MỘT SỐ DANH NHÂNPHẬT GIÁO VIỆT NAM SINH VÀO NĂM DẦN
• Thiền sưTRƯỜNG NGUYÊN (Canh Dần 1110): Sư họ Phạm, người hương Trường Nguyên, huyện Tiên Du. Khi xuất gia được thiền sưĐạo Huệ ở chùa Quang Minhtruyền tâm ấn. Sau, Sư vào núi Vệ Linh ẩn tích, ăn rau rừng, hạt dẻ, làm bạn với thiên nhiên, tụng kinhniệm Phật suốt năm lặng lẽ nên không ai hay biết. Vậy rồi danh tiếng của Sư cũng lan truyền đến kinh đô. Vua Lý Anh Tông muốn triệu kiến mà Sư không chịu đến, vua phải sai bạn cũ của Sư là đại thần Lê Hối đến khuyên mời. Sự nhận lời cùng đi, nhưng khi đến chùa Quán Hương lại sực tỉnhhối tiếc, bèn trốn về. Để giải thích việc “đổi ý giờ chót” ấy, Sư nói với chúng đệ tử: “Ta đã thân khô lòng nguội, đối với thế tục, phù phiếmhư ngụy có đáng là gì? Có lẽ là do chí hạnh của ta chưa thuần nên còn bị cái lòng lợi danh làm khốn!”. Mồng 7 tháng 6 năm Chính Long Bảo Ứng (1165), Sư cảm thấythân thể khác lạ, bèn gọi đệ tử đến, đọc lời kệ:“Ở nơi bóng trần/Thường lìa bóng trần/Lòng dạ trắng trong/Cùng vật không thân/Tài bằng trời đất/Vượt cá nhân luân/Dưỡng muôi muôn vật/Cùng vật vui xuân/Gái sắt đứng múa/Người gỗ đánh trống”. Đọc xong, Sư xả bỏ ngũ uẩn ra đi, thọ 56 tuổi.
•Thiền sưQUẢNG NGHIÊM (Nhâm Dần 1122): Sư họ Nguyễn, người Đan Phượng, từ nhỏ mồ côi cha, theo hầu cậu là thiền sư Bảo Nhạc, được cậu khai tâm điểm đạo. Sau khi cậu mất, Sư đi hành cước khắp nơi để tham vấnthiền học. Nghe tiếng thiền sưThiền Tríthuyết pháp ở chùa Phúc Thánh, hương Điển Lãnh, Sư tìm đến xin làm đệ tử. Một hôm nghe Sư Thiền Trí giảng “Tuyết Đậu Ngữ Lục”, đến đoạn đối đáp về vấn đềsinh tử, Sư đắc pháp, Từ đó danh tiếng của Sư lan truyền khắp chốn. Sau, Sư đến trụ trì ở chùa Thánh Ân, hương Siêu Loại, có Thượng thư Bộ Binh là Phùng Giáng Tường hâm mộdanh tiếng của Sư, mời về truyền giảng tại chùa Tịnh Quả, tăng lữ gần xa kéo đến xin thọ giáo rất đông. Đệ tử thân cận của Sư là Thường Chiếu sau này cũng là một thiền sư xuất chúng. Ngày 15 tháng 2 năm Canh Tuất (1190), Sư lâm bệnh, gọi chúng đệ tử đến, đọc bài kệ: “Ly tịch phương ngôntịch diệt khứ/ Sinh vô sinhhậu thuyết vô sinh/Nam nhi tự hữu xung thiên chi/Hưu hưởng Như Laihành xứ hành” (dịch: Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt/Sau vô sinh, hãy nói vô sinh/Làm trai lập chí xông trời thẳm/Theo gót Như Lai luống nhọc mình!). Đọc xong Sư chắp tay, an nhiênthị tịch, thọ 69 tuổi, được Thượng thư Phùng Giáng Tường làm lễ hỏa thiêu, xây tháp phụng thờ.
•THIỀN SƯ TỊNH LỰC (Canh Dần 1170): Sư họ Ngô tên Trạm, quê ở Cát Lăng, Vũ Bình. Thuở nhỏ, Sư rất thông minh, lớn lên càng giỏi về văn chương, nghệ thuật và chữ viết. Hữu duyên cho Sư gặp Thiền sưĐạo Huệ, tâm dừng nơi cảnh Phật, mặc cỏ ăn cây, phước tuệ song tu. Trải qua nhiều năm giữ tâm càng vững chắc, Sư vâng lời thầy thẳng lên núi cất một thảo am gọi tên Vương Trì (ở làng Cương Việt, Vũ Ninh) rồi trụ trì nơi đó. Trong mười hai giờ, Sư lễ Phật sám hối, được niệm Phật tam-muội, giọng bổng tiếng trầm của Sư nghe trong vắt. Học trò theo học rất đông. Sư thường giảng kinhViên Giác cho môn đồ nghe, nghĩa lý chỗ nào chẳng ổn, đích thân Sư cải chánh. Đến niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo thứ hai (1175), một hôm Sư cáo bệnh, gọi môn đồ tề tựu mà dạy: “Các ngươi! Tất cả các người học đạo lấy tâm siêng năng cúng dường Phật, không gì khác hơn chỉ cầu dứt được các nghiệp ác. Tâm miệng niệm tụng, tin hiểu nghe nhận, ở chỗ vắng vẻ yên lặng, gần thiện tri thức. Nói ra lời hòa nhã, nói phải thời đúng lúc, trong tâm không khiếp nhược. Liễu đạtnghĩa lý, xa lìa ngu mê, an trụ chỗ bất động. Quán tất cả pháp vô thườngvô ngã, vô tácvô vi. Nơi nơi lìa phân biệt, ấy là người học đạo. Nay phần hóa duyên của ta đã xong”. Sư lại nói kệ: “Trước tuy nói kiết, sau gọi hung/Từ đời Thái Tổ kiêng chẳng tùng/Vì thấy rồng lên làm Phật tử/Chợt trông chuột hiện lặng vô cùng!”. Dứt tiếng, Sư ngồi ngay thẳng an nhiênthị tịch, vào năm 1233, thọ sáu mươi bốn tuổi.
Tôn tượngTrần Thái Tông
• TRẦN THÁI TÔNG (Mậu Dần 1218): tên thật là Trần Bồ, sau đổi thành Trần Cảnh, nhà nghiên cứu Phật học- nhà thơ, và là vị vua đầu tiên của nhà Trần, quê quán ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là Nam Định). Làm vua năm 7 tuổi, ở ngôi 32 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm. Trước khi truyền ngôi cho con trai là Thái tử Trần Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông), ông đã lãnh đạonhân dân Đại Việt chống lại cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông, với thắng lợivẻ vang. Ông trở thành một vị minh quân, và cũng được tôn xưng như một Thiền Sư. Ông qua đời vào năm 1277, thọ 59 tuổi, tác phẩm để lại gồn: Khóa hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi…
Tôn tượngTuệ Trung Thượng Sĩ
•TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ (Canh Dần 1230): thiền sư, tên thật là Trần Tung, hay Trần Quốc Tung, là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, tước hiệu Hưng Ninh Vương. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền, từng tham dự cả 3 lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình, nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang lập Dưỡng Chân Trang để tu học pháp Thiền. Ông được vua Trần Thánh Tông tôn làm đạo huynh. Nhiều áng thơ- bài kệ do ông sáng tác được kiết tập trong Thượng SĩNgữ Lục được lưu truyền rất nổi tiếng. Ông viên tịch vào năm 1291, thọ 61 tuổi.
• Đệ Tam Tổ HUYỀN QUANG(Giáp Dần 1254): thiền sư- nhà thơ đời Trần, người làng Vạn Tải, châu Nam Sách (nay thuộc Bắc Ninh), tên thật Lý Đạo Tái. Nhà nghèo, nhưng từ thiếu thời ông đã lộ tư chấtthông minh, học giỏi. Sau đỗ cả thi Hương, thi Hội, Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ (Trạng nguyên), ông được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, đón tiếp sứ giả Trung Hoa, nổi tiếng thi văn kiệt xuất. Sau, ông buông bỏ hết chức tước địa vị, từ chối cả việc làm phò mã của vua Anh Tông, quyết chíxuất giacầu Đạotham thiền, theo hầu “Phật Hoàng” Trần Nhân Tông. Đến khi Đệ Nhị Tổ là Pháp Loatruyền y bát cho ông, ông trở thành vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Năm 77 tuổi, ông truyền y bát cho Quốc SưAn Tâm, lui vềthiền thất tịnh dưỡng. Ba năm sau, năm Giáp Tuất 1334, ông qua đời, thọ 80 tuổi, Tác phẩm lưu lại đến nay chỉ còn 24 bài thơ trong Việt âm thi tập, Trích diễm thi tập.
Ngô Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm)
• NGÔ THÌ NHẬM (Bính Dần 1746): cư sĩ- nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, còn gọi là Ngô Thời Nhiệm, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ông xuất thângia đìnhvọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, quê ở huyện Thanh Oai- Hà Tây (nay thuộc Thanh Trì -Hà Nội). Ông thi đỗ Giải Nguyên năm 1768, rồi Tiến Sĩ Tam Giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh. Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho ông chức Binh bộ Thượng thư. Sau khi Quang Trung mất, ông lui vềnghiên cứuPhật học. Đến khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, ông và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu, sau trận đánh đòn, ông về nhà thì qua đời. Tác phẩm còn để lại: Hải Dương chí lược, Hy Doãn thi văn tập, Xuân Thu quản kiến…
• THIỀU CHỬU (Nhâm Dần 1902): nhà văn hóa, dịch giả và tu sĩ, tên thật là Nguyễn Hữu Kha, quê quán ở Trung Tự- Đông Tác (nay thuộc Đống Đa-Hà Nội). Bút hiệu Thiều Chửu có nghĩa là cái chổi quét bụi, tâm nguyện của ông là "cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sánggiáo hội qua ngòi bút cải cách của mình", và "hàng ngày phải lau quét bụi trầntham nhiễm, đừng để gương lòng vẩn đục bởi phiền nãovô minh che lấp". Từ nhỏ nhờ đức tính kiên trì tự học, ông đã am hiểu chữ Hán, Nho giáo và Phật giáo, lại thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nhật. Ông cho ra đời bản dịch Khóa Hư Lục vua Trần Thái Tông, làm quản lý và biên tập cho tờ báo Đuốc Tuệ, tham giathành lập Hội truyền bá Quốc ngữ , đảm nhận việc dạy chữ Hán, giảng kinh và chủ trì các khóa lễ ở trường Phật họcPhổ Quang. Năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã mời ông ra làm Bộ trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ Lâm thời, nhưng ông từ chối để tiếp tục việc giảng dạy cho các lớp Phật giáo, cùng Cô nhi. Ngoài bộ Hán Việt Tự Điển có giá trị vượt thời gian, ông còn dịch 14 bộ kinhcăn bản của đạo Phật, viết các sách về Phật học. Bị vu cáo, cộng với sự thương cảm cho nhiều nông dân bị hàm oan trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam mà cảm thấy mình bất lực, ông đã tự vẫn vào năm Giáp Ngọ (1954) tại tỉnh Thái Nguyên, lúc 52 tuổi.
Bàn thờ Bổn sư Ngô Lợi tại một ngôi chùa
• NGÔ LỢI (Canh Dần 1830): tu sĩ, khai sáng đạo Từ Ân Hiếu Nghĩa, quê ở Bình An-Định Tường (Tiền Giang), lúc 20 tuổi, ông viết Đà-La-Ni Kinh, dài 223 chữ Hán, mà sau này trở thành quyển kinh quan trọng của tông phái. Năm 1872, ông cất chùa ở xã Bình Long, rồi lấy đó làm cơ sở truyền đạo. Ông đã đi nhiều nơi vừa trị bệnh, vừa thu nhận và dạy tín đồ thuyết "học Phật tu nhân, báo đáp tứ ân". Năm 1876, ông đưa một số đệ tử vào vùng Núi Tượng theo để khai hoang, lập chùa miếu và mở thôn ấp mới. Năm Canh Dần 1890, ông mất vì bệnh tại thôn An Hòa, gần Núi Tượng, lúc 59 tuổi. Ngoài bản Đà- La -Ni Kinh, ông còn truyền dạy cho tín đồ nhiều bài cung văn sớ điệp, nhiều nghi tiết cúng lễ, ghi chép lại thành tập sách Ngọc Lịch Đồ Thơ Tập Chú.
Thánh tử đạo Thích Quảng Hương
• ĐẠI ĐỨC THÍCH QUẢNG HƯƠNG (Bính Dần 1926): nhà sư vị pháp thiêu thân, pháp danhNguyên Diệu, pháp hiệuBảo Châu, nối pháp dòng Lâm TếLiễu Quán đời thứ 44, thế danh Nguyễn Ngọc Kỳ, quê tại Tuy An- Phú Yên. Năm 1943, Sư xuất giatu học ở chùa Kim Cang-Phú Yên. Năm 1949, Sư cầu Pháp và thọ Cụ Túc giới với Hòa Thượng Liễu Tôn, nhận chức Thư Ký của chi hội Phật giáo An Hiệp. Sau năm 1950, Sư vào học tại Phật Học Viện Nha Trang, được cử làm Giảng sư tại tỉnh Hội Phật-giáo Đà Lạt. Năm 1961, Sư được kiêm nhiệm trụ trì và Giảng sư tại tỉnh Hội Phật-giáo Buôn Mê Thuột. Vì thấy Phật giáo bị đại nạn, nên Sư phát nguyệntự thiêu vào ngày 5.10.1963, khi 37 tuổi, tại bồn binh chợ Bến Thành Sài Gòn, để đấu tranh cho Chánh Pháp. Tại Gò Vấp - Sài Gòn, có một chốn tự viện mang tên của vị Thánh Tử Đạo này, đó là Tu ViệnQuảng HươngGià Lam nổi tiếng!
Sinh hoạt trong lãnh vực truyền thông tại Quận Cam bao lâu nay, tôi chưa bao giờ tham dự một buổi ra mắt kinh sách Phật Giáo mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam như buổi ra mắt bộ Thanh Văn Tạng của Đại Tạng Kinh Việt Nam tại Nhà Hàng Brodard Chateau, Thành phố Garden Grove, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 19 tháng 3 năm 2023.
Được tin không vui, Ni sư Thích Nữ Hạnh Đoan đang lâm trọng bệnh ở giây phút cuối đời. Ni sư đã có công dịch thuật nhiều sách Phật học, đặc biệt là bộ sách 7 tập Báo Ứng Hiện Đời khuyên người tin sâu nhân quả hướng về Phật Pháp và ước nguyện cuối đời là muốn độ hết chúng sinh thoát khổ. Thư Viện Hoa Sen đã chuyển tải thông điệp của Ni sư qua việc phổ biến các sách của Ni sư và nay xin được long trọng bố cáo đến toàn thể quý độc giả bài viết cuối cùng của Ni Sư. Ước mong quý độc giả đồng cùng với các thành viên ban biên tập Thư Viện Ha Sen dành chút giây hướng về Ni sư và cầu nguyện cho Ni sư thân tâm được an lạc khi chưa thuận thế vô thường và khi thuận thế vô thường thanh thản về cõi Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu hành rồi trở lại cõi Ta Bà cứu độ chúng sinh.
Gần đây trên các báo chí Hoa Kỳ và trên cộng đồng mạng có đề cập đến nhiều về từ ngữ WOKE và có nhiều độc giả hỏi về ý nghĩa của từ này. Chúng tôi cũng không biết rõ về ý nghĩa và xuất xứ của từ này, nên có cuộc trò chuyện với AI (trí thông minh nhân tạo) như sau:
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.