Đức Phật Về Nhân Bản & Giác Ngộ.

05/05/20183:40 CH(Xem: 8296)
Đức Phật Về Nhân Bản & Giác Ngộ.

blank
ĐỨC PHẬT
VỀ NHÂN BẢN & GIÁC NGỘ.

Đại lễ VESAK 2018.
Mặc Phương Tử

 

happy vesak day 2Mãi cho đến ngày 15 tháng 12 năm 1999 mới được biểu quyết chinh thức công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua, và vào năm 2000 đại lễ Vesak được tổ chức trọng thể đầu tiên tại trụ sở Liên Hiệp Quốc.

Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất mà chúng ta đang có mặt cách nay 2.642  năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ thứ 21. Thế kỷ mà phần nhiều mọi người đều cho rằng : sự vươn mình lên tầm đỉnh phát triển khoa học, kỷ thuật, văn minh trong đời sống xã hội con người, và cũng có một số quan điểm cho rằng : thời kỷ phát triển của “Văn hóa tâm linh” từ các thể thức tôn giáo, trong đó có phần phát biểu của một ít người theo Đạo Phật.

Tổ chức Liên Hiệp Quốc dù không công bố, hay chưa có cơ hội công bố, thì giáo lý Đức Phật nghiễm nhiên từ xa xưa cho đến tận ngày nay cũng đã trở thành một Thông Điệp Tình thương, Bình đẳngTrí tuệ, luôn luôn thể hiện tính ca ngợi, đề cao, tôn trọng lẽ sống và sự sống, không những cho loài người mà còn cho cả muôn loài. Nhất là giữa con người với con người khi được có mặt trong cộng đồng xã hội, mà trước đây là xã hội phân chia giai cấp một cách rạch ròi của Ấn Độ, khi ấy Đức Phật đã tuyên bố :

“Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ,
trong dòng nước mắt cùng mặn.”

Càng tiến xa hơn, như một tuyên ngôn giải phónggiải thoát những điều đã và đang đè nặng một cách lầm lỳ chấp thủ cố hữu của một ít lớp người, không những trước đây và ngay cả bây giờ, một khi họ đang đứng trong một địa vị, một giai cấp, hay một dòng họ nào đó, và nhìn sang một giai cấp, dòng họ khác bằng một cái nhìn thiển cận thấp kém, không thông thoáng để cùng nhịp với sự tiến bộ trong cộng đồng loài người, với thói quen có chiều xu hướng ấy, hay cố giử lấy phần cảm tính theo truyền thống, tập tục.v.v… Điều ấy, có thể nói rằng; nhẹ tưng bởi từ những chất liệu thiếu ý thức nhân tính. Chính vì lẽ đó mà Đức Phật, lại một lần nữa Ngài xác định tính nhân bản trong đạo lý từ bitrí tuệ của Ngài bằng lời kệ :

“ Bần tiện không vì sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành sanh bần tiện,
Do hành sanh Phạm chí.”.
Kinh Tiểu bộ I

Và cũng chính bắt đầu từ đó, giáo lý Đức Phật như một hệ thống thanh lọc dẫn máu để nuôi dưỡng sự sinh tồn toàn mãn đến cơ thể của nhân loại đã có tự ngàn xưa, và cho đến tận ngàn sau nữa.

Do đó, trước khi tổ chức Hội Đồng Liên Hiệp Quốc công bố Phật Đản Quốc tế, chúng ta có dịp nghe những lời phát biểu hữu ích từ các nhà thức giả nói về Đức Phật như sau : Tinh hoa của Đạo Phật là cho con người có được Hòa bình, Từ bi, Thông cảm, Hiểu biết, Bất bạo động và Bình đẳng” (Narendra Bikrana Shait). 

Tất cả những cốt lõi ấy, đã từ hơn 2.562 năm nay (tính theo PL), đã thật sự tác động và tưới tẫm lên hằng triệu triệu tâm hồn trong mọi lảnh vực sinh hoạt từ xã hội của con người, và do con người bằng nhận thức hiểu biết trước sự vận hành của thế giới vật chất, một quỷ đạo gần như duy nhất mà tất cả mọi sinh loại đã và đang sống hay sẽ sống phải bị rơi vào trục quay cuốn cuồn, tất bật và điên đảo, bởi do lực hấp dẫn cảm thụ, khoái lạc... đây là nguyên nhân phát sinh mọi khổ đau, cảm thọ bất an, lo âu và sợ hải, và cũng từ đó lại tạo thêm nhiều khổ pháp theo từng chập ác tư duy ngay thời gian hiện tại.

Trở lại vấn đề Nhân Bản; đó là tinh thần đạo đức bao dung, tự do hòa hợp từ trong lương tâm, lương tri đến, và cho sự cộng sinh của nhân loại. Xét thấy tính Nhân Bản hay Nhân Văn, nó phải được vượt thoát ra ngoài hình thức lề lối biện hộ về phong tục, tín ngưỡng, và kể cả ý niệm dân tộc.v.v…  Nó chỉ được nói đến hay tán đồng bởi từ những nhận thức về chất liệu thiện chí hiểu biết đạo đức, kết nối lương trilương tâm qua toàn thể cộng đồng của con người. Tính Nhân Bản ấy được xem là giải pháp tồn tại lâu dài cho nhân loại, và tất nhiên không thuộc phạm vi giáo điều mặc khải, hay sự ước lệ quyết đoán nhân danh của một thần linh huyền ký nào.

Từ lảnh vực hoạt động trong xã hội con người, nhất là trong những thời kỳ cận đạihiện đại nầy, tinh thần nhân bản được hiểu qua một số ý nghĩa như sau :

1/- Được nói đến thực tính Tình thươngHạnh Phúc

2/- Đề cao phẩm chất con người.

3/- Tôn trọng sự phát triển khả năng kiến thức tiến bộ của con người.

4/- Tôn trọng tính sáng tạo lành mạnh.

5/- Tôn trọng và đề cao sự hiền thiện, sự vượt thoát của con người.

Trong khi tính Nhân bản ngày càng phát triển và tôn trọng trong xã hội, cũng chính là sự phát triển ý thức trong sáng tự do, bình đẳng, hạnh phúcnhân phẩm bằng ý tưởng lành mạnh được ngang qua chiều hướng thượng. Do đó, việc chơn ngụy, họa phước, lành dữ, tốt xấu.v.v… không tự dưng ai ban cho hay giáng đến, mà là do ;

“Họa phúc vô môn
Duy nhơn tự triệu”.

Cùng thế ấy, với sự cảnh tỉnh qua lời dạy của Ngài Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) :

“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm, như cây bám chặt rễ vào đất” (Nhập Bồ Tát Hạnh – 34).

Đây là một trong những yếu tố nhân bản, mà cũng là ý thức giác ngộ giữa muôn trùng pháp duyên sanh diệt nơi thế gian để đưa đến hạnh phúc hay đau khổ, hiển thị tình thương hay hận thù, siêu hóa hay sa đọa… Thế nhưng, trước bao sự kiệnhiện tượng trong cuộc sống luôn chuyển động không ngừng thay đổi theo từng chập thời gian sanh hóa và tiêu tàn. Đồng thời, kiến thức nó thường phân định, so sánh bởi những tư duy chủ nghĩa, tôn giáo, tông phái , đảng phái, chủng tộc, ta người. Nó luôn là sự chất chồng kết tập để trở thành thói quen nô lệ bởi một ý thức hệ nào đó, kết quả từ dục tham, dục tưởng mà ra.

Chính nó là đặc tính từ lòng tham lam, nó luôn là sự phân biệt khách chủ, vinh nhục, được mất, thắng thua, tốt xấu, đòi hỏi và từ chối, phấn khởi và thất vọng.v.v… rồi dẫn đến những cuộc đấu tranh, khổ vui, xây dựng và tàn phá…

Qua một vấn đề khác, gần đây có cụm từ được đề cập đến khá phổ biến, đó là : “Văn hóa tâm linh” , một khi có cơ hội kiến tạo một cảnh quan du lịch mà trong đó có chịu phần ảnh hưởng đến hình thức cảnh quan vui chơi giải trí, sắc màu tín ngưỡng, như xây dựng một bảo tượng Đức Phật, Bồ Tát.v.v… thì được xem đó là thời kỳ phát triển “Văn hóa Tâm Linh” hay “Du lịch Tâm linh”.

Thiết nghĩ, “văn hóa tâm linh, hay du lịch tâm linh” không phải chỉ có cách nghĩ đơn thuần qua hiện tượng như thế, nói một cách khác; nó có thể trở thành cái vỏ khổng lồ mà thực chất bên trong là trống ruột.

Điều ấy cho chúng ta thấy rằng : Nó phải được nhiếp tâm tu tập, có mang lại hệ quả và hiển lộ của sự tu tập, nó phải được thành tựu phạm hạnh  qua các pháp của bậc Thánh, hay đang lạc trú từ các pháp của bậc hữu học từ phía tự thân của mỗi con người. Tức nhiên, nó phải được vuợt thoát ra vòng lẩn quẩn tính toán, lợi hại, được thua, còn mất, ta người.v.v… Nếu một trong những ý niệm ấy còn có sự manh nha trong việc kiến tạo, xây dựng cho bản ngã, cho một tập thể, hay một cá thể nào, thì bấy giờ chưa thật sự đúng nghĩa “Văn hóa tâm linh” .

Một điểm khác nữa, cho rằng thời kỳ phát triển “Văn hóa tâm linh”, ở đây chúng ta có thể nói rằng; hiện nay là thời kỳchúng ta đang phát tâm hướng vọng, chiêm ngưỡng, lễ bái và tiếp thụ đến sự thành tựu toàn mãn “Văn hóa tâm linh” từ nơi Đức Phật, Chư Bồ Tát, Lịch Đại Tổ Sư, Thiền sư, và các bậc Thầy khả kính tiền hiền trước đây, đã để lại như một công trình siêu vượt vĩ đại cho vũ trụnhân sinh. Chúng ta có thể hiểu qua công trìnhđại tâm linh ấy, như :

“Với ai các tùy miên
Hoàn toàn không hiện hữu
Các nguồn gốc bất thiện
Được nhỗ lên trừ sạch…” Kinh Tiểu bộ 1.

Những pháp có năng lực đem lại sự thanh tịnh, bình an trong suốt, phải được minh chứng ngang qua hành động sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống, nó không còn là ngôn thuyết cho lý tưởng nào, mà nó phải là hiện thực tại đây và bây giờ.

Một hôm tại khu rừng Gosinga, nơi đây có chư Thánh đệ tử của Phật, và được hỏi đến, làm thế nào để được chói sáng khu rừng Gosinga nầy ?

Một trong những Tôn giả, đó là Ngài Ananda  trả lời như sau : “… vị tỷ kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe… Nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh… những pháp ấy được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát… Với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên… Tỷ kheo nầy có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga nầy” (Trung Bộ 1, 32).

Như vậy, “…Với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên…”  chính là những diệu pháp, thắng pháp, để xây dựng nền tảng vĩ đại “Văn hóa tâm linh”. Từ khi Phật và chư Thánh đệ tử, cũng như chư lịch đại Tổ Sư, Thánh Tăng, các bậc tiền hiền đã lần lượt nhập diệt cho đến nay.

Nhưng vẫn luôn luôn thắp sáng, rực sáng, chói sáng bằng những diệu pháp thù thắng vi diệu, vẫn thường hằng đem lại nguồn lạc pháp thanh tịnh bình an bất tận, vượt thoát mọi khổ đau cho chúng sanh, chư thiên, và loài người, đều khởi nguồn từ Văn hóa tâm linh ấy.

Để kết thúc bài viết hướng về ngày Đức Phật thị hiện vào đời, chúng ta cùng đọc lại lời dạy của Đức Phật như sau :

“...Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với các loài sinh vật.”

                                                                                        (Trung Bộ I, 1).

Ít nhiều qua sự cảm nhận chơn lý sâu xa ấy trong mỗi lúc hiện tại, đó cũng chính là Đức Phật luôn thị hiệndu hóa vào đời, chớ không phải chỉ một lần cách đây trên 2.562 về trước.                                       

                                                               MẶC PHƯƠNG TỬ.

 

 

 

 

 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
03/05/2019(Xem: 4775)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.