Tiến sĩ Sunthorn Plamintr
THIỀN PHẬT GIÁO Viên Thể - Thuần Phong dịch Các loại thiền Sự phổ biến của thiền phật giáo ở Tây phương Mục đích thực tiễn của thiền phật giáo So sánh thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana) Thiền có ích kỷ không? Thiền có phải là một sự trốn tránh không? Tu thiền có thành điên không? Phương pháp thiền Những mức độ định khác nhau Những lợi ích cao hơn của định Thực hành thiền quán Định trong thiền quán THIỀN PHẬT GIÁO Tu tập thiền định theo tiếng Pali là từ “bhavana”, có nghĩa là “phát triển, “tu dưỡng”, hay “trau dồi”. Bởi sự tu tập này liên quan trực tiếp đến tâm, nên từ “bhavana” đặc biệt ám chỉ quá trình mở mang tâm linh hay sự phát triển của tâm. Trên phương diện này từ tương đương trong Anh ngữ “meditation” không được chính xác và không nói hết ý nghĩa như từ “bhavana”. Khi sử dụng từ “meditation” theo thuật ngữ nhà Phật, chúng ta nên biết đặc tính và mục tiêu của sự hành trì trong nhà Phật. Thiền Phật Giáo là một phương tiện phát triển tâm linh. Nó đặc biệt chuyên về rèn luyện tâm, một hợp thể quan trọng nhất trong toàn thể con người. Vì tâm là dẫn đầu, là nguồn gốc chính của tất cả hành động về thân, khẩu, và ý, nên cần được tu dưỡng và phát triển một cách thích đáng. Thiền Phật Giáo là sự phát triển tâm linh đúng theo nghĩa thật của từ “bhavana”, vì nó nhằm mục đích không chỉ tạm thời giúp tâm tĩnh lặng, mà còn thanh lọc những phiền não trong tâm và những ảnh hưởng tiêu cực như ái dục, tham, sân, tật đố, lo âu, trạo cử, và phóng dật. Nó nuôi dưỡng và hoàn thiện những đức tính tích cực và lành mạnh của tâm, như tính tự tin, lòng từ bi, trí tuệ, năng lực, chánh niệm, định và tuệ giác thấu suốt mọi sự. Thiền định cũng là cách tu tập giúp ta thể hội giáo pháp và chứng ngộ cảnh giới cực lạc siêu việt của Niết-bàn. Nó là một phương thức huấn luyện hữu ích trên tất cả bình diện để chứng nghiệm, từ bình diện với những lo toan đời thường về những sinh hoạt hằng ngày cho đến bình diện đạt những chứng ngộ cao nhất và những cảnh giới siêu việt tâm linh. Thiền chủ yếu là một hoạt động kinh nghiệm, không phải là một đề tài tri thức được hiểu qua sách vở hay qua thông tin truyền lại. Nó chẳng phải là trốn tránh cuộc sống hay lẩn tránh trách nhiệm. Dù việc tu tập thiền định về hình thức đối với người chưa am hiểu có vẻ tách rời cuộc sống thực tế, mục đích cố hữu của nó vẫn liên quan rất mật thiết đến cuộc sống và kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta. Thiền nghĩa là chánh niệm và có trí tuệ trong những gì chúng ta làm, nói, và nghĩ; còn có nghĩa là tỉnh thức nhiều hơn, và khả năng tự chủ cao hơn. Cho nên, nó không phải là một phương pháp tu tập không thích hợp đối với thế gian này, chỉ dành cho một thế giới khác gồm tu sĩ và những người tu khổ hạnh, nhưng nó là một trong những kỹ năng thiết thực có giá trị nhất giúp nâng cao đời sống thường nhật mỹ mãn hơn.
Đạo Phật dạy nhiều phương pháp hành thiền khác nhau, nhưng tất cả đều quy về hai loại là thiền Định hay Chỉ (Samatha) và thiền Quán hay thiền Minh Sát (Vipassana). Loại thứ nhất chỉ về định hay sự tập trung (Samadhi), là một cách thức tu tập nhằm mục đích luyện tâm đạt đến tâm nhất cảnh tánh (cittekaggata). Loại thứ hai chỉ về tuệ giác, khả năng thấu suốt của tâm linh có thể nhận biết được thực tướng của các pháp. Thiền định nhằm mục đích đưa đến sự bình an và tĩnh lặng của tâm (cittaviveka) và nghị lực mạnh hơn, có thể dùng vào những mục đích thiết thực trong đời sống thường nhật. Qua nỗ lực bền bỉ và kiên trì, hành giả cũng có thể đạt đến những trạng thái huyền bí cao hơn gọi là định (jhana). Có tám tầng thiền định. Bốn tầng đầu là định sắc giới (rupajhana), và bốn tầng sau là định vô sắc giới (arupajhana), trong đó tầng cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasanna-nasanna-yatana). Tuy nhiên, tất cả những trạng thái huyền bí này đều được tạo nên và tác động bởi tâm. Chúng vẫn là vô thường và vẫn còn trong thế giới phàm phu. Thiền định được biết đến trước khi đạo Phật ra đời, nhưng nó được cải cách và tiêu chuẩn hóa theo hệ thống tu tập của nhà Phật. Tuy nhiên, tự bản thân thiền này không dẫn đến sự diệt khổ và thực chứng Niết-bàn, mặc dù nó có thể hữu dụng trong phạm vi nào đó để phát triển tâm linh. Trước khi thành đạo, chính đức Phật đã tu tập thiền định với các vị thầy đương thời đã chứng ngộ cao, và Ngài đã đạt đến tầng thiền định cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tuy vậy chẳng bao lâu, Ngài đã khám phá ra là cách tu tập này không rốt ráo và không thích hợp để đạt đến triệt ngộ. Định có thể là một công cụ dẫn đến cuộc sống hạnh phúc trong đời này (ditthadhamma-sukhavihara), nhưng thiền quán mới có thể thật sự thanh lọc tâm và chứng ngộ Niết-bàn. Thiền quán chính là một đóng góp của đạo Phật vào sự phong phú về tâm linh của thế giới. Đây là một phương pháp phân tích mà tầm quan trọng nhắm vào phát triển chánh niệm và biết được thực tướng. Bằng cách liên tục chú tâm đến thực tại hiện tiền đang kinh nghiệm, hành giả hoàn toàn hòa nhập với tự tánh và kinh nghiệm của chính mình. Hành giả nhận ra bản chất vô thường, đổi thay, khổ, và vô ngã nơi tất cả các pháp hiện hữu, đồng thời trực nhận thật tánh của các trạng thái nội tâm đang kinh nghiệm. Tất cả các pháp đều là không. Phân tích cho đến tột cùng thì không có gì đáng để chấp chặt vào là “tôi” hay “của tôi'. Hành giả tự nhận ra những tư tưởng thiện và ác sanh và diệt trong tâm, những cấu uế, những đức tính, thiện, ác, cao thượng và không cao thượng, v. v... tất cả đều được “thấy” và nhận ra đúng như thật tánh của chúng. Một khi thực tại đã được trực nhận và kinh nghiệm, chúng có thể bị phân tích và thẩm xét sâu xa hơn. Biết mình và biết sâu hơn về thực tướng các pháp là nhờ nỗ lực liên tục và kiên trì tu tập loại thiền quán này.
Giáo sư Donald K. Swearer, một đệ tử lâu năm của đạo Phật, nhận xét: “Thiền Phật Giáo chắc chắn thu hút mọi người bởi nhiều lý do. Đối với một số người, nó tạo một nơi trú ẩn yên tịnh xa rời thế giới hỗn độn phức tạp ngày nay. Với những người khác, nó có thể là phương tiện phản quan nội tâm để hiểu được chính mình. Với những người khác nữa, nó là phương tiện để nỗ lực nghiêm túc nắm bắt cho được chân lý của đạo Phật.” Lời tuyên bố này tóm tắt rất rõ ràng làm thế nào thiền Phật giáo có thể phục vụ một mục đích thiết thực cho người dân Tây phương như thế, và nó có thể chứa những tiềm năng lớn lao giúp đáp ứng nhu cầu tâm lý xã hội của họ. Người Tây phương thông thường thực tế và hay sắp đặt sẵn mục tiêu cho mình. Họ không hài lòng với lý thuyết suông, mà thích kinh qua những kết quả của nguyên lý đưa ra. Thiền là một phương thức huấn luyện đáp ứng loại tâm lý này thỏa đáng. Cuộc sống căng thẳng ở xã hội Tây phương có thể là nguyên nhân mạnh nhất thu hút mọi người đến với thiền Phật giáo. Sự xem trọng vật chất quá mức, tranh danh đoạt lợi tàn khốc, và chạy theo các thứ được gọi là lạc thú cuộc đời hợp lại, tạo nên một xã hộâi đầy căng thẳng bức bách. Nhu cầu cạnh tranh để đạt đến đỉnh cao đang tàn nhẫn xô đẩy con người lao tới mà không có thời gian để ngừng nghỉ hay chậm lại. Sự tiêu thụ phí phạm biểu thị mối đe dọa nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự ổn định môi trường của thế giới. Lối buôn bán vô đạo đức đã đưa đến sự bất tín nhiệm giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ. Xã hội dường như hỗn tạp hơn mức chúng ta chính thức được chuẩn bị để đón nhận. Sống trong bối cảnh như thế đã khiến một số người có khuynh hướng đi tìm sự khây khỏa và bình an trong sự yên tĩnh rất năng động của thiền Phật giáo. Qua hành trì, họ khám phá ra rằng cách thiết thực nhất để giải quyết các vấn đề của con người (cá nhân, xã hội, hay toàn cầu) là phải bắt đầu tại chính tâm và thái độ của họ. Thiền Phật giáo đưa ra nhiều kỹ thuật khác nhau để hiển lộ cái tâm trong sáng và có cách nhìn đời không bị lệch lạc, méo mó, và đây là nền tảng để thực sự giải quyết các vấn đề. Trong nhiều trường hợp, người Tây phương thích thiền Phật giáo không chỉ đơn thuần bị thúc đẩy bởi các vấn đề như căng thẳng hay bức bách, nhưng bắt nguồn từ niềm tin chắc thật trong Chánh Pháp và lòng hiếu kỳ muốn biết thực hành nó ra sao. Nhóm hành giả này gồm chủ yếu là thành phần trí thức và những người học Phật. Họ tìm thấy trong đạo có cái gì đó đáp ứng được những thắc mắc và nhu cầu của họ. Nhưng bất kể là động cơ gì, hành giả với tâm tha thiết luôn luôn nhận được lợi ích từ sự tu tập, và đó là một trong những đặc tính thu hút nhất của thiền Phật giáo.
Ngờ vực tiêu đề này là dấu hiệu của một sự hiểu sai thường có về thiền Phật giáo, phổ biến không những giữa những người không phải Phật tử, mà cả trong một số các giáo phái của Phật giáo nữa. Một số người cho là thiền không phụng sự những mục tiêu thực tế và chỉ là một sự lẩn tránh thực tại của cuộc sống thường nhật. Những người có cái nhìn sai lầm này không phân biệt được giữa một phương thức tu tập tích cực để đến được trạng thái lành mạnh, tĩnh lặng và quân bình tuyệt vời về tâm linh, và đây chính là thiền Phật giáo, với một sự tham gia thụ động vào những suy niệm huyền bí hoặc tụng thần chú, cái chẳng liên quan gì đến thiền Phật giáo. Họ còn không hiểu được rằng ngồi nhắm mắt hoặc lặp đi lặp lại những lời khó hiểu, là tự bản thân nó không làm nên thiền Phật giáo. Thiền Phật giáo chẳng bao giờ trốn tránh cuộc đời. Tu tập thiền này phần lớn dựa trên những sinh hoạt trong đời sống, kết quả của nó nhằm cải tiến chất lượng cuộc sống. Để phát triển sự tu tập đến mức độ cao hơn, nên ẩn cư với một chừng mực nào đó, hoặc sắp xếp môi trường chu đáo hơn, sẽ được thuận tiện hơn. Nhưng thiền Phật giáo mang ý nghĩa cao xa hơn là chỉ tu tập định lực. Thực vậy, đức Phật đã chỉ ra rằng nếu chỉ tu định thôi thì nó chướng ngại sự đạt ngộ giáo pháp cao thâm hơn. Tuy nhiên, hình ảnh vị sư bắt tréo chân ngồi thiền bất động như đá và chìm sâu trong định có thể đã gây một ấn tượng sai lầm chung cho đó là cách duy nhất để thực hành thiền. Bởi vì thiền, theo như từ gốc Pali “bhavana”, là sự phát triển về tâm, và bởi tâm là yếu tố quyết định tối quan trọng tác động và điều khiển mọi hoạt động của thân, khẩu, và ý, thực hành thiền có thể mang đến lợi ích vô biên. Lợi ích cao nhất về tâm linh có thể thành tựu qua thiền là giác ngộ viên mãn và chứng ngộ Niết-bàn. Tuy nhiên, Niết-bàn có thể dường như là một mục tiêu quá xa xôi đối với nhiều hành giả, những người chỉ đơn giản khao khát được những lợi ích thế gian hơn. Dưới đây là một số lợi lạc có thể được kinh nghiệm ngay lập tức trong lúc thực hành thiền. 1. Thiền gia tăng sự hiểu biết về những tiềm lực ẩn sâu bên trong tâm và giúp chúng ta tích cực hơn trong cuộc sống. Lợi lạc từ sự thực hành thiền không ngằn mé. Những lợi lạc này được áp dụng cho cá nhân và giữa cá nhân với nhau, tùy theo tình huống và khả năng của chính thiền giả. Tuy nhiên, nên nói thêm vào đây rằng tầm mức lợi ích thu được từ việc hành thiền và mức độ thành công trong tu tập có thể tương quan với những yếu tố nhân duyên, như có hiểu đúng đề tài không, có kiên trì thực hành không, có tính tự tin không, và mức độ kiên trì đến đâu. Một vị thầy kinh nghiệm có thể giúp ích rất nhiều, đặc biệt trong những giai đoạn đầu tu tập.
Samatha nghĩa là tĩnh lặng hay định (thiền chỉ), và Vipassana bhavana là một quá trình tu tập tâm linh mà trong đó chánh niệm (thiền quán) là yếu tố quan trọng nhất. Tuy rằng định và chánh niệm là hai khả năng khác nhau của tâm, có chức năng riêng, nhưng chúng lệ thuộc vào nhau và vì thế nên được kết hợp phát triển chung đồng đều với nhau. Thật vậy, chúng có thể được so sánh như hai đầu của một chiếc que. Nếu bạn nhấc một đầu lên, đầu kia sẽ lên theo. Như vậy cả hai không thể tách rời nhau, mặc dù theo chức năng chúng có thể giữ hai vai trò khác nhau. Sự tương quan giữa định và chánh niệm có phần tinh tế. Theo định nghĩa, định là khả năng của tâm duy trì sự tập trung vào một đối tượng duy nhất liên tục không gián đoạn. Để đạt trạng thái nhất tâm, sự chú tâm vào đề mục thiền cần chuyên nhất, mạnh mẽ không ngừng nghỉ trong khoảng thời gian dài . Việc này bao hàm phải sử dụng sức mạnh. Hành giả liên tục dùng sức mạnh ý chí để duy trì sự chú tâm vào đề mục thiền định. Trái lại, chánh niệm không đòi hỏi lực hay ý chí nào để duy trì sự tập trung của tâm hơn mà chỉ đơn giản dùng sự tỉnh thức để quán đối tượng. Liên tục thực hành chánh niệm giúp tri giác tinh tế bén nhạy hơn và có thể nhận ra thực tướng các pháp. Khi cùng phát triển với định, chánh niệm giữ nhiệm vụ chọn lựa một đối tượng để tập trung và khéo giúp duy trì sự tập trung vào đối tượng. Đó chỉ là một trạng thái tỉnh thức trước đối tượng quán, trong đó không có yêu và ghét, không dùng sức mạnh ý chí hay bị dính mắc, chấp chặt. Nếu chánh niệm mạnh, chắc chắn định mạnh hơn, và ngược lại. Tương tự như ánh sáng mặt trời chiếu qua kính hiển vi. Khi những tia nắng tụ hội qua kính hiển vi, sức tập trung quá mạnh đến nỗi phát ra lửa. Để tự nhiên, mặt trời có thể không đủ sức tạo nên lửa, mặc dù chắc chắn nó chứa tiềm năng làm nên chuyện đó. Cho nên, thấu kính là một công cụ thực hiện tiềm năng sẵn có của mặt trời. Cũng như vậy, tâm người có sức mạnh rất lớn lao và tiềm năng bao la có thể được khai thác và đem sử dụng nhờ tu tập định. Khi tâm được định cao, chánh niệm có thể giúp tri giác nội tại tinh tế hơn và năng lực tâm bén nhạy hơn. Cuối cùng điều này đưa đến sự phát triển tuệ giác thấu suốt giúp hành giả có thể nhận ra bản chất thật không bị méo mó của các pháp , đồng thời thanh lọc tâm khỏi các phiền não uế trược. Về phương pháp và áp dụng, chánh niệm rộng rãi hơn và bao hàm toàn diện hơn định. Chánh niệm là bao hàm, trong khi định là loại trừ . Vì chánh niệm có khả năng nhận tất cả kinh nghiệm và hiện tượng làm đối tượng quán sát, nó biểu hiện một chức năng toàn diện. Khả năng được chọn dùng làm đối tượng quán sát của nó và để áp dụng quán sát là không giới hạn. Chánh niệm có khả năng thâu nhận và tiếp cận mọi thứ nằm trong phạm vi giác quan và kinh nghiệm tâm linh, không loại trừ thứ gì, trong khi định chỉ tập trung vào một đối tượng duy nhất đã được chọn cho mục đích quán sát và loại bỏ tất cả thứ khác. Về cơ bản, chính định tạo nên năng lực tâm linh và sự tĩnh lặng cần thiết cho tâm mà chánh niệm cần có để thâm nhập sâu hơn vào những tầng mức sâu kín của ý thức con người. Nếu định là năng lực, chánh niệm điều khiển và hướng dẫn hướng đến năng lực ấy. Định và chánh niệm (chỉ và quán, hay định và tuệ) phát triển đồng đều sẽ đưa đến mức độ liễu ngộ và tuệ giác cao thâm hơn, và đây là điều quan trọng sống chết trong việc tu tập tâm linh. Chánh định là trạng thái nhất tâm lành mạnh hỗ trợ cho trí tuệ và củng cố các đức tính lành mạnh khác. Nhờ năng lực của định, những tâm ô nhiễm như tham dục, ác ý, giải đãi, trì trệ và trạo cử bị suy yếu đi, tạo cơ hội cho những đức tính thiện lành sanh trưởng. Nếu sức định yếu hay tâm trượt khỏi đối tượng quán, chánh niệm lập tức ghi nhận điều đó và giúp định trở lại mạnh mẽ với sức chuyên chú vào đối tượng quán như cũ. Chức năng của định là ổn định tâm và giữ tâm chuyên chú liên tục. Chánh niệm đóng vai trò hỗ trợ và thêm vào đó, tiếp tục hoạt động từ phạm vi chấm dứt hoạt động của định. Theo lối này, định và chánh niệm hoạt động hỗ tương cho nhau và lệ thuộc vào nhau xuyên suốt toàn quá trình tu dưỡng tâm linh, gọi là thiền.
Có một số điểm cần xem xét ở đây. Đầu tiên, không thể gọi thiền là một hoạt động ích kỷ, hay những thiền giả là những cá nhân chỉ biết có mình, cũng như không thể công kích các sinh viên cao đẳng đi học và tập trung vào việc học của họ là ích kỷ không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Thiền trên căn bản là một khóa tu tập, và một trong những kết quả tự nhiên nhất của sự tu tập ấy là phá tan được phần nào hoặc toàn bộ tính ích kỷ. Cũng như việc theo học trường cao đẳng trang bị cho ta có khả năng lớn hơn để làm lợi ích và góp phần cho xã hội, tu tập thiền giúp ta làm điều thiện giúp người với lòng hy sinh và cống hiến nhiều hơn. Tuy nhiên, học càng cao không nhất thiết là mức độ vị kỷ càng giảm, trong khi sự thăng tiến về tinh thần lại giảm được lòng vị kỷ. Học thức càng cao thậm chí có thể đưa đến kết quả là càng ít làm lợi ích cho xã hội nếu cá nhân quyết định việc làm và hành động của mình theo động cơ thúc đẩy của lòng tham và sự vị kỷ quá lố. Ngược lại, thiền không bị những hạn chế đó, bởi những gì thực sự đạt được trong khóa tu tập là loại trừ tâm tiêu cực, đặc biệt là tính vị kỷ, và nuôi dưỡng những tâm tích cực như lòng từ, bi, và trí tuệ. Chẳng những không vị kỷ, thiền còn là những hoạt động hoàn toàn tích cực và có đạo đức. Thứ hai, cần phải lập lại ở đây là thiền không nhất thiết có nghĩa ngồi tréo chân, nhắm mắt, tụng chú. Ai nghĩ rằng thiền chỉ là một tham gia thụ động với cái tâm chẳng liên hệ gì đến cuộc sống của thế gian là một sự sai lầm lớn. Thiền Phật giáo hướng dẫn cách xử sự với cuộc sống. Nó là một hoạt động hết sức thiết yếu. Thiền có thể được thực hành trong khi ăn, uống, làm vườn, làm nông, và các loại hoạt động khác, dù nó có tính cách cá nhân hay đoàn thể xã hội. Cho nên nói thiền là một hành động vị kỷ thật không đúng. Quả thật, không có gì xa sự thật hơn. Thứ ba, thiền là cái chúng ta hằng sống, không phải chỉ đơn giản là một phương thức tu tập thôi. Người ta thường kể đức Phật và các vị thánh đệ tử của Ngài thường xuyên an trú trong thiền định, nhưng các Ngài rất tích cực làm việc giúp người khác hạnh phúc và an lạc, chẳng mong đền đáp. Những hoạt động của các Ngài tạo nên lợi lạc lớn cho xã hội và loài người như thế vì tâm các Ngài không còn tham đắm, ích kỷ, ác độc, và các loại cấu uế khác. Những người quá gấp tham gia vào các hoạt động xã hội chưa kịp chuẩn bị đầy đủ nền móng tinh thần cho chính bản thân chắc chắn gây nhiều điều hại hơn lợi. Dù họ có tìm cách phục vụ được chút gì cũng ít nhiều tăng thêm bản ngã của họ. Trong lịch sử tôn giáo không thiếu gì những ví dụ này, như cuộc viễn chinh thập tự giá, các vụ án xử những người sử dụng ma thuật tại Salem, và như Ban Thẩm Tra của giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã nhằm đàn áp nhóm cải giáo, và đó là những chứng cớ nói lên con người có thể trở thành nguy hiểm biết bao nếu những tâm cấu uế của họ chưa được thanh lọc thích đáng. Thực hành thiền định ta biết được những tâm niệm của chính mình, biết chỗ mạnh, yếu, và biết những tâm sở vi tế khác, kể cả những hành động có vẻ như hữu ích cho xã hội, trong đó có thể xuất hiện tính vị kỷ.
Câu hỏi này còn chứng tỏ một sự hiểu lầm nghiêm trọng khác về thiền Phật giáo. Sự thanh lọc tâm là một trong nhiều lợi ích do thực hành thiền. Nó không phải là mục tiêu duy nhất của phương thức rèn luyện tinh thần này. Thanh lọc tâm không phải là bác bỏ hay trốn tránh thực tế. Ngược lại, quá trình tu tập đòi hỏi hành giả học nhận ra thực tại ngay khi chúng sanh khởi, từ giây phút kinh nghiệm này qua giây phút kinh nghiệm khác. Thực vậy, thiền là một lối tu tập táo bạo nhất, lối tu buộc ta phải học cách trực tiếp đối đầu với thực tế. Không có cách nào tốt hơn để đương đầu với thực tại bằng tu tập thiền định. Những thực tại cuộc sống ta phải đối phó không chỉ là các hiện tượng bên ngoài, như động đất, lũ lụt, bịnh AIDS, trẻ em mại dâm, hoặc những mức độ tội phạm cao. Còn có những thứ thân cận hơn nữa ta phải đương đầu là những kinh nghiệm nội tâm ta nhận biết qua từng sát na. Những kinh nghiệm này cũng có thực và hiển nhiên không kém những biến cố có vẻ cụ thể hơn đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Chúng là những thực tại cấp bách nhất ta phải đương đầu, và nếu ta không biết cách xử lý thỏa đáng, sẽ có cơ ta tạo thêm vấn nạn. Thiền Phật giáo, đặc biệt là thiền quán, tiêu biểu cho cách hành thiền độc đáo là hành giả được tu tập để nhận biết thực tại không qua thành kiến, và kinh nghiệm cuộc sống một cách đầy đủ xác thực. Chúng ta học cách vượt qua những định kiến và những ảo giác sẵn có của chúng ta, đồng thời cố gắng theo cách phân tích để có thái độ khách quan trước những kinh nghiệm của mình. Điều này khiến chúng ta có thể nhận ra thực tướng của các pháp, chứ không còn phải thấy chúng qua cách chúng ta bị nhân duyên tác động, dù tích cực hay tiêu cực. Quan trọng nhất là chúng ta học làm thế nào để thấy được chính mình một cách rõ ràng, minh bạch; hiểu được phẩm cách, tính khí, và những khiếm khuyết của chính mình. Thiền Phật giáo là một phương pháp cao thượng chấp nhận thực tế. Nó là phương cách thực tiễn nhất để đối diện với thực tế đời sống.
Nói thiền có thể làm cho điên cũng giống như quả quyết rằng ăn có thể bị chết, hay đánh răng có thể gây tổn thương miệng. Thật ra, điên hay mất trí có thể do nhiều nguyên nhân. Những sinh hoạt bình thường như học ở trường Cao đẳng, buôn bán kinh doanh, chơi cổ phiếu, và ngay cả những vấn đề tình cảm, tất cả đều có thể đưa đến sự điên loạn. Nó thật sự tùy thuộc vào thái độ tâm thức của mỗi cá nhân và những hoạt động trên được thực hiện như thế nào. Nếu chúng ta học hành quá độ cả ngày lẫn đêm không ngừng nghỉ, hay làm việc liên tục không ngủ nghỉ, sẽ có cơ bị bịnh tâm thần hay các chứng loạn chức năng thần kinh. Cũng có những câu chuyện kể về các mối tình ngọt ngào trở thành chua cay, trải qua những đau đớn của trái tim tan nát, những tình nhân ấy tâm trí mất quân bình thành điên loạn. Hầu như bất cứ cái gì cũng có thể được nêu ra là nguyên nhân gây rối loạn thần kinh. Những ai quả quyết thiền có thể sanh bịnh điên thật sự không hiểu biết gì về thiền Phật giáo và cách thực hành như thế nào. Chẳng những không gây rối loạn thần kinh, thiền còn là một nghệ thuật tinh tế đưa sự lành mạnh về tinh thần lên mức độ tốt nhất. Chúng ta đã thấy trong việc tu tập thiền, chánh niệm là yếu tố quan trọng nhất, phải được liên tục phát triển và thực hành trong phạm vi kinh nghiệm tâm sinh lý của chúng ta từng mỗi phút giây. Điều này đưa đến sự tăng trưởng các đức tính khác như từ bi, rộng lượng, đạo đức, trí tuệ, nghị lực, kiên nhẫn, và vị tha. Như vậy là đủ lý do xác đáng để khẳng định rằng thiền thật sự không những đưa đến sự ổn định về tinh thần và tâm lý lành mạnh mà còn góp phần lớn lao về tiến bộ tâm linh, nâng cao đời sống cá nhân và xã hội. Có điều chắc chắn là những người hệ thần kinh bất bình thường, như những người bị rối loạn thần kinh trầm trọng, thí dụ bịnh tâm thần phân liệt hoang tưởng, thì không thể đủ điều kiện thực hành thiền. Những người này có khuynh hướng biểu lộ những hành vi thất thường không thể tự kiểm soát được, và chắc chắn có bị mất trí ở mức độ nào đó. Nếu họ ham mê thực hành thiền mà không lo nhờ bác sĩ chuyên khoa thích hợp chữa lành bịnh cho mình trước đã, thì không mong gì họ đạt kết quả tốt trong sự tu tập. Cũng có những người phát biểu một số quan niệm về thiền và bắt đầu tự mình đi sâu vào việc tu tập theo những quan điểm đó. Không có kiến thức hay sự hướng dẫn đúng đắn về cơ bản, những lối thực hành như thế sẽ đưa đến kết quả mất thăng bằng tâm linh và bị ảo giác. Nhưng không thể cho rằng thiền chịu trách nhiệm với những hiệu quả tiêu cực này. Thiền Phật giáo hoàn toàn an toàn và lành mạnh khi được áp dụng tu tập với những tâm trí bình thường thích hợp và dưới sự hướng dẫn của vị thầy có khả năng.
Vì không đủ chỗ, không thể nêu hết tất cả phương pháp hay chi tiết của việc thực hành thiền định ra đây. Tuy nhiên, chúng tôi có thể thảo luận những khái niệm và những kỹ thuật cơ bản nhất trong việc tu tập nầy để người đọc hiểu rõ ràng thiền được thực hành như thế nào trong những giai đoạn đầu. Những ai quan tâm, có thể áp dụng mà không sợ nguy hại hay bị những tác dụng ngược lại nếu tuân thủ thực tập điều độ. Định được phát triển bởi nhất tâm chuyên chú tập trung vào một đối tượng quán hay đề mục thiền đã được chọn. Có rất nhiều loại đề mục thiền có thể dùng tu tập thiền, và bốn mươi đề mục được đặc biệt giới thiệu trong kinh điển Phật giáo, dù chắc chắn nhiều thứ khác cũng có thể đưa vào danh sách này. Những đề mục cổ điển là hơi thở của chính mình, hình ảnh đức Phật, ánh sáng đèn nến, một đĩa có sơn màu hay miếng vải nhuộm được căng trên khung tròn (kasina), nước, hư không, v. v... Sở dĩ nhiều thứ khác nhau được đưa ra như thế là để cho hành giả với những sở thích và tính khí khác nhau có thể chọn lựa rộng rãi. Một đối tượng thích hợp sẽ khiến cho việc thực hành được dễ dàng hơn và bảo đảm tiến bộ tốt hơn. Nếu muốn, hành giả ban đầu có thể thí nghiệm nhiều đối tượng quán khác nhau để xem cái nào thích hợp nhất. Thông thường, việc này không cần thiết nếu ta quyết định khởi đầu việc tu tập với một phương tiện tiện lợi như hơi thở của chính mình. Một đề mục thiền gọi là tốt là thứ mà hành giả thấy dễ đưa đến định. Một vị thầy kinh nghiệm có thể giúp hành giả dễ dàng lựa chọn chính xác. Nếu tự chọn, thiền sinh có thể thí nghiệm đến khi hài lòng với sự chọn lựa của mình. Tuy nhiên, một khi quyết định đã được thực hiện, nên kiên trì theo đến cùng đề mục thiền định ấy hơn là tiếp tục thay đổi hoài, nếu không thì hành giả sẽ trở nên lúng túng và việc tu tập sẽ không tiến bộ tốt. Pháp môn tu định bằng cách chú tâm liên tục vào hơi thở trong một thời gian lâu được đức Phật ca ngợi là thích hợp cho tất cả các loại tính khí. Pháp môn này phổ biến đến độ hầu như được chỉ dạy trong tất cả các truyền thống Phật giáo. Nó rất thuận tiện nên ngay cả trẻ em được hướng dẫn đúng cách cũng có thể thực hành được. Có nhiều cách khác nhau để phát triển việc tu định nương vào hơi thở. Nói cách khác, có nhiều pháp môn và phương tiện khác nhau dùng hơi thở mình làm đối tượng để tu tập định. Như vậy có thể nói đây là những biến thể khác nhau của cùng một pháp môn, và các biến thể này quá nhiều không thể kể hết. Mỗi trung tâm tu tập thiền định có thể thích sử dụng phương thức này hơn phương thức kia, mặc dù tất cả các phương thức đều có giá trị và đem lại lợi lạc. Để minh họa, chúng tôi có thể nói về pháp môn sử dụng từ Pali hai vần “Bud-dho” như là một cách hỗ trợ để tu định. Cách thức thực hành như sau: Ngồi tréo chân, đặt chân phải lên trên chân trái. Giữ lưng thẳng đứng nhưng đừng cứng khó chịu. Nếu chân của bạn bị cứng, không quen theo kiểu ngồi tréo chân, và bạn thấy tư thế này không thoải mái, thử dùng gối lót ngồi để trọng lượng thân thể bớt đè lên chân bạn và bàn chân được hở dễ chịu hơn một chút. Nếu vẫn khó khăn, bạn có thể ngồi trên ghế, tuy rằng đây không phải tư thế cổ truyền. (Hầu hết người Á châu ngồi bắt tréo chân một cách dễ dàng). Người ta cho rằng ngồi theo tư thế cổ truyền tạo một cảm giác vững chãi, giúp bạn chuẩn bị cho việc thiền quán tiếp theo. Dù gì bạn cũng phải cảm thấy đủ thoải mái để không phải thay đổi tư thế trong một khoảng thời gian nhất định suốt thời thiền. Sau khi đã ổn định tư thế ngồi, hai bàn tay đặt lên chân và sát vào lòng, bàn tay phải nằm trên bàn tay trái, lòng bàn tay ngửa lên. Nhắm mắt và bắt đầu thư giãn toàn thân. Bạn có thể thư giãn từng phần trong thân, khởi đầu từ trên đầu xuống và thư giãn tất cả các cơ bắp trong mỗi phần. Làm chậm rãi, thong thả, và có hệ thống. Không trừ một phần nào trên cơ thể. Việc này sẽ mất khoảng hai đến ba phút, và khi bạn hoàn tất giai đoạn chuẩn bị này, tâm bạn cũng phải hòa nhập thích đáng với việc tu tập thiền định này cho đúng cách. Bạn nên hoàn toàn thư giãn, nếu không thì việc thiền quán sẽ trở thành một gánh nặng hơn là niềm vui tinh thần đúng theo bản chất của nó. Không chỉ thân được thư giãn, bạn phải tập làm sao để tâm không còn những căng thẳng tâm lý, bằng cách lúc ấy nên buông bỏ hết mọi lo toan tính toán làm rộn tâm trí hoặc làm tâm bất an. Nên lưu tâm những chi tiết nhỏ khác trước khi ngồi, như là xem cửa khóa chưa, bếp ga hay máy truyền hình tắt chưa, và điện thoại rút dây ra hay dời đi chỗ khác, nơi mà không làm phiền bạn chưa. Những thứ này cũng giúp cho việc tu tập thiền được thú vị và bảo đảm thành công hơn. Sau khi đã thư giãn và an định được đôi chút, hãy chú ý đến hơi thở ra vào của bạn. Bây giờ bạn mới biết rõ hơi thở của mình, còn trước đó gần như không hề lưu tâm. Tiếp tục chú tâm chuyên nhất vào chỉ hơi thở ra vào của bạn thôi, ngoài ra không để ý đến thứ gì khác cho đến khi tâm trở nên an tịnh, lặng lẽ hơn. Trong tâm lặp đi lặp lại âm “Bud” (như trong từ “Buddha”) khi bạn hít vào, và âm “dho” khi bạn thở ra. Làm cho khớp mỗi âm của từ “Bud-dho” với hơi thở vào và hơi thở ra để chúng hoàn toàn đồng nhất với nhau. Giữ cho thân bất động và tâm lặng lẽ trong suốt thời gian quy định của buổi tập thiền. Trong trường hợp rất có thể xảy ra là tâm bạn bị xao lãng hoặc bắt đầu chạy lung tung, hãy nhẹ nhàng đưa tâm trở về tập trung vào đối tượng quán là hơi thở vào ra của mình. Tiếp tục hành như thế, tâm của bạn từ từ sẽ nhập lại thành một với hơi thở và đạt được trạng thái nhất tâm. Trong kỹ thuật tu tập thiền định này, động tác hít vào và thở ra được sử dụng như công cụ giữ tâm yên và tập trung. Đọc thầm trong tâm từ “Bud-dho” là để tăng cường sức tập trung. Một số thiền sinh có thể thấy quan điểm này tiện lợi để duy trì sự tập trung hơn. Đối với Phật tử, kỹ thuật này thêm một hương vị mới lạ vào niềm tin của họ đối với pháp môn tu tập, vì trong tiếng Pali, từ “Bud-dho” quả thật có nghĩa là Phật. Một số thiền giả thích dùng chóp mũi làm điểm tập trung của tâm. Số khác, đặc biệt là những người mới tu tập thiền, lại thích theo dõi sự chuyển động của hơi thở vào từ lỗ mũi xuống đến bụng, và sự chuyển động của hơi thở ra từ bụng đưa lên mũi. Phương pháp theo hơi thở là dạng phổ thông nhất của thiền Phật giáo. Tính thực tiễn và sự lợi ích của nó được công nhận khắp các nơi Phật giáo được truyền bá. Sự kết hợp từ “Bud-dho” vào việc thực hành hiển nhiên là một đóng góp của người Thái-lan, và phương pháp này rất thông dụng trong nước họ.
Hiển nhiên, sức định thay đổi tùy theo các giai đoạn tu tập khác nhau. Những lời chú giải trong nhà Phật đề cập đến ba mức độ định. Thứ nhất, sát na định (khanika samadhi), là một tính chất của tâm vốn thông thường trong tất cả chúng sanh. Đây là khả năng thiết yếu tất cả chúng ta đều cần đến trong sinh hoạt thường nhật, và chúng ta có thể kinh nghiệm điều này ngay cả khi chúng ta đang thực hiện những công việc thế tục nhất, như ăn, uống, đọc, viết thư, hay lái xe. Thật vậy, dường như ta không thể làm được bất cứ nhiệm vụ gì có hiệu quả mà không có một mức định nào đó. Cũng vậy, có thể nói khả năng hay hiệu quả làm việc của chúng ta phần lớn tùy thuộc vào mức độ tập trung, tức là sức định mà chúng ta có thể vận dụng được trong khi hoàn thành công việc của mình. Vì vậy, mức độ định cao hơn hầu như luôn luôn có nghĩa là công việc làm sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, loại định này khó kiểm soát và không được bền lâu. Nó chỉ có trong từng sát na. Thông thường, định này được kéo dài do chúng ta chú tâm vào đối tượng kích thích giác quan trong phúp giây kinh nghiệm đang diễn tiến. Ngay khi sự chú tâm yếu đi, chúng ta cũng sẽ bắt đầu mất sức định và sẽ phải tập trung chú tâm trở lại. Mức độ thứ hai gọi là cận hành định, access or approximate concentration (upacara samadhi), một dạng định tiến triển hơn có thể đạt được qua quá trình phát triển tâm linh đã được đề cập ở trên. Ở giai đoạn này, tâm của thiền giả đã cao vượt ngoài lớp ý thức bình thường, nhưng chưa được đưa vào sâu trong định. Trạng thái nhất tâm chưa ổn định dễ bị giao động ở một mức nào đó, mặc dù trạng thái này có thể dễ kiểm soát hơn loại định thứ nhất. Định ở mức độ này làm cơ sở cần thiết cho sự tu tập thiền quán, và ta không cần phát triển thêm loại định này nếu đã chọn phát triển theo thiền quán. Tuy nhiên, nếu hành giả muốn tiếp tục tu tập về định, giai đoạn này là phần chuyển tiếp quan trọng từ chỗ tâm hành giả đã đạt đến tầng mức cao hơn về tâm linh và đang hòa nhập trọn vẹn vào trạng thái nhất tâm cao hơn nữa, và bền bỉ hơn. Tầng thứ ba là tịnh chỉ định, attainment concentration (appana samadhi). Đây là giai đoạn thiền giả đạt được trạng thái nhất tâm bền bỉ, ổn định, và hoàn toàn kiểm soát được. Nghĩa là ở mức định này, hành giả đang ở tư thế có thể duy trì định lực lâu theo ý mình, và sức định đạt đến chỗ thâm sâu đến nỗi không yếu tố nào bên ngoài có thể khuấy động được. Hành giả làm chủ mình hoàn toàn. Sức tự chủ này có tiềm năng có thể thách thức cả luật thiên nhiên. Hành giả hòa nhập trọn vẹn với đề mục thiền đến độ dường như mình với nó là một. Loại định này làm nền tảng cho thiền na (jhana) hay an chỉ định, (absorption). Từ mức định này, hành giả nhập vào tầng định thứ nhất, và nếu kiên trì nỗ lực, sẽ tiến xa hơn nữa để đến những tầng định cao hơn.
Qua những điều bàn ở trên chúng ta thấy muốn được thiền định phải có lực, sức mạnh ý chí, và làm chủ được tâm. Nội lực sinh từ một sức định cao có thể dùng chi phối người khác và các sự việc. Đây vẫn còn là bước đầu so với những gì đạt được ở những giai đoạn phát triển tâm cao hơn, và những lực này không phải là mục tiêu đích thực của việc tu tập thiền định, và không được đức Phật khuyến khích. Do những hạn chế của đời sống hiện đại, ít người dám dành trọn vẹn thời gian thực hành thiền như những ẩn sĩ trong hang núi hay rừng sâu. Tuy nhiên, nếu ta chuyên chú kiên trì cho đến khi đạt được tịnh chỉ định, thì có thể tiếp tục để thành tựu bất cứ tầng nào trong tám tầng an chỉ định. Bốn tầng an chỉ định đầu (theo A tỳ đạt ma thì có năm) đạt được nhờ tu tập định với đề mục thiền là một số vật cụ thể như đất, lửa, nước, hoặc “Kasina” (đĩa sơn màu)... Tầng an chỉ định nào thành tựu trong giai đoạn tu tập này gọi là định sắc giới (rupajhana). Bốn tầng kia gọi là định vô sắc (arupajhana). Tu loại định này, hành giả không chú tâm tập trung vào các vật cụ thể mà sử dụng ý niệm trừu tượng làm đề mục của thiền. Các đề mục ý niệm này gồm không vô biên xứ (akasanancayatana), thức vô biên xứ (vinnanancayatana), vô sở hữu xứ (akincannayatana), và phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasannanasannayatana). Để thực hành định vô sắc, hành giả trước phải đạt được bốn tầng định sắc giới. Định gia tăng sức mạnh của tâm, và sức mạnh của tâm có thể lên cao tới độ hành giả có thể thực hiện những điều kỳ lạ về tâm linh, hay ta có thể gọi là 'thi triển thần thông' hoặc 'phép lạ,' dù một lần nữa chúng tôi nhấn mạnh rằng thần thông hay phép lạ đều không phải là mục đích của thiền Phật giáo. Thật vậy, đức Phật thậm chí còn chế giới cấm chư tăng không được biểu diễn thần thông như những kỳ công, bởi thần thông có thể làm cho những người kém hiểu biết xao lãng, không nhớ đến mục tiêu quan trọng của mình là tiến bước trên đường giác ngộ, giải thoát khỏi luân hồi (Samsara), mà đó mới thật là mục tiêu đích thực của đạo Phật. Theo hệ thống thiền Phật giáo, chánh định là căn bản cho tuệ giác. Nó là một phương tiện đưa đến mục đích, chứ chính nó không phải là mục đích.
Ở đây đúng ra phải miêu tả dài mới đủ, nhưng vì trong khuôn khổ hạn hẹp này và để cho các phần cân đối với nhau, chúng tôi phải giới hạn luận bàn ngắn gọn về phương pháp thực hành loại thiền đặc trưng này của Phật giáo. Để rõ ràng, chúng tôi bắt đầu bằng cách so sánh vắn tắt một số đặc điểm nổi bật trong hai loại thiền định (chỉ) và thiền quán là hai loại thiền chúng tôi đã nói sơ qua. Tu tập thiền chỉ, cần có một khung cảnh hay môi trường xếp đặt thích hợp. Thí dụ, môi trường nên tương đối biệt lập và yên tịnh, có phần cách ly khỏi những sinh hoạt khác, và hoàn toàn không bị quấy nhiễu. Thiền quán không cần những yêu cầu này, mặc dù trong những giai đoạn đầu thực hành, những điều kiện ấy có thể ích lợi. Tu tập thiền chỉ, hành giả chỉ sử dụng một đối tượng quán làm công cụ để đạt đến trạng thái nhất tâm, trong khi thiền quán sử dụng tất cả kinh nghiệm nào có thể dùng được làm nền tảng chính để phát triển chánh niệm và tuệ giác. Thiền quán có thể dùng tất cả kinh nghiệm về thân, cảm xúc, và tâm lý để làm đối tượng quán, cũng có nghĩa rằng ta có thể thực hành loại thiền này trong tất cả mọi sinh hoạt và tình huống. Thiền chỉ không kham được loại phạm vi rộng rãi này. Cho nên, chúng tôi có thể khẳng định rằng thiền quán là một phương pháp rèn luyện tâm linh có thể được thực hành ở bất cứ lúc nào, nơi nào, và trong mọi hoàn cảnh. Thiền chỉ và thiền quán cũng khác nhau về mục đích tu học. Thiền chỉ liên hệ đến nhất tâm, tâm vắng lặng, sức mạnh tâm linh, và thần thông; trong khi thiền quán nhằm mục tiêu gia tăng sự tỉnh thức, sự nhận biết, trí tuệ, biết chân chánh, đức hạnh, tịnh hóa tâm, và chứng ngộ Niết-bàn. Một trong những kinh quan trọng nhất liên quan đến thiền quán là kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutta). Tất cả các truyền thống Phật giáo đều cho rằng kinh này chứa những lời dạy cổ điển về cách thực hành thiền quán. Trong phần mở đầu kinh, đức Phật khẳng định dứt khoát rằng phát triển chánh niệm y theo kinh Tứ Niệm Xứ là thiết lập con đường trực tiếp, con đường thanh tịnh bậc nhất, diệt khổ ưu,thành chánh trí,chứng Niết-bàn. Kinh này là một trong số ít các kinh mà đức Phật xác quyết dứt khoát và rõ ràng như thế. Theo kinh Tứ Niệm Xứ, chánh niệm là chìa khóa để phát triển tuệ giác. Chánh niệm là chú tâm tỉnh giác trên bốn nhóm kinh nghiệm: thân, thọ, tâm, và pháp hay tâm cảnh (mental objects), tức đặc biệt nói đến các kinh nghiệm về tâm linh có thẩm xét đạo đức, hoặc các thiện pháp phát sinh và phát triển trong quá trình tu tập. Vì vậy, kinh được chia làm bốn phần chính, mỗi phần đề cập đến một thể loại kinh nghiệm riêng mà hành giả đều phải thực hành quán sát với chánh niệm. Phần đầu tiên của Tứ Niệm Xứ đề cập đến thân (kaya). Phần này bao gồm hơi thở, tư thế của thân, hoạt động của thân, phân tích các thành phần của thân, yếu tố vật chất tạo nên thân, và sự tàn hoại của thân. Những thứ này là những thực tại cuộc sống con người phải giáp mặt. Người thực tập thiền quán nên thực hành bằng cách liên tục chánh niệm về tất cả các kinh nghiệm này trên cơ thể. Thí dụ, vị ấy nên chăm chú để tâm vào hơi thở của mình, chú ý đến tính chất luôn thay đổi của hơi thở để thấy chúng dài hay ngắn, cạn hay sâu, tế hay thô, đều đặn hay không, v. v... Mục tiêu là để huấn luyện tâm an trú trong hiện tại bằng cách hằng biết những gì hiện tại đang diễn tiến. Có thể áp dụng cùng một nguyên tắc như thế với các tư thế khác nhau của thân như đứng, đi, ngồi, hay nằm, cũng như những hoạt động khác của thân như ăn và uống, hay thậm chí những cử động của chân và tay. Đây là lời Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo nên trọn vẹn chú tâm hơn nữa vào các hành động như bước tới hay bước lui, ngó tới hay ngó lui, cúi hay ngước, đắp y hay trì bát, ăn, uống, nhai hay nếm thức ăn, đáp ứng những nhu cầu tự nhiên của sự sống, đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, nín. Trong tất cả những hành động này, vị đó nên hoàn toàn tỉnh thức và chú tâm.” Phần thứ hai đề cập đến cảm thọ (vedana), gồm có ba loại: vui, khổ, và vô ký (không khổ không vui). Những cảm thọ này liên tục sanh khởi, cái này nối tiếp cái kia, và hành giả nên chú tâm tỉnh giác ngay khi chúng khởi lên, biết chúng là những hiện tượng duyên hợp sanh diệt tùy duyên, không có cái “tôi” hoặc “cảm thọ của tôi.” Cảm thọ có lối lừa gạt kỳ lạ khiến chúng ta rơi vào tình trạng lầm tưởng có một cái tôi riêng rẽ. Do cảm thọ, người ta luôn mang ý niệm rằng bên trong mình có một tác nhân cảm nhận các thọ vui, thọ khổ, hoặc không khổ không vui. Tác nhân đó là người tiếp nhận các kinh nghiệm đủ loại, kể cả nghiệp quả. Đây gọi là linh hồn hay ngã. Theo đức Phật, cái tưởng sai lầm có một cái ngã phần lớn do cảm thọ của ta mà ra. Do đó, điều quan trọng là hành giả tự tu tập để có thể có được cái thấy như thị đối với các pháp, bằng cách chỉ đơn giản quan sát những cảm thọ của chính mình đúng theo thực tướng của chúng, là những hiện tượng tự nhiên sanh diệt tùy duyên. Một cách khác để quán thọ là phân tích chia chẻ cẩn thận bản tánh, nguồn gốc sanh khởi và biến diệt của các cảm thọ. Hành giả hết sức chú tâm tỉnh giác xem mình đang có những cảm thọ dễ chịu, khó chịu, hay không dễ chịu cũng không khó chịu. Hành giả biết rõ các cảm thọ của mình lúc ấy nhưng không dính mắc vào chúng. Đức Phật dạy: “Như vậy, thiền tăng sống quán thọ trên nội thọ, sống quán thọ trên ngoại thọ, sống quán thọ trên nội ngoại thọ. Vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, sống quán tánh biến diệt trên các thọ, sống quán tánh sanh diệt trên các thọ.Vị ấy chỉ cần chánh niệm trong chừng mực vừa đủ để nhận biết một cách tỉnh giác các cảm thọ hiện tiền đang diễn biến. Vị ấy sống không vướng mắc và không chấp trước vào bất cứ thứ gì trên đời. Thiền tăng sống quán sát các cảm thọ là với phương cách như thế.” Phần kế trong kinh đề cập đến tâm. Nếu phương thức tu tập tâm linh này có phần nhằm mục đích phát triển khả năng nhận biết và kiểm soát tư tưởng của chính mình thì đây có lẽ là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để thực hiện mục đích đó. Đến đây hành giả sống quán sát tâm ý mình, hằng chú tâm đến sự sanh khởi và biến diệt của chúng. Vị ấy cũng quán sát xem chúng sanh và diệt theo nhân duyên như thế nào. Hành giả nên liên tục chú tâm hoàn toàn vào những kinh nghiệm đang diễn biến ở giây phút hiện tại thôi, không phải ở quá khứ hay vị lai, và chỉ đơn giản nhận biết sự hiện hữu và bản chất của những hiện tượng tâm linh ấy. Không nên cố tình can thiệp đè nén niệm nào hay nuôi dưỡng, chứa chấp niệm khác. Nó là một tiến trình đơn giản nhận ra thật tướng của thực tại, một cái biết nguyên sơ của tâm thanh tịnh không vướng mắc. Kinh Tứ Niệm Xứ giải thích rất đầy đủ tỉ mỉ về kỹ thuật quan sát tâm và nhận ra các nhân duyên tác động nó ở giây phút hiện tiền. Xin trích một số ví dụ từ bản văn kinh: “Lúc này, thiền tăng tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết là tâm không tham; tâm có sân biết là tâm có sân; tâm không sân biết là tâm không sân; tâm có si biết là tâm có si; tâm không si biết là tâm không si; tâm thâu nhiếp biết là tâm thâu nhiếp; tâm tán loạn biết là tâm tán loạn; tâm quảng đại biết là tâm quảng đại; tâm không quảng đại biết là tâm không quảng đại...” Rõ ràng đoạn văn ngắn này cho thấy hành giả có thể tập tu thiền quán bằng cách chuyên chú chánh niệm trước các trạng thái tâm của chính mình. Nếu liên tục tu tập theo đúng phương pháp này, ta sẽ không những biết mình rõ hơn, mà rốt cuộc còn có thể thâm nhập thông suốt những tầng mức sâu xa nhất của ý thức mình. Như thế chúng ta học cách để biết gọi tên mỗi tâm sở của mình, và từ đó có thể bắt đầu hình thành một nỗ lực thật sự tự cải thiện mình và dứt bỏ những tâm xấu dở. Lối tu tập này không những có giá trị về phát triển tuệ giác, mà còn cụ thể góp phần hình thành sự an lạc và hài hòa cả bên trong mỗi cá nhân lẫn trong xã hội. Thí dụ, nếu ta hằng chú tâm nhận ra lòng tham, ái nhiễm, sân giận, hay tâm ưa gây hấn của mình ngay khi chúng vừa khởi lên trong tâm, rất có thể những tư tưởng hay hành động liên quan đến những tính tiêu cực ấy sẽ được nhận biết liền lập tức khi chúng vừa sanh khởi, và như thế ta sẽ làm chủ được chúng hoặc loại trừ chúng đi. Tương tự như đem những kẻ thù lâu nay vẫn lẩn lút núp kín phơi bày ra ánh sáng để bạn có thể tìm biện pháp xử lý chúng. Thật không có cách nào hay hơn để đối phó với chúng. Phần cuối của kinh Tứ Niệm Xứ nói về quán Pháp là hệ thống kinh nghiệm tâm linh có thẩm xét đạo đức. Nói một cách thực tế, phần này dạy hành giả y theo pháp Phật mà chánh niệm quán sát, cân nhắc và thẩm xét dòng chảy những diễn biến của thân, thọ và tâm của chính mình đang xảy ra ngay giây phút hiện tại. Bởi vì các kinh nghiệm tâm linh gọi là Pháp này chịu sự quán chiếu và thẩm xét của tâm, chúng được xem như là đối tượng tâm hay tâm cảnh (mental object). Sau đây là một vài loại Pháp được xếp vào phần này trong kinh Niệm Xứ: Ngũ cái, Ngũ uẩn, Lục nhập, Thất giác chi, và Tứ Thánh đế. Kinh còn đưa ra những lời giải thích chi tiết minh họa cho việc tu tập, thí dụ: “Này các Thầy, một Tỳ-kheo làm thế nào sống quán sát ngũ cái khi chúng là tâm cảnh? Như thế này, Tỳ-kheo nội tâm có ái dục, biết nội tâm có ái dục. Khi nội tâm không ái dục, vị ấy biết nội tâm không ái dục. Vị ấy biết ái dục chưa sanh nay sanh khởi như thế nào. Vị ấy biết ái dục đã sanh nay biến diệt như thế nào. Vị ấy biết ái dục nay đã đoạn diệt, tương lai không sanh nữa như thế nào. Mỗi mỗi vị ấy đều biết rõ...” Nói rộng ra, những phần tu tập có bao gồm ý nghĩa hụê quán liên quan tới đạo đức và chân lý đều nằm trong phạm vi của loại thiền quán này. Tuy nhiên, để cho chính xác hơn, mỗi thể loại tâm cảnh được đề cập trước đây không nên hiểu như là một đề tài chỉ để nghiên cứu ở trường học hay một đề mục để quán chiếu một cách thuần túy trừu tượng. Đúng hơn, chúng là những tâm pháp cụ thể mà hành giả phải chú tâm quán sát ngay lúc chúng đang được hành giả thật sự kinh nghiệm và nhận biết, ngay giây phút chúng sanh khởi và biến diệt. Bằng cách ấy, hành giả sẽ có thể hiểu được các Pháp không phải như những khái niệm trừu tượng, mà là kinh nghiệm cá nhân về một thực tế có thật đang xảy ra hiện tiền, đúng như bản chất của nó. Bốn Chỗ Hằng Quán Chiếu đức Phật miêu tả có thể được tu tập đồng thời, tùy theo mà quán sát chỗ nào trong bốn chỗ nổi bật hơn hay dễ nhận thấy hơn vào giây phút kinh nghiệm hiện tiền. Hiện tiền mới được tính kể, không phải quá khứ hay vị lai. Người sơ cơ có thể thấy rằng bắt đầu tu tập bằng chánh niệm trên thân, đặc biệt là trên hơi thở, sẽ dễ dàng hơn. Một khi đã thành thạo kỹ thuật cơ bản rồi thì việc “hằng sống quán sát” càng lúc càng trở nên dễ dàng tự nhiên hơn, tức là quán sát thân, thọ, tâm, và pháp một cách liên tục và tự nhiên không cần cố gắng, trong khi vẫn thi hành bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của mình.
Định trong thiền chỉ (samatha bhavana) mang tính chất và mục đích thế gian, trong khi ở thiền quán (vipassana), định hướng về mục tiêu là Niết-bàn giải thoát. Hơn nữa, định trong thiền quán giúp hành giả thấu suốt được ba tính chất của thực tại qua tất cả kinh nghiệm vị ấy áp dụng tu tập chánh niệm. Đây là những đặc tính chung của tất cả pháp hiện hữu, gồm vô thường, khổ, và vô ngã. Trên cơ sở ba pháp ấn của thực tại vạn pháp, định trong thiền quán cũng chia làm ba loại như sau: Định thứ nhất được gọi là Không tính định (sunnata samadhi), nghĩa là định tu tập trên nghĩa “không tự tánh”. Đây là loại định đặc biệt dựa trên cơ sở “anattalakkhana” hay tính chất vô ngã. Định này hỗ trợ và tương quan mật thiết với tuệ quán, là trí quán chiếu thấy được bản chất tương đối và không tự tánh của thực tại vạn hữu. Mục đích chủ yếu của tuệ quán này là đạt đến giải thoát nhờ thấu suốt được bản chất vô ngã của các pháp. Loại định thứ hai của thiền quán được gọi là Vô tướng định (animitta samadhi). “Animitta” nghĩa là vô tướng, một từ ngữ chỉ sự tồn tại nhất thời, ngắn ngủi. Định này hỗ trợ tuệ quán nhằm quán sát tính chất vô thường của vạn hữu (aniccalakkhana), cụ thể là các kinh nghiệm hiện tiền hành giả đang chánh niệm quán sát trong khi tu tập thiền quán. Qua đây, hành giả đạt giải thoát nhờ thấy được thực tướng của các pháp là vô thường, hằng biến đổi. Loại định thứ ba của thiền quán gọi là Vô nguyện định (appanihita samadhi), loại định tu tập trên nghĩa bất như ý (khổ) của các pháp. Từ “appanihita” có nghĩa là “vô nguyện”. Định này hỗ trợ cho tuệ quán, khi hành giả hướng sự quán sát trong chánh niệm của mình đến khía cạnh bất như ý của thực tại các pháp vị ấy đang kinh nghiệm hiện tiền trên Bốn Chỗ Quán Chiếu đề cập trong kinh Tứ Niệm Xứ, để thấu suốt được thực tướng các pháp. Quán sát như thế giúp hành giả trừ được ái dục và đắm nhiễm, đưa đến giác ngộ Niết-bàn. Nói đúng ra, ba pháp ấn chỉ là những khía cạnh khác nhau của cùng một thực tại. Đức Phật thường nhắc nhở, “Điều gì vô thường đều bất như ý (khổ); điều gì bất như ý đều vô ngã.” Do đó, hành giả tu tập thiền quán nên chọn tính chất nào phù hợp tính khí mình nhất để tập trung tu tập mới thu được kết quả tốt hơn. Thí dụ, người nặng về ham muốn dục lạc tu chánh niệm quán sát tính chất bất như ý của các pháp sẽ được lợi lạc lớn. Đây sẽ là phương thuốc trực tiếp giải độc cho căn bệnh ấy, giúp hành giả tiến bước thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh. (Viên Chiếu)
|