BÀN VỀ CÁCH KIẾM SỐNG ĐÚNG ĐẮN
ON RIGHT LIVELIHOOD
Lời dịch: ÔNG KHÔNG - 5.2010
Nội dung
PHẦN
MỘT
Ojai,
ngày
9 tháng 7 năm 1944
Ojai,
ngày
3 tháng 6 năm 1945
Ojai,
ngày
27 tháng 5 năm 1945
Bangalore,
ngày
8 tháng 8 năm 1948
Ojai,
ngày
14 tháng 8 năm 1955
Từ
Bình
phẩm về Sống – Tập 1, Chương 88
Từ
Tự
do đầu tiên và cuối cùng, Chương 3
Bombay,
ngày
24 tháng 2 năm 1957
Từ
Bình
phẩm về Sống – Tập 2, Chương 31
Varanasi,
ngày
12 tháng 1 năm 1962
Từ
Bình
phẩm về Sống – Tập 2, Chương 17
Từ
Vấn
đề của Văn hóa, Chương 17
Bombay,
ngày
28 tháng 3 năm 1948
PHẦN
HAI
Bangalore,
ngày
15 tháng 8 năm 1948
Poona,
ngày
17 tháng 10 năm 1948
Bombay,
ngày
26 tháng 2 năm 1950
Từ
Sự
khẩn cấp của Thay đổi
Bombay,
ngày
11 tháng 3 năm 1953
Từ
Một
nói chuyện cùng Học sinh tại Rajghat School, Ngày 10 tháng
1 năm 1954
Amsterdam,
ngày
23 tháng 5 năm 1955
Từ
Một
nói chuyện cùng Những Người Trẻ tại Saanen, Ngày 5
tháng 8 năm 1972
Từ
Bàn
về Giáo dục, Chương 8
PHẦN
BA
Từ
Bình
phẩm về Sống Tập 2, Chương 2
Saanen,
ngày
24 tháng 7 năm 1973
Sannen,
ngày
3 tháng 8 năm 1973
Từ
Sự
thật và Thực tế, Chương 10,
Saanen,
ngày
25 tháng 6 năm 1976 Ojai, ngày 3 tháng 4 năm 1977
Từ
Bình
phẩm về Sống – Tập 3, Chương 48
Từ
Thư
gởi Trường học – Quyển 1,Ngày 1 tháng 12 năm 1978
Từ
Vấn
đề của Văn hóa, Chương 7, Cùng Những Người Trẻ
Từ
Thư
gởi Trường học – Quyển 1, Ngày 15 tháng 12 năm 1978
Saanen,
ngày
28 tháng 7 năm 1979
PHẦN
BỐN
Từ
Thư
gởi Trường học – Quyển 2, Ngày 15 tháng 11 năm 1983
Từ
Khởi
đầu của Học hành, Chương 13,
Nói
chuyện
tại Brockwood Park School,
Ngày
17
tháng Từ Câu hỏi và Trả lời, Saanen, ngày 24 tháng 7 năm1980
Từ
Krishnamurti
Độc thoại, Brockwood Park,
Ngày
30
tháng 5 năm 1983
Bình
phẩm
về Sống – Tập 3, Chương 30
_________________________________________________
Lời tựa
Jiddu Krishnamurrti được sinh ra ở Ấn độ năm 1895 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Huyền bí học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho ‘Thầy Thế Giới’ mà sự xuất hiện của ông đã được công bố từ trước. Chẳng mấy chốc K đã nổi lên như một người thầy, không thể phân hạng, không thỏa hiệp và đầy quyền năng; những nói chuyện và những tác phẩm của ông không liên quan đến bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào và cũng không thuộc phương Đông hay phương Tây nhưng dành cho toàn thế giới. Cương quyết phủ nhận hình ảnh đấng Cứu thế, vào năm 1929 ông tuyên bố giải tán tổ chức to lớn và giàu có đã được xây dựng quanh ông và tuyên bố sự thật là “một mảnh đất không lối vào”, không thể tiếp cận được bởi bất kỳ tôn giáo, triết lý hay giáo phái chính thức nào.
Trong suốt sống còn lại, K liên tục phủ nhận danh vị đạo sư mà những người khác cố gắng ép buộc ông phải nhận. Ông tiếp tục thu hút vô số người khắp thế giới nhưng khẳng định không là uy quyền, không muốn những môn đồ, và luôn luôn nói chuyện như một cá thể cùng một cá thể khác. Tâm điểm những lời giáo huấn của ông là nhận ra rằng những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo, liên tục được nhấn mạnh. Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng đạt, phải có được “không gian bao la trong bộ não” mà trong đó có năng lượng vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Ông tiếp tục giảng thuyết khắp thế giới cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi chín mươi. Những nói chuyện, những đối thoại, những lá thư và những bài viết trên báo của ông đã được tổng hợp thành hơn sáu mươi quyển. Từ những lời giáo huấn nhiều như thế một loạt những quyển sách có đề mục này đã được biên soạn, mỗi quyển sách tập trung vào một đề tài có liên quan đặc biệt và khẩn cấp trong sống hàng ngày của chúng ta.