TÌNH YÊU VÀ CÔNG VIỆC
Nguyên tác: Everyday Zen — Love & Work
Tác giả: Charlotte Joko Beck
Biên tập: Steve Smith
Dịch Việt: Lương Thanh Bình
Chương 6: Lý tưởng
Trải qua hoàn cảnh
Tôi nói chuyện với nhiều người và nhận thấy một điều là, chúng ta không thấy ra được đời sống là gì và tu tập là gì. Chúng ta thường hay lầm lẫn về cái cốt lõi của sự tu tập và bị lạc hướng bởi những quan niệm sai lầm về nó. Chính từ ở góc độ sai lầm đó đã góp phần đưa đẩy chúng ta đến những khổ đau.
Tu tập có thể trình bày rất đơn giản là, thay đổi từ một lối sống tự tạo đau khổ cho bản thân sang một lối sống không còn tạo khổ đau cho chính mình và mọi người chung quanh. Nghe qua thì rất là đơn giản — ngoại trừ khi, chúng ta thay thế sự tu tập thật sự bằng những quan niệm như là, chúng ta phải trở nên khác đi hay là tốt hơn chính mình hiện giờ; hay là cuộc sống của chúng ta nên khác hơn so với đời sống đang vận hành trong hiện tại của mình. Khi chúng ta hoán đổi những ý niệm về những cái “nên là” (chẳng hạn như quan niệm “Tôi không nên giận giữ, hay không nên bối rối, hay không nên không-bằng lòng) thế vào cho đời sống của ta (như-nó-là), thì chúng ta đã đánh mất đi cái tư thế thăng bằng rồi và sự tu tập của ta sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp gì cả.
Giả sử, chúng ta muốn nhận biết cảm giác của một người chạy đua đường trường như thế nào; nếu chúng ta chạy chỉ hai góc phố, hoặc hai dặm, hay năm dặm, thì chúng ta sẽ biết những gì về một người chạy qua những đoạn đường này; nhưng chúng ta vẫn chưa thể nào biết những điều tương tợ về khoảng đường xa hơn. Chúng ta có thể thuộc lòng những lý thuyết về chạy đường trường; chúng ta có thể diễn giải các bảng thống kê về thể lực của những người chạy đường trường hay nghiên cứu chồng chất tư liệu nhiều vô tận về chạy đường dài, vẫn không có nghĩa là chúng ta (thật) biết được nó ra sao. Chúng ta chỉ có thể biết rõ khi chúng ta là người làm (được) việc đó. Chúng ta chỉ biết đời sống mình khi chúng ta kinh nghiệm trực tiếp với nó, thay vì mơ mộng về nó ra sao giữa trong lúc chúng ta làm cái này hay có cái kia. Cái này gọi là trải qua giai đoạn thực nghiệm, thể nhập với tự thân, ở đây và bây giờ.
Giai đoạn ban đầu trong tu tập là nhận ra rằng, chúng ta không trải qua hoàn cảnh, chúng ta đã và đang luôn nghĩ về cuộc sống của ta ra sao (hay đã từng là thế nào). Những gì đang hiện có trong cuộc đời mình lúc này thì chúng ta không muốn trải qua (hay kinh nghiệm nó). Những thứ gì mà xảy ra nhiều lần, cùn nhụt, đau khổ, hay bất hạnh: chúng ta không muốn thể nhập với nó. Tất nhiên! Giai đoạn đầu tiên trong tu tập là nhận ra một điều là: chúng ta rất ít khi sống với hiện tại; chúng ta không kinh nghiệm đời sống, chúng ta luôn nghĩ về nó, khái niệm hóa nó, có phán xét về nó; nhưng lại sợ kinh nghiệm nó. Bộ phận lớn của sự tu tập là nhận ra nỗi sợ và bất mãn này, nó đã làm choáng ngợp ta như thế nào.
Nếu chúng ta tu tập với kiên nhẫn và bền chí, chúng ta sẽ đi vào giai đoạn kế tiếp. Chúng ta dần dần bắt đầu nhận ra cái Ngã là chướng ngại cho cả đời sống của mình: Tư tưởng, Cảm giác, Lẩn trốn, Thao túng, đều có thể quan sát và cụ thể hóa dễ dàng hơn. Sự thể hiện cụ thể này sẽ làm cho ta cảm thấy đau đớn khi nó bị phơi bày ra; và nếu chúng ta vẫn tiếp tục, những đám mây mờ kia che phủ toàn cảnh sẽ trở nên mỏng dần đi theo thời gian tu tập.
Tính quyết định và khả năng chữa trị ở giai đoạn thứ ba là gì? Nó là sự trực nghiệm của những gì mà toàn bộ cuộc sống ở từng giây phút mà chúng ta đang trải qua. Đơn giản lắm phải không? Vâng. Dễ dàng không? Không.
Tôi nhớ về một buổi sáng thứ bảy, khi chúng tôi bị trì hoãn buổi tọa thiền sáng theo thời khóa biểu trong hai-mươi phút để cho vài người trong chúng tôi có thể đi vài góc đường để có cơ hội tốt thấy được những người về trước tiên trong cuộc chạy đường trường ở San Diego. Vào lúc 9:05 thì họ về đến. Tôi thật lấy làm kinh ngạc bởi vận tốc di chuyển của người dẫn đầu: mặc dù anh ta còn lại năm dặm cuối trong cuộc đua, anh ta vẫn lướt đi theo con đường một cách gọn gàng. Thật không khó để đánh giá cao cái khả năng chạy của anh — nhưng ở nơi nào mới là cái mà chúng ta phải chạy và tu tập? Chúng ta phải tu tập với chính mình trong hiện thời. Thấy được người chạy bộ cao cấp thì thật là hứng khởi, nhưng nghĩ là chúng ta nên giống họ lúc này thì không có ích lợi gì cả. Chúng ta phải chạy nơi chúng ta đang hiện diện, chúng ta phải học ở đây và bây giờ, từ phong cách chúng ta đang ở đây và bây giờ.
Chúng ta không bao giờ tiến bộ bằng cách mơ mộng về một phối cảnh huy hoàng trong tương lai hay bằng cách hồi tưởng những thành quả trong quá khứ. Chúng ta trưởng thành bằng cách sống trong hiện tại và kinh nghiệm những gì cuộc sống của chúng ta là, ngay bây giờ. Chúng ta phải kinh nghiệm cơn giận của mình, nỗi buồn, thất bại, nỗi lo sợ; tất cả chúng (những hiện tượng) đều có thể là thầy của ta, trong khi chúng ta không phân chia giữa ta và chúng. Khi chúng ta trốn chạy từ những gì đang hiện có, thì chúng ta không thể nào học hỏi được, thì chúng ta không thể trưởng thành được. Điều đó không có gì là khó hiểu cả, mà chỉ khó làm mà thôi. Những ai bền lòng thì chính là người sẽ trưởng thành trong hiểu biết và có được sự thương cảm. Loại tu tập như thế này thì cần thời gian bao lâu? Vĩnh viễn.
Khát vọng và Kỳ vọng
Niềm khát vọng là thành phần căn bản của sự tu tập. Chúng ta có thể nói rằng, toàn bộ của quá trình tu thiền phát sinh từ niềm khát vọng của tự thân; không có nó thì không có gì xảy ra cả. Trong cùng thời gian chúng ta nghe là, chúng ta nên tu tập với không có kỳ vọng gì. Nghe qua có vẻ mâu thuẫn, bởi vì chúng ta thường bị lẫn lộn giữa khát vọng và kỳ vọng.
Khát vọng, trong bối cảnh của tu tập, thì không là gì cả, mà là chính Chân tánh của riêng ta tìm kiếm để nhận thức và diễn đạt chính nó. Theo bản chất, tất cả chúng ta là Phật, nhưng Phật tánh của ta bị khuất lấp. Khát vọng là chìa khóa đi tới tu tập, bởi vì không có nó, Phật tánh của ta như là một chiếc xe thật đẹp: cho đến khi nào có người nào đó ngồi vào nơi chỗ tài xế và cho máy nổ, bằng không, nó thì vô dụng. Khi chúng ta bắt đầu tu tập Thiền thì niềm khát vọng vẫn còn nhỏ; nhưng theo thời gian tu tập phát triển thì niềm khát vọng cũng gia tăng. Chỉ cần sau sáu tháng tu tập, niềm khát vọng của một thiền sinh đã khác hẳn so với lúc mới bắt đầu, và sau mười năm thì chắc chắn khác nhiều hơn. Nó luôn luôn thay đổi trong thể dạng bên ngoài (mức độ cao, thấp), nhưng bản chất thì không bao giờ khác. Bao giờ ta còn sống nó sẽ luôn tăng trưởng.
Một manh mối chắc chắn nhất là, hoặc là chúng ta được thúc đẩy bởi khát vọng hay kỳ vọng là, khát vọng thì luôn luôn cần đáp ứng; nó có thể không dễ chịu, nhưng nó luôn luôn cần thỏa mãn. Kỳ vọng, thì khác hơn, thì luôn luôn không bao giờ thỏa mãn, bởi vì nó phát khởi từ cái tâm hẹp hòi, cái Ngã của chúng ta. Khởi đầu từ khi còn bé, chúng ta sống theo lề lối là luôn luôn tìm kiếm những thỏa mãn từ bên ngoài. Chúng ta tìm những phương thức để che đậy những nỗi lo sợ tiềm ẩn, những thứ này là sự thiếu vắng trong cuộc đời ta. Chúng ta đi từ thứ này qua thứ khác để cố gắng lắp vá những lỗ trống mà chúng ta nghĩ rằng chúng đang tồn tại.
Chúng ta cố gắng nhiều cách để lẩn tránh sự không hài lòng. Ví dụ, phấn đấu để đạt được một điều gì cũng là một trong những cách đã nói. Sự thành công, bản thân nó, là một điều tự nhiên, và điều quan trọng là chúng ta học cách quán xuyến cuộc đời mình sao cho nó tốt đẹp. Nhưng bao giờ chúng ta vẫn còn cầu tìm những phần thưởng từ bên ngoài cho tương lai thì, chắc chắn chúng ta sẽ bị thất vọng về những kỳ vọng của mình. Cuộc sống có đường lối vận hành riêng của nó, và một trong những cách hay nhất nó có thể làm hữu hiệu nhất và thường xuyên nhất là làm cho ta thất vọng.
Thông thường chúng ta nhìn cuộc đời dưới hai dạng câu hỏi: “Tôi sẽ được những gì từ vấn đề này?” hoặc “Cái này sẽ gây tổn hại tôi hay không?” Chúng ta có thể trông bề ngoài thì yên ổn nhưng bên dưới cái bề ngoài yên ổn kia tàng ẩn hai câu hỏi nọ luôn luôn nung nấu và sôi sục. Chúng ta tiếp xúc với những pháp huấn luyện tâm linh chẳng hạn như Thiền là cố gắng tìm ra sự bình an và sự mãn nguyện; cái mà chúng ta không có được. Vậy chúng ta phải làm sao đây? Chúng ta vẫn khư khư cái thói quen hàng ngày, mang nó vào trong sự tu tập của mình. Vẫn gầy dựng lên hết mục tiêu này sang qua tiêu điểm khác, vẫn giữ theo lề lối cũ là luôn đeo đuổi theo một thứ gì đó: “Tôi tự vấn bao nhiêu công án; Tôi có thể trải qua khóa tu này” hoặc là “Tôi có thể ngồi lâu hơn cô kia, nhưng sao cô ta dường như tiến bộ lẹ quá,” hay là “Buổi tọa Thiền tối qua của tôi thật tốt — làm cách nào tôi có thể quay lại như thế lần nữa.” Dù cách này hay cách khác, phong cách tu tập của chúng ta vẫn đặt trên nền tảng của đấu tranh để đạt đến một thứ gì đó: được thừa nhận bởi cái nhìn chăm chú của ta, trở nên quan trọng trong thiền giới, tìm một hang động kín để ẩn trốn. Chúng ta vẫn làm theo nề nếp mà ta đã làm; chúng ta kỳ vọng thứ gì (trong trường hợp này là có được từ tu thiền) sẽ cho ta một sự thỏa mãn và an toàn.
Thiền sư Đạo Nguyên nói, “Tìm Phật pháp ngoài ta, thì giống như đặt một con quỉ trên đầu mình.” Tổ Lâm Tế nói, “Đừng để đầu lên trên đầu.” Đó là tìm chân bình an và mãn nguyện bên ngoài mình, thì thật là vô vọng.
Thật là quan trọng cho chúng ta liên tục nghiên cứu Tự tâm để thấy nó ở đâu (ở trong hay ở ngoài?) và nó luôn tìm kiếm những gì. Chúng ta luôn tìm những gì ngoài ta? Những gì, theo ta nghĩ, sẽ làm việc ấy? Nơi chốn? Sự tương quan? Tham công án? Vẫn là những gì các thiền sư nói, đặt thêm đầu lên trên đầu mình. Đừng tạo thêm những gì không cần thiết cho đời mình.
Mỗi phút giây như-nó-là thì hoàn hảo và trọn vẹn với thực chất của nó rồi. Nhận biết được điều đó thì không cần biết điều gì xảy ra trong mọi thời, mọi nơi chốn chúng ta có thể để nó tự nhiên (không muốn phán đoán hay thay đổi nó). Ngay bây giờ, hiện tại của bạn là gì? Hạnh phúc? Bồn chồn? Vui vẻ? Ngã lòng? Chúng ta hòa nhập với đời sống bằng lối thể nhập với từng giây phút như-nó-là. Sự tu tập của mình, nỗi khát vọng của mình, là thể nhập như thế. Nếu bạn sợ sệt, thì hòa nhập với nỗi sợ, và nơi đó bạn tìm ra an ổn, không có sợ hải tồn tại.
Có câu chuyện về ba người chăm chú nhìn một nhà sư đang đứng trên đỉnh một ngọn đồi. Sau một khoảng thời gian quan sát, một trong ba người thốt, “Ông ta phải là một người chăn cừu đang tìm một con cừu đang bị thất lạc.” Người thứ hai không tán thành, “Không! Ông đâu có nhình chung quanh. Tôi nghĩ ông ta đang chờ đợi người bạn.” Người thứ ba thì nói, “Có lẽ ông ấy là một nhà sư. Tôi bảo đảm ông ta đang thiền định.” Thế rồi họ tranh cãi về vấn đề vị sư kia đang làm gì. Để phân định cuộc tranh luận vụn vặt này, họ đi lên đồi để đến gần hơn. “Ông đang tìm kiếm một con cừu phải không?” “Không! Tôi đâu có con cừu nào đâu mà tìm.” “Ồ! vậy ông phải đang chờ đợi một người bạn.” “Không! Tôi không đợi ai cả.” “À! Vậy thì ông đang thiền định.” “Không! Tôi chỉ đứng đây thôi và không làm gì cả.”
Thật là khó khăn cho ta để giảng giải tường tận về một người đang đứng và không làm gì cả, bởi vì chúng ta luôn luôn cố gắng đến một cách rối loạn để đến một nơi nào đó, để làm một việc gì đó. Thật là không thể thoát ra khỏi thói quen này dù cho chúng ta luôn cố gắng thử. Chúng ta mang cái phong cách này vào trong sự tu thiền: “Tôi biết Phật tánh phải ở nơi nào đó ngoài kia. Nếu tôi tìm thật kỹ và ngồi thật lâu tôi sẽ tìm ra thôi!” Nhưng để thấy được Phật tánh, chúng ta cần phải buông xả tất cả mọi thứ, để hoàn toàn thể nhập với từng giây phút. Cho nên buông xả bất cứ gì ta đang làm — tìm con cừu lạc, đợi bạn, thiền tập — chúng ta chỉ đứng đây, bây giờ, không làm gì cả.
Nếu chúng ta cố gắng trở nên trầm tĩnh, thông tư, và hiểu thấu một cách thần kỳ mọi sự bằng cách tu thiền, thì chúng ta sẽ không bao giờ hiểu đúng và hành đúng. Từng phút giây như-nó-là, là một sự biểu thị bất ngờ của sự thật tuyệt đối. Nếu chúng ta tu tập với nỗi khát vọng, chỉ sống với phút giây hiện tại, cuộc đời ta dần dần chuyển biến và thay đổi tốt đẹp. Ở phút giây nào đó, chúng ta bất chợt có sự tự chứng, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự thực hành đều đặn trong từng giây phút với sự mong muốn sâu xa.
Khi chúng ta sẵn sàng sống trong giây phút hiện tại, đúng chuẩn như-ta-đang-là, thì cuộc đời sẽ suôn sẻ: cảm thấy khỏe cũng bình thường, mà cảm thấy bất an cũng không sao cả; nếu sự kiện xảy ra tốt hay xấu cũng không sao cả. Sự xáo trộn cảm giác mà chúng ta kinh nghiệm có trở thành vấn đề phiền não cho mình chỉ khi nào chúng ta không muốn sự kiện xảy ra theo chiều hướng của chúng. Tất cả chúng ta đều có kỳ vọng, nhưng khi sự tu tập phát triển mạnh dần thì những kỳ vọng này sẽ teo nhỏ lại, như những chiếc lá khô và sẽ bị gió thổi bay đi. Rồi chúng ta chỉ còn lại trơ trọi với những gì ở đây và bây giờ. Cảnh trạng này trông có vẻ đáng sợ bởi vì cái tâm luôn kỳ vọng của ta bao giờ cũng muốn đời sống trôi chảy theo một chiều hướng nhất định: chúng ta muốn vui vẻ, chúng ta không muốn bị phân vân, không muốn bị chao đảo — mỗi người của chúng ta có một bảng kê khai riêng cho chính mình.
Nhưng khi chúng ta mệt mỏi sau khi làm việc, thì đó là mệt mỏi chân tâm; khi chân bị đau sau buổi tọa thiền thì đó là tê cứng chân tâm; khi bạn thất vọng về một khía cạnh nào đó của mình, thì đó là thất vọng chân tâm. Thế thôi!
Khi chúng ta có khát vọng, chúng ta nhìn vào sự việc trong một chiều hướng khác hẳn hơn so với khi chúng ta có những kỳ vọng. Chúng ta có can đảm đối diện với hiện trạng — thật ra, đây chỉ là hiện trạng duy nhất ta có thể có. Nếu tâm lang bạt theo những kỳ vọng, có được nỗi khát vọng sẽ nhẹ nhàng kéo ta về với phút giây hiện tại. Tâm lúc nào cũng lang thang, vơ vẩn; khi nó lạc lõng như thế ta chỉ đơn giản kéo nó trở về hiện tại mà không cần phải lo lắng hay phấn khởi gì cả. Định, tập trung tư tưởng, hay Thiền Định phi tưởng phi phi tưởng xứ sẽ phát triển tự nhiên và không thể nào tránh được từ lối tu tập này, và thực chất của nỗi khát vọng cũng sẽ bành trướng sâu rộng và rõ ràng hơn.
Thấu suốt thượng tầng kiến trúc
Giả sử rằng, chúng ta nói về cuộc đời mình giống như một cái nhà và chúng ta sống trong đó, rồi những sự việc xảy ra chung quanh. Có những ngày đẹp trời, có khi trong ngày có dông tố; đôi khi ngôi nhà cần sơn phết lại. Mọi tình tiết sôi nổi xảy ra bên trong cái nhà, giữa những người sống trong căn nhà kia diễn tiến đều đặn. Chúng ta cũng có khi bị bệnh, hay khi vui, khi buồn. Hầu như ai cũng như thế. Chúng ta sống với đời sống của mình trong căn nhà (mua hay mướn) và mọi thứ xảy ra theo chiều hướng của nó. Nhưng — chính những thứ này mới làm cho sự tu tập trở nên quan trọng — chúng ta có căn nhà này, mà căn nhà này lại nằm bên trong một căn nhà khác lớn hơn. Nói khác hơn, căn nhà của ta là một bộ phận nhỏ của căn nhà ngoài kia.
Nếu đời sống của ta được tốt đẹp thì không có gì để bàn cãi. Nhưng chúng ta lại thường hay không nghĩ thế, chúng ta luôn nghĩ rằng có một điều gì đó không được ổn cho cuộc sống của mình. Nhưng thật ra đời sống của ta không có gì là bất ổn cả, nó luôn là thế. Nhưng chúng ta luôn dựng đứng lên một cái khung (khái niệm) vừa dày, vừa tối lên trên cái nhà mà ta đang sống. Cho nên cái nhà của ta càng trở nên giống một căn tù vừa tối tăm và ngộp thở. Chính cái không gian nửa sáng, nửa tối đó tạo ra nét huyền bí đáng sợ, và dễ chán nãn. Cái lỗi lầm to lớn nhất trong cuộc đời (cũng như trong tu tập) của chúng ta là: chúng ta nghĩ rằng cuộc đời với những thăng trầm, thay đổi, mà ta đang sống là có vấn đề. Chính vì ta nghĩ như thế, cho nên ta luôn luôn bị bận rộn; và gần như trọn cuộc đời mình, chúng ta luôn bận rộn với công việc xây thêm cái khung kia (dày hơn, chắc hơn) để bảo vệ căn nhà của mình — nhưng vô tình chung, chúng ta đang biến căn nhà (đời sống) của mình thành một nhà tù giam lấy chính mình.
Tu thiền trước hết phải nhận thấy rằng chúng ta đã từng làm (dựng cái khung) như thế; rồi sau đó nhìn cho ra cái khung kia là gì — nó làm việc ra sao, nó làm bằng những thứ gì, những gì chúng ta phải làm và không phải làm đối với nó. Chúng ta thường hay nghĩ, “Thật khó chịu, tôi phải thoát bỏ nó.” Không phải vậy! Tôi không nghĩ đó là cách. Thật ra, cái khung kia đang bao phủ cuộc đời chúng ta, vốn không có thực chất. Sở dĩ nó hiện hữu là vì bởi chúng ta xử dụng tâm của mình không đúng. Cho nên vấn đề ở đây không phải là thoát khỏi nó, vì nó không thật có; mà là nhận diện rõ cái thực chất của vấn đề. Và khi chúng ta thấy được cái bản thể của vấn đề, thì cái khung kia không còn dày và tối nữa, mà nó trở nên trong suốt và chúng ta có thể nhìn xuyên suốt qua nó. Giác ngộ (mang vào nhiều hơn ánh sáng) là những gì xảy ra trong khi tu tập. Thật ra, chúng ta không phải bỏ đi cái khung không thật kia, mà là nhìn thấu ra nó không thật có; khi chúng ta nhận thức ra bản thể của nó là thế thì nó không còn tác động mạnh mẽ được vào đời sống của ta; đồng thời chúng ta có thể nhìn được sự việc đúng đắn hơn những gì xảy ra trong đời sống quanh ta. Và cứ thế mà tuần tự hoạt động trong cuộc đời của ta sẽ đâu vào đó mà thôi, không có gì trở ngại cho ta cả. Ngay cả trong trường hợp ta gặp phải vấn đề khó khăn to lớn, thì nó cũng là một phần của đời sống. Chính vì bởi chúng ta không chịu chấp nhận đời sống như-nó-là; chúng ta chỉ ưa chuộng những gì vui sướng, cho nên ta lựa chọn những thứ mình thích từ cuộc đời và tránh xa những thứ khác (mình không thích). Nói cách khác, chúng ta không chịu yên sống khi hoàn cảnh sống thay đổi vào giai đoạn nó không làm vừa lòng mong mỏi của ta.
Mỗi người trong chúng ta ở đây đều có một bảng thống kê những sự việc mà mình không thích có hay xảy ra trong cuộc đời của mình. “Nó không là thế! Nó không nên như vậy!” Ví dụ: Khi tôi vẫn còn ở tuổi mới trưởng thành, nếu tôi không có cuộc hẹn hò vào tối thứ bảy, thì đó là một điều mà tôi không thể chấp nhận được. Tôi đã áp đặt không biết bao nhiêu lý do lên trên nỗi buồn của “không có cuộc hẹn nào”: “Có gì đó không ổn. Tôi nên thay đổi kiểu tóc của tôi. Tôi cần nên có màu nước sơn khác cho móng tay. Tôi cần …” Tất nhiên, đó là một ví dụ ngớ ngẩn. Nhưng trong những cơn sốc lớn trong cuộc đời, chúng ta thường hay làm ra những hành động ngớ ngẩn như thế. Bởi vì sự thiếu thiện ý về đời sống của mình, chúng ta luôn luôn cộng thêm không biết bao nhiêu những thứ không liên hệ và không cần thiết vào những gì (vấn đề) đang có. Không một ai ở đây mà không từng làm như thế cả, không có ai là ngoại lệ cả. Chừng bao giờ còn hơi thở, chúng ta sẽ luôn có ít nhất một lớp bao bọc quanh cái khung cho đời sống của mình. Còn dày bao nhiêu thì đó vẫn còn tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Tu thiền không phải là để đạt đến một nơi hay một trạng thái bình an đặt biệt, hay một thứ gì đó khác hơn so với cái đời sống của ta đang như-nó-là. Đó là một điều khó khăn nhất cho một người để nhận thức ra rằng, sự khó khăn hiện đang tồn tại trong giây phút này chính là sự hoàn mỹ (của đời sống). “Thầy ám chỉ gì khi nói chúng (những khó khăn) là sự hoàn mỹ? Ta tu tập để từ bỏ chúng kia mà!” Không! Chúng ta không phải muốn từ bỏ chúng, mà là phải thấy ra cái bản chất của chúng. Cái khung kia sẽ trụ hình trước mắt ta, rồi ta có thể mang cái búa Trí tuệ đập vào nó để tạo ra một cái lổ lớn ở chỗ này, rồi chỗ kia. Cho nên có một điều mà tôi khuyến khích bạn làm là, xác định ra xem những gì trong cuộc đời mình vào lúc này, làm cho bạn không thể chấp nhận đời mình như-nó-là. Nó có thể là nỗi phiền muộn về người hôn phối; nó có thể là sự mất việc làm; nó có thể là sự thất vọng về một mục tiêu nào đó chưa đạt được. Ngay cả, có thể là những sự kiện đang xảy ra thì rất ư là đáng sợ và căng thẳng. Đó là điều khó khăn để nhận ra được nó. Tu tập tinh tấn thì rất là cần thiết để có thể tạo ra một vết lõm vào trong cái lối nhìn cuộc đời theo thói quen. Thật là khó để nhận thức rõ ràng là, chúng ta vốn không cần phải từ bỏ hay bất an về những thiên tai. Thiên tai là lẽ thường. Chúng ta không bắt buộc phải thích nó, nhưng nó là chuyện thường tình.
Bước đầu tiên trong sự tu tập là nhận thức ra rằng, chúng ta đã từng dựng lên một cái khung không tưởng này. Và khi tọa thiền (nhất là trong lúc chúng ta lập Niệm) chúng ta bắt đầu thấy rằng chúng ta không bao giờ sống với đời mình như-nó-là. Cuộc sống của chúng ta bị pha chế trong luồng tư tưởng vị kỷ, bị đổi màu bởi cái khung dày kia. (Mục đích của chúng ta là muốn nhìn xuyên suốt qua cái khung này. Nhưng cũng có người không muốn làm thế. Cũng không sao cả. Không phải ai ai cũng nên tu thiền. Đây là việc cần làm cho vỡ mộng. Nghe qua có vẻ như hù dọa đối với những người mới bắt đầu, nhưng rõ ràng đó là một mặt của phương pháp tu này. Còn mặt kia thì, đời sống sẽ trở nên hoàn hão hơn khi ta tu tập. Cả hai luôn hỗ tương với nhau.) Vập quá trình tu tập là, trước tiên phải có sự chú tâm, ban đầu có vẻ hơi mơ hồ về những gì mình đã gầy dựng lên; và kế tiếp là thực hành. Sự giải thoát là nhìn thấu suốt cái bản chất không thật của cái khung mà mình đã dựng lên. Không có nó, cuộc đời sẽ luân lưu trôi chảy mà không có trở ngại. Bạn có hiểu tôi nói gì không? Nghe qua có vẻ hơi điên phải không?
Hãy nhận thức xem những khái niệm của chúng ta lập ra có phải là những cái khung không? Khi chúng ta bị câu thúc bởi lối nhìn — chúng ta phải như thế này hay là người kia phải nên thế kia — chúng ta có thể thông cảm rất ít về đời sống như-nó-là. Tu tập là phải làm cho tan vỡ cái khái niệm sai lầm kia của chúng ta. Rồi chúng ta phát biểu một sự thật mà phần lớn con người ta thì không thể chấp nhận được (vì nó không phù hợp với những khái niệm đã chống đỡ cái thế giới hư cấu của họ). Bây giờ đây, nhìn vào sự tu tập của mình để xem mình có muốn thực hành hay không. Sau một thời gian tọa thiền thì cái gì sẽ xảy ra, “Tôi không muốn làm những thứ này! Tôi không thích tu thiền chút nào cả!” Nhưng đó cũng là một giai đoạn của tu tập kia mà.
Để nhìn vào cái khung mà chúng ta đã dựng lên, là một quá trình đòi hỏi nhiều nghị lực và tế nhị. Điều bí mật là, chúng ta thích cái khung không thật kia nhiều hơn là cái đời sống thật của mình. Nhiều người thà là tự giết dần bản thân chứ không muốn phá hủy đi cái khung kia của họ. Họ sẽ (bằng lòng) từ bỏ đi đời sống của mình, trước hơn là từ bỏ sự chấp thủ vào cơn mơ của họ. Đó vốn không phải là một điều lạ lùng gì. Nhưng dù muốn hay không, chúng ta có muốn tự tử đi chăng nữa, cái chấp thủ vào giấc mơ của ta vẫn mãi ở trong tình trạng nghi vấn và không thể đạt đến. Chúng ta (có) đang tự giết chết chính mình (để phản kháng lại cuộc đời) thì đời sống thật của chúng ta vẫn trôi chảy mà chừng như không hề hay biết đến. Chúng ta bị làm cho mất cảm giác bởi cái quan niệm con người phải như thế này hay thế kia, đó là một thảm họa. Cái lý do khiến chúng ta không hiểu rằng đó là một thảm họa là vì niềm mơ mộng kia thật là êm ái và quyến rũ. Thông thường chúng ta nghĩ là, thảm họa là những sự kiện xảy ra như tai nạn đắm chìm chiếc tàu Titanic. Nhưng khi chúng ta lạc mất trong khái niệm và sự hoang tưởng của mình, niềm khoái lạc do chúng mang đến lại chính là một thảm họa, sẽ dìm chết chúng ta.
Có một điểm khác tôi muốn nói. Con gái của tôi và tôi đang nói về một người đàn ông, mà người này thì đang làm một điều đồi bại, và tôi thì thầm, “Ông ta nên ý thức về những gì ông ta đang làm.” Cô ta cười và nói, “Mẹ, nếu ta không-ý-thức, thì bản chất của không-ý-thức là gì? Chỉ là trạng thái không-ý-thức.” Đúng là như vậy: trạng thái không ý thức nghĩa là ta không thấy ra những gì ta đang làm. Vậy có một vấn đề trong tu tập là, tất cả chúng ta ở một mức độ nào đó “không ý thức” và không sẵn lòng để ý thức. Vậy, mổ sẽ vấn đề này như thế nào đây? Một phần của công việc này là của tôi, nhưng phần lớn vẫn là của bạn. Tôi nhớ có một thiền giả lớn tuổi ở nhiều năm trước, người cúng dường một buổi nói chuyện thật đáng yêu về bố thí và lòng bi mẫn. Ngày hôm sau, tôi chăm chú nhìn ông khi có người gọi để tập hợp thành hàng để trình pháp. Ông dường như bò lách để được vị trí phía hàng đầu — không ý thức được tính ích kỷ của mình. Cho đến khi nào chúng ta thấy chúng ta đang làm gì, bằng không chúng ta sẽ làm tương tự như ông kia. Vậy trong sự tu tập của chúng ta, một trong những nhiệm vụ của mình là luôn gìn giữ cái khả năng để nhận thấy này. Thật là khó, bởi vì chúng ta không có hứng thú nhiều gì về lối nhìn thế này.
Kỷ luật có mục đích chính giúp cho chúng ta tự ép buộc mình làm một điều gì. Nhưng kỷ luật thì đơn thuần là, mang mọi ánh sáng mà chúng ta có thể mời gọi, để giúp ta có thể thấy tốt hơn trong tu tập. Kỷ luật có thể là chính thức, như là nghi lễ trong thiền đường, hay là không chính thức, như giới hạnh trong đời sống. Người thiền sinh kỷ luật là người luôn luôn áp dụng học hỏi trong mọi lãnh vực trong ngày để tiến bộ.
Câu hỏi thì cũng vẫn là vậy: trong phút giây hiện tại, những gì chúng ta thấy và không thấy? Nếu chúng ta tu tập thật tốt, một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy những thứ mà chúng ta chưa từng bao giờ thấy trước đây. Rồi sau đó chúng ta có thể làm việc với nó. Tu tập là để giữ cái sức ép ngủ ngầm hoạt động luôn từ sáng cho đến tối. Trong khi chúng ta làm thế, cái khung kia sẽ trở nên trong suốt dần để cho ta có thể thấy rõ ràng đời sống như-nó-là.
Những gì tôi nói đây là theo chiều hướng chung của sự tu tập, buổi nói chuyện như vậy có thể nhấn mạnh vài điều và lướt qua vài điều khác. Đó là điều không thể tránh khỏi. Những câu hỏi có thể giúp làm sáng tỏ thêm buổi nói chuyện.
Hỏi: Vâng! Đúng thế. Có hai người của tôi ở đây và chúng tôi bị lẫn lộn khi thầy thuyết giảng như thế. Một người của tôi có rất nhiều quan niệm…
Joko: Vâng! Đó là những gì chúng ta muốn phá hủy đi.
Người khác hỏi: Có phải chăng là thầy muốn nói, tôi không nên dính líu với những việc của đoàn thể?
Joko: Ồ! Dĩ nhiên là không phải.
Hỏi: Nhưng đó là một lý tưởng.
Joko: Không! Nó không phải là một lý tưởng, bạn chỉ làm nó thôi. Nhưng (bạn phải) nhận được ra bất cứ tư tưởng khái niệm nào mà bạn đã cộng thêm vào cho những gì bạn làm mà thôi. Nếu có người sắp bị chết đi vì đói trước sân nhà của bạn, chúng ta chắc chắn sẽ không hỏi xem cần phải làm gì. Chúng ta đi tìm ngay thức ăn cho người ấy. Rồi sau đó, chúng ta có thể quan tâm đến vấn đề là: chúng ta tốt như thế nào khi làm việc (thương người?) ấy. Đó là những gì chúng ta cộng thêm vào. Đó là cái thượng tầng kiến trúc. Có cái bản thể của hành động và kế đến có cái khung thượng tầng kiến trúc. Bằng tất cả ý nghĩa của “làm”. Phương thức hữu hiệu nhất để làm lay động cái thượng tầng kiến trúc là, làm tất cả mọi thứ mà chúng ta vẫn thường hay làm, nhưng làm chúng với sự chú tâm càng nhiều càng tốt và nếu có thể cộng thêm sự tập trung. Rồi chúng ta thấy nhiều thêm hơn.
Hỏi: Đó chính là một phần kia của con người tôi. Nửa phần còn lại thì thất nghiệp, chán nản, và đói khát, cộng thêm những người đang nương tựa vào tôi. Những gì tôi nghe thầy nói là, tôi nên thưởng thức cơn đói và tình trạng thất nghiệp của tôi, và dường như là tôi không nên tìm một công việc làm.
Joko: Không phải như thế! Dù cho bằng bất cứ cách diễn giải của ngôn từ nào! Nếu bạn thất nghiệp, hãy tận dụng khả năng mình để tìm một việc làm. Hay là nếu bạn bị bệnh, làm những gì bạn có thể để được khang phục lại. Nhưng những gì bạn cộng thêm vào những hành động cơ bản này thì là thượng tầng kiến trúc. Nó có thể là, “Tôi là một người vô dụng, không ai muốn mướn một người như tôi cả!” Đó là cái khung. Bị thất nghiệp nghĩa là, nhìn vào cái sắc xuất của công việc mà bạn làm so với nhu cầu đòi của thị trường trong giai đoạn hiện tại và nếu cần thiết phải học hỏi thêm những kiến thức mới để nâng cao khả năng làm việc của bạn trong nghề nghiệp đó. Nhưng chúng ta luôn làm là cộng vào sự thật cơ bản bằng với mọi hiện trạng cho xấu thêm.
Hỏi: Tôi nhìn vào đời sống của cha mẹ tôi và bị ảnh hưởng. Trong vài lãnh vực thì họ không vững vàng và tôi có vẻ lo lắng về vấn đề này. Nhà tâm lý học nói rằng, năm năm đầu trong cuộc đời của một người có tác động lớn về sự hình thành cái căn bản của một đời sống. Thầy nghĩ sao về vấn đề này?
Joko: Có hai lối nhìn. Từ góc nhìn tương đối, chúng ta có di truyền. Nhiều sự việc xảy ra cho mỗi người trong chúng ta và chúng ta như là hôm nay bởi vì một phần của di truyền tính. Nhưng theo góc độ khác, chúng ta không có di truyền tính. Tu thiền là nhìn xuyên suốt sự tham đắm của chúng ta, bằng cách bám víu vào bối cảnh và tìm nguyên do cho những gì chúng ta hôm nay, thay vì đối diện với hiện thực của những gì đang là chúng ta bây giờ. Có nhiều loại trị liệu. Nhưng bất cứ phương pháp trị liệu nào tạo cho bạn cảm giác là, cuộc đời của bạn tàn tệ như thế này là do người khác gây ra, thì đây là phương pháp mang lại kết quả hời hợt nhất. Bởi vì mỗi người chúng ta có tác động lớn nhất cho chính mình kia mà, phải không? Nhưng trách nhiệm của chúng ta thì luôn luôn ở đây, bây giờ, là kinh nghiệm cái thực chất của đời sống của mình như-nó-là (chứ không trút trách nhiệm cho người khác.) Nếu chúng ta đổ trút trách nhiệm vào bất kỳ một ai, thì ta nên biết rằng ta đang bị vướng mắc; ta có thể chắc chắn điều đó.
Hỏi: Làm sao biết được?
Joko: Biết gì?
Hỏi: Làm sao thầy biết được tất cả những thứ này?
Joko: Tôi không có nói là tôi biết nó… Tôi nghĩ là nó quá rõ ràng từ nhiều năm tọa thiền. Và tôi cũng không bảo rằng bạn nên tin vào đó. Tôi không muốn một người nào ở đây tin vào những gì tôi đang nói cả — Tôi muốn bạn hãy làm việc với kinh nghiệm của chính mình. Rồi sẽ tự thấy ra sự thật cho mình. Nhưng cái cụ thể mà bạn muốn hỏi về những gì tôi nói là gì?
Hỏi: Có lẽ tôi muốn hỏi sự sẳn lòng của tôi để tin vào thầy.
Joko: Nhưng tôi không muốn bạn tin vào tôi kia mà! Tôi muốn bạn thực dụng! Chúng ta gần giống như những khoa học gia làm việc với đời sống riêng của mình. Nếu chúng ta là quan sát viên, thì chúng ta nhìn vào tự thân để xem là phương pháp thí nghiệm có hữu hiệu hay không. Nếu chúng ta tu tập với đời sống của chính mình và cái thượng tầng kiến trúc kia mõng đi, thì chúng ta sẽ biết được tự thân. Và sự tu tập không bao giờ quay trở lại gây tổn hại cho bạn. Không có gì mà tôi đã khuyên bạn làm sẽ gây thương tổn cho bạn cả.
Hỏi: Câu hỏi của tôi thì hòa lẫn với đạo hữu kia. Chừng như khi tu tập chúng ta phải có nhiều niềm tin trong chính mình. Đây là theo cảm giác của tôi.
Joko: À! Gọi nó là niềm tin nếu bạn thấy thích vậy. Tôi nghĩ là, bạn sẽ không đến đây nếu bạn cảm thấy sự tu tập sẽ không mang lại lợi ích gì cho mình. Đó cũng là một dạng của niềm tin.
Hỏi: Theo tôi suy luận, tôi cảm thấy nó thật sự quan trọng để biết những gì xảy ra tới tôi trong thời thơ ấu…
Joko: Tôi chưa hề nói là nó không có ích lợi gì. Nhưng kinh nghiệm của bạn trong giây phút hiện tại thì gói trọn cả cuộc đời của bạn, bao gồm cả quá khứ, và nó tùy thuộc vào bạn có biết hay không cái cách kinh nghiệm những thứ đó ra sao — thật sự kinh nghiệm nó. Thấy hay không, chúng ta nói thật nhiều về thể nhập kinh nghiệm, nhưng làm được thì không dễ dàng gì và chúng ta lại áp dụng nó rất rời rạc. Một điều tôi hay thuyết giảng về kinh nghiệm là, rất khó khăn để hành nó cho nên chúng ta hay tránh né nó. Nhưng khi chúng ta tu tập tốt, cuộc đời mình — quá khứ và hiện tại — sẽ tự phân tách ra lấy, từng chút, từng chút một.
Hỏi: Nơi nào là người cầu nguyện và sự xác định trong Tu thiền?
Joko: Người cầu nguyện và thiền giả là giống nhau, không khác. Còn sự xác định thì tôi tránh, bởi vì sự xác định (như là câu “Tôi thật sự là người khỏe mạnh”) có thể tạo ra một cảm giác khỏe mạnh tạm thời, nhưng nó lại không biểu thị được sự thật hiện tiền — là có thể tôi đang mang bệnh trong người.
Hỏi: Còn về tất cả các thế lực xấu xa chung quanh chúng ta chừng như càng trở nên lớn mạnh thêm ra?
Joko: Tôi không nghĩ rằng có các thế lực xấu xa chung quanh chúng ta. Tôi nghĩ là, có những hành động bất thiện đã được tạo ra, nhưng đó thì khác hẳn. Nếu một người đang gây hại một đứa bé, chắc chắn bạn muốn ngăn chận ngay hành động đó; nhưng chỉ trích con người có hành động bất nhân kia là kẻ hung tàn thì nghe có vẻ không thực tiễn chút nào cả. Chúng ta nên chống đối những hành động ác độc, chứ không phải chống đối con người. Nhưng trên thực tế thì chúng ta làm trái ngược, chúng ta đi khắp nơi để phê phán loại người này, chỉ trích nhóm người kia, mà trong đó có cả chúng ta.
Hỏi: Nếu như theo lý luận trên, thầy không thể gọi bất cứ ai là người tốt cả.
Joko: Đúng thế! Thực chất theo thiền ngữ, chúng ta “không là gì cả”… chúng ta chỉ là “sự làm” những gì chúng ta đang làm. Nhưng nếu chúng ta thấy được cái bản thể không thật của cái thượng tầng kiến trúc, thì chúng ta có chiều hướng làm những sự việc có tính chất thiện. Khi không còn gì ngăn cách giữa chúng ta và những thứ (người và sự kiện) khác tự nhiên chúng ta làm đúng. Bản chất của chúng ta là làm hành động có tính chất thiện.
Hỏi: Đó là hành động.
Joko: Đúng thế! Chúng ta làm những hành động một cách tự nhiên. Nếu chúng ta không phân biệt người khác bởi những tư tưởng vị kỷ Tham, Sân, và Si, chúng ta sẽ hành động tốt. Chúng ta không cần phải ép buộc lấy mình để làm nó. Đó là bản chất của chúng ta.
Tù nhân của Sợ hãi
Tất cả chúng ta đều biết cái bức tranh về một người giám đốc quan trọng làm việc cho đến mười-giờ đêm, trả lời cú điện thoại, chụp vội chiếc bánh trong khi đang vội vã đi ra. Tấm thân nghèo nàn của ông ta đang bị bán một giá rẻ mạt. Ông ta luôn nghĩ là, sự cố gắng cuống cuồng của ông là điều không thể thiếu cho “đời sống tốt đẹp”; ông đâu có thấy được rằng cái tham vọng đang điều khiển đời sống của ông — và nó cũng tác động tất cả đời sống của chúng ta nữa. Bởi vì chúng ta bị điều khiển bởi tham vọng của chính mình, chúng ta chỉ có nhận thức lờ mờ về sự hiện hữu cơ bản của chúng ta mà thôi, nếu không muốn nói là hoàn toàn mù tịt.
Phần lớn những người không thực hành một phương pháp tu tập nào cả, thì rất ích kỷ (nhưng họ không thấy vậy!); họ luôn bị ràng buộc trong ngàn tham vọng: trở nên quan trọng (thích nổi bật), sở hữu thứ này hay thứ khác, trở nên giàu có, nổi danh. Dĩ nhiên điều đó thì đúng đối với chúng ta ở một chừng mực nào đó. Nhưng khi chúng ta tu tập, chúng ta bắt đầu đặt vấn đề về đời sống của mình; có thể là, nó thì không hoàn toàn vận hành theo chiều hướng mà những đoạn quảng cáo trong truyền hình đã nói. Trên quảng cáo đề xuất là, nếu bạn có loại keo cho tóc mới nhất, mỹ phẩm mới sản xuất, hệ thống mở cửa ga xe từ xa, thì cuộc đời của bạn sẽ trở nên ngoại hạng. Phải không? A! Phần lớn trong chúng ta thấy ra điều đó là không thật. Khi chúng ta nhận thức được như thế, chúng ta bắt đầu thấy rằng, cái phương thức đang sống của chúng ta không mang đến kết quả lâu dài. Lòng tham lam ích kỷ điều khiển cuộc sống của chúng ta sẽ không thể nào mang đến kết quả tốt.
Kế đến chúng ta bắt đầu màn hai: “À! Nếu ích kỷ không có kết quả, vậy tôi sẽ không ích kỷ.” Phần lớn những phương pháp huấn luyện của các tôn giáo (và vài pháp tu thiền) là về tính không ích kỷ. Nhìn thấy tính bần tiện, sự tàn nhẫn của chính mình, chúng ta quyết định theo đuổi một tham vọng mới: trở nên tử tế, trở nên tốt bụng, trở nên kiên nhẫn. Tội lỗi luôn đi đôi với tham vọng, giống như anh cả và đàn em: khi chúng ta không thỏa mãn cái diễn cảnh của chúng ta dựng lên — chúng ta nên như thế nào — chúng ta cảm thấy tội lỗi. Chúng ta vẫn cố gắng để trở nên những gì mà đó không phải là ta. Chúng ta cố gắng tìm mọi cách để trở thành những gì khác hơn là chính mình. Khi chúng ta không thể nào hoàn tất được điều lý tưởng (mình muốn) của mình, chúng ta phát sinh tội lỗi và chán nãn. Trong sự tu tập của chúng ta, chúng ta chuyển qua cả hai giai đoạn. Chúng ta thấy rằng, chúng ta bủn xỉn, tham lam, hung dữ, ích kỷ, tham vọng. Cho nên chúng ta tạo ra một hình thái cho tham vọng mới, trở nên không ích kỷ. “Tôi không nên có những tư tưởng này. Tôi đã tu thiền trong thời gian dài rồi, tại sao tôi vẫn còn tham lam và keo kiệt? Tôi nên trở thành tốt hơn mới phải chứ.” Tất cả chúng ta đều qua trải giai đoạn này. Nhiều phương pháp tu tập của tôn giáo nhắm vào mục đích đào tạo người tốt một cách sai lầm là, những người này không làm và nghĩ những điều xấu. Vài trung tâm tu thiền cũng rơi vào chiều hướng này nữa. Nó dẫn đến một loại kiêu ngạo và tự cho mình là đúng bởi vì, nếu chúng ta làm nó đúng, trong khi những người không biết cái tiêu chuẩn đó và không làm những điều đó; Thì sao? Có người nói với tôi, “Buổi tu học của chúng ta bắt đầu vào ba giờ sáng. Của thầy thì khi nào? Ở 4:15 sáng? Ơ…” Cho nên ở giai đoạn hai này có nhiều sự kiêu ngạo trong đó. Tội lỗi có nhiều nét kiêu ngạo trong nó. Tôi không nói là, thật là xấu khi kiêu ngạo; đó chính là chúng ta (trong trạng thái đó) nếu chúng ta không thấy ra.
Nhưng chúng ta phải nổ lực to lớn để trở nên tốt. Tôi từng nghe người nói, “Tôi vừa mới xong khóa tu học và một người đã lấn lướt tôi trên xa lộ — và thầy biết gì không, tôi đã giận dữ. Tôi thật là một học sinh thật tệ..” Tất cả chúng ta đều như thế. Thấy không, luôn luôn muốn — nhất là muốn có được một phong cách hành xử nhất định nào đó — là trung điểm cho Bản ngã và Sợ hãi. “Nếu tôi có thể hoàn mỹ, nếu tôi có thể hiểu thấu hay giác ngộ, tôi sẽ khắc phục được sợ hãi.” Bạn có thấy được có nỗi tham vọng trong câu nói đó không? Có sự tham lam to lớn để có thể rời xa con người thật của mình, để đi vào một chuẩn mực không tưởng. Vài người không màng gì về giác ngộ; nhưng lại có cảm giác, “Tôi không nên quát mắng vào người hôn phối.” Dĩ nhiên, ta không nên la hét vào người bạn đời của mình; nhưng chính sự cố gắng, để trở thành một người (không phải là mình) mà không la mắng người hôn phối của mình, sẽ làm tăng cấp mức căng thẳng thần kinh lắm.
Đi từ cá tính ích kỷ và tham lam tới cố gắng để không là như thế, thì cũng giống như mang xuống tất cả những bức tranh buồn chán và xấu xí trong phòng, rồi thay vào bằng những bức tranh đẹp, dễ nhìn hơn; hiện cảnh thì vẫn là như thế: tường có những bức tranh, vậy thôi. Nhưng nếu căn phòng kia là một ngăn nhà tù, bạn có thay đổi lối trang hoàng và nó có trông khá hơn, mà sự tự do bạn muốn vẫn không có được; bạn vẫn bị cầm tù trong một căn phòng. Thay đổi những bức tranh trên tường từ Tham, Sân, Si thành ra Lý tưởng (không Tham, không Sân, không Si) làm cho bề ngoài có vẻ khác đi; nhưng ta vẫn còn bị kềm kẹp (trước kia ta bị Tham, Sân, Si thao túng; giờ thì bị không-Tham, không-Sân, không-Si điều khiển, thì cũng như nhau — đâu có tự do gì).
Điều đó nhắc cho tôi nhớ lại một câu chuyện cổ tích. Có một ông vua muốn tuyển chọn một người khôn ngoan nhất để làm Tể tướng. Khi sự lựa chọn đi đến giai đoạn kết cuộc, thì còn lại ba nhân tuyển cho một cuộc thử nghiệm sau cùng: ông cho ba người vào trong ba căn phòng trong hoàng cung và khóa chặc bằng loại ổ khóa tinh xảo. Ba người được cho biết rằng: nếu ai là người ra trước tiên sẽ được chọn vào chức vị. Hai người trong ba người bắt tay vào việc để thiết lập một phương trình toán học phức tạp nhất để giải mã các mật số cho các ổ khóa tinh vi. Còn người thứ ba kia chỉ ngồi bất động trong một lúc — rồi đứng dậy mà không đụng gì đến giấy bút, đi đến cửa, quay tay nắm — và cánh cửa mở rộng. Thật ra nó có bị khóa bao giờ đâu! Cái điểm chính của câu chuyện là gì? Căn tù, chúng ta đang sống trong đó, có những bức tường trang trí một cách hỗn loạn, vốn không phải là một ngăn tù. Thật ra, cánh cửa cũng không có khóa chặc — không có ổ khóa. Chúng ta đâu cần phải ngồi trong ngăn tù của mình và đấu tranh cho tự do bằng lối cố gắng thay đổi mình một cách hỗn loạn — bởi vì chúng ta luôn luôn tự do.
Dĩ nhiên, chỉ nói thì không thể giải quyết vấn đề gì cho chúng ta cả. Chúng ta nhận thức sự thật về tự do như thế nào? Chúng ta nói rằng, ích kỷ và có ham muốn không-ích kỷ, cả hai đều được đặt trên nền tảng của sợ hãi. Ngay cả mong muốn được khôn ngoan, được hoàn mỹ, cũng đặt trên sợ hãi. Chúng ta sẽ không đeo đuổi những tham muốn nữa. Nếu chúng ta nhận ra được vấn đề đó, là mình hoàn toàn tự do. Vậy sự tu tập của chúng ta luôn luôn vẫn trở về vấn đề xưa cũ: làm sao để thấy rõ hơn, làm sao để không bị đi xuống đường hẽm u tối, giống như là cố gắng trở nên không-ích kỷ. Thay vì, đi từ ích kỷ vô ý thức đổi qua không-ích kỷ có ý thức, những gì chúng ta cần làm là nhìn thấy sự đần độn của giai đoạn hai — hoặc là, nếu chúng ta đùa giỡn với nó, ít nhất có tỉnh giác rằng chúng ta làm vậy. Những gì chúng ta cần đi đến giai đoạn thứ ba, đó là gì?
Lúc ban đầu chúng ta phải khóc trong hai giai đoạn đầu. Chúng ta trải qua (hai giai đoạn kia) để trở nên một nhân chứng (có khả năng). Thay vì nói, “Tôi không nên thiếu kiên nhẫn,” chúng ta nên quan sát chính mình đang thiếu kiên nhẫn. Chúng ta bước lùi lại và ngắm nhìn. Chúng ta thấy sự thật về sự thiếu kiên nhẫn của mình. Sự thật thì chắc chắn không phải là một bức tranh tâm lý về trạng thái tử tế và kiên nhẫn; trong bức họa chúng ta chỉ chôn kín sự tức giận và khó chịu để cho nó có dịp nhảy ra sau này. Vậy sự thật của phút giây đảo lộn, khi chúng ta thiếu kiên nhẫn, ganh tỵ, hay chán nãn là gì? Khi chúng ta bắt đầu làm việc như thế này — nghĩa là thật sự quan sát tâm mình — chúng ta thấy chúng liên tục mơ mộng quay cuồng về hình ảnh: chúng ta nên hay không nên ra sao; hay là, người khác nên hay không nên như thế nào; về chúng ta đã là như thế nào trong quá khứ, và chúng ta sẽ như thế nào trong tương lai; về chúng ta sắp xếp sự việc như thế nào để chúng ta có được những gì mình muốn.
Khi chúng ta lùi lại một bước và trở nên một chứng nhân kiên nhẫn và bền bĩ, chúng ta sẽ hiểu được rằng cả hai giai đoạn trước không làm cho chúng ta hay người khác được tốt gì cả. Có như thế chúng ta mới — không cần phải cố gắng — đi vào giai đoạn thứ ba là chỉ đơn thuần kinh nghiệm sự thật của phút giây hiện tại về thiếu kiên nhẫn, cảm giác thiếu kiên nhẫn trong phút giây hiện tại. Khi chúng ta có thể làm thế, chúng ta vượt qua nhị nguyên của “có tôi” và “có một hệ trạng tôi nên là” — và chúng ta trở về tự thân như-nó-là. Khi chúng ta kinh nghiệm tự thân như-nó-là — bởi vì chỉ có tư tưởng mới là nơi duy trì sự thiếu kiên nhẫn thôi — sự thiếu kiên nhẫn kia bắt đầu tự phân hóa.
Cho nên sự tu tập của chúng ta là làm sao cho sự sợ hãi hiển lộ rõ ràng ra, hơn là chạy lẩn quẩn bên trong cái lao tù của sự sợ hãi, cố gắng làm cho nó dễ coi hơn và dễ chịu hơn. Tất cả những phấn đấu của chúng ta trong đời sống là hình thức của gắng sức cho sự trốn chạy: chúng ta cố gắng tránh né khổ đau, trốn tránh đau đớn xảy đến cho chúng ta. Trong khi chúng ta mang mặc cảm tội lỗi, thì đây cũng là một dạng của sự lẩn trốn. Sự thật của mỗi phút giây thời gian thì luôn luôn chỉ là “như chúng ta là”. Đó có nghĩa là, hãy kinh nghiệm ngay trong sự tàn nhẫn của chính mình lúc chúng ta đang khắt khe. Chúng ta không thích làm việc này chút nào cả (bởi vì khi làm thế chúng ta thấy ra được con người thật của mình). Chúng ta hay thích nghĩ về mình như một mẫu người đạo đức, nhưng thường khi thì chúng ta không phải thật đúng là như mình nghĩ.
Khi chúng ta kinh nghiệm tự thân như-nó-là, rồi từ đó sẽ đưa đến sự kết liễu của cái Ngã, rồi trong sự héo tàn (của cái Ngã) kia thì hoa thơm nở rộ. Trên một cội cây héo tàn, một đóa hoa chớm nở — một dòng chữ kỳ tuyệt từ Trung Dung Lục. Một đóa hoa nở trên một thân cây héo tàn thật, chứ không phải trên cây giả. Khi chúng ta rời khỏi khái niệm của mình và tìm hiểu nó (khái niệm) như một nhân chứng, để trở về dần dần với những gì chúng ta là — đó chính là Trí tuệ của bản chất cuộc đời.
Quá trình mà chúng ta đang nói đây thì liên quan tới sự giác ngộ như thế nào? Khi chúng ta thoát ra sự hão huyền bằng cách chỉ làm chứng nhân của mọi cố sự, chúng ta thấy nó như-nó-là; chúng ta sẽ thể nhập vào sự thật. Có thể ở lúc ban đầu, chúng ta chỉ thấy nó trong một giây, nhưng theo thời gian thì tỉ lệ sẽ tăng lên. Khi chúng ta có thể trải qua trên chín-mươi phần trăm đời sống của mình như-nó-là, chúng ta sẽ thấy cuộc sống là gì. Lúc ấy, chúng ta là đời sống. Khi chúng ta là bất cứ gì, chúng ta biết nó là gì. Chúng ta giống như là một con cá có lòng kiên quyết cao nhất, trải qua trong suốt đời sống, nó bơi từ người thầy này sang người thầy khác. Nó muốn biết đại dương là gì; vài vị thầy chỉ có thể dạy bảo nó, “À! Anh phải cố gắng thật nhiều để là một con cá tốt. Đây là một lãnh vực rộng lớn mà anh sẽ phải nghiên cứu. Anh phải thiền định trong nhiều giờ, anh phải sửa sai của chính mình, anh phải thật sự cố gắng là một con cá tốt.” Nhưng cuối cùng, con cá gặp một vị thầy và hỏi, “Đại dương to lớn là cái gì? Cái gì là đại dương rộng lớn?” Và vị thầy chỉ mỉm cười.
Kỳ vọng to lớn
Tựa đề của hai cuốn sách chập chờn trong đầu tôi gần đây là: Kỳ vọng lớn lao của Charles Dicken và Thiên Đàng đã mất của John Milton. Có một sự liên hệ thân thiết giữa hai cuốn sách này. Đó là gì?
Tất cả chúng ta đều đang tìm Thiên đàng, Giác ngộ, hay bất cứ gì đó tùy bạn lựa cho một cái tên. Đối với chúng ta thì Thiên đàng đã bị đánh mất: “Không có gì đáng kể trong cuộc đời tôi,” phần lớn mọi người nói thế. Chúng ta muốn “Thiên đường” này, “Giác ngộ” này; chúng ta rất cần nó. Chúng ta đến đây để tìm nó. Nhưng nó thì ở đâu? Nó là gì?
Chúng ta đến đây để tu học với một kỳ vọng to lớn. Chúng ta đang phấn đấu, kiếm tìm, hy vọng; vài người trong chúng ta còn kỳ vọng nữa. Cái thú nhân sinh dẫn tiếp diễn ra liên tục. Chúng ta có vài hy vọng (nếu không cho đó là kỳ vọng lớn) là “sẽ có một thoáng nào đó thiên đường sẽ xuất hiện đến với ta.”
Bây giờ, nếu chúng ta vẫn còn không biết thiên đường là gì, thì chúng ta chắc chắn biết cái gì không phải là thiên đường. Chúng ta biết chắc là thiên đường thì không phải là tình trạng khốn khổ. Thiên đường thì cũng không phải là thất bại khi làm một việc gì. Nó cũng không phải là tình trạng bị người khác chỉ trích, hay bị sỉ nhục, hay bị trừng phạt theo một phương cách nào đó. Nó cũng không là sự đớn đau ở thân xác. Nó sẽ không tạo ra tội lỗi. Nó cũng không là hiện tượng đánh mất người thân, bạn bè hay con cái. Thiên đường lại càng không thể là sự lầm lẫn hay chán nản. Nó không phải là trạng thái cô đơn, hay là phải làm việc trong khi mệt mỏi hay bệnh hoạn. Chúng ta có thể lập ra những bảng thống kê để xác định về những gì mà thiên đường thì không phải là. Nhưng nếu nó không phải là những trạng thái này, thì nó là gì?
Có phải nó là có nhiều tiền, hay nhiều an ninh không? Có ưu thế, quyền lực, tiếng tăm, hay sự trọng vọng hơn người khác là nó không? Thiên đường có phải là được mọi người chung quanh ủng hộ và yêu chuộng không? Nó có nhiều bình an, êm lặng, nhiều thời gian suy tư về ý nghĩa của đời sống không? Nó có phải là trong những thứ này chăng? Hoặc là nó cũng không phải?
Vài người ở đây có “tạo ra” thành một bảng thống kê thứ hai. Họ có vài điều trong những thứ này, một chút của “đời sống may mắn”. Nhưng không cần biết chúng ta có những gì, khi đã có nó .. “Ồ! Nó đây phải không? Nhưng không! Cũng không phải là nó.” Nó ở đâu? Chúng ta chừng như không bao giờ có thể bắt được nó. Nó giống như là sự rượt đuổi theo ảo mộng: khi chúng ta đến gần, nó biến mất.
Có điểm kỳ lạ là: có nhiều người khi họ gần kề bên bờ vực thẳm của tử thần (cái chết), họ mới có thể nhận thức ra những gì mà họ “không chịu chấp nhận” hay chưa bao giờ “thấy hay nhận biết” được tới trước kia. Khi có được sự nhận thức đó, họ ra đi một cách an bình, đôi khi còn có sự vui sướng, cuối cùng họ đang đi vào ngưỡng cửa của thiên đường. Họ đã thấy được những gì? Họ đã gặp được những gì?
Các bạn còn nhớ không câu chuyện cổ tích về người đàn ông bị cọp rượt? Trong lúc đối diện với tử thần ở phía trước và từ phía sau, mà anh ta vẫn có thể thốt lên một cách ngạc nhiên khi ăn chùm dâu, “Nó thật là ngon!” — bởi vì anh ta biết rằng nó dành riêng cho mình và nó cũng là hành động cuối cùng của đời anh.
Bây giờ hãy trở lại cái bảng thống kê đầu tiên của chúng ta — nói về những gì không phải là thiên đường — và cho nó một quan điểm mới. “Tôi thật là khốn khổ, nhưng đồng thời nó cũng thật thú vị!” “Tôi thật là thất bại nhưng nó quả thật cũng thú vị lắm!” “Tôi chưa từng bị nhục nhã như thế này trong cuộc đời tôi trước kia, nhưng nó quả là có niềm thú vị riêng của nó!” “Tôi cảm thấy cô đơn quá, nhưng nó thật cũng quá kỳ diệu!” Khi chúng ta hiểu thấu hoàn toàn những trạng thái này, thì bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống đều là bản thể của thiên đường.
Giờ thì hãy xoay qua vài lời của thiền sư Đạo Nguyên. Ngài có lần nói, “Hãy bỏ và quên đi thân và tâm của bạn. Quăng đời bạn vào sự tôi luyện của Pháp, sống theo sự thay đổi và hướng dẫn của Pháp. Khi bạn làm được mà không còn dựa vào năng lực vật lý hay sinh lý, bạn sẽ trở nên một vị Phật, thoát khỏi vòng sinh tử. Đây là thật. Không cần phải đi tìm Chân lý này ở nơi nào khác cho mất thời gian.”
“Hãy bỏ và quên đi thân và tâm của bạn.” Nó có nghĩa là gì? “Quăng đời bạn vào sự tôi luyện của Pháp.” Sự tôi luyện của Pháp là cái gì? Ngài ám chỉ tới lầm lỗi của con người trong câu đầu: “Hãy bỏ và quên đi thân và tâm của bạn.” Thay vì đề cập tới sự thoải mái, sự bảo vệ niềm khoái lạc cho thân và tâm — những gì chúng ta luôn luôn đang và muốn làm — ngài khuyên chúng ta “Quăng đời bạn vào sự tôi luyện của Pháp.” Nhưng cái lò nung kia ở đâu? Chúng ta nên liệng cuộc đời mình vào đâu?
Phật tánh thì không gì ngoài hơn phút giây tuyệt đối của đời sống (nó thì không ở quá khứ, hiện tại hay tương lai), ngài nói rằng, ở phút giây hiện tiền là “sự tôi luyện của Pháp”, giác ngộ, thiên đàng. Nó không là gì cả, mà là bản chất đời sống ở phút giây hiện tiền. Cho dù chúng ta có khổ sở hay hạnh phúc, thất bại hay thành công, không có gì mà chúng ta kinh nghiệm mà không là sự tôi luyện của Pháp. “Quăng đời bạn vào sự tôi luyện của Pháp, sống theo sự thay đổi và hướng dẫn của pháp.” Nó có nghĩa là gì?
Chúng ta không thể sống mà không có sát na hiện hữu hiện tiền, bởi vì đó chính là đời sống. Để pháp dẫn dắt ta, là để cho ta có thể thấy (sát na đó và pháp), cảm nó, nếm nó, va chạm nó, kinh nghiệm nó, và để nó chỉ ra những gì cần được làm. Ngài nói rằng, khi bạn làm được mà không còn dựa vào năng lực vật hay sinh lý — ngay đó, không có sự phán xét của bạn về sự việc nên ra sao — bạn sẽ trở nên một vị Phật, thoát khỏi vòng sinh tử. Tại sao? Tại sao bạn trở thành một vị Phật? Bởi vì bạn vốn đã là một vị Phật. Bạn là phút giây hiện tiền của đời sống. Bạn không thể nào là gì khác hơn.
Khi chúng ta ngồi (thiền), khi chúng ta sống theo lịch trình của nếp sống, chúng ta đang ở trong sự tôi luyện của pháp (đang ở trong lò nung). Chúng ta không ở đó thì có thể ở đâu được nữa? Từng phút giây trong tọa thiền bao gồm đau đớn, an bình, buồn tẻ, là những gì? Thiên đường, Niết bàn, Sự tôi luyện của Phật pháp chứ là gì. Nhưng chúng ta đến đây với kỳ vọng lớn lao, để tu học hầu mong tìm thấy nó! Vậy nó ở đâu? Rồi khi chúng ta rời nơi đây, nó ở đâu? Sự thiêu đốt trong lò nung của pháp kia chính là cái kinh nghiệm trực giác của thân và tâm của chính bạn. Nếu không phải là nó, thì là cái gì khác? Thiền sư Đạo Nguyên nói, “Đây là thật. Không cần phải đi tìm Chân lý này ở nơi nào khác cho mất thời gian.” Bạn có thể tìm kiếm ở đâu?
Không có một thiên đường bị đánh mất, cũng không có một thiên đường để tìm về. Tại sao thế? Bởi vì bạn không thể nào lẩn tránh được phút giây hiện tại. Bạn có thể lơ đãng với nó, nhưng nó thì luôn luôn tồn tại ở đó. Bạn không thể né tránh thiên đường (có thể nó không là thứ thiên đường như bạn nghĩ nó là?) nhưng bạn có thể không nhìn nó.
Khi người ta biết ngày từ giả kiếp sống này gần kề, những yếu tố gì thường hay biến dần đi? Đó là những kỳ vọng là cuộc sống sẽ xảy ra theo chiều hướng mà họ mong muốn. Khi những kỳ vọng này càng phân hóa hết đi, thì họ có thể nhận diện ra mùi vị “thơm ngon” của chùm dâu — bởi vì ngoài chùm dâu (phút giây hiện tiền) kia, chúng ta đâu có còn gì khác nữa.
Trí tuệ là để thấy rằng không có gì cả để mà tìm kiếm. Nếu bạn sống với một người khó tính, đó là Niết bàn. Hoàn mỹ. Nếu bạn bất hạnh, chính là nó đó. Tôi không muốn nói là bạn nên thụ động, không làm gì cả; rồi bạn sẽ ôm ấp Niết bàn như là một trạng thái cứng (ôm ấp lấy trạng thái khổ đau để tìm khía cạnh Niết bàn của nó?) Niết bàn không ở thể đặc, nó luôn thay đổi. Không có một sự “ám thị” nào cả cho “không làm gì cả”. Nhưng những hành vi được làm, thì nên bắt nguồn từ sự hiểu biết không tác động bởi sự phán xét và cảm giác. Không có kỳ vọng gì trong đó, chỉ đơn thuần là hành động xuất phát ra từ lòng bi mẫn.
Khóa tu học thì thường là một cuộc chiến đấu với sự thật: chúng ta tuyệt đối không muốn kinh nghiệm của mình xảy ra như-nó-là. Một cách chắc chắn là chúng ta không cảm thấy nó là một trạng thái của tự chứng. Nhưng kiên nhẫn ngồi qua khóa tu và ngoảnh mặt đi từ tất cả những khái niệm — “Thật là khó, thật là kỳ diệu, thật là tẻ nhạt, những thứ này không thích hợp cho tôi.” — như thế này có thể giúp chúng ta theo thời gian nhận biết Chân lý của đời sống hay sao(?). Ngày đầu tiên trong khóa tu thì tất cả dành cho bảng thống kê đầu tiên. Cái tâm chạy đua theo tất cả những vấn đề trong đời sống của mình, tham vọng của mình, chán nản của mình; tất cả hòa lẫn và kết thành khối, cộng thêm sự mệt lã người của ngày đầu tiên, tạo cho tình trạng thân thể bất an. Tất cả những quan niệm thân yêu của chúng ta luôn bị vùi vập liên tục trong suốt khóa tu.
Luôn luôn chúng ta đang tìm một phương cách tránh né mọi khó khăn và trở ngại để đi vào cái thiên đường khó bắt kia. Nhưng một lần nữa với lời nói của thiền sư Đạo Nguyên, “Hãy bỏ và quên đi thân và tâm của bạn.” nhắc nhở chúng ta là: chỉ cần bảo tồn sự tỉnh giác trong sáng trong mọi thời của tâm và thân, quan sát cái tham vọng tìm lạc thú tránh khổ đau. Nhưng cả hai đều là giây phút hiện tại. Cho nên ngài nói, “Quăng đời bạn vào sự tôi luyện của Pháp.” Ném cuộc đời của bạn; sống với phút giây hiện tại; ngừng phán xét nó, trốn chạy nó, phân tích nó, chỉ sống với nó. Ngài nói, “Đây là thật. Không cần phải đi tìm Chân lý này ở nơi nào khác cho mất thời gian.” Tại sao? Tại sao chúng ta không thể tìm thấy nó ở nơi khác? Không có nơi nào khác để tìm bởi vì không có gì xảy ra cả. Ngoại trừ? Ở đây. Bây giờ. Nó là bản thể của Tự tánh, giác ngộ. Chúng ta có thể thức tỉnh để nhìn không?