THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP BA
H.T Thích Thanh Từ
Tu Viện Chơn Không 1981
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
29- Thiền sư Từ Tông ở Tuyết Đậu Minh Châu.
30- Thiền sư Huệ Huy Tự Đắc ở Tịnh Từ Hàn Châu.
31- Thiền sư Huệ Phương ở Hòa Sơn.
32- Am chủ Diệu Phổ Tánh Không ở Hoa Đình.
33- Thiền sư Thủ Trác ở Trường Linh Thiên Ninh.
34- Thiền sư Bổn Tài Phật Tâm ở Thượng Phong Đàm Châu.
35- Thiền sư Khắc Cần Phật Quả ở Chiêu Giác.
36- Thiền sư Huệ Cần Phật Giám ở Thái Bình.
37- Thiền sư Thanh Viễn Phật Nhãn ở Long Môn.
38- Thiền sư Đạo Ninh ở Khai Phước Đàm Châu.
39- Thiền sư Nguyên Tĩnh ở Nam Đường Đại Tùy.
40- Thiền sư Tông Thới ở Vô Vi Hán Châu.
41- Thiền sư Biểu Tự ở Ngũ Tổ Kỳ Châu.
29. THIỀN SƯ TỪ TÔNG
Ở Tuyết Đậu Minh Châu
Sư họ Trần, quê ở Huy Châu, thuở nhỏ chuyên học kinh, khi thọ giới cụ túc xong, nương theo Thiền sư Huệ Diệu Trạm thưa hỏi được thích nhiên khế hợp. Thiền sư Huệ lấy phất tử phó chúc cho Sư.
*
Sau Sư đến Thiền sư Hoằng Trí nhờ ấn khả, ở đây đạo đức của Sư càng được thâm áo. Sau này Sư trụ trì các nơi như: Phổ Chiếu, Thiện Quyền, Thúy Nham, Tuyết Đậu.
*
Sư thượng đường: Mỗi người đều có cái lỗ mũi, chỉ có Thiện Quyền không lỗ mũi. Tại sao không? Vì hai mươi năm trước bị người kéo rơi rồi. Mỗi người đều có hai tròng con mắt, Chỉ có Thiện Quyền không tròng con mắt. Vì cớ sao? Vì bị người lấy cây móc rồi. Mỗi người đều có xương sọ, chỉ có Thiện Quyền không xương sọ. Vì sao không? Vì người mượn làm gáo đựng phân rồi. Sư bèn gọi đại chúng nói: Lỗ mũi không, tròng con mắt không, xương sọ cũng không. Quí vị lại biết Thiện Quyền chăng? Nếu chẳng biết là quí vị chôn vùi Thiện Quyền. Nếu chẳng như thế, hãy nghe một bài tụng: ?Trâu đất đáy khe vàng phết mặt, đầu non gái đá mặc chân hồng, trên cọc cột lừa cỏ thơm ngát, chẳng phải mây che chót lò hương.?
*
Sư thượng đường: - Thúy Nham chẳng phải chẳng nói, chỉ vì không có thời tiết, sáng nay thích thú mấy khi, một câu vì anh mổ xẻ, cột cái vốn là khúc cây, trái cân chỉ là sắt nguội. Quí vị nếu đến các nơi, chớ nói Sơn tăng nhiều lời.
Tăng hỏi: - Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào?
Sư đáp: - Mất đi lỗ mũi ông.
Tăng hỏi: - Sau khi ra khỏi nước thì thế nào?
Sư đáp: - Xỏ phủng tròng mắt ông.
Tăng hỏi: - Thế nào là chánh pháp nhãn?
Sư đáp: - Đậu đen.
Tăng hỏi: - Thế nào là quân?
Sư đáp: - Mài giũa kiếm ba thước, đợi chém người bất bình.
Tăng hỏi: - Thế nào là thần?
Sư đáp: - Mây trắng thật quá rảnh, dòng nước rất lăng xăng.
Tăng hỏi: - Thế nào là quân thần đạo hiệp?
Sư đáp: - Mây bay mưa rơi trăng sáng sao soi.
Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung thiên?
Sư đáp: - Hoa ấu chưa soi trước.
Tăng hỏi: - Thế nào là thiên trung chánh?
Sư đáp: - Sum vầy không thiếu dư.
Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung lai?
Sư đáp: - Khắp cõi bặt mảy trần.
Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung chí?
Sư đáp: - Công cắn tên trước đùa.
Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung đáo?
Sư đáp: - Mười đường chẳng lọt mảy tóc.
Tăng hỏi: - Thế nào là chuyển công tựu vị?
Sư đáp:-Buông tay chẳng tựa toàn thể hiện, thuyền con ngư phủ tựa hoa lau.
Tăng hỏi: - Thế nào là chuyển vị tựu công?
Sư đáp:-Đêm giữa đầu non trăng gió lặng, cây cao con vượn một tiếng kêu.
Tăng hỏi: - Thế nào là công vị tề chương?
Sư đáp: - Ra cửa chẳng đi lối trở lại, bụi bay đầy mắt dứt điểm ai.
Tăng hỏi: - Thế nào là công vị câu ẩn?
Sư đáp: - Trâu đất uống cạn trăng đầm lặng, ngựa đá ra roi chẳng ngoái đầu.
*
Sư tịch tại núi này, tháp toàn thân góc Tây Nam của chùa.
*
30. THIỀN SƯ HUỆ HUY TỰ ĐẮC
Ở Tịnh Từ Hàn Châu
Sư họ Trương, quê ở Hội Khê, thuở nhỏ Sư nương theo thầy Đạo Ngưng ở Trừng Chiếu thế phát và thọ giới cụ túc. Năm hai mươi tuổi, Sư đến yết kiến Chơn Yết ở Trường Lô có sở chứng chút ít. Sau đó, Sư đến yết kiến Hoằng Trí. Trí nhắc: ?chính trong sáng có tối, chẳng dùng tối gặp nhau, chính trong tối có sáng, chẳng dùng sáng thấy nhau? để hỏi Sư. Sư chẳng khế hội. Đầu hôm, Sư định trở lại trước tượng Thánh tăng thắp hương, mà Hoằng Trí cũng vừa đến. Sư trông thấy liền chóng rõ câu nói trước. Hôm khác, Sư vào thất. Hoằng Trí nhắc: Than ôi! Ngày trước mặt như ngọc, lại than! Xoay về râu tợ sương, để hỏi Sư. Sư đáp: - Kia vào ly, kia ra vi. Từ đây, Sư hỏi đáp không ngại.
Hoằng Trí nhận là Chân tử trong thất.
Niên hiệu Thiệu Hưng (1131), Sư khai pháp ở Phổ Đà, kế đến Vạn Thọ, Kiết Tường, Tuyết Đậu. Niên hiệu Thuần Hy thứ ba (1176), sắc vua bổ Sư trụ trì chùa Tịnh Từ.
Sư thượng đường: Tái tê gió bắc quét cây rừng, về cội lá rơi hiện mảnh tâm, muôn dòng về biển thuyền bờ đến, sáu cửa sáng ngời cải gặp kim, vốn đã hiện thành chớ kiếm tìm, đất tánh thảnh thơi xưa nay sáng, ngoài cửa tuyết tan sắc xuân đông, bốn núi lẫn làm cây long ngâm.
Sư thượng đường: Ông già Thích-ca cùng lý tận tánh miệng vàng nói ra giáo lý một đời dường thể xoay châu chuyển ngọc, vẫn bị người gọi là giấy cũ lau ghẻ. Tổ sư Đạt-ma dùng pháp Nhất thừa chỉ thẳng riêng truyền, nhìn vách chín năm chẳng lập văn tự, bị người gọi là Bà-la-môn nhìn vách. Hãy nói hành lý thế nào? Thơ bị người bên chỉ ra rồi, chăn kéo trùm đầu muôn việc thôi, khi này sơn tăng trọn chẳng hội.
Sư thượng đường: Ổ biết gió hang biết mưa, ngọt đó ngọt chừ đắng đó đắng, chẳng cần suy nghĩ lại xét lường, năm năm từ lâu là hăm lăm, muôn việc sắp đặt đến bình thường, đây là câu tùng lâm tham vấn no. Quí vị lại hiểu rõ chăng? Lão quê chẳng biết sức Nghiêu Thuấn, đùng đùng đánh trống cúng thần sông.
Sư thượng đường: Thần của hang chốt của máy, trong cho bên tham tầm xoay đường được diệu mây tuy động mà thường nhàn, trăng tuy tối mà càng chiếu, chủ khách lẫn tham chánh thiên kiêm đáo, mười châu xuân hết hoa héo tàn, rừng cây san hô nhật sáng rỡ.
Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung thiên?
Sư đáp: - Đêm qua canh ba sao đầy trời.
Tăng hỏi: - Thế nào là thiên trung chánh?
Sư đáp: - Mây trắng trùm đầu núi, trọn chẳng bày ngất cao.
Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung lai?
Sư đáp: - Chớ gọi cá kình không lông cánh, ngày nay chính từ đường chim sang.
Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung chí?
Sư đáp: - Ứng không dấu dụng không vết.
Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung đáo?
Sư đáp: - Người đá chiếc áo rách, quả đất không người may.
*
Sư thượng đường: Da thịt rơi rụng bặt chỗ nơi, sáng tỏ thân tâm một vật không, khéo vào đạo lớn chỗ sâu lặng, người ngọc yên ngồi xe bạch ngưu. Điền địa diệu minh người đạt rất ít, thức tình chẳng đến chỉ chứng mới biết. Con mây trắng linh linh tự chiếu, cha núi xanh cao ngất thường còn, cơ phân sáng sau đảnh, trí hợp mắt trước kiếp. Vì thế nói, đường Tân Phong chừ vót vẫn gieo, động Tân Phong chừ lặng nhưng tươi, người đi đi chừ chẳng động diêu, người dạo dạo chừ chớ mau gấp, nhà nghỉ tuy có người đến ít, rừng suối chẳng dài cây tầm thường. Chư thiền đức! Hướng thượng một phen đến tôn quí khó rõ, trên điện Lưu Ly chẳng xưng tôn, trước rèm phỉ thúy lại hợp bạn. Chính cùng khi ấy kim chỉ xâu suốt chân tông chẳng rơi, nên làm sao thi thiết? Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi, giữa đêm xuyên mây vào xóm làng.
*
Sư thượng đường: Phó Đại sĩ có bài tụng Pháp thân: ?Tay không cán cuốc cầm, bộ hành cỡi lưng trâu, trên cầu người qua thẳng, cầu trôi nước chẳng trôi.? Đại sư Vân Môn nói: ?Các người đông lại tây lại nam lại bắc lại, mỗi mỗi cỡi một con trâu lại. Tuy nhiên như thế, ngàn đầu muôn đầu chỉ cần biết một cái đầu này.? Sư nói: Vân Môn bình thường khô khan châm dùi chẳng phủng, đến trong này cũng biết dính bùn kẹt nước. Quí vị! Hiện nay cần thấy một đầu này chăng? Khí trời hơi lạnh mỗi người tự về nhà.
*
Sư thượng đường nhắc việc phong phan, Sư nói: Chỗ phong phan động, mắt nhìn tới tức là Thượng tọa, chỗ phong phan động, mất đi con mắt tức là phong phan. Kia nếu chưa như thế, chẳng phải phong phan chẳng phải tâm, Thiền tăng luống tự gắng dùi châm, phòng núi mưa qua khói mù sạch, nằm nghe gió mát trong rừng tre.
Niên hiệu Hy Ninh thứ bảy (1074) mùa thu, Sư trở lại Tuyết Đậu. Đến Hy Ninh thứ mười (1077) giữa mùa đông, ngày hai mươi chín lúc giữa đêm, Sư tắm rửa xong liền tịch.
31. THIỀN SƯ HUỆ PHƯƠNG
Ở Hòa Sơn
Sư họ Lung quê ở Lâm Giang.
*
32. AM CHỦ DIỆU PHỔ TÁNH KHÔNG
Ở Hoa Đình
Sư người Hán Châu, nương Thiền sư Tử Tâm đã lâu được ấn chứng. Sư đi đến sông Tú theo nếp Hoa Đình Thuyền Tử, cất một chiếc am tranh ở đồng Thanh Long, thổi sáo sắt để tự vui. Sư có làm nhiều phú, vịnh, người được đều quí như của báu. Bài Sơn Cư:
Niên hiệu Kiến Viêm năm đầu (1127) giặc Từ Minh làm phản đi theo con đường Ô Trấn mặc tình giết hại, dân chúng sợ chạy. Sư một mình cầm gậy đi đến, giặc trông thấy lấy làm lạ, nghi là ngụy phục, bèn hỏi duyên cớ. Sư đáp: - Tôi là Thiền giả muốn đến chùa Mật Ấn. Giặc nổi giận muốn chém Sư. Sư nói: - Đại trượng phu cần đầu liền chặt lấy, cần gì phải nổi giận. Tôi hẳn phải chết, xin cho một bữa ăn để làm tống chung. Giặc dâng cá thịt, Sư dùng như ngọ trai thường, trước xuất sanh xong, bèn nói: Ai sẽ vì tôi làm bài văn để cúng? Giặc tức cười mà không đáp. Sư đòi bút viết: ?Than ôi! Duy linh, nhọc ta do sanh ắt lỗi khối đất, sai ta do sống ắt quấy âm dương, thiếu ta do nghèo ắt ngũ hành chẳng chánh, khốn ta do mạng ắt ngày giờ chẳng tốt.
Chao ôi! Lớn thay! May có đạo xuất trần, ngộ được tánh của ta, cùng diệu tâm kia. Hẳn diệu tâm này ai hay làm thân, trên đồng chân hóa của chư Phật, dưới hiệp với vô minh của phàm phu, mảy bụi chẳng động vốn tự viên thành. Diệu vậy thay! Diệu vậy thay! Mặt trời mặt trăng chưa đủ là sáng, càn khôn chưa đủ là lớn, lạ lạ lùng lùng không chướng không ngại, hơn sáu mươi năm hòa quang lẫn tục, bốn mươi hai hạ tiêu dao tự tại, gặp người thì vui thấy Phật chẳng lạy. Cười vậy ư! Cười vậy ư! Đáng tiếc chàng thiếu niên, phong lưu rất tươi đẹp, thản nhiên đi về phó gió xuân, thể dường hư không trọn chẳng hoại. Lại mời! Sư liền cầm đũa gắp ăn. Bọn giặc cười to. Sư ăn xong lại nói: Kiếp số đã gặp ly loạn, tôi là kẻ rất thích sống, hiện nay chính là giờ tốt, xin mời một đao hai khúc. Sư bèn hô to: Chém! Chém! Giặc kinh hãi cúi đầu tạ tội, khiến quân rút lui. Nhà cửa vùng Ô Trấn khỏi bị thiêu đốt, thật nhờ ơn đức của Sư. Kẻ đạo người tục nghe việc này càng cung kính Sư.
*
33. THIỀN SƯ THỦ TRÁC
Ở Trường Linh Thiên Ninh
Sư họ Trang, quê ở Tuyền Châu.
*
Sư thượng đường: Ba ngàn kiếm khách riêng nhận Trang Chu, vì sao lại nhảy chẳng khỏi? Cửa thầy thuốc nhiều bệnh nhân, vì sao chẳng tiêu một cái chích. Người đã thấu quan mời biện xem.
*
Sư thượng đường: Thí như con mắt chẳng tự thấy con mắt, tánh tự bình đẳng. Người không bình đẳng liền thế ấy đi, chùy sắt không lỗ anh hãy an trí. Dù đặng vào rừng chẳng động cỏ, vào nước chẳng động sóng, cũng là phương tiện một thời. Nếu là, tre trong giậu nhổ măng ngoài giậu, khe đông hoa nở khe tây hồng. Lại đợi khám phá qua đã.
*
Sư thượng đường: San cao đến thấp, đuổi giặc phá nhà, cắt sắt chặt đinh, con chồn mến hang, thảy chẳng thế ấy lại là sao? Vì thế nói, vực cao muôn nhẫn buông tay thõng, phải là người ấy. Chỉ như ôm bát vào nước Hương Tích một câu làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: - Tối kỵ gió thổi trong biệt điệu.
*
Sư thượng đường: Đức Thích-ca đóng cửa thất phạm lỗi tày trời, ngậm miệng nơi Tỳ-da tự cứu chưa xong. Thế nào? Thế nào? Cửa miệng quá nhỏ.
*
Niên hiệu Tuyên Hòa thứ năm (1123) ngày hai mươi bảy tháng mười hai, Sư yên lặng thị tịch.
*
34. THIỀN SƯ BỔN TÀI PHẬT TÂM
Ở Thượng Phong Đàm Châu
Sư họ Đào, quê ở Phước Châu, thuở bé được xuất gia, thọ giới cụ túc xong đi du phương. Sư đến Đại Trung nương Thiền sư Long ở Hải Ấn thấy lão túc là Đạt Đạo xem kinh đến câu ?một đầu sợi lông sư tử trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện?, Sư chỉ hỏi: - Một đầu sợi lông sư tử vì sao được trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện? Đạt đáp: - Ngươi mới vào tùng lâm đâu thể lý hội được việc này. Sư nhân đây sanh nghi. Sư phát tâm lãnh chức Tịnh đầu. Một hôm, Sư đến phiên quét dọn. Hải Ấn vừa đến dạ tham, đến nơi thấy sửa sang tòa liền ném cây gậy bảo: - Liễu thì đầu sợi lông nuốt bể cả, mới biết cả đại địa một hạt bụi. Sư bỗng nhiên có tỉnh.
*
Sau Sư ra xứ Mân đến Dự Chương núi Hoàng Long ở chỗ Tử Tâm mà cơ duyên không khế hợp. Sư đến tham vấn Linh Nguyên, mỗi khi vào thất ra ắt lau nước mắt nói: - Việc này ta thấy được rất rõ ràng, chỉ là lâm cơ nói chẳng ra. Nếu thế là tại sao?
Khi Sư trụ ở Càn Nguyên ngày khai đường dạy chúng: Trăm ngàn môn tam-muội vô lượng tạng phước đức, buông đi cũng như mở kho thì sâm sai xen lẫn, nắm đứng cũng giống tuyết phủ hoa lau khắp thân khó biện. Khiến cho người thấy đó khêu dậy liền đi, người nghe đó một đao thẳng vào, mỗi mỗi đủ chánh nhãn ở đảnh môn, người người mang theo tay một linh phù, quét tri kiến Phật Tổ, làm họa ương ở tùng lâm. Tôi nhớ ngày khai đường của Bảo Thọ, Tam Thánh đẩy một vị Tăng ra, Bảo Thọ liền đánh, Tam Thánh nói: Thế ấy vì người là làm mù mắt người cả một thành Trấn Châu đi rồi. Vả như Càn Nguyên ngày nay khai đường, hoặc có vị Tăng ra đây, sơn tăng cũng đánh, chẳng những thoại này đại hành, cốt yếu mở mắt người cả thành Phước Châu. Vì sao vậy? Kiếm vì bất bình lìa giáp báu, thuốc nhân cứu bệnh ra bình vàng.
Sư thượng đường: Đức Đạt-ma trước khi chưa sang Đông Độ, người người đều ấp hạt châu Mỵ Thủy, kẻ kẻ đều ôm hòn ngọc Kinh Sơn, đáng gọi là vách đứng ngàn nhẫn. Đến khi Nhị Tổ lễ ba lạy, về sau mỗi mỗi Nam hỏi các bạn, Bắc lễ Văn-thù, rất chẳng trượng phu. Hoặc có một người nửa người chẳng cầu chư Thánh chẳng trọng kỷ linh, một ngựa một thương nhằm trong hư không đấu kiếm, thật là thích thú bình sanh. Như hiện nay có chăng? Tự là chẳng về về liền được, mây cảnh ngũ hồ có ai giành.
*
Sư thượng đường: Nhất pháp có hình gồm động thực, trăm sông chảy xiết biển đua về, sáng đâu chẳng động trời mây nhạt, tưởng tượng Tỳ- da một bệnh ông. Duy-ma bệnh ắt Thượng Phong bệnh, Thượng Phong bệnh ắt cây gậy bệnh, cây gậy bệnh ắt sum la vạn tượng bệnh, sum la vạn tượng bệnh ắt phàm cùng thánh bệnh. Quí vị lại biết chỗ bệnh trước khởi chăng? Nếu là biết được, tình cùng vô tình đồng một thể, nơi nơi đều đồng chân pháp giới. Nếu chưa như thế, dưa ngọt tột rễ ngọt, dưa đắng gốc cũng đắng.
*
35. THIỀN SƯ KHẮC CẦN PHẬT QUẢ
Ở Chiêu Giác
Sư họ Lạc quê ở Bành Thành, gia thế theo Nho. Thuở nhỏ Sư mỗi ngày nhớ được ngàn lời. Bỗng Sư đến chùa Diệu Tịch thấy sách Phật, xem qua ba lượt buồn bã như được vật cũ. Sư nói: Ta ngờ quá khứ làm Sa-môn. Sư liền bỏ nhà nương thầy Tự Tỉnh thế phát, theo Văn Chiếu Thông học kinh, lại theo Mẫn Hạnh học kinh Lăng Nghiêm. Bỗng mang bệnh nặng, Sư than: Con đường Niết-bàn của chư Phật chẳng ở trong văn cú, tôi muốn do tiếng cầu thấy sắc, nơi kia không tử vậy.
*
*
Rốt sau, Sư yết kiến Thiền sư Diễn ở Ngũ Tổ. Sư trình hết cơ dụng của mình mà Diễn đều không chấp nhận. Sư nghĩ Thiền sư Diễn gắng xoay chuyển người, nói lời bừa bãi, tức giận bỏ đi. Thiền sư Diễn nói: - Đợi khi ông mắc bệnh nặng mới nghĩ đến ta.
*
Khoảng niên hiệu Sùng Ninh (1102-1107), Sư về quê thăm cha mẹ, bốn chúng nghênh đón lễ bái. Nguyên soái ở Thành đô Hàn Lâm Quách Công Tri Chương thỉnh Sư khai pháp ở chùa Lục Tổ kế đến chùa Chiêu Giác.
*
Khoảng niên hiệu Chánh Hòa (1111-1118), Sư xin nghỉ việc lại ra núi đi dạo phương Nam. Bấy giờ cư sĩ Trương Vô Tận đang ngụ ở Kinh Nam, dùng đạo học tự ở, ít tiếp xúc với người. Sư dừng thuyền đến ra mắt ông. Luận về chỉ yếu kinh Hoa Nghiêm, Sư nói: - Cảnh giới hiện lượng kinh Hoa Nghiêm lý sự toàn chân, ban đầu không nhờ pháp. Sở dĩ tức một là muôn, rõ muôn là một. Một lại một muôn lại muôn thênh thang không cùng, tâm Phật chúng sanh ba không sai biệt, co duỗi tự tại viên dung không ngại. Đây tuy lý tột trọn là không gió sóng ầm ầm. Khi ấy Vô Tận bất chợt nhóm giường.
*
Sư lại đến Đạo Lâm, Khu mật Đặng Công Tử Thường tâu về triều xin ban tử y và hiệu. Chiếu vua mời Sư trụ Tương Sơn ở Kim Lăng, học giả tụ họp không còn chỗ để dung. Lại sắc mời trụ chùa Vạn Thọ ở Thiên Ninh. Niên hiệu Kiến Viêm năm đầu (1127) vua lại mời Sư trụ Kim Sơn. Nhà vua đến Duy Dương mời Sư vào hỏi đạo, vua ban hiệu là Viên Ngộ Thiền sư và mời trụ Vân Cư. Về sau lại mời Sư trụ Chiêu Giác.
*
*
Sư thượng đường: Mười phương đồng tụ hội, thân xưa nay không muội, mỗi mỗi học vô vi, trên đảnh dùng kềm búa, đây là trường thi Phật, sâu rộng khó hay lường, tâm không thi đậu về, kiếm bén chẳng bằng chùy. Bàng cư sĩ lưỡi chỏi đến Phạm Thiên miệng trùm bốn biển, có khi đem cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi đem thân vàng trượng sáu làm cọng cỏ, rất là kỳ đặc. Tuy nhiên như thế, cốt chẳng từng động đến cổng hướng thượng. Thế nào là cổng hướng thượng? Đúc ấn để đàn cao.
*
Sư thượng đường: ?Câu có câu không, siêu tông việt cách, như bìm nương cây, núi bạc vách sắt.? Đến khi cây ngã bìm khô, bao nhiêu người mất đi lỗ mũi. Dù cho lượm được lại, đã là ngàn dặm muôn dặm. Chỉ như khi chưa có tin tức thế ấy là thế nào? Lại thấu được chăng? Gió ấm tiếng chim hát, nhật lên bóng hoa chồng.
36. THIỀN SƯ HUỆ CẦN PHẬT GIÁM
Sư họ Uông xuất gia thuở nhỏ, học thông kinh điển, mỗi khi đọc đến câu ?chỉ đây một sự thật còn hai thì chẳng chân?, liền có tỉnh. Sư đi tham vấn các bậc tôn túc, qua lại chỗ Thiền sư Pháp Diễn mấy phen. Sư bực Pháp Diễn không ấn chứng, nên kết bạn với Viên Ngộ cùng đi. Đến khi Viên Ngộ trở lại chỗ Pháp Diễn mới được triệt ngộ. Bỗng Sư tìm đến, ý còn muốn đi nơi khác, Viên Ngộ khuyên nên ở lại. Viên Ngộ nói: - Tôi cùng huynh mới cách nhau hơn tháng, so lại khi gặp nhau lúc trước thế nào?
*
Một hôm, Sư nghe Pháp Diễn nhắc việc Tăng hỏi Triệu Châu: ?Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Triệu Châu nói: - Lão tăng lãng tai hỏi to lên đi. Tăng lại hỏi to lên. Triệu Châu nói: - Ông hỏi gia phong của ta, ta lại biết gia phong của ông rồi.? Sư liền hoát nhiên đại ngộ thưa: - Xin Hòa thượng chỉ bày chỗ tột?
*
Sư cùng Viên Ngộ luận đạo bàn việc Đông Tự hỏi Ngưỡng Sơn hạt minh châu trấn hải, đến chỗ không lý có thể bày. Viên Ngộ gạn lại Sư: - Đã nói nhận được, đến khi đòi hạt châu, lại nói không lời có thể đáp không lý có thể bày là sao?
*
Gặp khi Linh Nguyên về trụ Hoàng Long, thiếu người ở Thái Bình, Linh Nguyên tiến cử Sư với Thái thú Thơ Châu là Tôn Đảnh. Tôn Đảnh thỉnh Sư trụ trì Thái Bình. Khi Sư từ biệt, Pháp Diễn trao pháp y. Sư nhận và đưa lên nói với chúng: - ?Phật Thích-ca thuở xưa dùng ca-sa Kim Lan trượng sáu đắp thân Phật Di-lặc ngàn thước, thân Phật chẳng dài ca-sa chẳng ngắn, hiểu chăng? Tức dạng này không dạng khác.? Từ đây pháp đạo truyền rộng.
*
Niên hiệu Chính Hòa năm đầu (1111), chiếu vua mời Sư trụ trì chùa Trí Hải ở Đông Đô. Sau năm năm, Sư xin trở về, lại có chiếu chỉ mời Sư trụ Tương Sơn.
*
Sư thượng đường: Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch, hoa đào hồng hoa lý bạch, ai bảo chung chung chỉ một sắc, chim yến kêu hoàng oanh hót, ai bảo đồng đồng chỉ một tiếng. Chẳng thấu được then chốt cửa Tổ sư, nhận suông núi sông làm tròng mắt.
*
Sư thượng đường: Việc ngày mười lăm về trước trên gấm thêu hoa, việc ngày mười lăm về sau như biển nổi hòn bọt, chính ngày mười lăm giống hệt chiếc gương một thước soi hình tượng ngàn dặm. Tuy là chân không bặt dấu, ngại gì hải ấn phát quang, mặc tình cột cái nở hoa, nói gì mặt Phật trăm xấu. Cớ sao? Đến nơi trăng đêm sương, dần dà rơi suối trước.
*
Trong thất Sư dùng gỗ làm sáu cái đầu tử mỗi mặt đều khắc chữ công. Tăng vừa vào, Sư liền ném nói: - Hội chăng? Tăng nghĩ hay chẳng nghĩ. Sư liền đánh đuổi ra.
*
Ngày mùng tám tháng chín, Sư thượng đường: Tâm ấn Tổ sư dáng giống máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liền ấn phá, dù cho chẳng đi chẳng đứng cũng chưa phải là chỗ hành lý của Thiền tăng. Làm sao phải chỗ hành lý của Thiền tăng? Đợi tháng mười trước sau vì các ông chú phá.
*
Đến ngày mùng tám tháng mười, Sư tắm gội đắp y ngồi ngay thẳng, tay cầm bút viết một số thơ từ biệt bạn cũ, dừng bút Sư tịch.
*
37. THIỀN SƯ THANH VIỄN PHẬT NHÃN
Ở Long Môn
Sư họ Lý, quê ở Lâm Ngang, dáng vẻ nghiêm chỉnh ít nói. Năm mười bốn tuổi Sư xuất gia chuyên học luật. Nhân đọc kinh Pháp Hoa đến câu ?pháp ấy không phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay hiểu?, Sư đem hỏi Giảng sư. Giảng sư không thể giải được, Sư than rằng: Nghĩa học danh tướng không phải nguyên nhân liễu việc lớn sanh tử. Sư bèn sửa soạn hành lý đi hành cước phương Nam.
*
Sư đến Thơ Châu ở chùa Thái Bình vào pháp hội Thiền sư Pháp Diễn. Nhân đi quyên tởi ở Lô Châu, Sư trợt chân té nhào xuống đất, phiền não dấy động. Bỗng nghe hai người chửi lộn, người can nói: - Ông vẫn tự phiền não.
*
Gặp được Thiền sư Linh Nguyên ngày càng thêm thân mật, trong khi thong thả bàn luận nhau Sư nói: - Xưa gặp một tôn túc ở Đô Hạ ngôn cú dường như có duyên.
*
Sư thượng đường: Triệu Châu chẳng thấy Nam Tuyền, sơn tăng chẳng biết Ngũ Tổ (Pháp Diễn), dưa ngọt tận gốc ngọt, dưa đắng cùng rễ đắng.
*
Sư thượng đường: Một lá rụng thiên hạ xuân, không đường suy nghĩ cười chết người. Dưới là trời trên là đất, lời này chẳng nhập ý thời lưu. Nam làm Bắc Đông làm Tây, động mà dừng mừng mà buồn, đầu rắn đuôi rết một thứ đó, trong miệng cọp dữ chim sẻ sống, là lời gì? Về nhà đi.
*
Sư thượng đường: Nói ngàn nói muôn không bằng chính mặt thấy, dù chẳng nói cũng tự phân minh. Dụ đao báu vương tử, dụ đám mù rờ voi, trong thiền học việc cách sông đưa tay ngoắt, việc trông châu đình thấy nhau, việc xa bặt chỗ không người, việc chỗ núi sâu bờ cao, đây đều chính mặt thấy đó, chẳng ở nói vậy.
*
Sư thượng đường: Tô Võ chăn trâu nhục mà chẳng khuất, Lý Lăng trông Hán vui mà quên về, là ở ngoại quốc ở bản quốc? Trong nhóm đệ tử Phật, có người hai chân nhảy khỏi hầm, có người nghe đàn đứng múa, có người thân vùi đống phân, có người quở mắng thần sông, là tập khí hay diệu dụng? Đến như cầm nạn đập đất, dựng phất tử gõ giường thiền, Mục Châu một bề đóng cửa, Lỗ Tổ trọn năm ngó vách, là vì người hay chẳng vì người? Biết chắc tất cả phàm phu kho báu bị chôn vùi, sao chẳng trượng phu? Các người sao không thể gay chèo trương buồm bỏ sông qua bờ nghỉ, lại thả neo cột cọc ngày nào đến nhà? Đã làm người Tào Khê, lại là kẻ trong nhà, lại thấy việc trong nhà chăng?
Sư thường đề ngữ trên vách nhà Diên Thọ tại Long Môn: Phật cho người có bệnh phải điều trị, cho có chỗ sắp tắt thở, trong thiền lâm có nhiều tên. Hoặc nói: Niết-bàn, thấy pháp thân thường trụ rõ pháp chẳng sanh. Hoặc nói: Tỉnh hành, biết duyên trói buộc này đều từ hành khổ. Hoặc nói: Diên Thọ, muốn được thọ mạng gìn giữ sắc thân. Kỳ thật khiến người rõ chỗ sanh tử. Phần nhiều thấy có chút ít bệnh liền vào nhà này. Nếu không chống lại lời tôi, liền có bổ ích. Đến người mắc bệnh lâu bèn nghĩ nhớ quê hương là không tốt, phải nghĩ lui lại để diệt trừ gốc bệnh. Thánh trước nói: Bệnh là thuốc hay của chúng sanh, nếu khéo uống đều được lành bệnh vậy.
*
Đến niên hiệu Tuyên Hòa năm đầu (1119), Sư do bệnh, từ nhiệm trở về nhà Đông ở Tương Sơn. Năm sau, một hôm thọ thực xong, Sư ngồi kiết già bảo đồ chúng rằng: Những bậc lão túc các nơi sắp tịch để kệ từ biệt thế gian. Thế gian có thể từ sao? Sắp đi an ổn, Sư bèn chắp tay vui vẻ thị tịch. Môn đồ xây tháp bên cạnh Linh Quang đài ở Long Môn thờ Sư.
*
38. THIỀN SƯ ĐẠO NINH
Ở Khai Phước Đàm Châu
Sư họ Uông, quê ở Thiệp Khê, thuở tráng niên làm đạo nhân ở chùa Sùng Quả làm người lo việc nhà tắm. Một hôm muốn rửa chân, chợt tụng kinh Kim Cang đến câu ?nơi chương cú này hay sanh lòng tin cho là thật?, liền quên mất sở tri, bỗng đẩy chân vô nồi nước sôi, phát minh việc nơi mình. Sau Sư thế phát tại Tương Sơn và nương với Thiền sư Lão Lương ở Tuyết Đậu. Ở đây được hai năm, Sư bèn dạo các tùng lâm tham vấn chư danh túc. Sau cùng, Sư đến chùa Bạch Liên nghe Thiền sư Pháp Diễn trong buổi tiểu tham nhắc lại lời Trung Quốc Sư về cổ Phật tịnh bình và Triệu Châu con chó không Phật tánh, liền thấu triệt pháp nguyên.
Khoảng niên hiệu Đại Quan (1107-1111), Đàm soái Tịch Công thỉnh Sư trụ chùa Khai Phước, Tăng lữ tụ họp tham vấn.
*
Ngày tắm Phật, Sư thượng đường: Chưa rời Đâu-suất đã giáng Vương Cung, chưa ra khỏi thai mẹ độ người đã xong. Chư Thiền đức! Ngày ngày mặt trời từ bờ Đông lên, sớm sớm gà nhằm canh năm gáy. Tuy nhiên chẳng phải đào hoa động, xuân đến hoa đào cũng đầy khe. Sư lại nói: Trong vườn Tỳ-ni giáng sanh hông mặt, khắp đi bảy bước nhìn xem bốn phương, ?trên trời dưới trời chỉ ta hơn hết?. Giống hệt ?thích xem trăng trên trời, mất đi châu trong tay?. Lại biết chỗ rơi chăng? Nếu biết chỗ rơi mới là con hiếu cháu hiền. Nếu chưa được như thế, chưa khỏi lập lại chú cước. Sư im lặng giây lâu nói: Trời sanh kỹ lưỡng hay kỳ quái, chưa đến xe người một trường đùa.
*
Sư dạy chúng: ?Trời thu sáng đầy không, sông thu tẩm màu biếc, thương thay người cửa ngoài, nơi nơi tìm Di-lặc. Trên đường chợt gặp nhau, gặp nhau mà chẳng biết.? Chư Thiền đức! Đã là gặp nhau vì sao lại chẳng biết nhau? Cắt hết trước sân trúc, đến khe chẳng hóa rồng.
*
Sư thượng đường: Khắp cõi chẳng từng che toàn thân không ảnh tượng. Gặp nhau chớ than rất ngu si, nhiều kiếp đến nay không kỹ lưỡng. Không kỹ lưỡng ít người hay, đại để trả kia xương thịt tốt, đâu cần đến kiếng vẽ chân mày.
*
Su thượng đường: Chánh lệnh Ma-kiệt chưa khỏi gập ghềnh, thùy từ Thiếu Thất sớm chạm phong cốt, lưng đãy tay thương cô phụ bình sanh, luyện hạnh khôi tâm thay nhau cùn lụt. Đâu giống mưa xuân tạnh núi xuân xanh, mây trắng ba mảnh bốn mảnh, hoàng oanh một thanh hai thanh, đại bi ngàn mắt xem chẳng đủ, Vương Duy tuy khéo vẽ khó thành. Dù cho liền thế ấy, vẫn tự dính đồ trình, chẳng dính đồ trình một câu làm sao nói? Người từ Biện Châu lại, chẳng được tin Đông Kinh.
*
*
Niên hiệu Chánh Hòa thứ ba (1113) ngày mùng bốn tháng mười một, Sư cạo tóc tắm gội xong. Hôm sau thọ trai rồi tiểu tham, Sư khuyến khích chúng hành đạo lời rất thiết tha. Đến giờ Dậu, Sư ngồi kiết già thị tịch.
*
39. THIỀN SƯ NGUYÊN TĨNH
Ở Nam Đường Đại Tùy
Sư là con nhà đại nho Triệu Công Ước Trọng. Lúc mười tuổi, Sư bị bệnh nặng, bà mẹ khấn vái cảm điềm mộng lạ, bèn cho xuất gia. Sư là cháu trong dòng Đại Từ Bảo Sanh Viện ở Thành đô. Niên hiệu Nguyên Hựu thứ ba (1088), Sư thông kinh được độ làm Tăng. Sư ở lại các hội giảng kinh mấy năm, mới đi dạo phương Nam.
*
Ban đầu Sư tham vấn Thiền sư Ân ở Vĩnh An, câu ba gậy của Lâm Tế, Sư được phát minh. Kế Sư đến các bậc danh túc, mà không có chỗ nào hợp ý. Sư nghe Thiền sư Pháp Diễn ở núi Ngũ Tổ cơ phong cao vót, bèn muốn đến đó. Sư liền đến núi Ngũ Tổ tham vấn. Pháp Diễn nói: - Ta trong đây chẳng sánh với chư phương, phàm ở trong thất chẳng cần ông tiến trước lùi sau, dựng ngón tay đưa nắm tay, nhiễu giường thiền làm người nữ bái, đưa tọa cụ lên, ngàn thứ kỹ lưỡng. Chỉ cần ông ngay một câu nói cho thích hợp, bèn là chỗ ông thấy.
*
Nguyên soái Tịch Công ở Thành đô thỉnh Sư khai pháp tại Gia Hựu, chưa bao lâu lại mời đến Chiêu Giác, rồi dời lại Năng Nhơn và Đại Tùy.
*
Sư thượng đường vấn đáp xong, bèn nói: Có Tổ đến giờ người đời lầm hiểu, chỉ đem ngôn cú dùng làm thiền đạo. Đâu chẳng biết đạo vốn không thể, nhân thể được tên, đạo vốn không tên nhân tên mà lập hiệu. Chỉ như vừa rồi Thượng tọa thế ấy ra đây, liền thế ấy về chúng. Hãy nói đủ mắt chẳng đủ mắt? Nếu nói đủ mắt, vừa thế ấy ra đây mắt ở chỗ nào? Nếu nói chẳng đủ mắt, đâu nên liền thế ấy đi? Chư nhân giả! Nơi đây thấy được thấu suốt rõ ràng thì biết Nhị Tổ lễ bái đứng y chỗ cũ thật được tủy kia. Chỉ chút xíu này là mạng căn chư Phật ba đời, là mạng mạch sáu đời Tổ sư, là chỗ an thân lập mạng chư lão Hòa thượng trong thiên hạ. Tuy nhiên như thế, phải là thân mới đến được.
*
Sư thượng đường: Vườn ruộng chính mình mặc sức cày, móng nền tông Tổ gắng làm hay, ngộ được ngàn thánh chỗ ngồi ấy, dụng nhắm tam đồ thẳng bước ngay.
*
Tăng hỏi: - Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào?
*
*
Có vị lão túc nói: Đầu đường chữ thập (+) cất một nhà cầu bằng tranh, chỉ là không cho người ỉa. Có vị Tăng đem lời này hỏi Sư. Sư bảo: Chính ông ỉa trước rồi, lại bảo người nào ỉa. Lão túc nghe thắp hương trông xa về Đại Tùy lễ bái tạ đó.
*
Niên hiệu Thiệu Hưng vào mùa thu năm Ất Mão tháng bảy mưa to trong núi tuyết có tướng lạ. Sư bảo: Hạn kỳ của ta đến vậy. Ngày mười bảy, Sư từ biệt Quận thú, ba ngày sau có chút bệnh ở Thiên Bành. Đến hai mươi bốn, Sư bảo vị Tăng thị giả: - Khi trời sáng không trăng thì thế nào? Thị giả không đáp được. Sư bảo: - Nói ngược ta vì ông châm lửa mới được. Hôm sau lại Bằng Khẩu ở Giải Viện, Sư để lời dặn dò xong, thoát nhiên thị tịch. Đệ tử thỉnh toàn thân về, trà-tỳ mùi hương khắp nơi, cái lưỡi vẫn còn nguyên.
*
40. THIỀN SƯ TÔNG THỚI
Ở Vô Vi Hán Châu
Sư quê ở Bồi Thành, từ khi ra khỏi quê hương dạo khắp tùng lâm. Sư đến núi Ngũ Tổ yết kiến Thiền sư Pháp Diễn. Ngày cúng hương, Pháp Diễn nhắc lời Triệu Châu ?rửa bát đi? để tham. Đến khi vào thất cũng nhắc lời này hỏi Sư rằng: - Ông nói Triệu Châu nói với y thế nào, mà vị Tăng này liền ngộ?
*
Một hôm Pháp Diễn đăng đường nhìn chúng nói: - Ông già tám mươi đánh tú cầu.
*
Sau Sư trở về đất Thục, tứ chúng thỉnh khai pháp ở Vô Vi, rồi dời đến Chánh Pháp.
*
Sư thượng đường: Một đại sự nhân duyên này, từ Thế Tôn đưa cành hoa Ca-diếp cười chúm chím. Thế Tôn bảo: - Ta có chánh pháp nhãn tạng phân phó cho Ma-ha Ca-diếp. Về sau đèn đèn nối nhau, Tổ Tổ truyền nhau, thẳng đến ngày nay liên miên chẳng dứt, liền được khắp chỗ sanh hoa, cho nên gọi: Niết-bàn diệu tâm, cũng gọi: Bản tâm, cũng gọi: Bản tánh, Bản lai diện mục, Đệ nhất nghĩa đế, Thước-ca-la nhãn, Ma-ha đại bát-nhã. Tại nam gọi: Nam, tại nữ gọi: Nữ. Cả thảy các ông chỉ tự ngộ lấy, những lời này thảy là ngôn ngữ nhàn. Sư cầm cây phất tử lên nói: Hội rồi bảo là thiền. Chưa ngộ quả nhiên khó khó khó, trước mắt như cách núi Tu-di. Ngộ rồi dễ dễ dễ, tin miệng nói ra đều là phải.
*
*
41. THIỀN SƯ BIỂU TỰ
Ở Ngũ Tổ Kỳ Châu
Sư quê ở Hoài An, buổi đầu nương theo Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ, rất lâu mà không có tỉnh. Lúc đó Viên Ngộ làm Thủ tọa, Sư đến thưa thỉnh. Viên Ngộ bảo: - Huynh có chỗ nghi thử nói tôi xem. Sư liền nhắc lại Đức Sơn tiểu tham không đáp thoại, hỏi thoại ăn ba mươi gậy.