- Chương Một: Bước Vào Con Đường Tâm Linh 1. Mục Đích Của Thiền Định
- 2. Để Tiến Tới Việc Nghiên Cứu Phật Pháp
- 3. Tìm Hiểu Nguyên Nhân Của Bất Hạnh
- 4. Vọng Tâm Phát Sinh Như Thế Nào
- 5. Tìm Hiểu Đau Khổ Và Kiểm Soát Tâm
- Chương Hai: Thiền Định 1. Ba Khía Cạnh Chính Của Con Đường Dẫn Đến Giác Ngộ
- Chương Hai: Thiền Định 1. Ba Khía Cạnh Chính Của Con Đường Dẫn Đến Giác Ngộ
- 2. Áp Dụng Đạo Pháp Vào Đời Sống Hàng Ngày
- Phụ Lục Thơ Milarepa
Mục đích của những bài giảng về Đạo Pháp là để giúp chúng ta nhận ra được những điểm sai lầm trong từng hành vi, trong từng hành động của chúng ta và tìm cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Đó là lý do quý vị đến đây để nghe và cũng là lý do tôi đến đây để nói. Nhưng Đạo Pháp chỉ thực sự có gía trị khi người thầy chính là một thí dụ sống động cho những gì ông ta giảng dậy. Đáng tiếc thay tôi không đáng được qúy vị tôn kính như vậy. Tôi không biết gì về Đạo Pháp vì tôi cũng ăn, uống, bài tiết và ngủ như qúy vị. Nhưng tôi được may mắn học hỏi từ những vị đã ngộ đạo nên tôi chỉ xin tường trình với qúy vị những gì tôi đã học hỏi được. Vì thế những bài giảng này có giúp ích cho qúy vị hay không lại do những nguyên nhân khác.
Hiểu được mục đích của Đạo Pháp là một điều vô cùng quan trọng. Tại sao chúng ta thiền, tại sao chúng ta theo con đường tâm linh, tại sao chúng ta lại muốn sống một đời sống đạo? Chỉ vì chúng ta mong muốn một cái gì khác với những sinh hoạt thường ngày. Nếu không vì mục đích đó, chúng ta không cần phải tham dự những buổi diễn giảng này.
Tất cả những tôn giáo, triết học, hệ thống đạo đức...vân vân... trên thế giới đều có những tên khác nhau và hoàn toàn có những phương pháp giảng dậy khác nhau. Nhưng dù khác nhau chúng đều có chung một nguyên lý, một mục đích. Nếu tất cả những hệ thống tư tưởng này có giá trị, thì nó phải quan tâm, nó phải làm dịu đi những đau khổ tinh thần và vật chất của muôn loài chúng sinh. Nó phải cung cấp những giải pháp thâm sâu hữu hiệu để xoá tan đi những nỗi thống khổ của nhân loại. Bởi vì tất cả những phương pháp hiện có chỉ chú trọng đến sự giải quyết bên ngoài, chúng đã cho chúng ta biết không có một chút hiệu qủa nào.
Từ khi có sự sống xuất hiện trên qủa đất này, tất cả những tư tưởng lớn của cá nhân hay của đoàn thể đã nỗ lực không ngừng để cải tiến những điều kiện sinh sống của chúng ta. Ngay hiện tại, ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có rất nhiều hoạt động của các tổ chức nhắm vào việc cải tiến nhân sinh. Mặc dù rất nhiều người trong xã hội đã nắm vững mục đích và đã cố gắng hoạt động không ngừng, nhưng thế giới vẫn chưa tiến gần đến hoà bình và hầu như con người chưa bao giờ được hưởng một nền hoà bình chân thật. Ngược lại, có nhiều triệu chứng cho biết chúng ta đang bị thoái hoá. Tại sao sự tin tưởng vào những tiến bộ khoa học vật chất lại không được thoả mãn, lại không mang lại nền hòa bình vĩnh cửu?
Nguyên nhân chính yếu là chúng ta cứ nghĩ rằng những vấn đề, những khó khăn đều ở bên ngoài, chúng đang hiện diện đâu đó ngoài kia chứ không phải trong tâm của chúng ta, chúng không có liên quan gì đến tâm của chúng ta. Do đó, chúng ta nghĩ sự giải quyết mà chúng ta có thể tìm được cũng đang ở bên ngoài kia. Mặc dầu tất cả những sự giải quyết này có thể tạm thời hóa giải được một phần nào, nhưng những khó khăn rắc rối lại xuất hiện, lại xuất hiện, lại tiếp diễn. Vì thế, những cố gắng của chúng ta coi như có đem lại thay đổi nhưng thực ra nó không có một chút tác dụng sâu xa nào vào tận gốc rễ của vấn đề, nó đã không có khả năng nhổ đi tận gốc rễ của vấn đề.
Rất nhiều người có thành tâm thiện chí muốn cải tiến toàn thể tình trạng nhưng thực ra lại làm cho vấn đề càng ngày càng thêm mạnh, càng ngày càng thêm u tối, càng thêm phức tạp. Thí dụ như việc phát triển nguyên tử năng. Mặc dầu ngay từ lúc khởi đầu, các nhà bác học và các kỹ sư nguyên tử lực đều can đảm nhận lãnh trách nhiệm của họ trong sự phát minh và trong sự ứng dụng nguyên tử, nhưng sự phát triển này đã gây ra rất nhiều tử vong, đã đem lại nhiều kết qủa nguy hiểm cho thiên nhiên, cho môi sinh và cho sự bảo trì nền hòa bình của nhân loại mà họ và chúng ta không thể tiên đoán được.
Tại sao niềm mơ ước hòa bình cho toàn thế giới không thể thực hiện được? Tại sao chúng ta cứ mãi bị tước đoạt đi công việc tìm kiếm chấm dứt khổ đau và những lỗi lầm? Thực ra chúng ta không thiếu lòng thành tín và không thiếu những tư tưởng mưu tìm sự hòa đồng giữa con người. Có thể chúng ta đã cố tình không hiểu hoặc không quyết tâm thi hành, bởi vì chúng ta đã không cố gắng đủ trong việc kiếm tìm lợi ích cho chính mình hoặc cho những người khác nên đã chẳng có một dấu hiệu tinh tiến nào. Điều vô cùng thiếu sót trong kế hoặch tìm cầu hạnh phúc cho nhân loại trong đời sống hàng ngày là không có một phương pháp thực sự hữu hiệu để đem lại kết qủa cho mục đích của chúng ta. Một phương pháp thực sự mang lại kết qủa nếu nó cắt đứt được toàn diện gốc rễ của những vấn đề của chúng ta. Phương pháp tối cần thiết là phải tiêu hủy tận bên trong chứ không phải bên ngoài.
Tại sao một phương pháp hữu hiệu lại phải ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài? Tại vì sự đau khổ mà chúng ta muốn loại bỏ nó không chỉ ở bên ngoài mà thôi. Nếu chúng ta nghĩ rằng tất cả những rắc rối của chúng ta chỉ ở bên ngoài, vậy chúng ta hãy thử loại bỏ, hãy thử thay đổi hoặc hãy làm bất cứ cách nào xem sao. Tuy nhiên, kết qủa đã cho thấy thực là nhỏ bé so với vấn đề, so với những khổ đau; bởi vì gốc rễ của khổ đau không ở bên ngoài mà chúng hiện đang nằm sâu trong tận tâm khảm của mỗi người chúng ta.
Mặc dầu chúng có thể xuất hiện với những đối tượng bên ngoài -- qua người, qua sự vật hoặc qua hoàn cảnh mà chúng ta gặp trong cuộc sống -- nhưng chúng không phải là những nguyên nhân chính yếu của bất mãn hay khổ đau của chúng ta. Thí dụ, có một số người đi du lịch họ rất thích những nơi mà họ đã chọn cho những kỳ nghỉ hè. Nhưng với một số người khác tuy cùng một trình độ, một giai cấp mà họ đã không hài lòng chút nào với những nơi trên. Kinh nghiệm không hài lòng này, sự bất mãn này đã nằm sẵn trong đầu họ nên họ không thể hoàn toàn đổ cho những hoàn cảnh ở bên ngoài. Nếu thực sự chỗ đó không tốt, không đẹp, không hấp dẫn thì chẳng ai muốn tới đó để nghỉ hè. Cũng giống như vậy, thức ăn hàng ngày trong gia đình, có người thích có người lại không hề chạm đũa vào. Tại sao lại có tình trạng này, cùng một món ăn mà người thích, người ghét?
Một thí dụ khác về sự liên hệ giữa người với người, nếu là người chúng ta thích, chúng ta sẽ coi anh ta/chị ta là một người rất tốt, rất dễ thương. Bất cứ khi nào gặp họ, chúng ta cũng cảm thấy thoải mái trong tâm của chúng ta. Nhưng chính người dễ thương này lại gây nhiều bất mãn, khó chịu cho một số người khác khi họ xuất hiện. Có thể anh ta/chị ta lại là một người rất đáng ghét. Vì thế, một người có thể rất hấp dẫn với chúng ta nhưng lại là người đáng ghét cho người khác.
Không cần phải so sánh cảm tình của chúng ta với những kinh nghiệm của người khác chúng ta mới nhìn ra được sự khác biệt như thế nào trong phản ứng này. Hãy nhìn ngay vào phản ứng của chính chúng ta đối với những người khác trong qúa khứ. Lúc đầu anh ta là người xa lạ với chúng ta, rồi có thể chúng ta đã hoàn toàn quên anh ta. Nhưng rồi một thời gian sau anh ta lại trở nên một người bạn thân của chúng ta. Sau một thời gian quen biết chúng ta nhận thấy anh ta là một người rất tốt và khó có thể quên được anh ta, anh đã là một tri kỷ. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta thật tốt, thật dễ thương, thật đạo đức. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng sự kiện này bởi vì chất keo gắn liền chúng ta và anh ấy đã qúa chặt.
Nhưng rồi hoàn cảnh đã thay đổi với thời gian. Có thể anh ta đã nói một câu nào đó làm chúng ta không bằng lòng hoặc có một cử chỉ hành vi nào đó của anh ta làm chúng ta bất mãn. Rồi không cần biết vì lý do gì --dù là một lý do rất tầm thường -- chúng ta cho rằng anh ta đã hoàn toàn thay đổi, anh ta đã trở mặt. Giọng nói của anh ta không còn đúng điệu, thái độ của anh ta có vẻ hung hăng, ngay cả bộ mặt của anh ta sao dữ tợn qúa. Anh ta đã thay đổi hoàn toàn, không còn một chút gì của con người ngày xưa nữa, rồi bao nhiêu gắn bó của chúng ta dành cho anh ta trước kia bây giờ trở thành hận thù. Khi chúng ta bắt đầu ghét anh ta là sân hận và những ý nghĩ xấu ở trong tâm của chúng ta về anh ấy cũng bắt đầu được hình thành và lớn mạnh. Kết qủa là chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu, rất bực mình mỗi khi gặp anh ta.
Như vậy, rất dễ nhận diện được những đau khổ của chúng ta, không cần đến những thay đổi ở bên ngoài, không cần đến sự thay đổi của đối tượng, bởi vì chính thái độ ở bên trong của chúng ta đã thay đổi. Vì những trạng thái khác biệt của tâm thức nên chúng ta nhìn sự vật cũng khác biệt như vậy, mặc dù vẫn cùng một đối tượng. Nói rộng hơn, tất cả đời sống của chúng ta đã chất đầy những kinh nghiệm như thái độ vừa trình bày ở trên.
Những sự thay đổi này xẩy ra rất thường và rất nhanh. Có khi ngay trong lúc chúng ta đang tức giận một người thì hình ảnh tốt đẹp của họ trong qúa khứ hiện ra trong tâm của chúng ta. Chúng ta sực nhớ họ đã giúp chúng ta trong qúa khứ, họ đã đối xử rất tốt với chúng ta. Trong khoảng kháéc ngắn ngủi đó của trí nhớ, có thể chúng ta không còn tức giạân họ nữa mà coi họ như một người bạn rất thân. Kinh nghiệm này --thường có ở chúng ta-- cho chúng ta biết rằng chúng ta nên thận trọng chẳng những với những thay đổi thường xuyên trong tâm của chúng ta mà chúng ta còn phải biết kiểm soát những tiến trình thay đổi này để mang lại hạnh phúc hơn cho cuộc đời của chúng ta.
Nếu chúng ta thường tỉnh thức về những gì xẩy ra trong tâm của chúng ta, chúng ta sẽ có khả năng chuyển hoá tất cả những tư tưởng tiêu cực, những ý nghĩ xấu của chúng ta trước khi nó gây ra phiền phức hoặc đau khổ cho chúng ta. Thật ra có rất nhiều cách để nghĩ tốt cho người khác thay vì nghĩ xấu cho họ. Nếu chúng ta đã biết phát triển những kỷ luật tâm linh cần thiết và thực sự biết tỉnh thức trên tất cả những gì xẩy ra trong tâm thì không có một lý do nào có thể ngăn cản công việc phát huy những tư tưởng này để mang lại hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác. Có thể cả thế giới sẽ chống lại chúng ta, nhưng nếu khả năng kiểm soát tâm của chúng ta được phát triển đúng mức và tốt đẹp, chúng ta vẫn có thể coi mọi người đều là bạn thay vì chống lại họ, ghét họ hoặc sợ họ.
Nếu chúng ta thực sự kiểm soát được tâm của mình, thử tưởng tượng một nền hòa bình vĩ đại trên thế giới sẽ xẩy ra! Sẽ không còn nghi ngờ gì cả và cũng chẳng còn bất cứ vấn đề gì cho chính chúng ta và cho người khác nữa. Kinh nghiệm thâm sâu về cuộc đời chính là kết qủa của sự thực hành Đạo Pháp. Nó có thể xảy ra cho bất cứ ai biết quay vào con đường tâm linh ở bên trong mà tìm hiểu chính mình.
Giải quyết những vấn đề bằng sự kiểm soát tâm chẳng những mang lại nhiều kết qủa khi đối diện với những sự khó khăn mà nó còn là phương pháp dễ dàng nhất, ít nguy hiểm nhất. Qua phương pháp này chúng ta có được sự bình an thật trong tâm của chúng ta mà không làm tổn thương bất cứ ai. Qua phương pháp này chẳng những chúng ta hạnh phúc mà còn mang hạnh phúc đến cho những người khác nữa. Ngược lại, nếu chúng ta cho rằng nguồn gốc của những vấn đề ở bên ngoài kia thì chúng ta phải tiêu diệt tất cả những ai là kẻ thù của chúng ta, lúc đó chúng ta mới cảm thấy an tâm. Nhưng dù chúng ta có dùng phương pháp này mà đối diện với những vấn đề, với những khó khăn rắc rối thì cái tâm bấn loạn cũng vẫn có đó. Vì thế nếu không có một phương pháp nội tại nào để tẩy sạch những vấn đề lầm lẫn này thì chúng ta cũng vẫn còn đau khổ cho dù không còn kẻ thù.
Như vậy, để đạt được những kết qủa tốt khi đối diện với những vấn đề, công việc đầu tiên của chúng ta là phải khám phá ra được và phải nhận định ra được những yếu tố tinh thần hiện đang ở trong chúng ta, đây mới là nguyên nhân sâu xa của tất cả đau khổ. Phương pháp của chúng ta cũng giống như phương pháp của một vị bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân. Nếu ông ta không hiểu nguyên nhân của căn bệnh thì ông không thể chữa lành bệnh được. Do đó việc làm đầu tiên của ông ta là phải chẩn bệnh, phải tìm hiểu rõ ràng căn bệnh của bệnh nhân, sau đó ông mới có thể cho những viên thuốc thích hợp để trị. Cũng giống y như vậy, nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta theo phương pháp tinh thần nội tâm, trước tiên chúng ta phải hiểu thấu đáo, phải có một hình ảnh trong sáng rõ rệt về cái gì đang làm chúng ta khổ. Nếu không như vậy chúng ta sẽ bị đè bẹp, sẽ bị áp đảo, sẽ bị che dấu bởi chính cái bản tính nhẹ nhàng vuốt ve thương thân trách phận của chúng ta, chúng ta phải trực tiếp đối diện với những vấn đề của chúng ta. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể thanh tẩy trọn vẹn từng vấn đề một trong toàn thể.
Chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu sơ qua về những hình ảnh đau khổ qua những kinh nghiệm về bào thai và trẻ sơ sinh. Chúng ta thường không nghĩ về những khổ đau xẩy ra cho bào thai trong sự sinh nở, đây là một sự thật. Bởi vì tâm của người mẹ và thai nhi không giống nhau, người mẹ cũng không hoàn toàn cảm thông được cái tinh thần của thai nhi đang ở trong tử cung của bà ta. Cái bào thai đó hiện đang ở trong một hoàn cảnh tinh thần và thể chất không được thoải mái.
Đứa trẻ cảm thấy bị gò bó trong một khung cảnh chật hẹp, mất hết tự do. Một cái di chuyển nhẹ của bà mẹ cũng gây biết bao phiền toái khó chịu, không kể đến đồ ăn khi qúa nóng khi qúa lạnh hoặc qúa cay; bên cạnh những mùi ô uế của đồ phế thải của bà và những biến chuyển không tiên đoán trước được trong hệ thống tiêu hóa của bà ta.
Những khổ đau này hầu như không được chúng ta để ý đến, quan tâm đến, nhưng những đau đớn của bà mẹ trong lúc sinh đẻ lại dễ dàng được chú ý hơn. Khi đến thời kỳ sinh nở, thai nhi bị thúc đẩy, bị dồn ép hơn bất cứ sự kiện nào mà nó đã kinh nghiệm. Nó được di chuyển dần dần ra âm đạo, nó cảm thấy đau đớn như bị ghiền giữa hai cục đá. Sự đau đớn này chỉ có thể chấm dứt khi nó đã hoàn toàn lọt khỏi lòng mẹ. Da của nó qúa mềm mỏng đến nỗi không khí ấm cúng của phòng sinh cũng làm nó cảm thấy giá lạnh cắt da. Đứa bé được cuốn trong những tấm khăn mềm mại nhất nhưng nó cũng tưởng chừng như đang bị trăm ngàn mũi gai nhọn đâm thấu thịt da. Thêm vào những cái đau của thể xác, đứa bé nhìn thấy những linh ảnh được tạo ra giống như những hình ảnh đã được nhìn thấy trong lúc chết. Vì thế khi chúng ta nhìn thấy đứa bé vừa mới chào đời chúng đã khóc thét lên, tiếng khóc này không phải là không có lý do.
Hầu như tất cả chúng ta đã không nhớ được kinh nghiệm trong lúc chào đời. Điều này không có nghĩa là chúng ta đã được thoải mái trong bụng mẹ và thảnh thơi khi sinh ra. Chúng ta đã quên tất cả những kinh nghiệm này cũng như chúng ta đã quên hoặc không có ý thức trên rất nhiều sự kiện đã xẩy ra trong đời. Tâm vô minh của chúng ta đã tạo ra biết bao ô nhiễm cho cả bên trong tâm lẫn bên ngoài thân xác, vì thế những cảm nhận của chúng ta về chân lý đã bị những đám mây dầy đặc che dấu. Mỗi khi chúng ta trực nhận ra được những sự kiện không vừa ý, ngay cả những cái vụt thoáng qua trong đầu, chúng ta không nên ngạc nhiên vì chúng toàn là những kinh nghiệm trước kia của chúng ta.
Ngay khi vừa sinh ra là những đau khổ trong tiền kiếp bắt đầu được khơi dậy. Thân xác của chúng ta trải qua hết khó chịu này đến khó chịu khác như những bệnh tật trong thời thơ ấu và những chuỗi dài phiền não trong cuộc đời tiếp tục kéo đến. Chúng ta không cần phải chống cự lại sự nhiễm trùng chúng ta mới có kinh nghiệm đau đớn của bệnh tật. Chỉ lo lắng và sợ hãi bị bệnh thôi cũng đủ làm chúng ta thực sự đau khổ.
Nếu chúng ta có thể sống đến gìa để kinh nghiệm được những khổ đau của tuổi gìa thì tất cả những kinh nghiệm, những sự đổi thay của cuộc đời mà chúng ta đã trải qua sẽ làm chúng ta tăng thêm phiền muộn. Sức khoẻ của chúng ta, thị giác của chúng ta, thính giác của chúng ta sẽ mất dần, tất cả những sinh hoạt của chúng ta thời trẻ sẽ không bao giờ có được nữa. Thể xác của chúng ta sẽ không còn cử động như ý muốn, ngay cả tinh thần của chúng ta cũng chẳng còn tinh tường, tất cả sẽ trở nên vô dụng.
Tất cả những kinh nghiệm về khổ đau trong cuộc đời chỉ làm cho chúng ta thêm khổ đau vào lúc chết. Tất cả mọi người chúng ta ai cũng sợ chết. Khi tử thần đến, sự sợ hãi càng trở nên vĩ đại hơn, thực hơn. Mặc dù chúng ta không muốn rời khỏi thân xác của chúng ta, của cải của chúng ta, những người thân yêu của chúng ta, nhưng một điều vô cùng thật và rất rõ ràng là chúng ta phải từ gĩa tất cả những thứ thân yêu này. Hơn nữa, chúng ta chẳng biết sự việc gì sẽ xẩy ra cho chúng ta, tâm thức của chúng ta sẽ đi về đâu, chính sự vô minh này sẽ đẩy chúng ta vào một tình trạng trầm thống bối rối hơn nữa.
Giường chết đang được bao quanh bởi những bác sĩ giỏi, bởi những người thân, nhưng chúng ta chẳng nói được gì với họ. Khi mà giờ chia tay giữa thân xác và linh hồn đến, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì, một người nào có thể giúp chúng ta được. Chúng ta phải ra đi, chúng ta chết --tuyệt đối không còn một sự chọn lựa nào. Đã qua bao nhiêu năm trong cuộc đời, chúng ta o bế, chúng ta nâng niu, chúng ta săn sóc cho cái thân xác này, nhưng giờ đây, trong giờ phút khủng khiếp này, dù còn một chút sức lực nào đi nữa cũng chẳng níu kéo sự sống được thêm một phút một giây. Chúng ta không còn một chút khả năng nào để kiểm soát cái gì đang từ từ đến với chúng ta, chỉ có sự khổ đau đang tràn ngập như chưa bao giờ thấy. Chúng ta sẽ đi vào một nơi mà chúng ta chưa hề biết đến với một tâm trạng chỉ có sợ hãi và lo lắng.
Tất cả chúng ta ở đây đã có kinh nghiệm khi đi vào cuộc đời này, sống trong cuộc đời này và cũng đang kinh nghiệm về cái già đang từ từ đến, nhưng kinh nghiệm về sự chết thì chưa có. Nó đang chờ chúng ta, sự đau đớn trong giờ của tử thần đang đợi chúng ta. Như vậy, cuộc đời của chúng ta sẽ qua đi, nó sẽ chấm dứt như nó đã bắt đầu --- trong khổ đau !
Thêm vào những nỗi khổ trong lúc sinh ra, bệnh tật, già yếu, chết, chúng ta còn rất nhiều những cái khổ khác nữa, cuộc đời tràn đầy bất mãn. Thí dụ, chúng ta luôn luôn cố gắng, càng nhiều càng tốt, đạt cho được những điều ước muốn, chúng có thể là những món ăn khoái miệng, quần áo đẹp đẽ, người tình hấp dẫn...vân vân... Chúng ta luôn luôn tìm sự khoan khoái trong đối tượng nhưng chẳng bao giờ chúng ta nhìn ra được đau khổ đang nằm sâu trong đó. Chúng ta ham muốn chúng nhưng rồi chúng ta lại thất vọng về chúng. Sự đau khổ vì bất mãn là một trong những đau khổ tàn hại nhất bởi vì nó liên tục hướng dẫn chúng ta bám víu hết đối tượng này đến đối tượng khác, sự thèm khát xẩy ra liên tục không ngừng nghỉ. Nó thúc đẩy chúng ta trong suốt cả cuộc đời, nó không còn dành cho chúng ta một khoảng trống nào để nghĩ đến con đường tâm linh, thiền định, thực hành Đạo pháp hầu giúp chúng ta thoát khỏi những đau khổ trong đời.
Chẳng những chúng ta không tìm được bất cứ gì chúng ta mong muốn mà chúng ta cũng chẳng chạy thoát được những gì chúng ta không mong muốn. Từ tinh thần đến thể xác, chúng ta toàn gặp những kẻ thù, hoàn cảnh ngang trái, bất mãn triền miên, thức ăn không hợp khẩu vị....Những đau khổ này đem đến cho chúng ta hết lầm lẫn này đến những sai lạc khác trong cuộc đời.
Sự không được hài lòng và những bất mãn trong cuộc đời sẽ ngăn cản chúng ta đến với bất cứ một loại an bình nào. Không cần biết chúng ta đã có những gì, không cần biết chúng ta đã sở hữu những tài sản nào, lòng ham muốn của chúng ta vẫn tiếp tục. Chúng ta làm việc và đặt kế hoạch, chúng ta bày mưu đặt kế để chiếm thêm, chiếm thêm, làm như chúng ta sẽ sống cho đến muôn đời hoặc ít ra cũng thêm vài thế kỷ. Hãy nhìn cho kỹ, tất cả những gì chúng ta đang lo lắng để chiếm đoạt, toàn là cho cái thân xác này ! Tất cả những gì chúng ta đang cố gắng học hỏi trong cuộc đời chỉ để đủ điều kiện đi xin việc làm. Đủ điều kiện để có thêm một chút tiền. Chúng ta không thể hy vọng để sống thêm 50, 60 hay 70 năm nữa, bằng đó năm cũng chỉ để cho bằng đó hoạt động. Mục đích gì đây?
Chúng ta đã dùng năng lực của đời ta cho nhiều thứ. Chúng ta lo lắng cho thân xác khỏi bị đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, an toàn và, cuối cùng, chết. Cả đời đã phải tranh đấu để khỏi bị nguy hiểm, cả đời đã phải hy sinh rất nhiều thứ để nô lệ cho những mục đích này. Có thể chúng ta đã tự lừa dối chính mình, nhưng trong tận sâu thẳm của nội tâm chúng ta nó có thể nhìn thấy tất cả những hoạt động này toàn mang lại khổ đau.
Mặc dầu chúng ta đã làm việc rất nhiều năm để có được sự an toàn, nhưng hoàn cảnh chỉ thay đổi một chút thôi chúng ta cũng bị đau ốm, bị bệnh tật hoặc gặp phải những sự không may. Để được an toàn thì thật là khó mà khổ đau thì đến luôn luôn. Ngay cả những điều may mắn xẩy ra trong đời, tưởng rằng sự may mắn này giúp chúng ta thăng tiến cuộc đời nhưng có ngờ đâu nó lại là nguyên nhân mang lại nhiều đau khổ. Thí dụ, tưởng rằng để dành tiền đi nghỉ hè vui chơi, nào ngờ tai nạn khủng khiếp đã xẩy ra; chọn một nhà hàng sang trọng để ăn nào ngờ bị ngộ độc. Đau khổ đến không chọn lựa ai cả.
Nếu chúng ta ghi lại tất cả những đau khổ đã xẩy ra trong đời, cái danh sách đó chắc dài bất tận. Những gì được nói ra ở đây chỉ là tượng trưng. Tuy nhiên, tất cả mọi hình thức đau khổ đều có thể xếp vào một trong ba nhóm: đau khổ của đau khổ, đau khổ của sự thay đổi (hay thay thế) và đau khổ hiểu một cách rộng rãi. Chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Những kinh nghiệm đau buồn trong qúa khứ không còn diễn ra bây giờ nữa nhưng chúng vẫn làm chúng ta đau khổ. Không có gì là hài lòng với bệnh tật, lo lắng, đau đớn, sợ hãi hoặc những gì giống như vậy. Bất cứ sự kiện nào đã làm chúng ta không hạnh phúc, không vui vẻ đều được coi như là đau khổ của đau khổ.
Những sự kiện khác, như thức ăn ngon miệng, quần áo đẹp hoặc những cái giống như vậy, chúng ta có thể đo lường được sự vui thích, sự thoả mãn. Nhưng nếu tìm hiểu sâu xa hơn, chúng ta có thể nhận thấy rằng chính những cái thỏa mãn này cũng có thể đem lại đau khổ. Vì chúng chỉ cho chúng ta những thú vui tạm thời, trong một thời gian ngắn nào đó mà thôi. Chúng không có khả năng tồn tại lâu dài. Thí dụ như ăn một món ăn ngon miệng. Hầu như tất cả chúng ta đều cho rằng đây là hạnh phúc thật sự, không có một chút gì buồn khổ trong đó. Nhưng nếu thực sự nó là như vậy -- ăn thức ăn ngon là hạnh phúc thật-- thì càng ăn nhiều càng có thêm hạnh phúc mới phải. Ngược lại, nó không phải như vậy. Nếu chúng ta tiếp tục ăn sau khi đã no, thì sự khoan khoái đã nhanh chóng biến thành những cơn đau bụng. Chính vì lý do nó chỉ cho chúng ta những thoả mãn nhất thời, tạm bợ nên chúng ta gọi nó là đau khổ đến thay thế.
Nếu chúng ta ngồi lâu trong một tư thế, chúng ta sẽ cảm thấy mỏi mệt, chúng ta muốn đứng lên đi dạo một chút. Khi hành động như vậy chúng ta cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Nhưng thực ra nó chẳng phải thật sự khoan khoái. Sở dĩ chúng ta cảm thấy như vậy vì sự mệt mỏi lúc ngồi đã biến mất khi chúng ta đứng lên. Và chúng ta tưởng rằng cảm nhận này là sự khoan khoái, nhưng cứ cho nó là như vậy đi, thì nó cũng chẳng được dài lâu. Khi chúng ta đã đi mệt thì cái mà chúng ta gọi là khoan khoái trước kia lại biến thành đau đớn. Như vậy, không cần biết chúng ta nghĩ, chúng ta cảm nhận như thế nào, chẳng có gì trong cuộc đời của chúng ta mang lại cho chúng ta sự khoan khoái thật, chẳng có gì mang lại cho chúng ta chân hạnh phúc. Mọi cảm nhận thoải mái chỉ là nhất thời, ngắn ngủi rồi mau chóng chuyển thành chán chường, mỏi mệt, đau buồn.
Về nhóm đau khổ thứ ba, rộng rãi bao la hơn, chúng nằm sâu trong hai thứ đau khổ vừa trình bày ở trên. Đó chính là đau khổ vì có một thân xác và có một cái tâm, chúng là chủ thể hấp dẫn cho đau khổ, giống như cục nam châm hút sắt; đã có thân xác và có tâm thì tất nhiên phải khổ, cũng như đã là nam châm thì phải hút sắt. Thí dụ, đau khổ vì bao tử là sự đau khổ tất nhiên phải xẩy ra của cái đau (đau khổ thuộc về tâm, cái đau thuộc về thân xác --Dg). Sự khỏi đau tạm thời hay sự thoải mái tạm thời mà chúng ta cảm nhận được sau khi dùng thuốc, rồi lại đau trở lại, là sự đau khổ đương nhiên phải xẩy ra của sự thay đổi (dùng thuốc). Thật ra bao tử của chúng ta phải phản ứng như thế vì nó sẽ và có thể lại trở nên đau, đây chính là cái đau tất nhiên của sự đau khổ rộng lớn, bao trùm.
Ngay cả thú vật cũng có thể nhận ra được cái đau như thế nào. Vì thế khi chúng ta nói sự thành đạt của con đường tu tập phần lớn tùy thuộc vào sự hiểu biết thấu đáo về đau khổ là không đúng, thực ra nó không phải như vậy, nó không có nghĩa như vậy. Cái ý nghĩa đích thực, bản tính thật của đau khổ chỉ được khám phá ra khi nào chúng ta trực nhận ra rằng tất cả những sự khoan khoái, tất cả những sự vừa lòng toại ý tạm thời chỉ là một hình thức khác của đau khổ, và hơn nữa sự sở hữu một cái thân bất tịnh, một cái tâm ô nhiễm là đã sở hữu sự bất mãn, là đã không thoải mái và đã là đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta thấu hiểu, chỉ khi nào chúng ta xác nhận một cách vững chắc được hai nguyên nhân căn bản của đau khổ này --nhất là căn nguyên thứ hai, sở hữu một thân tâm bất tịnh -- thì lúc đó chúng ta mới mong, mới có thể vượt thắng được khổ đau, mới có thể kiểm soát được bất mãn.
Tất cả những sự khổ đau một cách tự nhiên, một cách tất nhiên này đều là do chúng ta có một thân xác và có một cái tâm. Cả thân và tâm bị ô nhiễm đều bắt nguồn từ những yếu tố nội tâm là ảo vọng và phiền não. Theo tâm lý học Phật giáo, có 84,000 loại tâm bệnh khác nhau. Chúng bắt nguồn từ 6 loại ảo vọng chính: tham lam, kiêu mạn, nóng giận, do dự ngờ vực, quan niệm sai lầm (bất chánh kiến) và vô minh.
Theo kinh điển, nguồn gốc của ảo vọng và bất chánh kiến là tin vào những điều sai lầm, không thật và không tin vào những điều chân thật. Không tin vào những điều chân thật như: từ chối những qui ước hiện hành của con người, những hiện tượng là căn nguyên của khổ đau, sự chấm dứt của chúng, sự liên tục nối tiếp hết đời này qua kiếp khác của chúng và không tin vào luật nhân quả.
Năm nguyên nhân đầu của ảo vọng, tất cả những dục vọng và tất cả những khổ đau đều bắt nguồn từ không thấu hiểu đúng đắn về sự hiện hành của chúng. Vì thế vô minh được coi là căn bản, là “nguồn gốc của luân hồi”. Luân hồi là cảnh giới của khổ đau mà tất cả chúng sinh đã tự tạo ra cho chính mình. Đó là những chu kỳ không có lựa chọn mà phải sinh ra, chết đi và tái sinh lại trong khổ đau, ở trong đó tất cả chúng ta cần phải thanh tẩy tâm cho sạch hết ô nhiễm. Sân hận, tham lam, kiêu mạn và cố chấp là những ảo vọng cũng bắt nguồn từ vô minh. Đây là những hành vi, những thái độ xấu, chúng là những đám mây đen che khuất chân tâm như mây đen che khuất bầu trời trong sáng.
Tại sao chúng ta lại gọi nó là những thái độ xấu? Vì những thái độ này được tạo thành do ảnh hưởng của nghiệp lực và của ảo vọng, chúng đem chúng ta đến đau khổ. Bất cứ người nào hành động dưới một cái tâm như vậy đều kinh nghiệm được những đau khổ là do chính họ tạo ra. Đây chính là con đường của luân hồi, vòng khổ đau và vòng tái sinh được thành lập. Như vậy tất cả những hành động sản xuất ra những kết quả này và tất cả những ảo vọng tác động lên những hành động này đều được gọi là xấu, tiêu cực.
Nếu chúng ta thực sự muốn đạt chân hạnh phúc, sự bình an miên viễn, chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, chúng ta phải thanh tẩy tâm chúng ta cho sạch hết tất cả những sự xấu xa, ô nhiễm này. Chỉ có cách này mới có thể thanh toán được những vấn đề, những rắc rối của chúng ta. Thí dụ, nếu chúng ta khó chịu vì bụi dơ bám vào vật gì đó thì chúng ta phải lau sạch, phải rửa sạch những lớp bụi này đi thay vì phá hủy hoặc đập vỡ vật đó đi. Sau khi đã rửa sạch, chúng ta mới thưởng thức nó một cách trọn vẹn. Một công viên tuyệt đẹp không thể luôn luôn có được. Một công trình xây cất không phải lúc nào cũng hấp dẫn tất cả mọi người. Chúng cần được bảo trì, tu sửa, trang hoàng và làm sạch luôn luôn thì mới hấp dẫn, mới lôi cuốn được du khách.
Hãy áp dụng giống như vậy cho tâm của chúng ta. Nếu những suy nghĩ tính toán của chúng ta gây đau khổ phiền phức cho chúng ta thì chúng ta phải chấm dứt suy nghĩ ngay. Tốt hơn chúng ta nên sử dụng những phương pháp nội tâm để thanh tẩy tất cả những xấu xa khởi phát ra từ vô minh của chúng ta. Nếu chúng ta làm được như vậy, chúng ta sẽ có sự an bình chân thật. Sự an bình này vượt xa những sự thoải mái, những sự dễ chịu bình thường, như đã trình bày ở trên, kiểu hạnh phúc bình thường này cũng chỉ là những hình thức vi tế của khổ đau mà thôi. Vì chấm dứt hoàn toàn những nguồn gốc của khổ đau nên chúng ta có được chân hạnh phúc. Khi gốc của đau khổ đã bị cắt đứt, thì đau khổ không thể trở lại. Lúc đó chúng ta sẽ kinh nghiệm được, sẽ chứng nghiệm được thế nào là hạnh phúc thật, thế nào là viên mãn, không gì có thể so sánh với nó.
Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao không có một con đường nào khác có thể giúp chúng ta đạt được chân hạnh phúc nếu chúng ta không thanh tẩy những vọng tâm của chúng ta. Cho tới khi nào tâm của chúng ta còn đắm chìm trong vô minh và dục vọng thì không có gì có thể mang lại cho chúng ta chân hạnh phúc, nhưng toàn là đau khổ. Bởi vì chúng ngăn cản sự kiểm soát của chúng ta và chúng áp chế tâm của chúng ta, như đã trình bày ở trên chúng chính là những sự đau khổ tất nhiên. Bất cứ gì hiện hành ở trong tâm thái này là tự nhiên bị đau khổ.
Thí dụ, giả thử có một cây độc mọc trong vườn của chúng ta. Nếu chúng ta không muốn nguy hiểm, dĩ nhiên chúng ta sẽ không chỉ cắt tỉa bớt lá, bớt cành của cái cây này. Một cách duy nhất để tẩy trừ tất cả những chất độc của nó phát ra từ thân, lá, cành, rễ... là đốn bỏ, đốt toàn thể cái cây này đi. Chúng ta đào cho thật sâu để phá hủy tất cả những chiếc rễ mà nó đã sản xuất ra chất độc. Chúng ta cũng nên dùng đường lối làm việc này cho tâm của chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và chặt đi tất cả những gì còn có thể sản xuất ra khổ đau. Nếu chúng ta không quyết tâm mạnh mẽ như vậy, thì những gì chúng ta áp dụng chỉ đem lại những niềm vui nhất thời, tạm bợ, rồi khổ đau lại ào ào kéo đến, trở lại. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi, chúng ta phải chấm dứt tất cả những nguyên nhân gây ra đau khổ, đó chính là vô minh.
Ngược lại với vô minh là trí tuệ. Trí tuệ là sự thấu hiểu sâu xa tận gốc rễ sự vật, hiện tượng xuất hiện và chúng hiện diện như thế nào. Thường thường chúng ta rất mù mờ, không thực sự hiểu sự vật hiện hành như thế nào. Như tôi đã trình bày, chúng ta thường lầm tưởng rằng căn nguyên của đau khổ cũng là căn nguyên của hạnh phúc. Chúng ta đã không nhận diện được vô minh, ảo vọng và ngay cả những khổ đau riêng tư của chính chúng ta mỗi khi nó xuất hiện. Chúng ta đã đeo đuổi vô minh, đã phục tùng chúng như là những vị thầy hoặc những hướng đạo viên của chúng ta. Tâm trong trạng thái mê ảo thì luôn luôn tưởng tượng ra những ảo mê về thực tại, về chân lý, rồi trong sự mù quáng đó chúng ta mơ tưởng, chúng ta ước ao chúng chính là sự thật, chúng có thật (nhưng chúng chỉ là giả, vọng tưởng; dưới bóng mây đen thì cái gì cũng đen tối, đeo kính màu gì thì chỉ nhìn thấy sự vật màu đó, dưới bóng của vô minh, của mê ảo thì sự vật, hiện tượng cũng hiện hành là ảo, ngỡ là sự thật nhưng chính là mê ảo. Chỉ khi nào bỏ kính vọng tưởng ra thì mới thấy màu thật của sự vật –Dg)
Sự thiền định của chúng ta, về Đạo pháp, chỉ có thể có kết quả trong việc gỉai quyết những vấn đề, những rắc rối, nếu chúng ta đặt trọng tâm vào việc tẩy trừ vô minh. Con đường của một tôn giáo duy nhất phải có chính là con đường xóa bỏ tận gốc rễ của đau thương. Bộ mặt thật của vô minh mà chúng ta cần phải đối diện với và cần phải phá hủy tan tành tận gốc rễ của nó chính là “chấp ngã, chấp cái tôi, TÔI” hay “tâm-thức-tôi.” Nếu chúng ta tự chiêm nghiệm, tự quán xét nội tâm của chính chúng ta trong từng giây phút, chúng ta sẽ nhận ra một cách rất rõ rệt là chúng ta luôn luôn bị ảnh hưởng của tâm-thức-tôi này. Chính là nó, bởi vì chúng ta thiếu sự tỉnh thức của trí phân biệt nên chúng ta không nhận diện được toàn thể tâm của chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi căn nguyên mê mờ ảo vọng này.
Tâm-thức-tôi có thể được giải thích như sau. Không cần biết chúng ta đang làm gì –như đang nghe thuyết giảng-- chúng ta có một cảm giác nào đó về ai hay cái gì mà chúng ta đang là, về cái “TÔI”. Rất mạnh mẽ, chúng ta tin chắc chắn rằng cái “TÔI” là một cái gì độc lập, tự hiện hữu, đứng tách biệt ra khỏi những cái khác. Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng nó biệt lập với thân xác, với tâm hay với bất cứ cái gì khác. Cái “TÔI” này xuất hiện một cách vĩ đại, vững chắc và độc lập. Cảm giác này luôn luôn có ở chúng ta và chúng ta chấp, chúng ta bám vào ý niệm này một cách vô cùng mạnh, vô cùng chặt. Trong chiều hướng này, ý tưởng “Tôi là, Tôi...” trở nên rất quan trọng, hơn bất cứ một sự kiện nào khác. Đây chính là khuynh hướng chuyển cái “TÔI” thành một cái gì đó để thành hình vô minh rồi nhốt chúng ta vào đau khổ.
Chúng ta có thể nhận ra phản ứng của cái tôi rất dễ dàng mỗi khi chúng ta nghe những lời nói không lịch sự, lỗ mãng. Người ta nói chạm tự ái của chúng ta, nhừng lời chê bai, những lời chế diễu, những lời chọc tức...vân vân... khi nghe những lời này là ngay lập tức chúng ta nổi nóng, chúng ta tức giận, tính xấu của chúng ta tự nhiên phát khởi và chúng ta không còn tự chủ được nữa. Ngay lúc đó, cái “TÔI” của chúng ta trở nên mạnh mẽ và cao hơn cả dãy Hy Mã Lạp Sơn. Con mãnh thú “TÔI” dồn vào trái tim của chúng ta uất ức, tức bực, nó phừng phực, nó khó thở, nó nghẹn ngào để rồi bao nhiêu cái xấu xa trầm ẩn nổi ra cho hết, tất cả những sự kiện này sản xuất ra đau khổ. Trong trường hợp này, bất chánh kiến về chính chúng ta, cái nhìn vô minh về chính chúng ta càng độc lập, càng bảo thủ bao nhiêu thì rắc rối càng đến bấy nhiêu, càng mạnh bấy nhiêu.
Chúng ta cho là tất cả những gì chúng ta nhận được đều bị bóp méo. Khi nghĩ về chúng ta, chúng ta luôn luôn ở trong chiều hướng muốn bảo vệ cái tôi của mình, bám vào cái tâm-thức-tôi của chính mình. Đứng trên căn bản của quan niệm sai lầm này, chúng ta thực sự đã bám vào cái “TÔI” của chúng ta. Bởi vì chúng ta quan niệm thân xác “của tôi”, tâm “của tôi”, và tài sản “của tôi” là những thực thể độc lập, tự hiện hữu, có thật, chúng ta bám chặt vào chúng, từ đó rất nhiều tính xấu bắt đầu khởi lên, xuất hiện ra đều có liên hệ đến chúng. Giống như thế, vì chúng ta quan niệm tất cả mọi hiện tượng là tự có và độc lập nên chúng ta nghĩ nó đẹp và hấp dẫn, do đó sự mong ước chiếm đoạt chúng được khởi lên trong tâm của chúng ta. Tâm bất mãn và bất an của chúng ta hướng dẫn chúng ta bám chặt vào những đối tượng được coi là tự hiện hữu này, nhưng sự thoải mái và hạnh phúc mà chúng ta đã đặt tin tưởng vào chúng lại không bao giờ xảy ra. Vì thế, đau khổ của chúng ta cứ lớn dần, lớn dần thay vì giảm bớt đi.
Không những sự bám víu của chúng ta mà cả sân hận, kiêu mạn và tất cả những ảo vọng, dục vọng khác cũng đều khởi phát ra từ căn bản vô minh này. Bởi vì chúng ta nghĩ chúng ta, những đối tượng ở bên ngoài và tất cả những người khác hoàn toàn là những cá thể độc lập, nên chúng ta muốn chiếm đoạt, đề phòng hoặc có những thái độ tâm đóng kín đối với chúng. Chúng ta tấn công, chê bai chỉ trích hoặc mất thiện cảm với bất cứ ai không làm vừa lòng chúng ta hoặc ngăn cản chúng ta, trong khi đó chúng ta lại bỏ qua cho những ai giúp đỡ và đồng tình với chúng ta. Chúng ta đánh giá và xếp loại từng người ai là “bạn”, ai là “thù”, ai là “kẻ xa lạ” rồi chúng ta cho bảng xếp loại này là sự thật, là có thật. Trong trường hợp này, bên trong tâm của chúng ta sẽ khởi lên một sự sai lầm trầm trọng về tình bằng hữu, tình con người. Thái độ của chúng ta bị tô mầu xấu xa, kết quả là những hành vi cử chỉ của thân khẩu và ý của chúng ta sẽ không còn tốt đẹp và đạo đức nữa. Như đã trình bày ở trên, những hành động thiếu đạo đức này sẽ hướng dẫn chúng ta tạo ra nghiệp lực để thắt chúng ta mỗi ngày mỗi chặt hơn vào vòng luân hồi của đau khổ. Như vậy, một lần nữa, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc của tất cả những đau khổ là do vô minh, chúng ta đã thực sự không biết sự vật hiện diện như thế nào, hiện tượng xuất hiện như thế nào.
Giá trị đích thực của bất cứ một tôn giáo nào, dù thiền định hay dù áp dụng bất cứ phương pháp nào, đều tùy thuộc vào khả năng của nó có giúp con người cắt đứt được những căn bản vô minh hay không, để con người có thể thoát khỏi những đau khổ do ảo vọng mà ra hay không. Bất cứ tôn giáo nào, bất cứ triết thuyết nào mà cung cấp những phương pháp tẩy trừ vô minh đều là tôn giáo thật, đều là chánh Pháp. Qua lịch sử, đã có rất nhiều vị thầy vĩ đại chỉ cho chúng ta những con đường thanh tẩy vô minh để chấm dứt đau khổ. Nếu sự thực hành của chúng ta có hiệu quả trong việc cắt đứt căn nguyên vô minh thì chúng ta có thể tin tưởng một cách mãnh liệt rằng chúng ta đang theo chánh Pháp, không cần biết nó có tên là gì, được gọi như thế nào.
Đạo Pháp, Phạn ngữ Dharma, có nghĩa là “cầm giữ, nắm giữ.” Theo ý nghĩa đó, chúng ta nắm giữ cái bình để nó khỏi rơi, khỏi bị bể vỡ, sự chân thành thực hành Đạo Pháp giữ chúng ta khỏi những sự nguy hiểm và sai lầm dẫn chúng ta đến đau khổ. Như vậy, bất cứ cái gì chúng ta làm –có thể là thiền định, có thể là một đường hướng sống hay là một phương pháp hướng dẫn cuộc đời chúng ta—mà chữa được bệnh vọng tâm của chúng ta thì đó chính là tinh túy của sự thực hành Đạo pháp. Phương pháp đó không phải là đặc quyền của một truyền thống nghi lễ riêng biệt nào. Nó cũng chẳng tổn hại gì, cho dù hành giả đó thuộc Hồi giáo hay Do thái giáo, Thiên chúa giáo hay Ấn độ giáo, Phật giáo hay một thuyết giáo nào hoặc bất kỳ một tôn giáo nào. Nếu phương pháp mà chúng ta đang thực hành giúp chúng ta phá tan được ảo vọng và cắt đứt được tận gốc rễ của khổ đau của chúng ta thì đó chính là tinh túy của việc thực hành tâm linh, nó gọi là Đạo Pháp.
Có rất nhiều cấp độ ảo vọng khác nhau nên cũng có nhiều cách thực hành Đạo pháp khác nhau để chấm dứt ảo vọng. Tất cả những con đường tu tập chấm dứt ảo vọng đều nằm trong Đạo pháp. Qua sự chân thành áp dụng những phương pháp thiền định có hệ thống, chúng ta xóa bỏ khỏi tâm chúng ta những quan niệm sai lầm, những thái độ nhị nguyên và những thói hư tật xấu của chúng ta. Chúng ta sẽ đạt giác ngộ, sự toàn mãn. Sự thành đạt chắc chắn sẽ đến bởi vì tâm ảo vọng (vọng tâm) không phải là tâm bản nhiên, bởi vì những gì xuất hiện ra trong tâm không phải là tâm. Tâm chỉ nhất thời chạy theo ảo vọng cũng giống như một chiếc bình có một vết bẩn mà thôi. Một vết bẩn không phải là chiếc bình, nó có thể được rửa sạch. Giống như vậy, tâm bản nhiên của chúng ta vốn trong sáng, nhất thời bị ảo vọng che khuất, nó có thể được tẩy sạch.
Sự chấm dứt hoàn toàn đau khổ và giác ngộ là sự thành đạt rất cao quí, giá trị của nó không gì sánh bằng nên chúng ta phải dồn hết năng lượng của chúng ta vào con đường tâm linh. Hơn nữa, sự thực hành và sự học hỏi của chúng ta tùy thuộc vào sự lắng nghe và vào sự nghiên cứu chân tính của bất cứ những gì chúng ta được dạy bảo. Như vậy, sự học hỏi và kết quả của nó cũng vô cùng quan trọng và cần thiết cho con đường tâm linh. Nếu chúng ta học hỏi nghiên cứu phương pháp Đạo pháp trong nội tâm rồi đem áp dụng những điều học hỏi đó ở ngoài cuộc sống thì đời sống của chúng ta thực sự có một ý nghĩa và tràn đầy ơn ích cho chính mình cũng như cho những người khác.
Nếu chúng ta theo một phương pháp toàn hảo, chúng ta sẽ không thất vọng vì để mất thời giờ. Còn nữa, trong giờ phút cận tử, giờ phút của sự chết, chúng ta sẽ không sợ hãi và lo lắng bối rối. Vì đã phát triển phương pháp liên hệ với nội tâm nên chúng ta có thể kiểm soát được tiến trình của tâm linh, chúng ta có thể đối diện với tử thần một cách bình tĩnh thanh thản, tự chủ và an nhiên. Biết rằng chúng ta đã sống một đời tốt đẹp nên chúng ta sẽ có tự tin, vững chắc tin tưởng hạnh phúc và an lạc sẽ đến.
Tất cả những gì tôi trình bày ở đây đều là những kinh nghiệm của các vị thiền giả và những vị đã và đang thực hành Đạo pháp. Có rất nhiều vị đã đạt giác ngộ, đã thành công trong vấn đề thanh tẩy tâm. Họ đã áp dụng phương pháp này để thanh tẩy những ý niệm sai lầm và những thói quen xấu của họ, chúng ta cũng có thể thực hành như vậy. Khi đạt đến trình độ phát triển này, chúng ta có thể đem lợi ích đến cho người khác và giúp những người khác trên con đường thực hành Đạo pháp. Vì lòng vị tha, chúng ta sẽ biết hướng dẫn những người khác cùng thoát khổ tùy theo cá tính riêng của họ. Không còn một mục đích nào khác trong cuộc đời cao đẹp hơn thế nữa.
Để kết luận, đây là phương pháp tối thiện xảo mà chúng ta có thể dùng để đối diện với những vấn đề của chúng ta. Nếu tâm của chúng ta đầy dục vọng, chúng ta sẽ gặp rất nhiều đau khổ mỗi khi chúng bị ngăn cản. Nhưng nếu chúng ta biết cách áp dụng Đạo pháp, chúng ta có thể hướng dẫn tâm của chúng ta vào con đường thực hành Đạo pháp trong đời sống, chúng ta sẽ có những chứng nghiệm hạnh phúc và an lạc ngay cả trong những lúc gặp cảnh khó khăn. Mặc dầu chúng ta chưa phát triển thâm sâu Đạo pháp, chỉ mới bắt đầu thực hành một chút, chúng ta cũng vẫn kinh nghiệm được sự an lạc trong đời sống thường ngày của chúng ta. Do đó, hãy quan tâm đến tất cả muôn loài chúng sinh –ngay cả đến một con vật nhỏ li ti – để phát triển chân hạnh phúc và để giải thoát khỏi đau khổ, đây là điều vô cùng có giá trị trên con đường thực hành Đạo pháp, trên con đường phát triển khả năng tâm linh của chúng ta.
Cám ơn quý vị nhiều lắm. Chúng ta vẫn còn giờ, quý vị có thể đặt câu hỏi.
Hỏi: Thưa ngài, chúng tôi bắt đầu thực hành như thế nào?
Trả lời: Trước nhất hãy học hỏi Đạo pháp. Nếu chúng ta không có căn bản, chúng ta sẽ không biết thanh tẩy như thế nào. Do đó, trước hết chúng ta hãy tìm một phương pháp đúng và thích hợp để học. Chúng ta hãy lắng nghe những lời giải thích của những vị thầy có kinh nghiệm. Họ phải là người đã và đang thực hành những lời dậy bảo này. Vì theo học những vị thầy như vậy, chúng ta mới vừa học hỏi những lời dậy bảo vừa kiểm chứng họ đồng thời chúng ta cũng phải tự chứng nghiệm được những lời dậy bảo này. Rồi chúng ta thiền định trên những gì đã được học hỏi, hãy đem tất cả những cái đó ra thực hành trong đời sống thường ngày của chúng ta. Như vậy, trí tuệ của chúng ta sẽ từ từ phát triển.
Hỏi: Vì Đạo pháp bắt nguồn từ văn hóa Đông phương, phải chăng Đạo Phật cũng có thể thích hợp cho người Tây phương?
Trả lời: Như tôi đã trình bày, thực hành Đạo pháp không bắt buộc phải có một quy luật nhất định cố chấp nào đó. Đạo pháp không phải là một cái gì có khuôn khổ cứng ngắc. Mặc dầu có những người ngồi thiền khoanh chân nhắm mắt, nhưng những thế ngồi này tự nó không phải là tinh túy của Đạo pháp.
Một hành động được coi là thực hành Đạo pháp chân thật khi nó thực sự tác động đến tâm. Nếu ảo vọïng được nhổ đi tận gốc và đau khổ hoàn toàn biến mất khi chúng ta thực hành một cái gì đó thì cái đó chính là Đạo pháp. Như vậy, chúng ta vẫn có thể thực hành Đạo pháp cho dù chúng ta làm việc trong văn phòng tại một thành phố đông người hay chúng ta là một lao công ngoài đường phố. Vấn đề chính yếu là ảo vọng của chúng ta có giảm đi hay không.
Bất cứ một hành động nào cũng có thể chuyển thành sự thực hành Đạo nếu nó được hoàn thành bởi một động lực đúng và chân thành. Nếu chúng ta quyết tâm làm việc để tẩy trừ vô minh của chúng ta và chúng ta có thể giúp những người khác thắng được những đau khổ của họ thì đó là Đạo pháp, bất kể nó là phương pháp nào. Đạo Phật, một trong những đạo chính của thế giới, giảng dậy rất nhiều phương pháp để thanh tẩy những động năng của chúng ta. Nó được áp dụng và có khả năng thích hợp với tất cả mọi hoàn cảnh của bất cứ xã hội nào, Đông cũng như Tây. Do đó, một người Tây phương hiểu được tinh túy của Đạo pháp và hình thức văn hóa mà nó sẽ hội nhập vào, thì họ có thể mang lại rất nhiều ơn ích cho chính họ và cho những người khác bất kể những gì họ học được.
Hỏi: Có sự liên hệ gì giữa triết lý mật tông và sự thực hành Đạo pháp?
Trả lời: Không có bất cứ một sự thực hành mật tông nào mang lại kết quả nếu chúng ta không có căn bản về Đạo pháp. Chính mật tông là sự thực hành Đạo pháp, nên đừng nghĩ rằng có một sự thực hành nào đó ở bên ngoài Đạo pháp.
Nếu chúng ta kiếm được một văn bản nào đó nói về mật tông rồi thử áp dụng nó mà không thấu hiểu Đạo pháp thì không thể có kết quả. Đây là sự thật, thay vì những sự thực tập mang đến những kết quả tốt, giảm bớt u mê ảo vọng thì nó lại làm tăng thêm vô minh và càng đi sâu vào sai lầm nhiều hơn nữa.
Mục đích của mật tông cũng giống như Đạo pháp, là để thoát khỏi khổ đau, bằng cách bỏ đi những chướng ngại tinh thần (sở tri chướng.) Mật tông được coi như một phương pháp rất thâm sâu bởi vì nó là một phương pháp rất nhanh trên con đường tiến tới giác ngộ. Nhưng động năng thúc đẩy vào con đường thực hành mật tông chính là sự ước muốn đạt giác ngộ càng nhanh càng tốt để cứu độ muôn loài chúng sinh càng mau có kết quả. Chỉ có sự thúc đẩy của một Bồ đề tâm bao la mới mong thực hành mật tông có kết quả.
Như vậy, mục đích và động năng thúc đẩy của mật tông hoàn toàn giống như Đạo pháp, nó là một thành phần của Đạo pháp, sự dậy bảo cao thâm này nương theo sự dậy bảo tổng quát. Nếu nghĩ nó là một thành phần riêng rẽ biệt lập thì nó sẽ tạo thêm những rắc rối, những vấn đề khác nữa, khác nữa.
Hỏi: Ngài có coi việc dùng thuốc (ma túy) là con đường thực hành tâm linh không?
Trả lời: Không, tôi không cho là những người chân thành thực hành Đạo pháp lại nghiện ngập. Tuy nhiên, tôi không phủ nhận có một số người trong lúc bắt đầu phát triển, một vài kinh nghiệm nào đó của thuốc có thể giúp họ. Thí dụ, tâm của một số người rất hạn hẹp, không được cởi mở, họ không tin vào bất cứ sự hiện hành nào của hiện tượng mà nó xuất hiện qua bình diện vật chất. Vì thế, nó có thể giúp họ nhận ra được sự thật trong một chiều hướng khác với chiều hướng bình thường, có giới hạn. Sự kiện này có thể mở cho họ một khả năng phát triển tâm mà những người khác không biết. Như vậy, sau khi sự phát triển đã được chứng nghiệm mà họ vẫn còn tiếp tục dùng thuốc thì họ đã tạo ra thêm ấn tượng cho ảo tưởng, thực ra sự kiện này đã chẳng giảm bớt vô minh. Kinh nghiệm dùng thuốc có giúp gì được hay không tùy theo người dùng thuốc. Tôi không coi việc dùng thuốc là một phương pháp tốt khi bước vào con đường tâm linh.
Hỏi: Khi bước chân vào con đường tâm linh, vị thầy quan trọng như thế nào?
Trả lời: Ngay cả làm một việc nhỏ mọn tầm thường, như đi du lịch từ nước này đến nước khác chúng ta cũng cần phải có người đã có kinh nghiệm hướng dẫn. Nếu chúng ta muốn học một ngoại ngữ, chúng ta cũng cần phải có một ông thầy hiểu và nói được thứ tiếng đó. Đây là một sự cần thiết, một sự hướng dẫn rất thông thường mỗi khi chúng ta muốn học hỏi nghiên cứu một vấn đề gì.
Đây là một sự thật dành cho tất cả mọi vấn đề học hỏi, như vậy học hỏi Đạo pháp lại còn cần thầy hơn nữa. Tại vì con đường Đạo không quen thuộc với chúng ta, nó hoàn toàn xa lạ mà nó lại có liên hệ đến rất nhiều khía cạnh của chính chúng ta và với những hiện tượng khác nữa. Lý do chính yếu mà chúng ta đau khổ là chúng ta có thói quen nhìn sự chân thật qua cái lăng kính bệnh hoạn ngã chấp độc tôn của chúng ta. Nếu chúng ta muốn tẩy sạch những ảo vọng, những u mê trong tâm của chúng ta, chúng ta cần phải có một vị thầy đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, đã có thực chứng về vấn đề này.
Vì tính cách quan trọng trong việc theo đuổi con đường tâm linh, vị thầy hướng dẫn tâm linh của chúng ta phải là một vị thầy hoàn hảo. Họ phải là người sống cho Đạo pháp, phải là một thí dụ điển hình của Đạo pháp. Điều vô cùng quan trọng là tâm của họ đã có những chứng nghiệm, đã hoàn toàn lãnh hội được những trạng thái thực hành đúng và họ đã nắm vững những sự hiểu biết không sai lầm. Nếu chúng ta nhận được những lời giải thích đúng đắn chân thật của vị thầy, rồi nghiên cứu, chiêm nghiệm và thiền định nghiêm túc trên những lời dậy bảo đó, chúng ta sẽ đạt được thành quả theo ý muốn. Ngược laiï, nếu chúng ta tin tưởng vào vị thầy không có đủ khả năng thì rất nguy hiểm, sự thực hành của chúng ta sẽ đi vào hết lầm lẫn này đến lầm lẫn khác, để rồi cuối cùng chẳng đi đến một kết quả nào.
Hỏi: Làm thế nào để tránh được trường hợp chấp, bám víu vào con đường thực hành tâm linh?
Trả lời: Có những người muốn theo đuổi con đường tâm linh để quyến rũ người khác. Họ thích được gọi là một người thánh thiện hoặc một người có đời sống tâm linh. Đây là một sự hiểu lầm Đạo pháp, đây là sự lợi dụng Đạo pháp. Nhưng nếu thành tâm muốn chấm dứt khổ đau và muốn cho tâm mình và tâm những người khác được an tịnh thì ước muốn này không xấu. Đây không phải là trường hợp chấp hoặc bám víu mà nó có thể gây rắc rối phiền muộn cho chúng ta. Ngay từ lúc bắt đầu bước chân vào con đường mà đã có nguyện ước như vậy thì đã có ơn ích rất nhiều rồi, đây không phải là bám víu, chúng ta không cần phải lẩn tránh.
Những bám víu xấu luôn luôn dẫn đưa chúng ta đến đau khổ. Với những động năng tham dục, chúng ta sẽ tạo ra những hành động không đạo đức, nó sẽ đem lại khổ đau cho chính chúng ta và cho những người khác. Nhưng lòng ao ước thực hành Đạo pháp không được coi là tham dục. Nó hoàn toàn khác. Động năng thúc đẩy chúng ta thực hành Đạo pháp khuyến khích chúng ta đi vào sự thực hành để giảm bớt, không tăng lên, những đau khổ. Không có sự thực hành này, chúng ta sẽ bị trói buộc vào vòng luân hồi và chẳng được hưởng một chút ơn ích gì trong kiếp người.
Phải có một động năng thúc đẩy mãnh liệt lắm thì mới có thể bước vào con đường tâm linh, bởi vì sinh ra là chúng ta đã bị hướng dẫn vào con đường chấp ngã. Do đó, vì ước muốn thực hành Đạo pháp để đạt kết quả tốt nên ngay từ khi bắt đầu chúng ta không nên lo sợ bị dính mắc, bị lệ thuộc. Chúng ta nên cố gắng tiếp tục thực hành với một động lực càng trong sạch càng tốt, hãy mong muốn thật nhiều ơn ích cho muôn loài chúng sinh.
Cám ơn quý vị nhiều lắm.