THÁI ĐỘ ĐÚNG KHI HÀNH THIỀN Thế nào là thái độ đúng khi hành thiền?
75. Nếu không có sự hiểu biết thông thường thì làm sao chúng ta hy vọng có được tuệ giác thiền quán. 76. Bản chất của Pháp là nếu bạn đạt được gì thì cũng không vui mừng, mà nếu không đạt được cũng không thất vọng. Nhiều thiền sinh cảm thấy rất vui sướng khi họ có được một kinh nghiệm nào đó và lại rất thất vọng nếu không có được kinh nghiệm đó. Đây không phải là việc thực hành Pháp. Thực hành Pháp không phải để có được một kinh nghiệm mà để có được sự hiểu biết. 77. Có ba loại quan sát: quan sát bằng mắt, bằng tâm và bằng tuệ giác. 78. Mục tiêu hành thiền là để hiểu bản chất của sự vật hiện tượng. Hạnh phúc tự động sẽ đi liền sau đó. 79. Trong thiền quán chúng ta muốn biết xem cái gì đang xảy ra, tại sao nó xảy ra như vậy và cần phải làm gì với nó. 80. Khoảnh khắc chúng ta mong muốn hạnh phúc bình an thì chính đó là vấn đề. Mong muốn là một vấn đề. Cần phải thực hành với thông tin đúng đắn, suy nghĩ đúng và thái độ chân chánh. 81. Mỗi khi vội vã háo hức làm hay muốn biết một điều gì đó, tâm sẽ bắt đầu tập trung, tích tụ và muốn có được kết quả. 82. Sự hiểu biết thực sự chỉ có thể xảy ra trong khoảnh khắc. 83. Giữ giới là làm cái cần phải làm và ngăn ngừa cái không nên làm. 84. Khi hiểu sâu sắc về bản chất hiện tượng, sự an tịnh sẽ tới như một phần của trí tuệ. 85. Sẽ là sai lầm nếu muốn người khác kính trọng chúng ta. 86. Hướng tâm tới đối tượng đúng là chánh tư duy. 87. Không thể giả bộ hiểu biết Pháp, trình độ hiểu biết của chúng ta luôn biểu hiện thông qua lời nói và hành động. 88. Khi không có trí tuệ thì tâm si có mặt. 89. Khi hiểu về trí tuệ tốt hơn thì cũng hiểu tâm si tốt hơn. 90. Tưởng (Sanna) và trí tuệ (Panna) hoạt động đồng thời. 91. Chánh niệm quan sát cái đang xảy ra còn trí tuệ biết phải làm gì. 92. Mọi người có xu hướng làm điều bất thiện vì họ không có được thông tin đúng đắn, đó là do tâm si. 93. Muốn những người khác làm theo mình là một sự mong muốn ngờ nghệch. 94. Tiến trình để có được sự hiểu biết thường rất đau đớn. 95. Cố gắng duy trì sự chú tâm trên đối tượng là tà tinh tấn. 96. Bất cứ cái gì chúng ta nhận biết cũng chỉ là đối tượng. Tất cả các đối tượng đều là hiện tượng tự nhiên. Hãy để chúng xảy ra. 97. Mỗi khi đánh giá một sự vật, hiện tượng là tốt hay xấu thì tâm si đang tóm chặt lấy chúng ta. 98. Bất kể bao nhiêu điều bất thiện đã làm, trí tuệ có thể giải phóng chúng ta ngay trong kiếp sống này. 99. Chúng ta đã từng có hay chưa một khoảnh khắc bình an mà tuyệt đối không có mong muốn, lo âu, khắc khoải? 100. Khi tâm cảm thấy hỷ lạc do có sự hiểu biết, nó sẽ được khích lệ để quan sát sâu hơn. 101. Tìm tòi khám phá là quan sát cái đang xảy ra để hiểu được toàn bộ bức tranh. 102. Hành thiền là đang nuôi dưỡng, tưới tẩm các thiện tâm. 103. Có được chánh niệm tự nhiên cũng giống như việc lái xe. Chúng ta biết phải làm gì, làm ra sao và cần chú ý tới cái gì. 104. Cái gì đang xảy ra trên thân và tâm ngay bây giờ? 105. Tâm không thể cùng lúc suy nghĩ hai việc, nếu có suy nghĩ đúng thì sẽ không có suy nghĩ sai. 106. Thực tại không có phương hướng và không đi về đâu cả. 107. Sự vật hiện tượng không xảy ra theo ý muốn của chúng ta mà chúng xảy ra do các điều kiện nhân duyên đã chín muồi. 108. Không có cái gọi là hành thiền “không được tốt”. Trong Pháp chỉ có cái đang xảy ra. Hãy chấp nhận và quan sát tình huống. Bạn có phát hiện ra được tiến trình hay diễn biến của cơn sân không? Khá dễ dàng để có thể thấy được nguyên nhân và biết được tại sao bạn lại nổi sân, nhưng liệu bạn có ghi nhận được các sắc thái và biểu hiện của cơn sân? Bạn có quan sát nó như đang xem một con vật mới lạ không? 109. Chúng ta chỉ chuyển hướng sự quan tâm bằng cách thay thế một quan tâm khác. Nhưng tóm lại, tất cả các thay thế đó đều giống nhau, có chăng là chỉ khác nhau về mặt ngôn từ mà thôi. 110. Cái mà bạn tìm kiếm thì bạn sẽ có được, nhưng nó không phải là sự thật. Hãy chỉ nên thụ động ghi nhận tiến trình suy nghĩ và ghi nhận cả ước muốn được giải thoát khỏi nó. 111. Việc chiếm hữu cho dù mang tính tích cực hay tiêu cực đều là một gánh nặng. Ngay khi bạn chiếm hữu được bạn sẽ mất đi sự quan tâm thích thú. Trong quá trình cố gắng chiếm hữu, bạn luôn tỉnh thức và thích thú nhưng khi đạt được thì thật buồn chán. Bạn lại muốn chiếm hữu nhiều hơn nhưng quá trình theo đuổi này chỉ tiến tới sự tẻ nhạt. Chừng nào bạn còn nhiều mục tiêu và ra sức đạt được thì còn có sự thích thú. Nhưng ngay khi đã đạt được rồi, nó sẽ trở thành buồn chán. 112. Làm thế nào ghi nhận được việc chúng ta bị ràng buộc? Điều đó chỉ có thể được do có sự hiểu biết một tiến trình khác, đó là việc dính chấp. Nếu có thể hiểu được tại sao có sự dính chấp thì chúng ta mới có thể ghi nhận được sự ràng buộc mình. 113. Dính chấp là một lối thoát và lối thoát này củng cố sự ràng buộc. Nếu tôi dính chấp vào bạn là bởi vì bạn đang trở thành lối thoát cho bản thân tôi, do vậy bạn rất quan trọng đối với tôi và tôi phải sở hữu, nắm giữ bạn. Bạn trở thành nhân tố ràng buộc còn lối thoát là sự ràng buộc. 114. Chúng ta luôn cố gắng trở thành cái này hoặc cái khác hay đạt được một trạng thái nhất định hoặc để có một kinh nghiệm nào đó và tránh đi những cái khác. Như vậy, tâm luôn bị bận rộn, nó không bao giờ lặng yên để lắng nghe những đau đớn và giằng xé trong tâm. 115. Ghi nhận một thói quen mà không lựa chọn và nuôi dưỡng một thói quen khác chính là việc chấm dứt thói quen đó. 116. Có một sự khác biệt lớn giữa tâm bận rộn và tâm nhanh nhạy. Tâm nhanh nhạy thì lặng yên hay biết và không có sự lựa chọn. 117. Chừng nào bạn còn ham thích vào sự dính chấp thì nỗi sợ vẫn đang bị che khuất và bị khoá chặt lại, nhưng nó đang còn tiềm ẩn. 118. Vấn đề là không phải bạn sợ cái gì mà bạn có ghi nhận việc bạn đang sợ không? 119. Tất cả hành động xuất phát từ ý chí, ham muốn hay khát vọng đều do tâm sinh ra. Hoạt động của tâm chính là việc đánh giá, so sánh hay qui kết. Nếu tâm nhận thức được sự thật này, không thông qua sự tranh luận, lên án hay tín điều mà chỉ đơn thuần ghi nhận thì suy nghĩ sẽ kết thúc. 120. Liệu bạn có nhận thấy khi đang quan sát một đối tượng nào đó thì tâm sẽ hoạt động chậm lại? Khi quan sát một cái xe đang chạy trên đường hay chú tâm nhìn vào một đối tượng cụ thể nào đó thì tâm của bạn hoạt động dường như chậm hơn? Việc theo dõi quan sát làm tâm chậm lại. Nhìn ngắm một bức tranh, một hình ảnh hay một đối tượng sẽ giúp tâm lắng xuống, trở nên chậm lại và tỉnh thức khi có sự quan sát, đó là do có sự chú tâm của một tâm không bận rộn, tức là nó thoát ra khỏi các thành kiến, đánh giá, so sánh. 121. Sự thật là sự phủ định của cái sai, không phải là cái đối lập của cái sai. Sự thật thì hoàn toàn khác biệt với điều tích cực hay tiêu cực. Tâm suy nghĩ về cái đối lập thì không thể nào nhận biết được sự thật. 122. Được sống là để không có hy vọng, không có lo lắng cho ngày mai. Đó không phải là sự thất vọng hay hững hờ. Nhưng chúng ta không hề sống mà chỉ luôn theo đuổi cái bóng của quá khứ hoặc tương lai. Sống hạnh phúc là sống mà không có hy vọng. 123. Việc muốn tìm ra một lối thoát hay giải đáp chỉ làm rắc rối thêm vấn đề. Do không hiểu việc cần giải quyết nên bạn lại đưa thêm vào đó nhiều vấn đề. Thực chất là cái tâm đang tìm kiếm một sự hy vọng, một câu trả lời cho vấn đề đó. Thấy được sự sai lầm này, bạn sẽ trực diện đối mặt với vấn đề. 124. Khi hiểu được cái sai là cái sai, thấy được sự thật trong cái sai và thấy được sự thật là sự thật thì chính là sự khởi đầu của trí tuệ. 125. Khi bạn ghi nhận việc mình đang không lắng nghe thì chính ngay đó là một hành động. 126. Tiến trình học hỏi là quan sát, nhìn tổng thể và sau đó phân tích. Như vậy sự việc sẽ trở nên rất đơn giản. Nhưng nếu bạn phân tích và cố gắng đạt được sự tổng thể thì bạn có thể đi sai hướng. 127. Sự ghi nhận chỉ có thể hiện hữu khi bạn quan sát được các phản ứng của mình. 128. Có một sự tranh đấu giữa những đòi hỏi nhu cầu của cơ thể và việc giải quyết của tâm. Nếu là người nghiện rượu, bạn sẽ phải làm gì? Thay vì việc uống rượu là do thói quen, bạn sẽ không uống nữa mà phải tạo các thói quen tâm lý khác, chẳng hạn quan sát việc môi bạn đang há hốc, việc nghịch các ngón tay hay việc bạn đang cau mày. 129. Có sự khác biệt giữa việc phân tích và việc quan sát: Quan sát là nhìn một cách trực tiếp, không có người quan sát ở đó. Bạn nhìn màu áo đỏ, hồng hoặc đen đúng như nó hiện có mà không bình luận rằng “ tôi không thích màu đó”. Việc tôi nhìn màu đỏ mà không có thích hay không thích, đó chính là quan sát. Còn phân tích ngụ ý muốn nói rằng “tôi không thích màu đỏ do mẹ tôi cãi nhau với bố tôi rằng...” Nó sẽ kéo bạn về thời thơ ấu. 130. Có một mối quan hệ giữa điếu thuốc lá và Bạn. Đây là thói quen, đây là cách mà toàn bộ tâm trí vận hành. Tôi làm điều đó vì có được cảm giác an toàn. Tôi mắc vào thói quen đó do tôi không còn phải suy nghĩ về nó nữa. Tâm tôi cảm thấy nó an toàn khi vận hành trong thói quen. Như vậy tôi thấy được toàn bộ cơ chế của việc hình thành thói quen. Thông qua một thói quen hút thuốc, tôi đã phát hiện ra toàn bộ cách thức và bộ máy tạo ra các thói quen. 131. Thời khắc bạn cho rằng “cái này là đúng”, như vậy là kết thúc, bạn không thể học thêm gì nữa. 132. Tiến trình học hỏi không phải là một phương pháp: Bạn có thể học thông qua một phương pháp, nhưng nó chỉ cột chặt tâm vào một hệ thống nhất định. Nếu bạn đang học tức là bạn quan sát. Nếu bạn quan sát thấy rằng một hệ thống làm ràng buộc tâm và làm cho nó trở nên máy móc. Tất cả các hệ thống đều giống nhau, bạn chỉ cần học lấy một cái. 133. Học hỏi có nghĩa là gì? Đó là sự tò mò khám phá. Bạn phải liên tục tò mò khám phá trong từng giây phút. 134. Chúng ta không nên đặt ra câu hỏi không thể giải đáp, mà đặt câu hỏi theo hướng cái gì có thể xảy ra. Nếu đặt câu hỏi không thể, cái tâm sẽ tìm ra câu trả lời theo hướng không thể. 135. Sự phụ thuộc che đậy sự trống rỗng và nông cạn của bạn. Khi thấy được điều này, bạn sẽ được tự do. 136. Liệu bạn có phát hiện ra rằng bạn dính chấp là vì bạn phụ thuộc, bạn phụ thuộc là do nỗi sợ sự trống rỗng. Liệu bạn có ghi nhận được sự trống rỗng và toàn bộ tiến trình này? Khi ghi nhận được sự trống rỗng, liệu có nỗi sợ ở đó không, hay chỉ thuần tuý là sự trống rỗng? Bạn có ghi nhận thực tế là bạn đang cô đơn không? 137. Lúc ban đầu bạn phải dựa vào một vị thầy để được hướng dẫn, chỉ bảo. Bạn phải tuân thủ theo sự dạy dỗ của vị thầy. Khi hiểu được pháp hành, bạn không cần vị thầy hướng dẫn nữa mà hãy tự làm công việc của mình. Bất cứ khi nào phóng dật hay tâm bất thiện khởi sanh, hãy tự biết và tự dạy cho mình. Tâm là người hay biết, người quan sát. Tâm biết bạn còn rất nhiều si mê hay chỉ còn đôi chút. 138. Dù một người hạnh phúc hay buồn chán, hài lòng hay không hài lòng, điều đó không phụ thuộc vào việc họ có nhiều hay ít, mà tùy thuộc vào trí tuệ có được. Tất cả khổ đau có thể được chuyển hoá thông qua trí tuệ, thông qua việc thấy được sự thật của sự vật, hiện tượng. 139. Bạn cần phải thực hành, cho dù có thích hay không, đó chính là lời Đức Phật dạy chúng ta. 140. Thực hành Pháp là đi ngược lại các thói quen, còn sự thật hay chân lý là đi ngược lại ước muốn của chúng ta. 141. Chúng ta thực hành thiền để làm gì? Chúng ta thực hành thiền để buông xả, không để được cái gì cả. 142. Trí tuệ là chức năng động lực của định; định là mặt thụ động của trí tuệ. Chúng khởi sinh cùng một nơi, nhưng khác hướng và khác chức năng. 143. Tập trung có nghĩa là tập trung với sự buông xả, không phải để thắt chặt bạn lại. 144. Tôi chỉ quan sát phẩm chất của việc hay biết. Nếu cơn sân khởi sinh, tôi tự hỏi mình tại sao. Nếu tham ái khởi sinh tôi cũng tự hỏi tại sao. Hãy suy ngẫm vấn đề này cho tới khi bạn có thể xử lý, giải quyết các cảm xúc yêu ghét, cho tới khi chúng hoàn toàn tan biến. Khi ngừng được yêu ghét trong mọi hoàn cảnh, tôi có thể chuyển hóa khổ đau. Điều gì xảy ra không quan trọng, nhưng tâm tôi được giải thoát và bình an. 145. Nếu chúng ta dính chấp ngay cả vào cái đúng và không thừa nhận bất kỳ điều gì ai nói thì đó là sai lầm. Dính chặt vào cái đúng là do bản ngã và không có được sự buông xả. Khi dính chấp khởi sinh, ngay lập tức cần có sự buông xả. Nếu sự phản ứng của bạn là tức thời thì bạn sẽ buông xả được. Chắt Lọc 1. Khi có chánh niệm thì không có suy nghĩ về các đối tượng xa hay gần. 2. Một vị A-la-hán cũng suy nghĩ về khái niệm sau khi nhìn, nhưng đó chỉ là tâm duy tác mà không có bất thiện. 3. Nếu không hiểu chính xác về Pháp chân đế (sự thật tuyệt đối) và Pháp tục đế (sự thật chế định) thì không thể xóa bỏ được tà kiến về ngã. 4. Có 3 cái chết: chết thông thường, chết trong từng sát na, cái chết của vị A-la-hán. 5. Dính mắc là một sự lệ thuộc. Tự do thực sự chỉ khi không có sự lệ thuộc. 6. Các yếu điểm sẽ được phát hiện khi ngày càng có ít sự dính mắc. 7. Chánh niệm là không quên thiện pháp, không quên đối tượng đúng. 8. Đối tượng (Pháp) luôn sinh khởi, nhưng sẽ không xuất hiện nếu không có sự nhận biết. 9. Hành thiền sẽ giúp chúng ta ngày càng trở nên chân thật hơn. 10. Vô minh là không biết những gì cần phải biết. 11. Chánh niệm ghi nhận cái bất thiện thì rất có giá trị. 12. Chúng ta không thể không có bất thiện, vấn đề là có ghi nhận được nó hay không mà thôi. 13. Cuộc sống sẽ không suôn sẻ nếu không có chánh niệm. 14. Tâm tham bao giờ cũng mong muốn một kết quả cụ thể. 15. Mọi người đều biết nó xảy ra nhưng không biết lý do vì sao. 16. Nếu người khác đúng hãy mừng cho họ. Nếu sai, hãy thông cảm với họ. 17. Già, chết, chia ly không tránh khỏi. Nghiệp sẽ quyết định tương lai. Tuệ giác sẽ giúp giải thoát. 18. Nếu dính mắc vào kinh nghiệm tốt, kinh nghiệm xấu sẽ tới. Nếu khó chịu với kinh nghiệm xấu, kinh nghiệm tốt không thể xuất hiện. Hành thiền là phải biết quan sát cả kinh nghiệm tốt và kinh nghiệm xấu. Thực chất chúng diễn ra theo bản chất của chúng, không có tốt hay xấu. 19. Không cần thiết phải vui mừng hay buồn chán đối với kinh nghiệm đang xảy ra. Hãy vui mừng vì chánh niệm luôn được duy trì. 20. Định bị mất khi các đối tượng khác xen vào (do cử động, do nuốt nước miếng), đó không phải là sự ổn định tâm, đây là loại định chỉ có khi có các đối tượng quan sát thích hợp. 21. Dính mắc, ngay cả đối với cái đúng, đơn giản là do bản ngã, không có sự buông bỏ ở đó. 22. Bất cứ khi nào tiếp xúc với đối tượng, việc đầu tiên cần làm là kiểm tra chánh niệm đã có mặt hay chưa. 23. Thậm chí ngay cả khi đúng, cái đúng đó cũng chỉ là giới hạn. Tâm cần vượt lên trên cả đúng và sai. 24. Nắm chặt vào cái đúng sẽ không còn đúng nữa. 25. Tâm chạy ra ngoài là nguyên nhân của khổ. Kết quả tâm chạy ra ngoài là khổ. Tâm thấy được tâm là đạo (con đường diệt khổ). Kết quả của việc thấy được tâm là diệt khổ. 26. Nếu chúng ta có thời gian để thở thì cũng có thời gian để hành thiền. 27. Mong muốn để tâm được an tịnh, đó chính là sự không an tịnh. Nếu tâm không an tịnh, hãy ghi nhận biết rằng tâm không an tịnh. 28. Phiền não chỉ sinh khởi đối với cái chúng ta thấy, nghe... 29. Mặc dù hiện tại chúng ta không thấy có tham và sân, nhưng với chánh niệm sắc bén chúng ta sẽ thấy tâm si luôn có mặt. 30. Nếu phát hiện đang sân, đừng suy nghĩ thêm về bất kỳ điều gì khác (nếu không, nó chỉ liên quan tới đối tượng sân mà thôi). Hãy nhẹ nhàng quan sát cơn sân một cách liên tục. 31. Chúng ta chỉ biết cái mình đã thấy, nhưng chúng ta không biết về những cái chưa từng được biết tới. 32. Cái mà chúng ta cần phát triển là 3 nhân tố đầu của Thất Giác Chi (đó là nhân): Niệm, trạch pháp và tinh tấn. 33. Không có sự an toàn thật sự trong các mối quan hệ. Sự phụ thuộc chỉ tạo ra sợ hãi. Nếu không hiểu được tiến trình của sự bất an và sợ hãi này, quan hệ sẽ trở thành chướng ngại ràng buộc. 34. Chúng ta là cái chúng ta sở hữu. Nếu không có sở hữu, chúng ta không còn là gì cả, hoàn toàn trống rỗng. 35. Nếu còn sợ hãi thì không có tự do, nếu không có tự do thì không có sự bác ái. Nếu chỉ đơn thuần muốn gạt bỏ sự sợ hãi, chúng ta sẽ tìm ra cách thức thoát khỏi nó, nhưng không bao giờ có được sự tự do thoát khỏi sợ hãi. Mong muốn luôn được đảm bảo làm cho chúng ta sợ hãi và bất an. Sợ hãi là sự không chấp nhận hiện tại xảy ra. 36. Vấn đề là phải hiểu về bản chất của sự thích thú mà không phải là cố gắng gạt bỏ nó (đó là điều ngờ nghệch). 37. Nếu cuộc sống chỉ có sự thích thú và luôn có được cái chúng ta muốn thì sự thích thú đó sẽ chuyển sang hình thức đau khổ và khó chịu. 38. Xung đột là kết quả của việc điều kiện hóa. Chừng nào còn bị điều kiện hóa thì còn dính mắc (dính mắc về công việc, quan hệ, tài sản, ý kiến, quan điểm, con người...) 39. Dính mắc là do có sự hài lòng. Nhưng do nhận thức được sự đau khổ, chúng ta muốn có được sự hài lòng thông qua sự buông bỏ. Buông bỏ cũng giống như dính mắc, chừng nào nó còn tạo ra cho chúng ta cảm giác hài lòng. Cái mà chúng ta thực sự muốn tìm kiếm là sự hài lòng, chúng ta muốn được thỏa mãn bằng mọi cách. Dính mắc và buông bỏ luôn ràng buộc chúng ta, cả hai cần phải được chuyển hóa. 40. Khi bắt đầu định hình theo một khuôn mẫu thì không còn trong tiến trình tìm hiểu “tôi là ai”. 41. Không có cảm xúc nào mà không đi kèm theo suy nghĩ. Đằng sau suy nghĩ là sự thích thú. 42. Cuộc sống là tiến trình của thử thách và ứng xử. Thử thách thì luôn mới, nhưng cách ứng xử thì cũ rích - Nó bị điều kiện hóa và là kết quả từ quá khứ. 43. Tất cả suy nghĩ đều xuất phát từ ngôn từ, chúng ta suy nghĩ bằng ngôn từ. Liệu tâm có thể thoát ra khỏi từ ngữ được không? Ngôn từ thì chỉ có giới hạn, khi suy nghĩ không còn ngôn từ sẽ vượt ra khỏi giới hạn. 44. Khi đạt được mục tiêu mọi thứ sẽ chấm dứt. Việc đạt được không quan trọng. Sự hiểu biết có được luôn nằm trong tiến trình, bằng không chúng ta sẽ quay trở lại lối mòn của tâm trí. 45. Hãy phân tách hai tiến trình: (1) sự hay biết thuần túy thì không có lựa chọn, phê phán, đánh giá, thích hay không thích; (2) sự nhận xét, phê phán, đánh giá về đối tượng đang quan sát. 46. Ghi nhận thuần túy được ví như một tấm gương, nó tiếp nhận trọn vẹn mà không loại trừ bất cứ vật nào, luôn phản ánh một cách trung thực không sai lệch. 47. Sự ghi nhận tự nhiên chỉ có thể có được khi có sự quan tâm thích thú. Sự quan sát khi đó sẽ diễn ra một cách trôi chảy. 48. Nếu đang có sân hận và chúng ta lại có ý tưởng về sự vô sân, như vậy sẽ tạo ra xung đột. Việc chúng ta gò mình vào sự vô sân thì chính nó là một sự xung đột. Vấn đề trước nhất là phải nhận ra mình đang sân, chứ không phải cố gắng để biến mình thành vô sân. 49. Hãy quan sát tất cả các hiện tượng như chúng ta mới gặp lần đầu. 50. Về mặt tâm lý chúng ta luôn muốn có một sự đảm bảo an toàn và chắc chắn trong mọi mối quan hệ, mà điều này thì không bao giờ có. 51. Tất cả các vấn đề không nhất thiết phải bị lên án, chỉ trích, mà cần phải được hiểu rõ về bản chất của chúng. 52. Hiện tượng xảy ra không phải do một mà do nhiều nguyên nhân. Do vậy, cách nhìn nhận quan sát sẽ là nhiều chiều mà không phải theo một chiều. Vấn đề sẽ phát sinh khi chúng ta chỉ quan sát theo một chiều. 53. Bản chất của tâm thức là luôn luôn tìm cách khỏa lấp sự cô đơn. 54. Can thiệp vào hiện tượng đang xảy ra là đánh mất đi mối liên hệ trực tiếp với hiện tượng đó. Cần ghi nhận và phát hiện những gì đứng đằng sau sự can thiệp đó. 55. Khi đói hay giận dữ chúng ta không cần có ý tưởng về nó. Khi có ý tưởng, chúng ta sẽ mất đi sự liên hệ với thực tế xảy ra. 56. Sự không hài lòng với cái đang xảy ra không bao giờ cho chúng ta một đáp số. 57. Chúng ta bị định hình bởi hoàn cảnh, môi trường xung quanh, bởi văn hóa giáo dục, bởi đồ ăn, bởi khí hậu, bởi sách báo ... 58. Khi chúng ta hiểu được toàn bộ tiến trình - cách tâm suy diễn, mong muốn, động cơ, khát vọng, việc theo đuổi, sự ganh tỵ, tham lam và sợ hãi thì tâm sẽ chuyển hóa vượt lên chính nó. 59. Tâm luôn mong muốn có được câu trả lời tức thì cho mọi vấn đề. Nhưng sớm muộn những câu trả lời đó đều không thỏa mãn vì không có vấn đề nào có được câu trả lời ngoại trừ bản thân nó. Nếu chúng ta có thể hiểu trọn vẹn vấn đề, thì vấn đề đó không còn tồn tại nữa. 60. Xung đột xảy ra khi chúng ta muốn thay đổi thực tại sang cái “cần phải là” - đó là một ý tưởng không thực. 61. Tâm tự do thoát ra khỏi một cái gì đó thì không phải là tâm tự do, đó chỉ là sự phản ứng mà không phải là sự tự do. Tâm tự do là tâm thoát ra khỏi các ràng buộc. 62. Còn mong muốn có được giải đáp cho câu hỏi “làm thế nào”, chúng ta sẽ xa rời và không quan sát được thực tại. 63. Vật chất hoặc tâm linh, nếu chúng đều đáp ứng cho sự thỏa mãn thì cũng giống nhau. 64. Vấn đề quan trọng không phải là thói quen, mà do việc hiểu rõ thói quen sẽ đem lại sự hiểu biết. Do có sự hiểu biết này, nó sẽ không tiếp thêm nhiên liệu cho sự ham muốn. 65. Gốc của vấn đề không phải là chúng ta dính mắc vào người hay vật, mà do không thể chịu được sự cô đơn. (Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn) |