5. TÌM HIỂU ĐAU KHỔ VÀ KIỂM SOÁT TÂM
Mục đích của những bài giảng về
Đạo Pháp là để giúp
chúng ta nhận ra được những điểm
sai lầm trong từng
hành vi, trong từng hành động của
chúng ta và
tìm cách giải quyết những
vấn đề trong cuộc sống. Đó là
lý do quý vị đến đây để nghe và cũng là
lý do tôi đến đây để nói. Nhưng
Đạo Pháp chỉ thực sự có gía trị khi người thầy chính là một
thí dụ sống động cho những gì ông ta giảng dậy. Đáng tiếc thay tôi không đáng được qúy vị
tôn kính như vậy. Tôi không biết gì về
Đạo Pháp vì tôi cũng ăn, uống, bài tiết và ngủ như qúy vị. Nhưng tôi được
may mắn học hỏi từ những vị đã
ngộ đạo nên tôi chỉ xin tường trình với qúy vị những gì tôi đã
học hỏi được. Vì thế những bài giảng này có giúp ích cho qúy vị hay không lại do những
nguyên nhân khác.
Hiểu được
mục đích của
Đạo Pháp là một điều
vô cùng quan trọng. Tại sao
chúng ta thiền, tại sao
chúng ta theo
con đường tâm linh, tại sao
chúng ta lại muốn sống
một đời sống đạo? Chỉ vì
chúng ta mong muốn một cái gì khác với những
sinh hoạt thường ngày.
Nếu không vì
mục đích đó,
chúng ta không
cần phải tham dự những buổi diễn giảng này.
Tất cả những
tôn giáo,
triết học,
hệ thống đạo đức...
vân vân... trên
thế giới đều có những tên khác nhau và
hoàn toàn có những
phương pháp giảng dậy khác nhau. Nhưng dù khác nhau chúng đều có chung một nguyên lý, một
mục đích. Nếu tất cả những
hệ thống tư tưởng này có
giá trị, thì nó phải
quan tâm, nó phải làm dịu đi những
đau khổ tinh thần và
vật chất của muôn loài
chúng sinh. Nó phải
cung cấp những
giải pháp thâm sâu hữu hiệu để xoá tan đi những nỗi
thống khổ của
nhân loại. Bởi vì tất cả những
phương pháp hiện có chỉ chú trọng đến sự
giải quyết bên ngoài, chúng đã cho
chúng ta biết không có một chút hiệu qủa nào.
Từ khi có sự sống
xuất hiện trên qủa đất này, tất cả những
tư tưởng lớn của
cá nhân hay của đoàn thể đã
nỗ lực không ngừng để
cải tiến những
điều kiện sinh sống của
chúng ta. Ngay
hiện tại, ở mỗi
quốc gia trên
thế giới đều có rất nhiều
hoạt động của các tổ chức nhắm vào việc
cải tiến nhân sinh. Mặc dù rất nhiều người trong
xã hội đã nắm vững
mục đích và đã
cố gắng hoạt động không ngừng, nhưng
thế giới vẫn chưa tiến gần đến hoà bình và hầu như
con người chưa bao giờ được hưởng một nền hoà bình
chân thật. Ngược lại, có nhiều
triệu chứng cho biết chúng ta đang bị thoái hoá. Tại sao sự
tin tưởng vào những
tiến bộ khoa học
vật chất lại không được thoả mãn, lại không mang lại nền hòa bình vĩnh cửu?
Nguyên nhân chính yếu là
chúng ta cứ nghĩ rằng những
vấn đề, những khó khăn đều ở bên ngoài, chúng đang
hiện diện đâu đó ngoài kia chứ không phải trong tâm của
chúng ta, chúng không có
liên quan gì đến tâm của
chúng ta. Do đó,
chúng ta nghĩ sự
giải quyết mà
chúng ta có thể tìm được cũng đang ở bên ngoài kia.
Mặc dầu tất cả những sự
giải quyết này có thể tạm thời hóa giải được một phần nào, nhưng những khó khăn
rắc rối lại
xuất hiện, lại
xuất hiện, lại
tiếp diễn. Vì thế, những
cố gắng của
chúng ta coi như có đem lại thay đổi nhưng
thực ra nó không có một chút
tác dụng sâu xa nào vào tận gốc rễ của
vấn đề, nó đã không có khả năng nhổ đi tận gốc rễ của
vấn đề.
Rất nhiều người có
thành tâm thiện chí muốn
cải tiến toàn thể tình trạng nhưng
thực ra lại làm cho
vấn đề càng ngày càng thêm mạnh, càng ngày càng thêm u tối, càng thêm
phức tạp.
Thí dụ như việc phát triển nguyên tử năng.
Mặc dầu ngay từ lúc khởi đầu, các nhà
bác học và các kỹ sư nguyên tử lực đều
can đảm nhận lãnh
trách nhiệm của họ trong sự phát minh và trong sự
ứng dụng nguyên tử, nhưng sự phát triển này đã gây ra rất nhiều
tử vong, đã đem lại nhiều kết qủa nguy hiểm cho
thiên nhiên, cho môi sinh và cho sự
bảo trì nền hòa bình của
nhân loại mà họ và
chúng ta không thể tiên đoán được.
Tại sao niềm mơ ước hòa bình cho toàn
thế giới không thể
thực hiện được? Tại sao
chúng ta cứ mãi bị tước đoạt đi công việc
tìm kiếm chấm dứt khổ đau và những lỗi lầm?
Thực ra chúng ta không thiếu
lòng thành tín và không thiếu những
tư tưởng mưu tìm sự hòa đồng giữa
con người. Có thể
chúng ta đã
cố tình không hiểu hoặc không
quyết tâm thi hành, bởi vì
chúng ta đã không
cố gắng đủ trong việc kiếm tìm
lợi ích cho chính mình hoặc cho những người khác nên đã chẳng có một dấu hiệu
tinh tiến nào. Điều
vô cùng thiếu sót trong kế hoặch tìm cầu
hạnh phúc cho
nhân loại trong đời sống hàng ngày là không có một
phương pháp thực sự hữu hiệu để đem lại kết qủa cho
mục đích của
chúng ta. Một
phương pháp thực sự mang lại kết qủa nếu nó cắt đứt được
toàn diện gốc rễ của những
vấn đề của
chúng ta.
Phương pháp tối
cần thiết là phải
tiêu hủy tận bên trong chứ không phải bên ngoài.
Tại sao một
phương pháp hữu hiệu lại phải ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài?
Tại vì sự
đau khổ mà
chúng ta muốn
loại bỏ nó không chỉ ở bên ngoài mà thôi. Nếu
chúng ta nghĩ rằng tất cả những
rắc rối của
chúng ta chỉ ở bên ngoài, vậy
chúng ta hãy thử
loại bỏ, hãy thử thay đổi hoặc hãy làm bất cứ cách nào
xem sao.
Tuy nhiên, kết qủa đã cho thấy thực là nhỏ bé so với
vấn đề, so với những khổ đau; bởi vì gốc rễ của khổ đau không ở bên ngoài mà
chúng hiện đang nằm sâu trong
tận tâm khảm của mỗi người
chúng ta.
Mặc dầu chúng có thể
xuất hiện với những đối tượng bên ngoài -- qua người, qua sự vật hoặc qua
hoàn cảnh mà
chúng ta gặp trong cuộc sống -- nhưng chúng không phải là những
nguyên nhân chính yếu của
bất mãn hay khổ đau của
chúng ta.
Thí dụ, có một số người đi du lịch họ rất thích những nơi mà họ đã chọn cho những kỳ nghỉ hè. Nhưng với một số người khác tuy cùng một
trình độ, một
giai cấp mà họ đã không
hài lòng chút nào với những nơi trên.
Kinh nghiệm không
hài lòng này, sự
bất mãn này đã nằm sẵn trong đầu họ nên họ không thể
hoàn toàn đổ cho những
hoàn cảnh ở bên ngoài. Nếu thực sự chỗ đó không tốt, không đẹp, không
hấp dẫn thì chẳng ai muốn tới đó để nghỉ hè. Cũng giống như vậy,
thức ăn hàng ngày trong
gia đình, có người thích có người lại không hề chạm đũa vào. Tại sao lại có
tình trạng này, cùng một món ăn mà người thích, người ghét?
Một
thí dụ khác về sự
liên hệ giữa người với người, nếu là người
chúng ta thích,
chúng ta sẽ coi anh ta/chị ta là một người rất tốt, rất
dễ thương. Bất cứ khi nào gặp họ,
chúng ta cũng
cảm thấy thoải mái trong tâm của
chúng ta. Nhưng chính người
dễ thương này lại gây nhiều
bất mãn, khó chịu cho một số người khác khi họ
xuất hiện. Có thể anh ta/chị ta lại là một người rất
đáng ghét. Vì thế, một người có thể rất
hấp dẫn với
chúng ta nhưng lại là người
đáng ghét cho người khác.
Không
cần phải so sánh cảm tình của
chúng ta với những
kinh nghiệm của người khác
chúng ta mới nhìn ra được sự khác biệt như thế nào trong
phản ứng này. Hãy nhìn ngay vào
phản ứng của chính
chúng ta đối với những người khác trong qúa khứ.
Lúc đầu anh ta là người
xa lạ với
chúng ta, rồi có thể
chúng ta đã
hoàn toàn quên anh ta. Nhưng rồi một
thời gian sau anh ta lại trở nên một người
bạn thân của
chúng ta. Sau một
thời gian quen biết chúng ta nhận thấy anh ta là một người rất tốt và khó có thể quên được anh ta, anh đã là một
tri kỷ. Không còn
nghi ngờ gì nữa, anh ta thật tốt, thật
dễ thương,
thật đạo đức.
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng sự kiện này bởi vì chất keo gắn liền
chúng ta và anh ấy đã qúa chặt.
Nhưng rồi
hoàn cảnh đã thay đổi với
thời gian. Có thể anh ta đã nói một câu nào đó làm
chúng ta không bằng lòng hoặc có một
cử chỉ hành vi nào đó của anh ta làm
chúng ta bất mãn. Rồi không cần biết vì
lý do gì --dù là một
lý do rất tầm thường --
chúng ta cho rằng anh ta đã
hoàn toàn thay đổi, anh ta đã
trở mặt. Giọng nói của anh ta không còn đúng điệu,
thái độ của anh ta có vẻ hung hăng, ngay cả bộ mặt của anh ta sao
dữ tợn qúa. Anh ta đã thay đổi
hoàn toàn, không còn một chút gì của
con người ngày xưa nữa, rồi bao nhiêu
gắn bó của
chúng ta dành cho anh ta trước kia bây giờ
trở thành hận thù. Khi
chúng ta bắt đầu ghét anh ta là
sân hận và những
ý nghĩ xấu ở trong tâm của
chúng ta về anh ấy cũng bắt đầu được hình thành và lớn mạnh. Kết qủa là
chúng ta sẽ
cảm thấy rất khó chịu, rất
bực mình mỗi khi gặp anh ta.
Như vậy, rất dễ
nhận diện được những
đau khổ của
chúng ta, không cần đến những thay đổi ở bên ngoài, không cần đến sự thay đổi của đối tượng, bởi vì chính
thái độ ở bên trong của
chúng ta đã thay đổi. Vì những
trạng thái khác biệt của
tâm thức nên
chúng ta nhìn sự vật cũng khác biệt như vậy, mặc dù vẫn cùng một đối tượng. Nói rộng hơn, tất
cả đời sống của
chúng ta đã chất đầy những
kinh nghiệm như
thái độ vừa trình bày ở trên.
Những sự thay đổi này xẩy ra rất thường và rất nhanh. Có khi ngay trong lúc
chúng ta đang tức giận một người thì
hình ảnh tốt đẹp của họ trong qúa khứ
hiện ra trong tâm của
chúng ta.
Chúng ta sực nhớ họ đã giúp
chúng ta trong qúa khứ, họ đã đối xử rất tốt với
chúng ta.
Trong khoảng kháéc ngắn ngủi đó của
trí nhớ, có thể
chúng ta không còn tức giạân họ nữa mà coi họ như một người bạn rất thân.
Kinh nghiệm này --thường có ở chúng ta-- cho
chúng ta biết rằng
chúng ta nên
thận trọng chẳng những với những thay đổi
thường xuyên trong tâm của
chúng ta mà
chúng ta còn phải biết
kiểm soát những tiến trình thay đổi này để mang lại
hạnh phúc hơn cho
cuộc đời của
chúng ta.
Nếu
chúng ta thường
tỉnh thức về những gì xẩy ra trong tâm của
chúng ta,
chúng ta sẽ có khả năng
chuyển hoá tất cả những
tư tưởng tiêu cực, những
ý nghĩ xấu của
chúng ta trước khi nó gây ra
phiền phức hoặc
đau khổ cho
chúng ta. Thật ra có rất nhiều cách để nghĩ tốt cho người khác thay vì nghĩ xấu cho họ. Nếu
chúng ta đã biết phát triển những kỷ luật
tâm linh cần thiết và thực sự biết
tỉnh thức trên tất cả những gì xẩy ra trong tâm thì không có một
lý do nào có thể
ngăn cản công việc phát huy những
tư tưởng này để mang lại
hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác. Có thể cả
thế giới sẽ
chống lại chúng ta, nhưng nếu khả năng
kiểm soát tâm của
chúng ta được phát triển đúng mức và
tốt đẹp,
chúng ta vẫn có thể coi
mọi người đều là bạn thay vì
chống lại họ, ghét họ hoặc sợ họ.
Nếu
chúng ta thực sự
kiểm soát được tâm của mình, thử tưởng tượng một nền hòa bình vĩ đại trên
thế giới sẽ xẩy ra! Sẽ không còn
nghi ngờ gì cả và cũng chẳng còn bất cứ
vấn đề gì cho chính
chúng ta và cho người khác nữa.
Kinh nghiệm thâm sâu về
cuộc đời chính là kết qủa của sự
thực hành Đạo Pháp. Nó có thể xảy ra cho bất cứ ai biết quay vào
con đường tâm linh ở bên trong mà
tìm hiểu chính mình.
Giải quyết những
vấn đề bằng sự
kiểm soát tâm chẳng những mang lại nhiều kết qủa khi
đối diện với những sự khó khăn mà nó còn là
phương pháp dễ dàng nhất, ít nguy hiểm nhất. Qua
phương pháp này
chúng ta có được sự
bình an thật trong tâm của
chúng ta mà không làm
tổn thương bất cứ ai. Qua
phương pháp này chẳng những
chúng ta hạnh phúc mà còn mang
hạnh phúc đến cho những người khác nữa. Ngược lại, nếu
chúng ta cho rằng nguồn gốc của những
vấn đề ở bên ngoài kia thì
chúng ta phải
tiêu diệt tất cả những ai là
kẻ thù của
chúng ta, lúc đó
chúng ta mới
cảm thấy an tâm. Nhưng dù
chúng ta có dùng
phương pháp này mà
đối diện với những
vấn đề, với những khó khăn
rắc rối thì cái tâm bấn loạn cũng
vẫn có đó. Vì thế
nếu không có một
phương pháp nội tại nào để tẩy sạch những
vấn đề lầm lẫn này thì
chúng ta cũng vẫn còn
đau khổ cho dù không còn
kẻ thù.
Như vậy, để
đạt được những kết qủa tốt khi
đối diện với những
vấn đề, công việc đầu tiên của
chúng ta là phải
khám phá ra được và phải
nhận định ra được những
yếu tố tinh thần hiện đang ở trong
chúng ta, đây mới là
nguyên nhân sâu xa của tất cả
đau khổ.
Phương pháp của
chúng ta cũng giống như
phương pháp của một vị
bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân. Nếu ông ta không hiểu
nguyên nhân của căn bệnh thì ông không thể chữa lành bệnh được. Do đó
việc làm đầu tiên của ông ta là phải chẩn bệnh, phải
tìm hiểu rõ ràng căn bệnh của bệnh nhân, sau đó ông mới có thể cho những viên thuốc
thích hợp để trị. Cũng giống
y như vậy, nếu
chúng ta muốn
giải quyết những
vấn đề của
chúng ta theo
phương pháp tinh thần nội tâm,
trước tiên chúng ta phải hiểu thấu đáo, phải có một
hình ảnh trong sáng rõ rệt về cái gì đang làm
chúng ta khổ.
Nếu không như vậy
chúng ta sẽ bị đè bẹp, sẽ bị
áp đảo, sẽ bị
che dấu bởi chính cái
bản tính nhẹ nhàng
vuốt ve thương thân trách phận của
chúng ta,
chúng ta phải trực tiếp
đối diện với những
vấn đề của
chúng ta. Chỉ như vậy
chúng ta mới có thể thanh tẩy
trọn vẹn từng
vấn đề một trong
toàn thể.
Chúng ta hãy bắt đầu
tìm hiểu sơ qua về những
hình ảnh đau khổ qua những
kinh nghiệm về
bào thai và trẻ sơ sinh.
Chúng ta thường không nghĩ về những khổ đau xẩy ra cho
bào thai trong sự sinh nở, đây là một
sự thật. Bởi vì tâm của người mẹ và
thai nhi không giống nhau, người mẹ cũng không
hoàn toàn cảm thông được cái
tinh thần của
thai nhi đang ở trong
tử cung của bà ta. Cái
bào thai đó hiện đang ở trong một
hoàn cảnh tinh thần và
thể chất không được
thoải mái.
Đứa trẻ
cảm thấy bị gò bó trong một khung cảnh chật hẹp, mất hết
tự do. Một cái
di chuyển nhẹ của bà mẹ cũng gây biết bao
phiền toái khó chịu, không kể đến đồ ăn khi qúa nóng khi qúa lạnh hoặc qúa cay; bên cạnh những mùi ô uế của đồ phế thải của bà và những
biến chuyển không tiên
đoán trước được trong
hệ thống tiêu hóa của bà ta.
Những khổ đau này hầu
như không được
chúng ta để ý đến,
quan tâm đến, nhưng những
đau đớn của bà mẹ trong lúc sinh đẻ lại dễ dàng được chú ý hơn. Khi đến
thời kỳ sinh nở,
thai nhi bị
thúc đẩy, bị dồn ép hơn bất
cứ sự kiện nào mà nó đã
kinh nghiệm. Nó được
di chuyển dần dần ra âm đạo, nó
cảm thấy đau đớn như bị ghiền giữa hai cục đá. Sự
đau đớn này chỉ có thể
chấm dứt khi nó đã
hoàn toàn lọt khỏi lòng mẹ. Da của nó qúa
mềm mỏng đến nỗi không khí
ấm cúng của phòng sinh cũng làm nó
cảm thấy giá lạnh cắt da. Đứa bé được cuốn trong những tấm khăn mềm mại nhất nhưng nó cũng tưởng chừng như đang bị trăm ngàn mũi gai nhọn đâm thấu thịt da. Thêm vào những cái đau của thể xác, đứa bé nhìn thấy những linh ảnh được tạo ra giống như những
hình ảnh đã được nhìn thấy trong lúc chết. Vì thế khi
chúng ta nhìn thấy đứa bé vừa mới
chào đời chúng đã khóc thét lên, tiếng khóc này không phải là
không có lý do.
Hầu như tất cả
chúng ta đã không nhớ được
kinh nghiệm trong lúc
chào đời. Điều này không có nghĩa là
chúng ta đã được
thoải mái trong bụng mẹ và
thảnh thơi khi sinh ra.
Chúng ta đã quên tất cả những
kinh nghiệm này cũng như
chúng ta đã quên hoặc không có
ý thức trên rất nhiều
sự kiện đã xẩy ra
trong đời. Tâm
vô minh của
chúng ta đã tạo ra biết bao
ô nhiễm cho cả bên trong tâm lẫn bên ngoài thân xác, vì thế những cảm nhận của
chúng ta về
chân lý đã bị những
đám mây dầy đặc
che dấu. Mỗi khi
chúng ta trực nhận ra được những
sự kiện không
vừa ý, ngay cả những cái vụt thoáng qua trong đầu,
chúng ta không nên
ngạc nhiên vì chúng toàn là những
kinh nghiệm trước kia của
chúng ta.
Ngay khi vừa sinh ra là những
đau khổ trong
tiền kiếp bắt đầu được khơi dậy. Thân xác của
chúng ta trải qua hết khó chịu này đến khó chịu khác như những bệnh tật trong thời
thơ ấu và những chuỗi dài
phiền não trong
cuộc đời tiếp tục kéo đến.
Chúng ta không
cần phải chống
cự lại sự nhiễm trùng
chúng ta mới có
kinh nghiệm đau đớn của bệnh tật. Chỉ
lo lắng và
sợ hãi bị bệnh thôi cũng đủ làm
chúng ta thực sự
đau khổ.
Nếu
chúng ta có thể sống đến gìa để
kinh nghiệm được những khổ đau của tuổi gìa thì tất cả những
kinh nghiệm, những sự đổi thay của
cuộc đời mà
chúng ta đã
trải qua sẽ làm
chúng ta tăng thêm
phiền muộn. Sức khoẻ của
chúng ta,
thị giác của
chúng ta,
thính giác của
chúng ta sẽ mất dần, tất cả những
sinh hoạt của
chúng ta thời trẻ sẽ không bao giờ có được nữa. Thể xác của
chúng ta sẽ không còn
cử động như ý muốn, ngay cả
tinh thần của
chúng ta cũng chẳng còn
tinh tường, tất cả sẽ trở nên
vô dụng.
Tất cả những
kinh nghiệm về khổ đau trong
cuộc đời chỉ làm cho
chúng ta thêm khổ đau vào lúc chết. Tất cả
mọi người chúng ta ai cũng
sợ chết. Khi
tử thần đến, sự
sợ hãi càng trở nên vĩ đại hơn, thực hơn. Mặc dù
chúng ta không muốn rời khỏi thân xác của
chúng ta,
của cải của
chúng ta, những người
thân yêu của
chúng ta, nhưng một điều
vô cùng thật và rất
rõ ràng là
chúng ta phải từ gĩa tất cả những thứ
thân yêu này. Hơn nữa,
chúng ta chẳng biết sự việc gì sẽ xẩy ra cho
chúng ta,
tâm thức của
chúng ta sẽ đi về đâu, chính sự
vô minh này sẽ đẩy
chúng ta vào một
tình trạng trầm thống
bối rối hơn nữa.
Giường chết đang được bao quanh bởi những
bác sĩ giỏi, bởi những người thân, nhưng
chúng ta chẳng nói được gì với họ. Khi mà giờ chia tay giữa thân xác và
linh hồn đến, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì, một người nào có thể giúp
chúng ta được.
Chúng ta phải ra đi,
chúng ta chết --tuyệt đối không còn một sự chọn lựa nào. Đã qua bao nhiêu năm trong
cuộc đời,
chúng ta o bế,
chúng ta nâng niu,
chúng ta săn sóc cho cái thân xác này, nhưng giờ đây, trong giờ phút khủng khiếp này, dù còn một chút
sức lực nào đi nữa cũng chẳng níu kéo sự sống được thêm một phút một giây.
Chúng ta không còn một chút khả năng nào để
kiểm soát cái gì đang từ từ đến với
chúng ta, chỉ có sự khổ đau đang tràn ngập như
chưa bao giờ thấy.
Chúng ta sẽ
đi vào một nơi mà
chúng ta chưa hề biết đến với một tâm trạng chỉ có
sợ hãi và
lo lắng.
Tất cả
chúng ta ở đây đã có
kinh nghiệm khi
đi vào cuộc đời này, sống trong
cuộc đời này và cũng đang
kinh nghiệm về cái già đang từ từ đến, nhưng
kinh nghiệm về sự chết thì chưa có. Nó đang chờ
chúng ta, sự
đau đớn trong giờ của
tử thần đang đợi
chúng ta. Như vậy,
cuộc đời của
chúng ta sẽ qua đi, nó sẽ
chấm dứt như nó đã bắt đầu --- trong khổ đau !
Thêm vào những nỗi khổ trong lúc sinh ra, bệnh tật, già yếu, chết,
chúng ta còn rất nhiều những cái khổ khác nữa,
cuộc đời tràn đầy
bất mãn.
Thí dụ,
chúng ta luôn luôn
cố gắng, càng nhiều càng tốt, đạt cho được những điều ước muốn, chúng có thể là những món ăn khoái miệng, quần áo
đẹp đẽ, người tình
hấp dẫn...
vân vân...
Chúng ta luôn luôn tìm sự khoan khoái trong đối tượng nhưng chẳng bao giờ
chúng ta nhìn ra được
đau khổ đang nằm sâu trong đó.
Chúng ta ham muốn chúng nhưng rồi
chúng ta lại
thất vọng về chúng. Sự
đau khổ vì
bất mãn là một trong những
đau khổ tàn hại nhất bởi vì nó
liên tục hướng dẫn
chúng ta bám víu hết đối tượng này đến đối tượng khác, sự
thèm khát xẩy ra
liên tục không ngừng nghỉ. Nó
thúc đẩy chúng ta trong suốt cả
cuộc đời, nó không còn dành cho
chúng ta một khoảng trống nào để nghĩ đến
con đường tâm linh,
thiền định,
thực hành Đạo pháp hầu giúp
chúng ta thoát khỏi những
đau khổ trong đời.
Chẳng những
chúng ta không tìm được bất cứ gì
chúng ta mong muốn mà
chúng ta cũng chẳng
chạy thoát được những gì
chúng ta không mong muốn. Từ
tinh thần đến thể xác,
chúng ta toàn gặp những
kẻ thù,
hoàn cảnh ngang trái,
bất mãn triền miên,
thức ăn không hợp khẩu vị....Những
đau khổ này đem đến cho
chúng ta hết
lầm lẫn này đến những
sai lạc khác trong
cuộc đời.
Sự không được
hài lòng và những
bất mãn trong
cuộc đời sẽ
ngăn cản chúng ta đến với bất cứ một loại
an bình nào. Không cần biết
chúng ta đã có những gì, không cần biết
chúng ta đã
sở hữu những
tài sản nào,
lòng ham muốn của
chúng ta vẫn
tiếp tục.
Chúng ta làm việc và đặt
kế hoạch,
chúng ta bày mưu đặt kế để chiếm thêm, chiếm thêm, làm như
chúng ta sẽ sống
cho đến muôn đời hoặc ít ra cũng thêm vài thế kỷ. Hãy nhìn cho kỹ, tất cả những gì
chúng ta đang
lo lắng để chiếm đoạt, toàn là cho cái thân xác này ! Tất cả những gì
chúng ta đang
cố gắng học hỏi trong
cuộc đời chỉ để đủ
điều kiện đi
xin việc làm. Đủ
điều kiện để có thêm một chút tiền.
Chúng ta không thể
hy vọng để sống thêm 50, 60 hay 70 năm nữa, bằng đó năm cũng chỉ để cho bằng đó
hoạt động.
Mục đích gì đây?
Chúng ta đã dùng
năng lực của đời ta cho nhiều thứ.
Chúng ta lo lắng cho thân xác khỏi bị
đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật,
an toàn và,
cuối cùng, chết.
Cả đời đã phải
tranh đấu để khỏi bị nguy hiểm,
cả đời đã phải
hy sinh rất nhiều thứ để
nô lệ cho những
mục đích này. Có thể
chúng ta đã tự lừa dối chính mình, nhưng trong tận sâu thẳm của
nội tâm chúng ta nó có thể nhìn thấy tất cả những
hoạt động này toàn mang lại khổ đau.
Mặc dầu chúng ta đã làm việc rất nhiều năm để có được sự
an toàn, nhưng
hoàn cảnh chỉ thay đổi một chút thôi
chúng ta cũng bị đau ốm, bị bệnh tật hoặc gặp phải những sự không may. Để được
an toàn thì thật là khó mà khổ đau thì đến luôn luôn. Ngay cả những điều
may mắn xẩy ra
trong đời, tưởng rằng sự
may mắn này giúp
chúng ta thăng tiến
cuộc đời nhưng có ngờ đâu nó lại là
nguyên nhân mang lại nhiều
đau khổ.
Thí dụ, tưởng rằng
để dành tiền đi nghỉ hè
vui chơi, nào ngờ
tai nạn khủng khiếp đã xẩy ra; chọn một nhà hàng
sang trọng để ăn nào ngờ bị
ngộ độc.
Đau khổ đến không chọn lựa ai cả.
Nếu
chúng ta ghi lại tất cả những
đau khổ đã xẩy ra
trong đời, cái danh sách đó chắc dài bất tận. Những gì được nói ra ở đây chỉ là
tượng trưng.
Tuy nhiên, tất cả mọi
hình thức đau khổ đều có thể xếp vào một trong ba nhóm:
đau khổ của
đau khổ,
đau khổ của sự thay đổi (hay thay thế) và
đau khổ hiểu một cách
rộng rãi.
Chúng ta sẽ
tìm hiểu sau đây.
Những
kinh nghiệm đau buồn trong qúa khứ không còn diễn ra bây giờ nữa nhưng chúng vẫn làm
chúng ta đau khổ. Không có gì là
hài lòng với bệnh tật,
lo lắng,
đau đớn,
sợ hãi hoặc những gì giống như vậy. Bất
cứ sự kiện nào đã làm
chúng ta không hạnh phúc,
không vui vẻ đều được coi như là
đau khổ của
đau khổ.
Những
sự kiện khác, như
thức ăn ngon miệng, quần áo đẹp hoặc những cái giống như vậy,
chúng ta có thể đo lường được sự
vui thích, sự thoả mãn. Nhưng nếu
tìm hiểu sâu xa hơn,
chúng ta có thể
nhận thấy rằng chính những cái
thỏa mãn này cũng có thể đem lại
đau khổ. Vì chúng chỉ cho
chúng ta những thú vui tạm thời, trong một
thời gian ngắn nào đó mà thôi. Chúng không có khả năng
tồn tại lâu dài.
Thí dụ như ăn một món
ăn ngon miệng. Hầu như tất cả
chúng ta đều cho rằng đây là
hạnh phúc thật sự, không có một chút gì buồn khổ trong đó. Nhưng nếu thực sự nó là như vậy -- ăn
thức ăn ngon là
hạnh phúc thật-- thì càng ăn nhiều càng có thêm
hạnh phúc mới phải. Ngược lại, nó không phải như vậy. Nếu
chúng ta tiếp tục ăn sau khi đã no, thì sự khoan khoái đã nhanh chóng
biến thành những cơn đau bụng. Chính vì
lý do nó chỉ cho
chúng ta những thoả mãn
nhất thời, tạm bợ nên
chúng ta gọi nó là
đau khổ đến thay thế.
Nếu
chúng ta ngồi lâu trong một tư thế,
chúng ta sẽ
cảm thấy mỏi mệt,
chúng ta muốn đứng lên đi dạo một chút. Khi hành động như vậy
chúng ta cảm thấy khoan khoái
dễ chịu. Nhưng
thực ra nó chẳng phải thật sự khoan khoái.
Sở dĩ chúng ta cảm thấy như vậy vì sự
mệt mỏi lúc ngồi đã biến mất khi
chúng ta đứng lên. Và
chúng ta tưởng rằng cảm nhận này là sự khoan khoái, nhưng cứ cho nó là như vậy đi, thì nó cũng chẳng được dài lâu. Khi
chúng ta đã đi mệt thì cái mà
chúng ta gọi là khoan khoái trước kia lại
biến thành đau đớn. Như vậy, không cần biết
chúng ta nghĩ,
chúng ta cảm nhận như thế nào, chẳng có gì trong
cuộc đời của
chúng ta mang lại cho
chúng ta sự khoan khoái thật, chẳng có gì mang lại cho
chúng ta chân hạnh phúc. Mọi cảm nhận
thoải mái chỉ là
nhất thời, ngắn ngủi rồi mau chóng chuyển thành chán chường, mỏi mệt, đau buồn.
Về nhóm
đau khổ thứ ba,
rộng rãi bao la hơn, chúng nằm sâu trong hai thứ
đau khổ vừa trình bày ở trên. Đó chính là
đau khổ vì có một thân xác và có một cái tâm, chúng là chủ thể
hấp dẫn cho
đau khổ, giống như cục nam châm hút sắt; đã có thân xác và có tâm thì tất nhiên phải khổ, cũng như đã là nam châm thì phải hút sắt.
Thí dụ,
đau khổ vì bao tử là sự
đau khổ tất nhiên phải xẩy ra của cái đau (
đau khổ thuộc về tâm, cái đau thuộc về thân xác --Dg). Sự khỏi đau tạm thời hay sự
thoải mái tạm thời mà
chúng ta cảm nhận được sau khi dùng thuốc, rồi lại đau
trở lại, là sự
đau khổ đương nhiên phải xẩy ra của sự thay đổi (dùng thuốc). Thật ra bao tử của
chúng ta phải
phản ứng như thế vì nó sẽ và có thể lại trở nên đau, đây chính là cái đau tất nhiên của sự
đau khổ rộng lớn, bao trùm.
Ngay cả
thú vật cũng có thể
nhận ra được cái đau như thế nào. Vì thế khi
chúng ta nói sự
thành đạt của
con đường tu tập phần lớn
tùy thuộc vào sự
hiểu biết thấu đáo về
đau khổ là không đúng,
thực ra nó không phải như vậy, nó không có nghĩa như vậy. Cái
ý nghĩa đích thực,
bản tính thật của
đau khổ chỉ được
khám phá ra khi nào
chúng ta trực nhận ra rằng tất cả những sự khoan khoái, tất cả những sự
vừa lòng toại ý tạm thời chỉ là một
hình thức khác của
đau khổ, và hơn nữa sự
sở hữu một cái thân
bất tịnh, một cái tâm
ô nhiễm là đã
sở hữu sự
bất mãn, là đã không
thoải mái và đã là
đau khổ. Chỉ khi nào
chúng ta thấu hiểu, chỉ khi nào
chúng ta xác nhận một cách
vững chắc được hai
nguyên nhân căn bản của
đau khổ này --nhất là căn nguyên thứ hai,
sở hữu một
thân tâm bất tịnh -- thì lúc đó
chúng ta mới mong, mới có thể vượt thắng được khổ đau, mới có thể
kiểm soát được
bất mãn.
Tất cả những sự khổ đau một cách
tự nhiên, một cách tất nhiên này đều là do
chúng ta có một thân xác và có một cái tâm. Cả thân và tâm bị
ô nhiễm đều bắt nguồn từ những
yếu tố nội tâm là ảo vọng và
phiền não. Theo
tâm lý học
Phật giáo, có 84,000 loại tâm bệnh khác nhau. Chúng bắt nguồn từ 6 loại ảo vọng chính:
tham lam,
kiêu mạn, nóng giận,
do dự ngờ vực,
quan niệm sai lầm (
bất chánh kiến) và
vô minh.
Theo
kinh điển, nguồn gốc của ảo vọng và
bất chánh kiến là tin vào những điều
sai lầm,
không thật và không tin vào những điều
chân thật. Không tin vào những điều
chân thật như: từ chối những
qui ước hiện hành của
con người, những
hiện tượng là căn nguyên của khổ đau, sự
chấm dứt của chúng, sự
liên tục nối tiếp hết đời này qua kiếp khác của chúng và không tin vào
luật nhân quả.
Năm
nguyên nhân đầu của ảo vọng, tất cả những
dục vọng và tất cả những khổ đau đều bắt nguồn
từ không thấu hiểu
đúng đắn về sự
hiện hành của chúng. Vì thế
vô minh được coi là
căn bản, là “nguồn gốc của luân hồi”.
Luân hồi là
cảnh giới của khổ đau mà tất cả
chúng sinh đã tự tạo ra cho chính mình. Đó là những chu kỳ không có
lựa chọn mà phải sinh ra, chết đi và
tái sinh lại trong khổ đau, ở trong đó tất cả
chúng ta cần phải thanh tẩy tâm cho sạch hết
ô nhiễm.
Sân hận,
tham lam,
kiêu mạn và
cố chấp là những ảo vọng cũng bắt nguồn từ
vô minh. Đây là những
hành vi, những
thái độ xấu, chúng là những
đám mây đen
che khuất chân tâm như mây đen
che khuất bầu trời
trong sáng.
Tại sao
chúng ta lại gọi nó là những
thái độ xấu? Vì những
thái độ này được tạo thành do
ảnh hưởng của
nghiệp lực và của ảo vọng, chúng đem
chúng ta đến
đau khổ. Bất cứ người nào hành động dưới một cái tâm như vậy đều
kinh nghiệm được những
đau khổ là do chính họ tạo ra. Đây chính là
con đường của
luân hồi, vòng khổ đau và vòng
tái sinh được
thành lập. Như vậy tất cả những hành động sản xuất ra những kết quả này và tất cả những ảo vọng
tác động lên những hành động này đều được gọi là xấu,
tiêu cực.
Nếu
chúng ta thực sự muốn đạt
chân hạnh phúc, sự
bình an miên viễn,
chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau,
chúng ta phải thanh tẩy tâm
chúng ta cho sạch hết tất cả những sự
xấu xa,
ô nhiễm này. Chỉ có cách này mới có thể
thanh toán được những
vấn đề, những
rắc rối của
chúng ta.
Thí dụ, nếu
chúng ta khó chịu vì bụi dơ bám vào vật gì đó thì
chúng ta phải lau sạch, phải rửa sạch những lớp bụi này đi thay vì
phá hủy hoặc đập vỡ vật đó đi. Sau khi đã rửa sạch,
chúng ta mới
thưởng thức nó một cách
trọn vẹn. Một công viên
tuyệt đẹp không thể luôn luôn có được. Một
công trình xây cất không phải lúc nào cũng
hấp dẫn tất cả
mọi người. Chúng cần được
bảo trì, tu sửa,
trang hoàng và làm sạch luôn luôn thì mới
hấp dẫn, mới
lôi cuốn được
du khách.
Hãy
áp dụng giống như vậy cho tâm của
chúng ta. Nếu những
suy nghĩ tính toán của
chúng ta gây
đau khổ phiền phức cho
chúng ta thì
chúng ta phải
chấm dứt suy nghĩ ngay.
Tốt hơn chúng ta nên
sử dụng những
phương pháp nội tâm để thanh tẩy tất cả những
xấu xa khởi phát ra từ
vô minh của
chúng ta. Nếu
chúng ta làm được như vậy,
chúng ta sẽ có sự
an bình chân thật. Sự
an bình này vượt xa những sự
thoải mái, những sự
dễ chịu bình thường, như đã trình bày ở trên, kiểu
hạnh phúc bình thường này cũng chỉ là những
hình thức vi tế của khổ đau mà thôi. Vì
chấm dứt hoàn toàn những nguồn gốc của khổ đau nên
chúng ta có được
chân hạnh phúc. Khi gốc của
đau khổ đã bị cắt đứt, thì
đau khổ không thể
trở lại. Lúc đó
chúng ta sẽ
kinh nghiệm được, sẽ
chứng nghiệm được thế nào là
hạnh phúc thật, thế nào là
viên mãn, không gì có thể
so sánh với nó.
Bây giờ
chúng ta đã hiểu tại sao không có một
con đường nào khác có thể giúp
chúng ta đạt được chân hạnh phúc nếu
chúng ta không thanh tẩy những
vọng tâm của
chúng ta. Cho tới khi nào tâm của
chúng ta còn đắm chìm trong
vô minh và
dục vọng thì không có gì có thể mang lại cho
chúng ta chân hạnh phúc, nhưng toàn là
đau khổ. Bởi vì chúng
ngăn cản sự
kiểm soát của
chúng ta và chúng
áp chế tâm của
chúng ta, như đã trình bày ở trên chúng chính là những sự
đau khổ tất nhiên. Bất cứ gì
hiện hành ở trong tâm thái này là
tự nhiên bị
đau khổ.
Thí dụ, giả thử có một cây độc mọc trong vườn của
chúng ta. Nếu
chúng ta không muốn nguy hiểm,
dĩ nhiên chúng ta sẽ không chỉ cắt tỉa bớt lá, bớt cành của cái cây này. Một cách
duy nhất để tẩy trừ tất cả những chất độc của nó phát ra từ thân, lá, cành, rễ... là đốn bỏ, đốt
toàn thể cái cây này đi.
Chúng ta đào cho thật sâu để
phá hủy tất cả những chiếc rễ mà nó đã sản xuất ra chất độc.
Chúng ta cũng nên dùng đường lối làm việc này cho tâm của
chúng ta để
giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và chặt đi tất cả những gì còn có thể sản xuất ra khổ đau. Nếu
chúng ta không
quyết tâm mạnh mẽ như vậy, thì những gì
chúng ta áp dụng chỉ đem lại những niềm vui
nhất thời, tạm bợ, rồi khổ đau lại ào ào kéo đến,
trở lại. Nếu
chúng ta muốn
thoát khỏi sinh tử luân hồi,
chúng ta phải
chấm dứt tất cả những
nguyên nhân gây ra
đau khổ, đó chính là
vô minh.
Ngược lại với
vô minh là
trí tuệ.
Trí tuệ là sự thấu hiểu
sâu xa tận gốc rễ sự vật,
hiện tượng xuất hiện và
chúng hiện diện như thế nào.
Thường thường chúng ta rất mù mờ, không thực sự hiểu sự vật
hiện hành như thế nào. Như tôi đã trình bày,
chúng ta thường lầm tưởng rằng căn nguyên của
đau khổ cũng là căn nguyên của
hạnh phúc.
Chúng ta đã không
nhận diện được
vô minh, ảo vọng và ngay cả những khổ đau riêng tư của chính
chúng ta mỗi khi nó
xuất hiện.
Chúng ta đã đeo đuổi
vô minh, đã phục tùng chúng như là những vị thầy hoặc những hướng đạo viên của
chúng ta. Tâm trong
trạng thái mê ảo thì luôn luôn tưởng tượng ra những ảo mê về
thực tại, về
chân lý, rồi trong sự
mù quáng đó
chúng ta mơ tưởng,
chúng ta ước ao chúng chính là
sự thật, chúng có thật (nhưng chúng chỉ là giả,
vọng tưởng; dưới bóng mây đen thì cái gì cũng
đen tối, đeo kính màu gì thì chỉ nhìn thấy sự vật màu đó, dưới bóng của
vô minh, của mê ảo thì sự vật,
hiện tượng cũng
hiện hành là ảo, ngỡ là
sự thật nhưng chính là mê ảo. Chỉ khi nào bỏ kính
vọng tưởng ra thì mới thấy màu thật của sự vật –Dg)
Sự thiền định của
chúng ta, về
Đạo pháp, chỉ có thể có kết quả trong việc gỉai quyết những
vấn đề, những
rắc rối, nếu
chúng ta đặt
trọng tâm vào việc tẩy trừ
vô minh.
Con đường của một
tôn giáo duy nhất phải có chính là
con đường xóa bỏ tận gốc rễ của
đau thương. Bộ mặt thật của
vô minh mà
chúng ta cần phải đối diện với và
cần phải phá hủy tan tành tận gốc rễ của nó chính là “chấp ngã, chấp cái tôi, TÔI” hay “tâm-thức-tôi.” Nếu
chúng ta tự
chiêm nghiệm,
tự quán xét
nội tâm của chính
chúng ta trong từng giây phút,
chúng ta sẽ
nhận ra một cách rất rõ rệt là
chúng ta luôn luôn bị
ảnh hưởng của tâm-thức-tôi này. Chính là nó, bởi vì
chúng ta thiếu sự
tỉnh thức của
trí phân biệt nên
chúng ta không
nhận diện được
toàn thể tâm của
chúng ta đang bị
ảnh hưởng bởi căn nguyên mê mờ ảo vọng này.
Tâm-thức-tôi có thể được
giải thích như sau. Không cần biết
chúng ta đang làm gì –như đang nghe thuyết giảng--
chúng ta có một
cảm giác nào đó về ai hay cái gì mà
chúng ta đang là, về cái “TÔI”. Rất mạnh mẽ,
chúng ta tin chắc chắn rằng cái “TÔI” là một cái gì
độc lập, tự
hiện hữu, đứng tách biệt ra khỏi những cái khác.
Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng nó biệt lập với thân xác, với tâm hay với bất cứ cái gì khác. Cái “TÔI” này
xuất hiện một cách vĩ đại,
vững chắc và
độc lập.
Cảm giác này luôn luôn có ở
chúng ta và
chúng ta chấp,
chúng ta bám vào
ý niệm này một cách
vô cùng mạnh,
vô cùng chặt. Trong chiều hướng này,
ý tưởng “Tôi là, Tôi...” trở nên rất quan trọng, hơn bất cứ một
sự kiện nào khác. Đây chính là khuynh hướng chuyển cái “TÔI” thành một cái gì đó để
thành hình vô minh rồi nhốt
chúng ta vào
đau khổ.
Chúng ta có thể
nhận ra phản ứng của cái tôi rất dễ dàng mỗi khi
chúng ta nghe những
lời nói không
lịch sự, lỗ mãng. Người ta nói chạm
tự ái của
chúng ta, nhừng lời chê bai, những lời
chế diễu, những lời
chọc tức...
vân vân... khi nghe những lời này là
ngay lập tức chúng ta nổi nóng,
chúng ta tức giận,
tính xấu của
chúng ta tự nhiên phát khởi và
chúng ta không còn
tự chủ được nữa. Ngay lúc đó, cái “TÔI” của
chúng ta trở nên mạnh mẽ và cao hơn cả dãy
Hy Mã Lạp Sơn. Con mãnh thú “TÔI” dồn vào trái tim của
chúng ta uất ức, tức bực, nó phừng phực, nó khó thở, nó nghẹn ngào để rồi bao nhiêu cái
xấu xa trầm ẩn nổi ra cho hết, tất cả những
sự kiện này sản xuất ra
đau khổ. Trong
trường hợp này,
bất chánh kiến về chính
chúng ta, cái nhìn
vô minh về chính
chúng ta càng
độc lập, càng
bảo thủ bao nhiêu thì
rắc rối càng đến bấy nhiêu, càng mạnh bấy nhiêu.
Chúng ta cho là tất cả những gì
chúng ta nhận được đều bị
bóp méo. Khi nghĩ về
chúng ta,
chúng ta luôn luôn ở trong chiều hướng muốn
bảo vệ cái tôi của mình, bám vào cái tâm-thức-tôi của chính mình. Đứng trên
căn bản của
quan niệm sai lầm này,
chúng ta thực sự đã bám vào cái “TÔI” của
chúng ta. Bởi vì
chúng ta quan niệm thân xác “của tôi”, tâm “của tôi”, và
tài sản “của tôi” là những
thực thể độc lập, tự
hiện hữu, có thật,
chúng ta bám chặt vào chúng, từ đó rất nhiều
tính xấu bắt đầu khởi lên,
xuất hiện ra đều có
liên hệ đến chúng. Giống như thế, vì
chúng ta quan niệm tất cả mọi
hiện tượng là tự có và
độc lập nên
chúng ta nghĩ nó đẹp và
hấp dẫn, do đó sự
mong ước chiếm đoạt chúng được khởi lên trong tâm của
chúng ta. Tâm
bất mãn và
bất an của
chúng ta hướng dẫn
chúng ta bám chặt vào những đối tượng được coi là tự
hiện hữu này, nhưng sự
thoải mái và
hạnh phúc mà
chúng ta đã đặt
tin tưởng vào chúng lại không bao giờ xảy ra. Vì thế,
đau khổ của
chúng ta cứ lớn dần, lớn dần thay vì
giảm bớt đi.
Không những sự
bám víu của
chúng ta mà cả sân hận,
kiêu mạn và tất cả những ảo vọng,
dục vọng khác cũng đều khởi phát ra từ
căn bản vô minh này. Bởi vì
chúng ta nghĩ
chúng ta, những đối tượng ở bên ngoài và tất cả những người khác
hoàn toàn là những
cá thể độc lập, nên
chúng ta muốn chiếm đoạt,
đề phòng hoặc có những
thái độ tâm đóng kín đối với chúng.
Chúng ta tấn công, chê bai
chỉ trích hoặc mất
thiện cảm với bất cứ ai không làm
vừa lòng chúng ta hoặc
ngăn cản chúng ta, trong khi đó
chúng ta lại bỏ qua cho những ai giúp đỡ và đồng tình với
chúng ta.
Chúng ta đánh giá và xếp loại từng người ai là “bạn”, ai là “thù”, ai là “kẻ xa lạ” rồi
chúng ta cho bảng xếp loại này là
sự thật, là có thật. Trong
trường hợp này, bên trong tâm của
chúng ta sẽ khởi lên một sự
sai lầm trầm trọng về tình bằng hữu, tình
con người.
Thái độ của
chúng ta bị tô mầu
xấu xa, kết quả là những
hành vi cử chỉ của thân khẩu và ý của
chúng ta sẽ không còn
tốt đẹp và
đạo đức nữa. Như đã trình bày ở trên, những hành động thiếu
đạo đức này sẽ hướng dẫn
chúng ta tạo ra
nghiệp lực để thắt
chúng ta mỗi ngày mỗi chặt hơn vào vòng
luân hồi của
đau khổ. Như vậy,
một lần nữa,
chúng ta cần
hiểu rõ nguồn gốc của tất cả những
đau khổ là do
vô minh,
chúng ta đã thực sự không biết sự vật
hiện diện như thế nào,
hiện tượng xuất hiện như thế nào.
Giá trị đích thực của bất cứ một
tôn giáo nào, dù
thiền định hay dù
áp dụng bất cứ
phương pháp nào, đều
tùy thuộc vào khả năng của nó có giúp
con người cắt đứt được những
căn bản vô minh hay không, để
con người có thể
thoát khỏi những
đau khổ do ảo vọng mà ra hay không. Bất cứ
tôn giáo nào, bất cứ
triết thuyết nào mà
cung cấp những
phương pháp tẩy trừ
vô minh đều là
tôn giáo thật, đều là
chánh Pháp. Qua
lịch sử, đã có rất nhiều vị thầy vĩ đại chỉ cho
chúng ta những
con đường thanh tẩy
vô minh để
chấm dứt đau khổ. Nếu sự
thực hành của
chúng ta có
hiệu quả trong việc cắt đứt căn nguyên
vô minh thì
chúng ta có thể
tin tưởng một cách mãnh liệt rằng
chúng ta đang theo
chánh Pháp, không cần biết nó có tên là gì, được gọi như thế nào.
Đạo Pháp,
Phạn ngữ Dharma, có nghĩa là “cầm giữ, nắm giữ.” Theo
ý nghĩa đó,
chúng ta nắm giữ cái bình để nó khỏi rơi, khỏi bị bể vỡ, sự
chân thành thực hành Đạo Pháp giữ
chúng ta khỏi những sự nguy hiểm và
sai lầm dẫn
chúng ta đến
đau khổ. Như vậy, bất cứ cái gì
chúng ta làm –có thể là
thiền định, có thể là một đường hướng sống hay là một
phương pháp hướng dẫn
cuộc đời chúng ta—mà chữa được bệnh
vọng tâm của
chúng ta thì đó chính là
tinh túy của sự
thực hành Đạo pháp.
Phương pháp đó không phải là
đặc quyền của một
truyền thống nghi lễ riêng biệt nào. Nó cũng chẳng
tổn hại gì, cho dù
hành giả đó thuộc
Hồi giáo hay
Do thái giáo,
Thiên chúa giáo hay
Ấn độ giáo,
Phật giáo hay một thuyết giáo nào hoặc bất kỳ một
tôn giáo nào. Nếu
phương pháp mà
chúng ta đang
thực hành giúp
chúng ta phá tan được ảo vọng và cắt đứt được tận gốc rễ của khổ đau của
chúng ta thì đó chính là
tinh túy của việc
thực hành tâm linh, nó gọi là
Đạo Pháp.
Có rất nhiều cấp độ ảo vọng khác nhau nên cũng có nhiều cách
thực hành Đạo pháp khác nhau để
chấm dứt ảo vọng. Tất cả những
con đường tu tập chấm dứt ảo vọng đều nằm trong
Đạo pháp. Qua sự
chân thành áp dụng những
phương pháp thiền định có
hệ thống,
chúng ta xóa bỏ khỏi tâm
chúng ta những
quan niệm sai lầm, những
thái độ nhị nguyên và những thói hư tật xấu của
chúng ta.
Chúng ta sẽ đạt
giác ngộ, sự toàn mãn. Sự
thành đạt chắc chắn sẽ đến bởi vì tâm ảo vọng (
vọng tâm) không phải là tâm bản nhiên, bởi vì những gì
xuất hiện ra trong
tâm không phải là tâm. Tâm chỉ
nhất thời chạy theo ảo vọng cũng giống như một chiếc bình có một vết bẩn mà thôi. Một vết bẩn không phải là chiếc bình, nó có thể được rửa sạch. Giống như vậy, tâm bản nhiên của
chúng ta vốn
trong sáng,
nhất thời bị ảo vọng
che khuất, nó có thể được tẩy sạch.
Sự
chấm dứt hoàn toàn đau khổ và
giác ngộ là sự
thành đạt rất cao quí,
giá trị của nó không gì
sánh bằng nên
chúng ta phải dồn hết
năng lượng của
chúng ta vào
con đường tâm linh. Hơn nữa, sự
thực hành và sự
học hỏi của
chúng ta tùy thuộc vào sự lắng nghe và vào sự
nghiên cứu chân tính của bất cứ những gì
chúng ta được
dạy bảo. Như vậy, sự
học hỏi và kết quả của nó cũng
vô cùng quan trọng và
cần thiết cho
con đường tâm linh. Nếu
chúng ta học hỏi nghiên cứu phương pháp Đạo pháp trong
nội tâm rồi đem
áp dụng những điều
học hỏi đó ở ngoài cuộc sống thì
đời sống của
chúng ta thực sự có một
ý nghĩa và tràn đầy ơn ích cho chính mình cũng như cho những người khác.
Nếu
chúng ta theo một
phương pháp toàn hảo,
chúng ta sẽ không
thất vọng vì để mất
thời giờ. Còn nữa, trong giờ phút cận tử, giờ phút của sự chết,
chúng ta sẽ không
sợ hãi và
lo lắng bối rối. Vì đã phát triển
phương pháp liên hệ với
nội tâm nên
chúng ta có thể
kiểm soát được tiến trình của
tâm linh,
chúng ta có thể
đối diện với
tử thần một cách
bình tĩnh thanh thản,
tự chủ và
an nhiên. Biết rằng
chúng ta đã sống
một đời tốt đẹp nên
chúng ta sẽ có tự tin,
vững chắc tin tưởng hạnh phúc và
an lạc sẽ đến.
Tất cả những gì tôi trình bày ở đây đều là những
kinh nghiệm của các vị thiền giả và những vị đã và đang
thực hành Đạo pháp. Có rất nhiều vị đã đạt
giác ngộ, đã
thành công trong
vấn đề thanh tẩy tâm. Họ đã
áp dụng phương pháp này để thanh tẩy những
ý niệm sai lầm và những
thói quen xấu của họ,
chúng ta cũng có thể
thực hành như vậy. Khi
đạt đến trình độ phát triển này,
chúng ta có thể đem
lợi ích đến cho người khác và giúp những người khác trên
con đường thực hành Đạo pháp. Vì
lòng vị tha,
chúng ta sẽ biết hướng dẫn những người khác cùng thoát khổ
tùy theo cá tính riêng của họ. Không còn một
mục đích nào khác trong
cuộc đời cao đẹp hơn thế nữa.
Để
kết luận, đây là
phương pháp tối
thiện xảo mà
chúng ta có thể dùng để
đối diện với những
vấn đề của
chúng ta. Nếu tâm của
chúng ta đầy
dục vọng,
chúng ta sẽ gặp rất nhiều
đau khổ mỗi khi chúng bị
ngăn cản. Nhưng nếu
chúng ta biết cách
áp dụng Đạo pháp,
chúng ta có thể hướng dẫn tâm của
chúng ta vào
con đường thực hành Đạo pháp trong đời sống,
chúng ta sẽ có những
chứng nghiệm hạnh phúc và
an lạc ngay cả trong những lúc gặp cảnh khó khăn.
Mặc dầu chúng ta chưa phát triển
thâm sâu Đạo pháp, chỉ mới bắt đầu
thực hành một chút,
chúng ta cũng vẫn
kinh nghiệm được sự
an lạc trong đời sống thường ngày của
chúng ta. Do đó, hãy
quan tâm đến tất cả muôn loài
chúng sinh –ngay cả đến một con vật nhỏ
li ti – để phát triển
chân hạnh phúc và để
giải thoát khỏi
đau khổ, đây là điều
vô cùng có
giá trị trên
con đường thực hành Đạo pháp, trên
con đường phát triển khả năng
tâm linh của
chúng ta.
Cám ơn quý vị nhiều lắm.
Chúng ta vẫn còn giờ, quý vị có thể đặt câu hỏi.
Hỏi: Thưa ngài,
chúng tôi bắt đầu
thực hành như thế nào?
Trả lời: Trước nhất hãy
học hỏi Đạo pháp. Nếu
chúng ta không có
căn bản,
chúng ta sẽ không biết thanh tẩy như thế nào. Do đó, trước hết
chúng ta hãy tìm một
phương pháp đúng và
thích hợp để học.
Chúng ta hãy lắng nghe những lời
giải thích của những vị thầy có
kinh nghiệm. Họ phải là người đã và đang
thực hành những lời dậy bảo này. Vì theo học những vị thầy như vậy,
chúng ta mới vừa
học hỏi những lời dậy bảo vừa kiểm chứng họ
đồng thời chúng ta cũng phải
tự chứng nghiệm được những lời dậy bảo này. Rồi
chúng ta thiền định trên những gì đã được
học hỏi, hãy đem tất cả những cái đó ra
thực hành trong đời sống thường ngày của
chúng ta. Như vậy,
trí tuệ của
chúng ta sẽ từ từ phát triển.
Hỏi: Vì
Đạo pháp bắt nguồn từ
văn hóa Đông phương,
phải chăng Đạo Phật cũng có thể
thích hợp cho người Tây phương?
Trả lời: Như tôi đã trình bày,
thực hành Đạo pháp không bắt buộc phải có một
quy luật nhất định cố chấp nào đó.
Đạo pháp không phải là một cái gì có khuôn khổ cứng ngắc.
Mặc dầu có những người
ngồi thiền khoanh chân nhắm mắt, nhưng những thế ngồi này tự nó không phải là
tinh túy của
Đạo pháp.
Một hành động được coi là
thực hành Đạo pháp chân thật khi nó thực sự
tác động đến tâm. Nếu ảo vọïng được nhổ đi tận gốc và
đau khổ hoàn toàn biến mất khi
chúng ta thực hành một cái gì đó thì cái đó chính là
Đạo pháp. Như vậy,
chúng ta vẫn có thể
thực hành Đạo pháp cho dù
chúng ta làm việc trong
văn phòng tại một thành phố đông người hay
chúng ta là một lao công ngoài đường phố.
Vấn đề chính yếu là ảo vọng của
chúng ta có giảm đi hay không.
Bất cứ một hành động nào cũng có thể chuyển
thành sự thực hành Đạo nếu nó được
hoàn thành bởi một
động lực đúng và
chân thành. Nếu
chúng ta quyết tâm làm việc để tẩy trừ
vô minh của
chúng ta và
chúng ta có thể giúp những người khác thắng được những
đau khổ của họ thì đó là
Đạo pháp, bất kể nó là
phương pháp nào.
Đạo Phật, một trong những đạo chính của
thế giới, giảng dậy rất nhiều
phương pháp để thanh tẩy những động năng của
chúng ta. Nó được
áp dụng và có khả năng
thích hợp với tất cả mọi
hoàn cảnh của bất cứ
xã hội nào, Đông cũng như Tây. Do đó, một người
Tây phương hiểu được
tinh túy của
Đạo pháp và
hình thức văn hóa mà nó sẽ hội nhập vào, thì họ có thể mang lại rất nhiều ơn ích cho chính họ và cho những người khác bất kể những gì họ học được.
Hỏi: Có sự
liên hệ gì giữa triết lý
mật tông và sự
thực hành Đạo pháp?
Trả lời: Không có bất cứ một sự
thực hành mật tông nào mang lại kết quả nếu
chúng ta không có
căn bản về
Đạo pháp. Chính
mật tông là sự
thực hành Đạo pháp, nên đừng nghĩ rằng có một sự
thực hành nào đó ở bên ngoài
Đạo pháp.
Nếu
chúng ta kiếm được một văn bản nào đó nói về
mật tông rồi thử
áp dụng nó mà không thấu hiểu
Đạo pháp thì không thể có kết quả. Đây là
sự thật, thay vì những sự
thực tập mang đến những kết quả tốt,
giảm bớt u mê ảo vọng thì nó lại làm tăng thêm
vô minh và càng đi sâu vào
sai lầm nhiều hơn nữa.
Mục đích của
mật tông cũng giống
như Đạo pháp, là để
thoát khỏi khổ đau, bằng cách bỏ đi những
chướng ngại tinh thần (
sở tri chướng.)
Mật tông được coi như một
phương pháp rất
thâm sâu bởi vì nó là một
phương pháp rất nhanh trên
con đường tiến tới giác ngộ. Nhưng động năng
thúc đẩy vào
con đường thực hành mật tông chính là sự ước muốn đạt
giác ngộ càng nhanh càng tốt để
cứu độ muôn loài
chúng sinh càng mau có kết quả. Chỉ có sự
thúc đẩy của một
Bồ đề tâm bao la mới mong
thực hành mật tông có kết quả.
Như vậy,
mục đích và động năng
thúc đẩy của
mật tông hoàn toàn giống
như Đạo pháp, nó là một
thành phần của
Đạo pháp, sự dậy bảo cao thâm này nương theo sự dậy bảo tổng quát. Nếu nghĩ nó là một
thành phần riêng rẽ biệt lập thì nó sẽ tạo thêm những
rắc rối, những
vấn đề khác nữa, khác nữa.
Hỏi: Ngài có coi việc dùng thuốc (
ma túy) là
con đường thực hành tâm linh không?
Trả lời: Không, tôi không cho là những người
chân thành thực hành Đạo pháp lại nghiện ngập.
Tuy nhiên, tôi không phủ nhận có một số người trong lúc bắt đầu phát triển, một vài
kinh nghiệm nào đó của thuốc có thể giúp họ.
Thí dụ, tâm của một số người rất hạn hẹp, không được cởi mở, họ không tin vào bất
cứ sự hiện hành nào của
hiện tượng mà nó
xuất hiện qua bình diện
vật chất. Vì thế, nó có thể giúp họ
nhận ra được
sự thật trong một chiều hướng khác với chiều hướng
bình thường, có
giới hạn.
Sự kiện này có thể mở cho họ một khả năng phát triển tâm mà những người khác không biết. Như vậy, sau khi sự phát triển đã được
chứng nghiệm mà họ vẫn còn
tiếp tục dùng thuốc thì họ đã tạo ra thêm
ấn tượng cho
ảo tưởng,
thực ra sự kiện này đã chẳng
giảm bớt vô minh.
Kinh nghiệm dùng thuốc có giúp gì được hay không
tùy theo người dùng thuốc. Tôi không coi việc dùng thuốc là một
phương pháp tốt khi bước vào
con đường tâm linh.
Hỏi: Khi bước chân vào
con đường tâm linh, vị thầy quan
trọng như thế nào?
Trả lời: Ngay cả làm một việc nhỏ mọn tầm thường, như đi du lịch từ nước này đến nước khác
chúng ta cũng
cần phải có người đã có
kinh nghiệm hướng dẫn. Nếu
chúng ta muốn học một ngoại ngữ,
chúng ta cũng
cần phải có một ông thầy hiểu và nói được thứ tiếng đó. Đây là một sự
cần thiết, một sự hướng dẫn rất thông thường mỗi khi
chúng ta muốn
học hỏi nghiên cứu một
vấn đề gì.
Đây là một
sự thật dành cho tất cả mọi
vấn đề học hỏi, như vậy
học hỏi Đạo pháp lại còn cần thầy hơn nữa.
Tại vì con đường Đạo không
quen thuộc với
chúng ta, nó
hoàn toàn xa lạ mà nó lại có
liên hệ đến rất nhiều khía cạnh của chính
chúng ta và với những
hiện tượng khác nữa.
Lý do chính yếu mà
chúng ta đau khổ là
chúng ta có
thói quen nhìn sự
chân thật qua cái lăng kính
bệnh hoạn ngã chấp độc tôn của
chúng ta. Nếu
chúng ta muốn tẩy sạch những ảo vọng, những
u mê trong tâm của
chúng ta,
chúng ta cần phải có một vị thầy đã có nhiều
kinh nghiệm trong
vấn đề này, đã có
thực chứng về
vấn đề này.
Vì
tính cách quan trọng trong việc
theo đuổi con đường tâm linh, vị thầy hướng dẫn
tâm linh của
chúng ta phải là một vị thầy
hoàn hảo. Họ phải là người sống cho
Đạo pháp, phải là một
thí dụ điển hình của
Đạo pháp. Điều
vô cùng quan trọng là tâm của họ đã có những
chứng nghiệm, đã
hoàn toàn lãnh hội được những
trạng thái thực hành đúng và họ đã nắm vững những sự
hiểu biết không
sai lầm. Nếu
chúng ta nhận được những lời
giải thích đúng đắn chân thật của vị thầy, rồi
nghiên cứu,
chiêm nghiệm và
thiền định nghiêm túc trên những lời dậy bảo đó,
chúng ta sẽ
đạt được thành quả theo
ý muốn. Ngược laiï, nếu
chúng ta tin tưởng vào vị thầy không có
đủ khả năng thì rất nguy hiểm, sự
thực hành của
chúng ta sẽ
đi vào hết
lầm lẫn này đến
lầm lẫn khác, để rồi
cuối cùng chẳng đi đến một kết quả nào.
Hỏi: Làm thế nào để tránh được
trường hợp chấp,
bám víu vào
con đường thực hành tâm linh?
Trả lời: Có những người muốn
theo đuổi con đường tâm linh để
quyến rũ người khác.
Họ thích được gọi là một người
thánh thiện hoặc một người có
đời sống tâm linh. Đây là một sự
hiểu lầm Đạo pháp, đây là sự
lợi dụng Đạo pháp. Nhưng nếu
thành tâm muốn
chấm dứt khổ đau và muốn cho tâm mình và tâm những người khác được
an tịnh thì ước muốn này không xấu. Đây không phải là
trường hợp chấp hoặc
bám víu mà nó có thể gây
rắc rối phiền muộn cho
chúng ta. Ngay từ lúc bắt đầu bước chân vào
con đường mà đã có nguyện ước như
vậy thì đã có ơn ích rất nhiều rồi, đây không phải là
bám víu,
chúng ta không
cần phải lẩn tránh.
Những
bám víu xấu luôn luôn dẫn đưa
chúng ta đến
đau khổ. Với những động năng
tham dục,
chúng ta sẽ tạo ra những hành động không
đạo đức, nó sẽ đem lại khổ đau cho chính
chúng ta và cho những người khác. Nhưng lòng
ao ước thực hành Đạo pháp không được coi là
tham dục. Nó
hoàn toàn khác. Động năng
thúc đẩy chúng ta thực hành Đạo pháp khuyến khích
chúng ta đi vào sự
thực hành để
giảm bớt, không tăng lên, những
đau khổ. Không có sự
thực hành này,
chúng ta sẽ bị
trói buộc vào vòng
luân hồi và chẳng được hưởng một chút ơn ích gì trong
kiếp người.
Phải có một động năng
thúc đẩy mãnh liệt lắm thì mới có thể bước vào
con đường tâm linh, bởi vì sinh ra là
chúng ta đã bị hướng dẫn vào
con đường chấp ngã. Do đó, vì ước muốn
thực hành Đạo pháp để đạt kết quả tốt nên ngay từ khi bắt đầu
chúng ta không nên lo sợ bị dính mắc, bị
lệ thuộc.
Chúng ta nên
cố gắng tiếp tục thực hành với một
động lực càng
trong sạch càng tốt, hãy mong muốn thật nhiều ơn ích cho muôn loài
chúng sinh.
Cám ơn quý vị nhiều lắm.