia mà!” (Trích The Wheel Of Life của tác giả John Blofeld, Nguyên Phong dịch, Ngọc sáng trong hoa sen).

6. Kết luận

Tóm lại, chúng ta tạm thời có thể nói: Thiền là pháp tu của những người sống bằng giới định. Còn Tịnh độ là pháp tu của những người sống bằng tín tâm. Cho nên từ ngữ vãng sanh của Tịnh độý nghĩa tương tự như từ ngữ chứng ngộ của Thiền tông, không hai không khác. (Nam-mô A Di Đà Phật chính là lòng tin để thành tựu tình cảm tôn giáo, vừa là năng lực phát triển giới định tuệ).

Từ lâu,Thiền tôngTịnh độ tông dường như kết hợp với nhau rất nhuần nhuyễn trong hành trì, hình thức, nghi lễ… thể hiện Thiền Tịnh song tu suốt trên 1.000 năm nay tại Việt Nam, nghĩa là từ trước thời Lý Trần. Vả lại, điểm đặc sắc của người Việt Nam là không phân biệt môn tường, bè phái, cho nên khi một nhà sư thị tịch đúng chánh pháp, ta có thể nói: Ngài đã chứng ngộ (đắc đạo). Hoặc nói: Ngài đã vãng sanh Cực Lạc – đều thích hợp cả.

Nguyễn Xuân Chiến
(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 124)


Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.