Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

10/10/201012:00 SA(Xem: 53526)
Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

Nghi Thức Cầu An
Thích Nhật Từ tuyển chọn và biên tập 1994

KINH GIÁO HÓA NGƯỜI BỆNH


Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.

Một hôm trưởng giả Cấp Cô Độc bị bệnh nặng, đại đức Xá-lợi-phất được báo tin, liền tìm đại đức A-nan và nói: "Sư đệ nên cùng ta đi thăm cư sĩ Cấp Cô Độc." Đại đức A-nan trả lời: "Đi bây giờ là đúng lúc."

Nói xong, cả hai đại đức liền đi đến nhà trưởng giả Cấp Cô Độc. Ngồi trên ghế, đại đức Xá-lợi-phất hỏi trưởng giả Cấp Cô Độc rằng:

- Bệnh tình của cư sĩ thế nào? Có thuyên giảm gì không? Những đau đớn trong cơ thể có từ từ bớt đi chút nào không?

Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời:

- Thưa các đại đức, bệnh tình của con không thấy thuyên giảm. Những đau đớn trong cơ thể đã không bớt đi mà càng lúc càng tăng.

Đại đức Xá-lợi-phất bảo:

- Bây giờ đây, cư sĩ nên thực tập quán niệm về Phật, về Pháp và về Tăng. Cư sĩ hãy quán niệm như sau: O

Phật là Như Lai, là bậc giác ngộ chân chính và cao tột, là bậc Minh Hạnh Túc, là bậc Thiện Thệ, là bậc Thế Gian Giải, là bậc Vô Thượng Sĩ, là bậc Điều Ngự Trượng Phu, là bậc Thầy của Trời và Người, là bậc Thế Tôn. O

Pháp là giáo lý do Như Lai chỉ dạy, rất thâm diệu, rất đáng tôn kính, rất đáng quý trọng, không có đạo lý nào sánh bằng, có khả năng đem lại hạnh phúcan lạchiện tại và tương lai, là con đường dẫn đến sự giác ngộgiải thoát. Đó là con đường thực tập của các bậc hiền thánh. O

Tăng là đoàn thể tu học dưới sự chỉ dẫn của Như Lai, trên thuận dưới hòa, không có tranh chấp, pháp nào cũng tu tập được thành tựu. Đoàn thể tôn nghiêm thánh thiện này thành tựu được Giới, thành tựu được Định, thành tựu được Tuệ, thành tựu được Giải Thoát. Tăng là ruộng phước vô thượng của thế gian. O

Này cư sĩ, thực tập quán niệm như thế về Phật, về Pháp, về Tăng thì công đức không thể nghĩ lường được. Quán niệm như thế thì tiêu diệt tội chướngphiền não, thu hoạch được những kết quả ngọt ngào, tươi mát như cam-lộ. Thiện nam tín nữ nào biết quán niệm về ba Ngôi Báu thì chắc chắn sẽ không bao giờ đọa vào ba con đường ác là địa ngục, ngạ quỷsúc sinh; trái lại sẽ được sinh ra trong những hoàn cảnh tốt ở cõi trờicõi người. O

Bây giờ đây, cư sĩ hãy quán niệm như sau về sáu giác quan:

Con mắt này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào con mắt này.

Cái tai này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái tai này.

Cái mũi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái mũi này.

Cái lưỡi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái lưỡi này.

Thân thể này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào thân thể này.

Ý căn này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào ý căn này. O

Kế đến, cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về sáu đối tượng giác quan:

Những hình sắc này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những hình sắc này.

Những âm thanh này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những âm thanh này.

Những mùi hương này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những mùi hương này.

Những vị nếm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những vị nếm này.

Những xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những xúc chạm này.

Những ý tưởng này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những ý tưởng này. O

Kế đến, cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về sáu thức:

Cái thấy này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái thấy này.

Cái nghe này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái nghe này.

Cái ngửi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái ngửi này.

Cái nếm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái nếm này.

Cái xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái xúc chạm này.

Cái ý thức này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái ý thức này. O

Kế đến, cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về sáu yếu tố hình thành nên mọi sự vật hiện tượng:

Yếu tố đất không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố đất.

Yếu tố nước không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố nước.

Yếu tố lửa không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố lửa.

Yếu tố gió không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố gió.

Yếu tố không gian không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố không gian.

Yếu tố tâm thức không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố tâm thức. O

Kế đến, cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về năm hợp thể hình thành nên con người:

Hình sắc không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi hình sắc.

Cảm thọ không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi cảm thọ.

Tri giác không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tri giác.

Tâm hành không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tâm hành.

Nhận thức không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi nhận thức. O

Kế đến, cư sĩ hãy quán niệm như sau về chuỗi thời gian:

Quá khứ không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi quá khứ.

Hiện tại không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi hiện tại.

Tương lai không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tương lai. O

Này cư sĩ ! Các pháp đều do nhân duyên sanh khởi và do nhân duyênhoại diệt. Thật ra tự tính của các pháp là không sanh cũng không diệt, không đến cũng không đi. Khi con mắt phát sinh, nó phát sinh, không từ đâu tới cả; khi con mắt hoại diệt, nó hoại diệt, không đi về đâu cả. Con mắt không phải không trước khi phát sinh; con mắt không phải trước khi hoại diệt. Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội tụ mà thành. Nhân duyên đầy đủ thì con mắt có mặt, nhân duyên thiếu vắng thì con mắt vắng mặt. Điều này cũng đúng với tai, mũi, lưỡi, thân, ý; hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, ý tưởng; cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, xúc chạm, ý thức, sáu yếu tố, năm hợp thể và thời gian. O

Trong năm hợp thể không gì có thể được gọi là ta, là người, là thọ mạng. Không thấy được sự thực đó tức là vô minh.vô minh mà có vọng động (hành). Vì có vọng động mà có vọng thức (thức). Vì vọng thức mà có sự phân biệt chủ thể và đối tượng nhận thức (danh sắc). Vì có chủ thể và đối tượng nhận thức mà có sự phân biệt sáu giác quan và đối tượng sáu giác quan (lục nhập). Vì có sự phân biệt sáu giác quan và đối tượng sáu giác quan mà có sự xúc chạm (xúc). Vì có sự xúc chạm mà có cảm thọ (thọ). Vì có cảm thọ mà có tham ái (ái). Vì có tham ái mà có vướng mắc (thủ). Vì có vướng mắc mà có hiện hữu (hữu), sinh tử khổ nãoưu sầu (sinh, lão, tử) không thể kể xiết.

Cư sĩ ! Ông đã quán niệm để thấy được rằng mọi pháp đều do nhân duyênphát khởi và không có tự tính riêng biệt. Đó gọi là phép quán niệm về KHÔNG, một phép quán niệm cao siêu vào bậc nhất."

Thực tập đến đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã khóc trong niềm cảm độnghân hoan. Đại đức A-nan hỏi ông rằng: O

- Cư sĩ, vì sao mà ông khóc? Ông thực tập không thành công sao? Ông có tiếc nuối gì không?

Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời:

- Thưa đại đức, con không tiếc nuối gì hết, con thực tập rất thành công. Con khóc là vì con cảm động quá. Con có được cơ duyên phụng sự Phật và các bậc cao đức đã từ lâu rồi mà con chưa từng được nghe giáo pháp vi diệu, mầu nhiệmquý báu, như hôm nay con được đại đức Xá-lợi-phất trao truyền.

Lúc ấy đại đức A-nan bảo trưởng giả Cấp Cô Độc rằng: O

- Cư sĩ nên biết giáo pháp này các vị tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni được nghe Phật giảng dạy rất thường.

Trưởng giả Cấp Cô Độc thưa:

- Bạch đại đức, xin ngài bạch lại với đức Thế Tôn để giới cư sĩ chúng con cũng được nghe những giáo pháp vi diệu như những giáo pháp này. Có những người cư sĩ không đủ sức nghe, hiểuhành trì những giáo pháp như giáo pháp này; nhưng cũng có những người cư sĩđủ sức nghe, hiểuhành trì những giáo pháp thâm diệu ấy. O

Nghe, hiểu và thực hành xong, cư sĩ Cấp Cô Độc thấy trong người nhẹ nhàng, thanh thoát, ông phát được tâm vô thượng. Khi hai đại đức Xá-lợi-phất và A-nan vừa từ giã ra về thì cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung và sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba. OOO

Xem thêm:

Kinh Độ Người Hấp Hối, Thích Nhất Hạnh dịch

 

 

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
29/01/2023(Xem: 131762)
17/05/2021(Xem: 8806)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.