Câu Hỏi Và Trả Lời

30/05/201012:00 SA(Xem: 16855)
Câu Hỏi Và Trả Lời

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

THE FIRST & LAST FREEDOM

Lời dịch: ÔNG KHÔNG 2010

 

1. Về sự khủng hoảng hiện nay 
2. Về Chủ nghĩa quốc gia 
3. Tại sao cần những Vị thầy Tinh thần? 
4. Về Hiểu biết 
5. Về Kỷ luật 
6. Về Cô độc 
7. Về Đau khổ 
8. Về Tỉnh thức 
9. Về Liên hệ 
10. Về Chiến tranh 
11. Về Sợ hãi 
12. Về Buồn chán và Hứng thú 
13. Về hận thù 
14. Về bàn tán 
15. Về Phê bình 
16. Về Tin tưởng Thượng đế 
17. Về Ký ức 
18. Chịu thua ‘Cái gì là’ 
19. Về Cầu nguyệnThiền định 
20. Về Cái trí tầng ý thức bên ngoài và bên trong 
21. Về tình dục 
22. Về tình yêu 
23. Về Chết 
24. Về Thời gian 
25. Về Hành động không Ý tưởng 
26. Về cái Cũ kỹ và cái Mới mẻ 
27. Về Đặt tên 
28. Về cái Đã được biết và cái Không biết được 
29. Sự ThậtDối trá 
30. Về Thượng đế 
31. Về Nhận ra tức khắc 
32. Về Đơn giản 
33. Về Hời hợt 
34. Về Nhỏ nhen 
35. Về Sự yên lặng của cái Trí 
36. Về Ý nghĩa của Sống 
37. Về Sự rối loạn của cái Trí 
38. Về Thay đổi 

CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI

 

1- VỀ SỰ KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY

Câu hỏi: Ông nói rằng sự khủng hoảng hiện nay không có tiền lệ. Nó ngoại lệ trong cách nào? 

Krishnamurti: Rõ ràng sự khủng hoảng hiện nay ở khắp thế giới là ngoại lệ, không có tiền lệ. Đã có những khủng hoảng thuộc nhiều loại khác nhau vào những thời điểm khác nhau suốt lịch sử, thuộc xã hội, thuộc quốc gia, thuộc chính trị. Những khủng hoảng đến và đi; những suy thoái, những trì trệ thuộc kinh tế, xảy ra, được bổ sung, và tiếp tục trong một hình thức khác. Chúng ta biết điều đó; chúng ta quen thuộc với qui trình dó. Chắc chắn sự khủng hoảng hiện nay là khác hẳn, phải không? Trước hết nó khác hẳn bởi vì chúng ta đang giải quyết không phải tiền bạc và cũng không phải những sự việc thực sự, nhưng những ý tưởng. Sự khủng hoảng là ngoại lệ bởi vì nó ở trong lãnh vực của sự hình thành ý tưởng. Chúng ta đang cãi cọ bởi những ý tưởng, chúng ta biện hộ cho sự sát nhân; khắp mọi nơi trong thế giới chúng ta biện hộ cho sự sát nhân như một phương tiện dẫn đến sự kết thúc đúng đắn, mà trong chính nó là không tiền lệ. Trước kia, xấu xa được công nhậnxấu xa, sát nhân được công nhận là sát nhân, nhưng hiện nay sát nhân là một phương tiện để thành tựu một kết quả cao quí. Sát nhân dù thuộc một người hay một nhóm người, được biện hộ, bởi vì người sát nhân, hay nhóm người mà người sát nhân đại diện, biện hộ nó như một phương tiện để thành tựu một kết quả mà sẽ mang lại lợi ích cho con người. Đó là, chúng ta hy sinh hiện tại cho tương lai – và không đặt thành vấn đề chúng ta sử dụng phương tiện nào, chừng nào mục đích được tuyên bố của chúng ta còn là để tạo ra một kết quả mà chúng ta nói sẽ mang lại lợi ích cho con người. Vì vậy, điều hàm ý là rằng, một phương tiện sai lầm sẽ tạo ra một kết thúc đúng đắn và bạn biện hộ phương tiện sai lầm qua ý tưởng. Trong vô số khủng hoảng đã xảy ra trước kia, mấu chốt là sự khai thác về những sự vật hay những con người; hiện nay nó là sự khai thác về những ý tưởng, mà còn kinh hãi nhiều hơn, nguy hiểm nhiều hơn bởi vì sự khai thác về những ý tưởng gây tàn phá, gây hủy diệt. Lúc này chúng ta đã học hành uy quyền của sự tuyên truyền và đó là một trong những thảm họa lớn lao nhất có thể xảy ra: sử dụng những ý tưởng như một phương tiện để thay đổi con người. Đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới ngày nay. Con người không quan trọng – những hệ thống, những ý tưởng đã trở thành quan trọng. Con người không còn có bất kỳ ý nghĩa nào cả. Chúng ta có thể hủy diệt hàng triệu con người miễn là chúng ta sản sinh ra một kết quả, và kết quả được biện hộ bởi những ý tưởng. Chúng ta có một cấu trúc tuyệt vời của những ý tưởng để biện hộ cho xấu xachắc chắn đó là không tiền lệ. Xấu xaxấu xa; nó không thể tạo ra tốt lành. Chiến tranh không là một phương tiện dẫn đến hoà bình. Chiến tranh có lẽ mang lại những lợi ích phụ, giống như những máy bay có hiệu quả nhiều hơn, nhưng nó sẽ không mang lại hoà bình cho con người. Thuộc trí năng chiến tranh được biện hộ như một phương tiện để mang lại hoà bình; khi mảnh trí năng thống trị sống của con người, nó tạo ra một khủng hoảng không có tiền lệ từ trước đến nay.

Có những nguyên nhân khác cũng thể hiện một khủng hoảng không tiền lệ. Một trong số chúng là sự quan trọng lạ lùng mà con người đang trao cho những giá trị về giác quan, tài sản, danh tánh, giai cấpquốc gia, cho nhãn hiệu đặc biệt mà bạn khoác vào. Bạn hoặc là một người Hồi giáo hay người Ấn độ giáo, một người Thiên chúa giáo hay một người Cộng sản. Danh tánh và tài sản, giai cấpquốc gia, đã trở thành quan trọng một cách thống trị, mà có nghĩa rằng con người bị trói buộc trong giá trị của những giác quan, giá trị của những sự vật, dù được làm bằng cái trí hay bằng bàn tay. Những sự việc được làm bằng bàn tay hay bằng cái trí đã trở thành quan trọng đến độ chúng ta đang giết chóc, đang hủy diệt, đang tàn sát, đang bốc hơi lẫn nhau bởi vì chúng. Chúng ta đang ở sát bờ vực thẳm; mọi hành động đều đang dẫn chúng ta đến đó, chắc chắn mọi hành động chính trị, mọi hành động kinh tế đều đang đưa chúng ta đến vực thẳm, đang kéo lê chúng ta vào địa ngục thăm thẳm đầy hỗn loạn, rối tung này. Vì vậy, sự khủng hoảng không có tiền lệ và nó cần hành động không có tiền lệ. Muốn rời bỏ, muốn thoát khỏi sự khủng hoảng đó, cần có một hành động không-thời gian, một hành động không được đặt nền tảng trên ý tưởng, trên hệ thống, bởi vì bất kỳ hành động nào được đặt nền tảng trên một hệ thống, trên một ý tưởng, chắc chắn sẽ dẫn đến một tuyệt vọng. Hành động như thế chỉ đưa chúng ta quay lại vực thẳm bằng một con đường khác. Bởi vì sự khủng hoảng là không-tiền lệ nên cũng cần phải có hành động không-tiền lệ, mà có nghĩa sự tái sinh của cá thể phải là tức khắc, không phải một qui trình của thời gian. Nó phải xảy ra ngay lúc này, không phải ngày mai; vì ngày mai là một qui trình của không-hòa hợp. Nếu tôi suy nghĩ về thay đổi chính tôi vào ngày mai, tôi mời mọc sự hỗn loạn, tôi vẫn còn trong lãnh vực của hủy diệt. Liệu có thể thay đổi ngay lúc này được không? Liệu có thể hoàn toàn thay đổi chính người ta trong ngay tức khắc, trong ngay lúc này? Tôi nói được. 

Vấn đề là rằng, bởi vì sự khủng hoảng thuộc về một đặc điểm ngoại lệ, muốn gặp gỡ nó phải có sự cách mạng trong suy nghĩ; và cách mạng này không thể xảy ra qua một người khác, qua bất kỳ quyển sách nào, qua bất kỳ tổ chức nào. Nó phải đến qua chúng ta, qua mỗi người chúng ta. Chỉ đến lúc đó chúng ta mới có thể sáng tạo một xã hội mới mẻ, một cấu trúc mới mẻ tách khỏi cấu trúc kinh hoàng này, tách khỏi những sức mạnh hủy diệt lạ lùng này mà đang được tích lũy, đang được chồng chất; và sự thay đổi đó hiện diện chỉ khi nào bạn như một cá thể bắt đầu tỉnh thức được chính bạn trong mọi suy nghĩ, hành động và cảm thấy

2- VỀ CHỦ NGHĨA QUỐC GIA

Người hỏi: Điều gì xảy ra khi chủ nghĩa quốc gia không còn? 

Krishnamurti: Chắc chắn, thông minh. Nhưng tôi e rằng đó không là hàm ý trong câu hỏi này. Hàm ý là, cái gì có thể được thay thế cho chủ nghĩa quốc gia? Bất kỳ thay thế nào là một hành động không mang lại thông minh. Nếu tôi rời bỏ một tôn giáotham gia một tôn giáo khác, hay rời bỏ một đảng phái chính trị và sau đó tham gia một cái gì đó khác, sự thay thế liên tục này thể hiện một trạng thái trong đó không có thông minh

Chủ nghĩa quốc gia biến mất bằng cách nào? Chỉ bằng cách hiểu rõ toàn hàm ý của nó, bằng cách nhận biết được ý nghĩa của nó trong hành động bên ngoài và bên trong. Phía bên ngoài nó tạo ra những phân chia giữa những con người, những giai cấp, những chiến tranh và hủy diệt, điều đó rõ ràng cho bất kỳ người nào khi quan sát. Phía bên trong, thuộc tâm lý, sự đồng hóa này với điều to tát hơn, với quốc gia, với một ý tưởng, rõ ràng là một hình thức của tự-bành trướng. Đang sống trong một ngôi làng nhỏ hay trong một thị trấn lớn hay là gì chăng nữa, tôi không là ai cả; nhưng nếu tôi đồng hóa chính tôi với điều to tát hơn, với quốc gia, nếu tôi gọi chính tôi là một người Ấn độ giáo, nó ve vãn sự kiêu ngạo của tôi, nó cho tôi sự thỏa mãn, thanh danh, một ý thức của hạnh phúc; và đồng hóa đó với điều to tát hơn, mà là một nhu cầu thuộc tâm lý cho những người cảm thấy rằng tự-bành trướng là cốt lõi, cũng tạo ra xung đột, đấu tranh giữa những con người. Vì vậy chủ nghĩa quốc gia không chỉ tạo ra xung đột phía bên ngoài mà còn những tuyệt vọng phía bên trong; khi người ta hiểu rõ về chủ nghĩa quốc gia, toàn qui trình của chủ nghĩa quốc gia, nó tan biến. Sự hiểu rõ về chủ nghĩa quốc gia hiện diện qua thông minh, bằng cách quan sát cẩn thận, bằng cách suy xét toàn qui trình của chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa yêu nước. Từ sự tìm hiểu đó, thông minh hiện diệnvì vậy không có một thay thế khác cho chủ nghĩa quốc gia. Khoảnh khắc bạn thay thế tôn giáo cho chủ nghĩa quốc gia, tôn giáo trở thành một phương tiện khác của tự-bành trướng, một nguồn khác của sự lo âu thuộc tâm lý, một phương tiện nuôi nấng chính người ta qua một niềm tin. Vì vậy bất kỳ hình thức nào của thay thế, dù cao quí chừng nào, là một hình thức của dốt nát. Nó giống như một người đang thay thế kẹo cao su hay quả cau hay bất kỳ thứ gì cho việc hút thuốc lá, trái lại nếu người ta thực sự hiểu rõ toàn vấn đề của hút thuốc lá, của những thói quen, những cảm giác, những đòi hỏi thuộc tâm lý và tất cả moị việc như thế, vậy thì việc hút thuốc lá không còn. Bạn có thể hiểu rõ nó chỉ khi nào có một khai triển của thông minh, khi thông minh đang vận hành, và thông minh không đang vận hành khi có sự thay thế. Sự thay thế chỉ là một hình thức của tự-hối lộ, để quyến rũ bạn không làm điều này nhưng làm điều kia. Chủ nghĩa quốc gia, với sự độc hại của nó, cùng đau khổxung đột thế giới của nó, có thể tan biến chỉ khi nào có thông minh, và thông minh không hiện diện chỉ bằng cách đậu những kỳ thi hay học hành những quyển sách. Thông minh hiện diện khi chúng ta hiểu rõ những vấn đề khi chúng nảy sinh. Khi có hiểu rõ vấn đề ở những mức độ khác nhau của nó, không chỉ phía bên ngoài nhưng còn cả những hàm ý thuộc tâm lý phía bên trong của nó, vậy thì trong tiến hành đó, thông minh hiện diện. Vì vậy khi có thông minh không có sự thay thế; và khi có thông minh, lúc đó chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa yêu nước, mà là một hình thức của dốt nát, biến mất. 

3- TẠI SAO CẦN NHỮNG VỊ THẦY TINH THẦN?

Câu hỏi: Ông nói rằng những đạo sư là không cần thiết, nhưng làm thế nào tôi có thể tìm được sự thật nếu không có sự giúp đỡ và sự hướng dẫn thông minh mà chỉ có một đạo sư có thể trao tặng?

Krishnamurti: Câu hỏi là liệu một đạo sưcần thiết hay không. Liệu sự thật có thể tìm được nhờ một người khác? Một số người nói nó có thể và một số nói không thể. Chúng ta muốn biết sự thật của điều này, không phải ý kiến của tôi như chống lại ý kiến của một người khác. Tôi không có ý kiến trong vấn đề này. Hoặc nó là như thế hoặc nó không như thế. Liệu nó cần thiết rằng, bạn nên hay không nên có một đạo sư không là vấn đề của ý kiến. Sự thật của vấn đề không phụ thuộc vào ý kiến, dù sâu sắc, thông thái, phổ biến, toàn cầu đến chừng nào. Sự thật của vấn đề phải được tìm ra, trong sự kiện.

Trước hết, tại sao chúng ta muốn có một đạo sư? Chúng ta nói chúng ta cần một đạo sư bởi vì chúng ta bị hoang mang và đạo sư là người giúp đỡ; ông ấy sẽ chỉ ra sự thật là gì, ông ấy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ, ông ấy biết về sống nhiều hơn chúng ta, ông ấy sẽ hành động như một người cha, như một người thầy để hướng dẫn chúng ta trong sống; ông ấy có trải nghiệm vô hạn và chúng ta chẳng có bao nhiêu; ông ấy sẽ giúp đỡ chúng ta qua trải nghiệm vô hạn của ông ấy và vân vânvân vân. Đó là, theo căn bản, bạn tìm đến một vị thầy bởi vì bạn bị hoang mang. Nếu bạn rõ ràng, bạn sẽ không đến gần một đạo sư. Rõ ràng, nếu bạn có hạnh phúc sâu thẳm, nếu không có những vấn đề, nếu bạn hiểu rõ trọn vẹn về sống, bạn sẽ không tìm đến bất kỳ đạo sư nào. Tôi hy vọng bạn thấy được ý nghĩa của điều này. Bởi vì bạn bị hoang mang, bạn tìm kiếm một vị thầy. Bạn đến với ông ấy để chỉ bảo cho bạn một cách sống, để vạch rõ sự hoang mang riêng của bạn, để tìm ra sự thật. Bạn chọn lựa đạo sư của bạn bởi vì bạn bị hoang mang và bạn hy vọng ông ấy sẽ cho bạn điều gì bạn xin xỏ. Đó là bạn chọn lựa một đạo sư mà sẽ thỏa mãn sự đòi hỏi của bạn; bạn chọn lựa tùy theo sự thỏa mãn mà ông ấy sẽ cho bạn, và chọn lựa của bạn lệ thuộc vào sự thỏa mãn của bạn. Bạn không chọn lựa một đạo sư mà nói, ‘Hãy phụ thuộc vào chính bạn’, bạn chọn lựa ông ấy tùy theo những thành kiến của bạn. Vì vậy bởi vì bạn chọn lựa vị đạo sư của bạn tùy theo sự thỏa mãn mà ông ấy trao tặng cho bạn, bạn không đang tìm kiếm sự thật nhưng đang tìm kiếm một phương cách thoát khỏi sự hoang mang; và phương cách thoát khỏi sự hoang mang đã được hiểu lầmsự thật. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu kỹ càng ý tưởng này: liệu một đạo sư có thể khai quang sự hoang mang của chúng ta? Liệu bất kỳ người nào có thể khai quang sự hoang mang của chúng ta? – hoang mang là sản phẩm của những phản ứng của chúng ta. Chúng ta đã tạo ra nó. Bạn nghĩ rằng một người nào khác đã tạo ra nó – đau khổ này, trận chiến này trong mọi mức độ của tồn tại, bên trong và bên ngoài? Nó là kết quả của sự không hiểu rõ riêng về chính chúng ta. Do bởi chúng ta không hiểu rõ về chính chúng ta, những xung đột của chúng ta, những phản ứng của chúng ta, những đau khổ của chúng ta, chúng ta mới tìm đến một đạo sưchúng ta nghĩ rằng sẽ giúp chúng ta được tự do khỏi sự hoang mang đó. Chúng ta có thể hiểu rõ về chính chúng ta chỉ trong sự liên hệ với hiện tại; và chính sự liên hệ đó là vị đạo sư, không phải người nào đó phía bên ngoài. Nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ đó, bất kỳ điều gì vị đạo sư có lẽ nói đều vô dụng, bởi vì nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ, sự liên hệ của tôi với tài sản, với con người, với những ý tưởng, ai có thể giải quyết được xung đột phía bên trong tôi? Muốn giải quyết được xung đột đó, tôi phải hiểu rõ nó bởi chính tôi, mà có nghĩa rằng tôi phải nhận biết được chính tôi trong sự liên hệ. Muốn nhận biết, không vị đạo sư nào được cần đến. Nếu tôi không hiểu rõ về chính tôi, một đạo sư có ích gì? Giống như một người lãnh đạo chính trị được chọn lựa bởi những người bị hoang mang, và thế là sự chọn lựa của những người đó cũng bị hoang mang, vì vậy tôi chọn lựa một đạo sư. Tôi chọn lựa ông ấy chỉ tùy theo sự hoang mang của tôi; thế là ông ấy, giống như người lãnh đạo chính trị, bị hoang mang.

Điều gì quan trọng không phải ai nói đúng – liệu tôi nói đúng hay liệu những người kia mà nói rằng một đạo sưcần thiết, nói đúng; phải tìm ra tại sao bạn cần một đạo sư là rất quan trọng. Những vị đạotồn tại vì sự trục lợi thuộc nhiều loại khác nhau, nhưng điều đó không liên quan. Nó cho bạn sự thỏa mãn nếu ai đó bảo cho bạn tiến bộ như thế nào, nhưng tìm ra tại sao bạn cần một đạo sư – đó là mấu chốt. Một người khác có thể vạch rõ hướng đi nhưng bạn phải thực hiện tất cả công việc, ngay cả nếu bạn có một đạo sư. Bởi vì bạn không muốn đối diện với điều đó, bạn chuyển trách nhiệm sang vị đạo sư. Vị đạotrở thành vô dụng khi có một chút ít của hiểu rõ về chính mình. Không vị đạo sư, không quyển sách hay kinh thánh, có thể trao cho bạn sự hiểu rõ về chính mình: nó đến khi bạn nhận biết được chính bạn trong sự liên hệ. Hiện diện là có liên hệ; không hiểu rõ sự liên hệđau khổ, xung đột. Không nhận biết được sự liên hệ của bạn với tài sản là một trong những nguyên nhân của sự hoang mang. Nếu bạn không hiểu rõ sự liên hệ đúng đắn của bạn với tài sản chắc chắnxung đột, mà làm gia tăng xung đột trong xã hội. Nếu bạn không hiểu rõ sự liên hệ giữa chính bạn và người vợ của bạn, giữa chính bạn và con cái của bạn, làm thế nào một người khác có thể giải quyết được xung đột đang nảy sinh từ sự liên hệ đó? Tương tự như thế với những ý tưởng, với những niềm tinvân vân. Bị hoang mang trong liên hệ của bạn với tài sản, với con người, với những ý tưởng, bạn tìm kiếm một đạo sư. Nếu ông ấy là một đạo sư chân chính, ông ấy sẽ bảo cho bạn phải hiểu rõ về chính bạn. Bạn là cái nguồn của tất cả những hiểu lầm và hoang mang; và bạn có thể giải quyết được xung đột đó chỉ khi nào bạn hiểu rõ về chính bạn trong sự liên hệ.

Bạn không thể tìm ra sự thật qua bất kỳ người nào khác. Làm thế nào bạn có thể? Sự thật không là cái gì đó đứng yên; nó không có nơi chỗ cố định; nó không có một kết thúc, một mục đích. Trái lại, nó đang sống, năng động, tỉnh táo, sinh động. Làm thế nào nó có thể là một kết thúc? Nếu sự thật là một điểm cố định nó không còn là sự thật nữa; lúc đó nó chỉ là một ý kiến. Sự thật là cái không biết được, và một cái trí đang tìm kiếm sự thật sẽ không bao giờ tìm ra nó, bởi vì cái trí đã tạo thành từ cái đã được biết, nó là kết quả của quá khứ, kết quả của thời gian – mà bạn có thể quan sát cho chính bạn. Cái trí là công cụ của cái đã được biết, vì vậy nó không thể tìm ra cái không biết được; nó chỉ có thể chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết. Khi cái trí tìm kiếm sự thật, sự thật nó đã đọc được trong những quyển sách, ‘sự thật’ đó là tự-chiếu rọi; bởi vì lúc đó cái trí chỉ đang theo đuổi cái đã được biết, một cái đã được biết gây thỏa mãn hơn cái đã được biết trước. Khi cái trí tìm kiếm sự thật, nó đang tìm kiếm tự-chiếu rọi riêng của nó, không phải sự thật. Rốt cuộc, một lý tưởng là tự-chiếu rọi; nó là ảo tưởng, không có thật. Điều gì có thật là cái gì là, không phải điều đối nghịch. Nhưng một cái trí đang tìm kiếm sự thật, đang tìm kiếm Thượng đế, thật ra đang tìm kiếm cái đã được biết. Khi bạn suy nghĩ về Thượng đế, Thượng đế của bạn là sự chiếu rọi của suy nghĩ riêng của bạn, kết quả của những ảnh hưởng thuộc xã hội. Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết; bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, bạn không thể tập trung vào sự thật. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó chỉ là cái đã được biết tự-chiếu rọi. Thượng đế hay sự thật không thể được suy nghĩ. Nếu bạn suy nghĩ về nó, nó không là sự thật. Sự thật không thể được tìm kiếm: nó đến với bạn. Bạn chỉ có thể theo đuổi cái gì đã được biết. Khi cái trí không bị hành hạ bởi cái đã được biết, bởi những ảnh hưởng của cái đã được biết, vậy thì chỉ như thế sự thật có thể tự-phơi bày chính nó. Sự thật trong mỗi chiếc lá, trong mỗi giọt nước mắt; nó phải được biết từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Không ai có thể dẫn dắt bạn đến sự thật; và nếu có ai đó dẫn dắt bạn, nó chỉ có thể là cái đã được biết.

Sự thật chỉ có thể đến với cái trí mà trống không khỏi cái đã được biết. Nó đến trong một trạng thái mà cái đã được biết vắng mặt, không đang vận hành. Cái trí là kho lưu trữ của cái đã được biết, cặn bã của cái đã được biết; muốn cho cái trí ở trong trạng thái mà cái không biết được hiện diện, nó phải nhận biết được chính nó, tỉnh thức được những trải nghiệm trước của nó, tầng ý thức bên ngoài cũng như tầng ý thức bên trong, được những phản ứng, những đáp trả, và cấu trúc của nó. Khi có hiểu rõ hoàn toàn về chính mình, vậy thì có sự kết thúc của cái đã được biết, lúc đó cái trí hoàn toàn trống không khỏi cái đã được biết. Chỉ đến lúc đó sự thật có thể đến với bạn mà không cần mời mọc. Sự thật không lệ thuộc vào bạn hay tôi. Bạn không thể tôn thờ nó. Khoảnh khắc nó được biết, nó không là sự thật. Biểu tượng không là sự thật, hình ảnh không là sự thật; nhưng khi có hiểu rõ về cái tôi, sự kết thúc của cái tôi, vậy là vĩnh hằng hiện diện

4- VỀ HIỂU BIẾT

Câu hỏi: Rõ ràng là từ ông, tôi hiểu được rằng học hỏihiểu biết là những cản trở. Chúng là những cản trở cho cái gì?

Krishnamurti: Rõ ràng hiểu biếthọc hỏi là một cản trở cho sự hiểu rõ cái mới mẻ, cái không-thời gian, cái vĩnh hằng. Phát triển một phương pháp kỹ thuật hoàn hảo không làm cho bạn sáng tạo. Bạn có lẽ biết cách vẽ tuyệt vời, bạn có lẽ có kỹ thuật; nhưng bạn có lẽ không là một họa sĩ sáng tạo. Bạn có lẽ biết cách viết những bài thơ, theo kỹ thuật là hoàn hảo nhất; nhưng bạn có lẽ không là một thi sĩ. Muốn là một thi sĩ hàm ý có khả năng thâu nhận cái mới mẻ, nhạy cảm trọn vẹn để phản ứng đến cái gì đó một cách mới mẻ, trong sáng, đúng chứ? Đối với hầu hết chúng ta hiểu biếthọc hỏi đã trở thành một nghiện ngập và chúng ta nghĩ rằng qua hiểu biết chúng ta sẽ được sáng tạo. Một cái trí bị chất đầy, bị bao phủ trong những sự kiện, trong hiểu biết – liệu nó có thể thâu nhận cái gì đó mới mẻ, bỗng nhiên, tự phát? Nếu cái trí của bạn bị nhét đầy cái đã được biết, liệu còn bất kỳ không gian nào trong nó để thâu nhận cái gì đó mà thuộc về cái không biết được? Chắc chắn hiểu biết luôn luôn thuộc về cái đã được biết, và với cái đã được biết chúng ta đang cố gắng hiểu rõ cái không biết được, cái gì đó vượt khỏi sự đo lường. 

Ví dụ, một sự việc rất thông thường mà xảy ra cho hầu hết chúng ta: những người theo tôn giáo – dù hiện nay từ ngữ đó có lẽ có ý nghĩa như thế nào – cố gắng tưởng tượng Thượng đế là gì hay cố gắng suy nghĩ Thượng đế là gì. Họ đã đọc vô số những quyển sách, họ đã đọc về những trải nghiệm của vô số những vị thánh, những bậc Thầy, những đấng Mahatma và tất cả những người còn lại, và họ cố gắng tưởng tượng hay cố gắng cảm thấy trải nghiệm của một người khác là gì; đó là với cái đã được biết bạn cố gắng tiếp cận cái không biết được? Bạn có thể thực hiện được việc đó hay sao? Bạn có thể suy nghĩ về cái gì đó mà không thể biết được? Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái gì đó mà bạn biết. Nhưng có khuynh hướng lạ lùng này đang xảy ra trên thế giới tại thời điểm hiện nay: chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ hiểu rõ nếu chúng ta có nhiều thông tin hơn, nhiều quyển sách hơn, nhều sự kiện, nhiều báo chí hơn.

Muốn nhận biết được điều gì đó mà không là sự chiếu rọi của cái đã được biết, phải qua hiểu rõ, xóa sạch qui trình của cái đã được biết. Tại sao cái trí lại cứ luôn luôn muốn bám vào cái đã được biết? Không phải bởi vì cái trí liên tục đang tìm kiếm sự chắc chắn, sự an toàn hay sao? Chính bản chất của nó là cố định trong cái đã được biết, trong thời gian; làm thế nào một cái trí như thế, mà chính nền tảng của nó được đặt trên quá khứ, trên thời gian, có thể trải nghiệm được cái không-thời gian? Nó có thể hình dung, tạo tác, vẽ lên cái không biết được, nhưng tất cả việc đó đều vô lý. Cái không biết được có thể hiện diện chỉ khi nào cái đã được biết được hiểu rõ, được xóa sạch, được tan biến. Điều đó khó khăn cực kỳ bởi vì khoảnh khắc bạn có một trải nghiệm về bất kỳ cái gì, cái trí diễn giải nó thành thuật ngữ của cái đã được biết, và dẫn dắt nó vào quá khứ. Tôi không biết bạn có nhận thấy rằng mọi trải nghiệm ngay tức khắc được diễn giải thành cái đã được biết, cho một danh tánh, lên danh sách và được ghi chép. Vì vậy chuyển động của cái đã được biết là hiểu biết, và chắc chắn hiểu biết, học hỏi như thế, là một cản trở.

Giả sử bạn đã chưa từng đọc một quyển sách, thuộc tôn giáo hay tâm lý, và bạn phải tìm ra sự quan trọng, ý nghĩa của sống. Làm thế nào bạn khởi sự nó đây? Giả sử không có những bậc Thầy, không có những tổ chức tôn giáo, không có Phật, không Chúa, và bạn phải khởi sự từ nơi khởi đầu. Làm thế nào bạn khởi sự nó đây? Trước hết bạn sẽ phải hiểu rõ về qui trình suy nghĩ của bạn, đúng chứ? – và không tự-chiếu rọi chính bạn, những tư tưởng của bạn vào tương lai và tạo tác một Thượng đế mà làm hài lòng bạn; điều đó sẽ quá trẻ con. Vì vậy trước hết bạn sẽ phải hiểu rõ về qui trình suy nghĩ của bạn. Đó là cách duy nhất để khám phá bất kỳ điều gì mới mẻ, đúng chứ?

Khi chúng ta nói rằng học hỏi hay hiểu biết là một cản trở, một ngáng trở, chúng ta không nên bao gồm hiểu biết kỹ thuật – cách lái một chiếc xe hơi, cách vận hành máy móc – hay những hiệu quả như thế mà hiểu biết mang lại. Chúng ta có trong cái trí một sự việc hoàn toàn khác hẳn: ý thức của hạnh phúc sáng tạo đó mà không số lượng hiểu biết hay học hỏi nào sẽ mang lại. Để sáng tạo trong ý nghĩa trung thực nhất của từ ngữ đó là được tự do khỏi quá khứ từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, bởi vì chính quá khứ đang liên tục tỏa bóng vào hiện tại. Chỉ bám vào thông tin, trải nghiệm của những người khác, điều gì người khác đã nói, dù tuyệt vời đến chừng nào, và cố gắng phỏng chừng hành động của bạn đến điều đó – tất cả nó là hiểu biết, đúng chứ? Nhưng muốn khám phá bất kỳ điều gì mới mẻ bạn phải tự khởi hành; bạn phải bắt đầu một chuyến hành trình trơ trụi, đặc biệt khỏi hiểu biết, bởi vì qua hiểu biếtniềm tin, rất dễ dàng để có được những trải nghiệm; nhưng những trải nghiệm kia chỉ là những sản phẩm của tự-chiếu rọi và vì vậy hoàn toàn không thực tế, giả dối. Nếu bạn muốn khám phá cho chính bạn cái gì là mới mẻ, không tốt đẹp gì khi vác theo gánh nặng của cái cũ kỹ, đặc biệthiểu biếthiểu biết của một người khác dù tuyệt vời đến chừng nào. Bạn sử dụng hiểu biết như một phương tiện của tự-chiếu rọi, an toàn, và bạn muốn hoàn toàn được bảo đảm rằng bạn có cùng những trải nghiệm như Phật hay Chúa hay X. Nhưng một con người liên tục đang tự-phòng vệ chính anh ấy qua hiểu biết chắc chắn không là một người tìm kiếm-sự thật.

Bởi vì khám phá sự thật không có con đường. Bạn phải đi vào đại dương chưa được vẽ trên bản đồ – mà không có nghĩa chán nản, mà không có nghĩa may rủi. Khi bạn muốn tìm ra một cái gì đó mới mẻ, khi bạn đang thử nghiệm cái gì đó, cái trí của bạn phải rất yên lặng? Nếu cái trí của bạn bị chất đầy, ngập ứ những sự kiện, hiểu biết, chúng hành động như một cản trở đến cái mới mẻ; đối với hầu hết chúng ta việc khó khăn là cái trí đã trở nên quá quan trọng, có ý nghĩa chi phối, đến độ nó liên tục ngăn cản bất kỳ cái gì có lẽ mới mẻ, bất kỳ cái gì có lẽ tồn tại cùng lúc với cái đã được biết. Vậy là, hiểu biếthọc hỏi là những cản trở cho những người muốn tìm kiếm, cho những người muốn cố gắng hiểu rõ cái không-thời gian. 

5- VỀ KỶ LUẬT

Câu hỏi: Tất cả những tôn giáo đều đã khẳng định vào một loại tự kỷ luật nào đó để quân bình những bản năng hung tợn trong con người. Qua tự kỷ luật những vị thánh và những người huyền bí đã khẳng định rằng họ đã đạt được tánh Thượng đế. Bây giờ ông dường như ám chỉ rằng những kỷ luật như thế là một cản trở đến sự nhận ra Thượng đế. Tôi bị hoang mang. Ai đúng trong vấn đề này?

Krishnamurti: Không phải là ai đúng hay sai trong vấn đề này. Điều quan trọng là tìm ra sự thật của vấn đề cho chính chúng ta – không phụ thuộc vào một vị thánh đặc biệt hay một con người đến từ Ấn độ hay từ nơi nào khác, càng ngoại lai bao nhiêu càng tốt hơn bấy nhiêu. 

Bạn bị trói buộc giữa hai điều này: người nào đó nói kỷ luật, một người khác nói không-kỷ luật. Thông thường điều gì xảy ra là rằng bạn chọn lựa cái gì thuận tiện hơn, cái gì gây thỏa mãn hơn: bạn thích con người, hình dáng của ông ấy, những đặc điểm cá thể của ông ấy, ưa thích cá thể của ông ấy và tất cả mọi chuyện như thế. Gạt qua một bên tất cả việc đó, chúng ta hãy tìm hiểu trực tiếp câu hỏi này và tìm ra sự thật của vấn đề cho chính chúng ta. Trong vấn đề này nhiều điều được hàm ý và chúng ta phải tiếp cận nó rất cẩn thận và từ tốn.

Hầu hết chúng ta đều muốn người nào đó có uy quyền chỉ bảo cho chúng ta phải làm gì. Chúng ta tìm kiếm một phương hướng trong cách cư xử, bởi vì bản năng của chúng ta là muốn được an toàn, không phải đau khổ nhiều thêm nữa. Người nào đó được nói đến là đã nhận ra hạnh phúc, ân lành, hay điều gì bạn ao ước, và chúng ta hy vọng rằng ông ấy sẽ chỉ bảo cho chúng ta điều gì phải làm để đến được trạng thái đó. Đó là điều gì chúng ta muốn: chúng ta muốn cùng hạnh phúc đó, cùng hân hoan, tĩnh lặng bên trong đó; và trong thế giới điên khùng của hỗn loạn này chúng ta muốn người nào đó chỉ bảo cho chúng ta phải làm gì. Đối với hầu hết chúng ta đó thực sự là bản năng căn bản và, tùy theo bản năng đó, chúng ta định hình hành động của chúng ta. Liệu Thượng đế, cái sự vật tối thượng đó, không đặt tên được và không đo lường được bởi những từ ngữ – cái đó đến được qua kỷ luật, qua tuân theo một khuôn mẫu đặc biệt của hành động hay sao? Chúng ta muốn đạt được một mục đích đặc biệt, một kết thúc đặc biệt, và chúng ta nghĩ rằng qua luyện tập, qua kỷ luật, bằng cách đè nén hay giải phóng, thăng hoa hay thay thế, chúng ta sẽ có thể tìm ra điều chúng ta đang tìm kiếm.

Điều gì được hàm ý trong kỷ luật? Tại sao chúng ta kỷ luật chính chúng ta, nếu chúng ta thực hiện? Liệu kỷ luật và thông minh theo cùng nhau? Hầu hết con người cảm thấy rằng chúng ta phải, qua một loại kỷ luật nào đó, khuất phục hay kiểm soát tánh hung tợn, tánh xấu xa trong chúng ta. Tánh hung tợn đó, tánh xấu xa đó, có thể kiểm soát được qua kỷ luật hay sao? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ kỷ luật? Một nguồn hành động mà hứa hẹn một phần thưởng, một nguồn hành động mà, nếu được theo đuổi, sẽ cho chúng ta điều gì chúng ta muốn – nó có lẽ là tích cực hay tiêu cực; một khuôn mẫu của cư xử mà, nếu được luyện tập chuyên cần, siêng năng, rất, rất gian khổ, cuối cùng sẽ cho tôi điều gì tôi mong muốn. Nó có lẽ đau khổ nhưng tôi sẵn lòng trải qua đau khổ để có được điều đó. Cái tôi, mà là hung hăng, ích kỷ, đạo đức giả, lo âu, sợ hãi – bạn biết, tất cả nó – cái tôi đó, mà là nguyên nhân của hung bạo trong chúng ta, chúng ta muốn thay đổi, chinh phục, hủy diệt. Làm thế nào điều này được thực hiện? Nó được thực hiện qua kỷ luật, hay qua một hiểu rõ thông minh về quá khứ của cái tôi, cái tôi là gì, nó hiện diện bằng cách nào, và vân vân? Chúng ta sẽ triệt tiêu sự hung tợn trong con người qua cưỡng bách, hay qua thông minh? Thông minh là một vấn đề của kỷ luật hay sao? Lúc này chúng ta hãy quên điều gì những vị thánh và tất cả phần còn lại của con người đã nói; chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề cho chính chúng ta, như thể lần đầu tiên chúng ta nhìn vào vấn đề này; vậy thì chúng ta có lẽ có cái gì đó sáng tạo tại khúc cuối của nó, không chỉ những trích dẫn về điều gì người khác đã nói, mà quá hão huyềnvô ích

Trước hết chúng ta nói rằng có xung đột trong chúng ta, người da đen chống lại người da trắng, tham lam chống lại không-tham lam và vân vân. Tôi tham lam mà tạo ra đau khổ; muốn loại bỏ tham lam đó, tôi phải kỷ luật chính tôi. Đó là tôi phải kháng cự bất kỳ hình thức xung đột nào mang lại đau khổ cho tôi, mà trong trường hợp này tôi gọi là tham lam. Sau đó tôi nói nó là phản kháng xã hội, nó là không đạo đức, nó là không thiêng liêngvân vânvân vân – những lý do tôn giáo-xã hội khác nhau chúng ta tạo ra để kháng cự nó. Tham lam được xóa sạch hay triệt tiêu khỏi chúng ta qua cưỡng bách hay sao? Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu qui trình đè nén bao hàm trong cưỡng bách, trong gạt bỏ nó, trong kháng cự. Điều gì xảy ra khi bạn làm việc đó, khi bạn kháng cự sự tham lam? Cái vật đang kháng cự tham lam là gì? Đó là câu hỏi đầu tiên phải không? Tại sao bạn kháng cự tham lam và ai là thực thể mà nói rằng, ‘Tôi phải được tự do khỏi tham lam’? Thực thể mà đang nói rằng, ‘Tôi phải được tự do’ cũng là tham lam, đúng chứ? Từ trước đến nay tham lam đã tác động vào anh ấy, nhưng bây giờ nó gây đau khổ; vì vậy anh ấy nói, ‘Tôi phải loại bỏ nó’. Động cơ để loại bỏ nó vẫn còn là qui trình của tham lam, bởi vì anh ấy đang muốn là cái gì đó mà anh ấy không là. Không-tham lam bây giờ gây lợi lộc, vì vậy tôi đang theo đuổi không-tham lam; nhưng động cơ, ý định, vẫn còn là cái gì đó, là không tham lam – mà vẫn còn là tham lam, chắc chắn như thế; mà lại nữa là một hình thức của tiêu cực của nhấn mạnh vào ‘cái tôi’. 

Chúng ta thấy rằng tham lamđau khổ, vì những lý do khác nhau mà quá rõ ràng. Chừng nào chúng ta còn tận hưởng nó, chừng nào nó còn khiến chúng ta tham lam, không có vấn đề. Xã hội khuyến khích chúng ta tham lam trong những cách khác nhau; vì vậy những tôn giáo khuyến khích chúng ta trong những cách khác nhau. Chừng nào nó còn gây lợi lộc, chừng nào nó còn không-đau khổ, chúng ta còn theo đuổi nó nhưng khoảnh khắc nó trở nên đau khổ chúng ta muốn kháng cự nó. Kháng cự đó là điều gì chúng ta gọi là kỷ luật chống đối lại tham lam; nhưng chúng ta được tự do khỏi tham lam qua kháng cự, qua thăng hoa, qua đè nén hay sao? Bất kỳ hành động nào thuộc phần ‘cái tôi’ mà muốn được tự do khỏi tham lam vẫn còn là tham lam. Vì vậy bất kỳ hành động nào, bất kỳ phản ứng nào về phần của cái tôi đều liên quan đến tham lam, chắc chắn không là giải pháp.

Trước hết phải có một cái trí yên lặng, một cái trí không bị quấy rầy, để hiểu rõ bất kỳ điều gì, đặc biệt điều gì đó mà tôi không biết, điều gì đó mà cái trí của tôi không thể đo lường – mà, người hỏi này nói, là Thượng đế. Muốn hiểu rõ bất kỳ điều gì, bất kỳ vấn đề phức tạp nào – của sống hay sự liên hệ, thật ra bất kỳ vấn đề nào – phải có một chiều sâu yên lặng nào đó đối với cái trí. Chiều sâu yên lặng đó hiện diện qua bất kỳ hình thức nào của cưỡng bách hay sao? Cái trí bên ngoài có thể cưỡng bách chính nó, làm cho chính nó yên lặng; nhưng chắc chắn sự yên lặng như thế là sự yên lặng của thối rữa, chết rồi. Nó không có khả năng điều chỉnh, thích ứng, nhạy cảm. Vì vậy kháng cự không là phương cách đúng đắn.

Vậy là muốn thấy việc đó cần đến thông minh, phải không? Thấy rằng cái trí bị làm đờ đẫn đi bởi sự cưỡng bách là khởi đầu của thông minh rồi, đúng chứ? – thấy rằng kỷ luật chỉ là sự tuân phục của một khuôn mẫu đến hành động qua sợ hãi. Đó là điều gì được hàm ý trong việc kỷ luật chính chúng ta: chúng ta sợ không nhận được điều chúng ta muốn. Điều gì xảy ra khi bạn kỷ luật cái trí, khi bạn kỷ luật thân tâm của bạn? Nó trở nên rất xơ cứng, không mềm dẻo, không nhạy bén, không có khả năng thích ứng, đúng chứ? Bạn không biết những con người mà đã kỷ luật chính họ – nếu có những con người như thế? Kết quả rõ ràng là một qui trình của phân rã. Có một xung đột bên trong mà bị gạt đi, bị che giấu; nhưng nó ở đó, đang hừng hực cháy bỏng.

Vẫn vậy chúng ta thấy rằng kỷ luật, mà là kháng cự, chỉ tạo ra một thói quen, mà thói quen đó rõ ràng không thể là sản phẩm của thông minh: thói quen không bao giờ là, sự luyện tập không bao giờ là thông minh. Bạn có lẽ trở nên rất khéo léo với những ngón tay của bạn bởi sự luyện tập dương cầm suốt ngày, làm điều gì đó bằng bàn tay của bạn; nhưng thông minh được cần đến để hướng dẫn bàn tay và bây giờ chúng ta đang tìm hiểu thông minh đó.

Bạn thấy người nào đó mà bạn nghĩ là hạnh phúc hay đã nhận ra, và anh ấy làm những sự việc nào đó; bạn, muốn được hạnh phúc đó, bắt chước anh ấy. Bắt chước này được gọi là kỷ luật, phải không? Chúng ta bắt chước để nhận được điều gì người khác có; chúng ta sao chép với mục đích để được hạnh phúc, mà bạn nghĩ rằng anh ấy có. Hạnh phúc được tìm ra qua kỷ luật hay sao? Bằng cách thi hành một luật lệ nào đó, bằng cách luyện tập một kỷ luật nào đó, một khuôn mẫu của cách cư xử, bạn luôn luôn được tự do? Chắc chắn phải có tự do để khám phá, đúng chứ? Nếu bạn muốn khám phá bất kỳ điều gì, bạn phải được tự do phía bên trong, điều đó quá rõ ràng. Bạn được tự do bằng cách định hình cái trí của bạn trong một cách đặc biệt mà bạn gọi là kỷ luật hay sao? Rõ ràng là bạn không thể. Bạn chỉ là một cái máy lặp lại, đang kháng cự tùy theo một kết luận nào đó, tùy theo một khuôn mẫu cư xử nào đó. Tự do không thể đến qua kỷ luật. Tự do chỉ có thể hiện diện cùng thông minh; và thông minh đó thức dậy, hay bạn có thông minh đó, khoảnh khắc bạn thấy rằng bất kỳ hình thức cưỡng bách nào đều khước từ thông minh, bên trong hay bên ngoài. 

Yêu cầu đầu tiên, không phải như một kỷ luật, rõ ràngtự do; chỉ đạo đức mới mang lại tự do đó. Tham lamrối loạn; tức giận là rối loạn; cay đắngrối loạn. Khi bạn thấy điều đó, chắc chắn bạn được tự do khỏi chúng; bạn không kháng cự chúng nhưng bạn thấy rằng chỉ trong tự do bạn mới có thể khám phá và rằng bất kỳ bất kỳ hình thức nào của cưỡng bách không là tự do, và vì vậy không có khám phá. Điều gì đạo đức làm là trao tặng cho bạn tự do. Con người không-đạo đức là con người rối loạn; trong rối loạn, làm thế nào bạn có thể khám phá bất kỳ điều gì. Làm thế nào bạn có thể? Vẫn vậy đạo đức không là sản phẩm cuối cùng của một kỷ luật, nhưng đạo đứctự dotự do không thể hiện diện qua bất kỳ hành động nào mà không là đạo đức, mà không là sự thật trong chính nó. Khó khăn của chúng ta là rằng hầu hết chúng ta đã đọc quá nhiều, hầu hết chúng ta hời hợt tuân theo quá nhiều kỷ luật – mỗi buổi sáng thức dậy vào một giờ nào đó, ngồi trong một tư thế nào đó, cố gắng giữ cái trí của chúng ta trong một cách nào đó – bạn biết không, luyện tập, thi hành, kỷ luật, bởi vì bạn đã được bảo đảm rằng nếu bạn làm những việc này trong nhiều năm bạn sẽ có Thượng đế ở khúc cuối của nó. Tôi có lẽ trình bày khá thô lỗ, nhưng đó là nền tảng của suy nghĩ của chúng ta. Chắc chắn Thượng đế không đến dễ dàng như thế, phải không? Thượng đế không phải là một sự việc có thể mua bán được: tôi làm việc này và bạn cho tôi cái đó.

Hầu hết chúng ta quá bị quy định bởi những ảnh hưởng từ bên ngoài, bởi những giáo điều, những niềm tin tôn giáo, và bởi những đòi hỏi bên trong riêng của chúng ta để đến được cái gì đó, đạt được cái gì đó, đến độ rất khó khăn cho chúng ta khi suy nghĩ về vấn đề này mới mẻ lại mà không suy nghĩ dựa vào kỷ luật. Trước hết chúng ta phải thấy rất rõ ràng những hàm ý của kỷ luật, nó làm chật hẹp cái trí như thế nào, giới hạn cái trí, cưỡng bách cái trí đến một hành động đặc biệt, qua ham muốn của chúng ta, qua ảnh hưởng và mọi chuyện như thế; một cái trí bị quy địnhquy định đó có đạo đức đến chừng nào, không thể được tự dovì vậy không thể hiểu rõ sự thật. Thượng đế, sự thật hay điều gì bạn muốn – danh tánh không đặt thành vấn đề – chỉ có thể hiện diện khi có tự do, và không có tự do nơi nào có cưỡng bách, một cách tích cực hay tiêu cực, qua sợ hãi. Không có tự do nếu bạn đang tìm kiếm một kết thúc, bởi vì bạn bị trói chặt vào kết thúc đó. Bạn có lẽ được tự do khỏi quá khứ đó nhưng tương lai giữ chặt bạn, và đó không là tự do. Chỉ trong tự do người ta mới có thể khám phá bất kỳ điều gì: một ý tưởng mới mẻ, một cảm giác mới mẻ, một nhận biết mới mẻ. Bất kỳ hình thức nào của kỷ luật mà được đặt nền tảng trên cưỡng bách phủ nhận tự do đó, dù thuộc chính trị hay tôn giáo; và bởi vì kỷ luật, mà là tuân phục đến một hành động có một kết thúc trong quan điểm, đang trói buộc, cái trí không bao giờ được tự do. Nó có thể vận hành chỉ trong khe rãnh đó, giống như một máy hát đĩa.

Vẫn vậy, qua luyện tập, qua thói quen, qua sự vun đắp của một khuôn mẫu, cái trí chỉ đạt được cái gì nó có trong quan điểm. Vì vậy nó không được tự do; vì vậy nó không thể nhận ra cái không-đo lường được. Muốn tỉnh thức được toàn qui trình đó – tại sao bạn đang liên tục kỷ luật chính bạn theo quan điểm của quần chúng; theo những vị thánh nào đó; toàn công việc của tuân phục vào quan điểm, dù là của một vị thánh hay của một người hàng xóm, nó đều giống nhau – tỉnh thức được toàn sự tuân phục này qua luyện tập, qua những cung cách nhỏ nhiệm của đang hiến dâng chính mình, phủ nhận, khẳng định, đè nén, thăng hoa, tất cả sự tuân phục hàm ý một khuôn mẫu: điều này đã là sự khởi đầu của tự do, mà từ đó có một đạo đức. Chắc chắn đạo đức không là sự vun đắp một ý tưởng đặc biệt. Ví dụ, không-tham lam, nó được theo đuổi như một kết thúc không còn là đạo đức nữa, phải không? Đó là, liệu bạn ý thức được rằng bạn không-tham lam, bạn có đạo đức hay sao? Đó là điều gì chúng ta đang làm qua kỷ luật.

Kỷ luật, tuân phục, luyện tập, chỉ nhấn mạnh đến tự-ý thức như là cái gì đó. Cái trí luyện tập không-tham lam và vì vậy nó không được tự do khỏi ý thức riêng của nó như không-tham lam; vì vậy; nó không thực sự là không-tham lam. Nó chỉ đang khoác vào một chiếc áo mới mà nó gọi là không-tham lam. Chúng ta có thể thấy toàn qui trình của tất cả việc này: động cơ, ham muốn cho một kết thúc, tuân phục đến một khuôn mẫu, ham muốn được an toàn trong việc theo đuổi một khuôn mẫu – tất cả điều này chỉ là chuyển động từ cái đã được biết đến cái đã được biết, luôn luôn ở trong những giới hạn của qui trình tự-khép kín riêng của cái trí. Thấy tất cả việc này, tỉnh thức được nó là sự khởi đầu của thông minh, và thông minh không là đạo đức cũng không là không-đạo đức, nó không thể phù hợp vào một khuôn mẫu như đạo đức hay không-đạo đức. Thông minh mang lại tự do, mà không-phóng túng, không-vô trật tự. Nếu khôngthông minh này không thể có đạo đức; đạo đức trao tặng tự do và trong tự do, kia kìa, sự thật hiện diện. Nếu bạn thấy trọn vẹn toàn qui trình này, trong tổng thể của nó, vậy thì bạn sẽ thấy không còn xung đột. Chính vì chúng ta ở trong xung đột và bởi vì chúng ta muốn tẩu thoát khỏi xung đột đó, chúng ta mới nương dựa những hình thức khác nhau của kỷ luật, những phủ nhận và những điều chỉnh. Khi chúng ta thấy điều gì là qui trình của xung đột, không còn vấn đề của kỷ luật, bởi vì lúc đó chúng ta hiểu rõ từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc những phương cách của xung đột. Việc đó đòi hỏi sự tỉnh táo vô cùng, luôn luôn nhìn ngắm chính bạn; một điều lạ thường của nó là rằng: mặc dù bạn có lẽ không luôn luôn tỉnh táo, có một qui trình đang ghi lại xảy ra phía bên trong, ngay khi ý định này hiện diện ở đó – tánh nhạy cảm, tánh nhạy cảm bên trong, đang luôn luôn chụp ảnh, để cho phía bên trong sẽ tự-chiếu rọi hình ảnh đó ngay khoảnh khắc bạn yên lặng.

Vì vậy, nó không là một vấn đề của kỷ luật. Nhạy cảm không bao giờ có thể hiện diện qua cưỡng bách. Bạn có lẽ ép buộc một em bé làm cái gì đó, đặt em vào một góc tường, và cậu ấy có lẽ yên lặng; nhưng bên trong có lẽ cậu ấy đang sùng sục, đang nhìn qua cửa sổ, đang làm cái gì đó để trốn thoát. Đó là điều gì chúng ta vẫn còn đang làm. Vì vậy vấn đề của kỷ luật và vấn đề của ai nói đúng hay ai nói sai có thể được giải quyết chỉ bởi chính bạn. 

Cũng vậy, bạn thấy không, chúng ta sợ sai trái bởi vì chúng ta muốn là một thành công. Sợ hãi tại đáy của ham muốn phải được kỷ luật, nhưng cái không biết được không thể bị trói buộc trong mạng lưới của kỷ luật. Trái lại, cái không biết được phải có tự do và không là khuôn mẫu của cái trí của bạn. Đó là lý do tại sao sự yên lặng của cái trí là cốt lõi. Khi cái trí tỉnh thức được rằng nó yên lặng, nó không còn yên lặng nữa; khi cái trí nhận biết được rằng nó là không-tham lam, được tự do khỏi tham lam, nó tự-công nhận chính nó trong cái áo choàng mới của không-tham lam nhưng đó không là yên lặng. Đó là lý do tại sao người ta phải hiểu rõ vấn đề trong nghi vấn của người kiểm soát và vật được kiểm soát này. Chúng không là những hiện tượng tách rời nhưng một hiện tượng kết hợp; người kiểm soát và vật được kiểm soát là một. 

6- VỀ CÔ ĐỘC

Người hỏi: Tôi đang nhận ra rằng tôi rất cô độc. Tôi phải làm gì đây? 

Krishnamurti: Người hỏi muốn biết tại sao anh ấy cảm thấy cô độc. Bạn biết cô độc có nghĩa gì, và bạn có nhận biết được nó? Tôi nghi ngờ nhiều lắm, bởi vì chúng ta đã bóp nghẹt chúng ta trong những hoạt động, trong những quyển sách, trong những liên hệ, trong những ý tưởng mà thực sự ngăn cản chúng ta không nhận biết được sự cô độc. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ cô độc? Nó là một ý thức của trống rỗng, không có gì cả, của hoang mang lạ thường, của không bám víu bất kỳ nơi nào. Nó không là vô vọng, cũng không là tuyệt vọng, nhưng một ý thức của trống không, một ý thức của trống rỗng và một ý thức của thất vọng. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều đã trải qua nó, những người hạnh phúc và những người bất hạnh, những người rất, rất năng động và những người nghiện ngập hiểu biết. Tất cả họ đều biết điều này. Nó là ý thức của sự đau khổ vô hạn thực sự, một đau khổ không thể che đậy, mặc dù chúng ta cố gắng che đậy nó. 

Chúng ta hãy tiếp cận lại vấn đề này để thấy điều gì thực sự đang xảy ra, để thấy bạn làm gì khi bạn cảm thấy cô độc. Bạn cố gắng tẩu thoát khỏi cảm giác cô độc của bạn, bạn cố gắng vùi đầu vào một quyển sách, bạn tuân theo một người lãnh đạo nào đó, hay bạn đến một rạp chiếu bóng, hay bạn trở nên rất, rất năng động ngoài xã hội, hay bạn đi thờ phụngcầu nguyện, hay bạn vẽ một bức tranh, hay bạn viết một bài thơ diễn tả sự cô độc. Đó là điều gì thực sự đang xảy ra. Nhận biết được sự cô độc, sự đau khổ của nó, sự sợ hãi không đáy và kỳ lạ của nó, bạn tìm kiếm một tẩu thoát và tẩu thoát đó trở thành quan trọng và vì vậy những hoạt động của bạn, hiểu biết của bạn, những Thượng đế của bạn, những máy thâu thanh của bạn, tất cả đều trở thành quan trọng, đúng chứ? Khi bạn trao sự quan trọng cho những giá trị phụ, chúng dẫn bạn đến đau khổhỗn loạn; chắc chắn những giá trị phụ là những giá trị thuộc giác quan; và nền văn minh hiện đại được đặt nền tảng vào những điều này, trao tặng bạn sự tẩu thoát này – tẩu thoát qua công việc của bạn, qua gia đình của bạn, danh tánh của bạn, những học hành của bạn, qua vẽ vời vân vân; tất cả văn hóa của chúng ta được đặt nền tảng trên sự tẩu thoát đó. Văn minh của chúng ta được hình thành dựa vào nó và đó là một sự kiện.

Bạn có khi nào thử là một mình hay không? Khi bạn có cố gắng, bạn sẽ cảm thấy khó khăn lạ kỳ làm sao và thông minh lạ thường làm sao khi là một mình, bởi vì cái trí sẽ không cho phép bạn ở một mình. Cái trí trở nên náo động, nó tự-làm bận rộn chính nó bởi những tẩu thoát, thế là chúng ta đang làm gì đây? Chúng ta đang cố gắng lấp đầy sự trống không lạ thường này bằng cái đã được biết. Chúng ta tìm ra làm thế nào để được năng động; làm thế nào để thuộc xã hội; chúng ta biết làm thế nào để học hành, làm thế nào để bật máy thâu thanh. Chúng ta nhét đầy trống không đó mà chúng ta không biết bằng những sự việc mà chúng ta biết. Chúng ta cố gắng đổ đầy trống không đó bằng vô số loại hiểu biết, liên hệ hay những sự vật. Đó không như thế hay sao? Đó là qui trình của chúng ta, đó là sự tồn tại của chúng ta. Bây giờ khi bạn nhận ra điều gì bạn đang làm, bạn vẫn nghĩ rằng bạn có thể lấp đầy trống không đó à? Bạn đã thử mọi phương tiện để lấp đầy trống không của cô độc này. Bạn đã thành công trong việc lấp đầy nó hay sao? Bạn đã thử vào những rạp chiếu bóng và bạn không thành công, và vì vậy bạn đi theo những đạo sư của bạn và những quyển sách của bạn, hay bạn rất năng động ngoài xã hội. Bạn đã thành công trong việc lấp đầy nó hay bạn chỉ che đậy nó thôi? Nếu bạn chỉ che đậy nó, nó vẫn còn ở đó; thế là nó sẽ quay lại. Nếu bạn có thể tẩu thoát hoàn toàn, vậy thì bạn đã bị nhốt chặt trong một nhà thương điên hay bạn trở nên rất, rất đờ đẫn. Đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới.

Trống rỗng này, trống không này có thể được lấp đầy? Nếu không, liệu chúng ta có thể chạy trốn khỏi nó, tẩu thoát khỏi nó hay sao? Nếu chúng ta đã trải nghiệm và phát hiện một tẩu thoát không có giá trị gì, thế là tất cả những tẩu thoát khác cũng chẳng có giá trị gì? Không đặt thành vấn đề liệu bạn lấp đầy trống không bằng việc này hay bằng việc kia. Việc tạm gọi là thiền định cũng là một tẩu thoát. Không đặt thành vấn đề nhiều lắm khi bạn thay đổi cách tẩu thoát của bạn. 

Vậy thì làm thế nào bạn sẽ tìm ra phải làm gì cho cô độc này? Bạn chỉ có thể tìm ra phải làm gì khi bạn đã không còn tẩu thoát. Đó không như thế hay sao? Khi bạn đang sẵn lòng đối diện cái gì là – mà có nghĩa rằng bạn không được mở máy thâu thanh, mà có nghĩa rằng bạn phải quay lưng lại văn minhvậy thì cô độc đó kết thúc, bởi vì nó hoàn toàn được thay đổi. Nó không còn cô độc. Nếu bạn hiểu rõ cái gì là, vậy thì cái gì là là sự thật. Bởi vì cái trí liên tục đang lẩn tránh, đang tẩu thoát, đang khước từ ‘thấy’ cái gì là, nó tạo ra những cản trở riêng của nó. Bởi vì chúng ta có quá nhiều cản trở đến độ chúng đang ngăn cản chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ cái gì là và thế là chúng ta chạy trốn khỏi sự thật; tất cả những cản trở này được tạo ra bởi vì cái trí cố ý không thấy cái gì là. Muốn thấy cái gì là không chỉ đòi hỏi nhiều công sức và nhận biết được hành động nhưng nó cũng có nghĩa phải quay lưng lại với mọi thứ mà bạn đã dựng lên, tài khoản ngân hàng của bạn, danh tánh của bạn và mọi thứ mà chúng ta gọi là văn minh. Khi bạn thấy cái gì là, bạn sẽ phát giác rằng cô độc được thay đổi như thế nào. 

 
7- VỀ ĐAU KHỔ

Người hỏi: Ý nghĩa của sự đau khổ và sự phiền muộn là gì?

Krishnamurti: Khi bạn bị phiền muộn, khi bạn có đau khổ, ý nghĩa của việc đó là gì? Đau đớn thuộc thân thể có một ý nghĩa nhưng có lẽ chúng ta có ý nói về sự đau khổ và sự phiền muộn thuộc tâm lý, mà có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn ở những mức độ khác nhau. Ý nghĩa của đau khổ là gì? Tại sao bạn muốn tìm ra ý nghĩa của đau khổ? Không phải rằng nó không có ý nghĩachúng ta sẽ tìm ra. Nhưng tại sao bạn muốn tìm ra nó. Tại sao bạn muốn tìm ra tại sao bạn đau khổ? Khi bạn đặt câu hỏi đó cho chính bạn, ‘Tại sao tôi đau khổ?’, và đang tìm kiếm nguyên nhân của đau khổ, bạn không đang tẩu thoát khỏi đau khổ hay sao? Khi tôi tìm kiếm ý nghĩa của đau khổ, tôi không đang lẩn tránh, không đang tẩu thoát khỏi nó, chạy trốn khỏi nó hay sao? Sự kiện là, tôi đang đau khổ; nhưng khoảnh khắc tôi đưa cái trí của tôi vận hành vào nó và nói, ‘Bây giờ, tại sao?’, tôi đã xóa tan sự mãnh liệt của đau khổ. Nói cách khác, chúng ta muốn sự đau khổ được xoá tan, được loại bỏ, được gạt đi, được giải thích cho qua. Chắc chắn điều đó không cho một hiểu rõ về đau khổ. Nếu tôi được tự do khỏi sự ham muốn thoát khỏi nó đó, vậy thì tôi bắt đầu hiểu rõ nội dung của đau khổ là gì.

Đau khổ là gì? Một xáo trộn ở những mức độ khác nhau – ở phần vật chất và ở những mức độ khác nhau của tầng ý thức bên trong, đúng chứ? Nó là một hình thức gay gắt của sự xáo trộn mà tôi không ưa thích. Người con trai của tôi bị chết. Tôi đã vây quanh cậu ta bằng những hy vọng của tôi – hay vây quanh người con gái của tôi, người chồng của tôi, điều gì bạn mong ước. Tôi đã thăng hoa cậu ấy bằng tất cả những sự việc mà tôi muốn cậu ta là, và tôi đã giữ cậu ta như người đồng hành của tôi – bạn biết không, tất cả loại sự việc đó. Bỗng nhiên cậu ta đi mất rồi. Thế là có một xáo trộn, đúng chứ? Sự xáo trộn đó tôi gọi là đau khổ

Nếu tôi không thích đau khổ đó, vậy thì tôi nói, ‘Tại sao tôi lại đau khổ?’, ‘Tôi thương yêu cậu ta nhiều lắm’, ‘Cậu ta đã là cái này’, ‘Tôi đã có cái đó’. Tôi cố gắng tẩu thoát nó trong những từ ngữ, trong những nhãn hiệu, trong những niềm tin, giống như hầu hết chúng ta đều làm. Chúng gây tác dụng như một loại thuốc giảm đau. Nếu tôi không làm việc đó, điều gì xảy ra? Đơn giản tôi chỉ nhận biết được đau khổ. Tôi không chỉ trích nó, tôi không bênh vực nó – tôi đang đau khổ. Vậy thì tôi có thể theo dõi chuyển động của nó, đúng chứ? Vậy thì tôi có thể theo dõi toàn nội dung của nó có ý nghĩa gì – ‘Tôi theo sát’ trong ý nghĩa cố gắng hiểu rõ cái gì đó.

Nó có nghĩa gì? Đang đau khổ là gì? Không phải tại sao có đau khổ, không phải nguyên nhân của đau khổ là gì, nhưng điều gì đang thực sự xảy ra? Tôi không biết liệu bạn thấy sự khác biệt? Vậy thì một cách đơn giản, tôi chỉ nhận biết được sự đau khổ, không phải như tách khỏi tôi, như một người quan sát đang quan sát sự đau khổ – nó là bộ phận của tôi, chính là tổng thể của tôi đang đau khổ. Lúc đó tôi có thể theo sát chuyển động của nó, thấy được nó dẫn dắt đến đâu. Chắc chắn nếu tôi làm được điều đó nó mở toang ra, đúng chứ? Vậy là, tôi thấy rằng tôi đã nhấn mạnh vào ‘cái tôi’ – không phải vào người tôi thương yêu. Cậu ta chỉ hành động để che đậy tôi khỏi sự đau khổ của tôi, khỏi sự cô độc của tôi, khỏi sự bất hạnh của tôi. Vì tôi không là cái gì đó, tôi hy vọng cậu ta sẽ là cái gì đó. Việc đó đã không còn nữa; tôi bị bỏ lại, tôi bị lạc lõng, tôi bị cô độc. Nếu không có cậu ta, tôi không là gì cả. Thế là tôi khóc lóc. Không phải vì rằng cậu ta đã đi rồi nhưng rằng tôi bị bỏ lại, tôi chỉ còn lại một mình. Muốn đến được mấu chốt đó khó khăn lắm, đúng chứ? Thật ra rất khó khăn để nhận ra điều đó và không chỉ nói rằng, ‘Tôi cô độc và làm thế nào tôi loại bỏ được cô độc đó?’, mà là môt hình thức khác của tẩu thoát, nhưng nhận biết được nó, ở cùng nó, thấy được chuyển động của nó. Tôi chỉ đang đưa điều đó ra như một ví dụ. Dần dần, nếu tôi cho phép nó mở toang, khoáng đạt, tôi thấy rằng tôi đang đau khổ bởi vì tôi đang bị lạc lõng; tôi đang bị hấp lực phải chú ý vào cái gì đó mà tôi không sẵn lòng nhìn nó; một cái gì đó đang ép buộc tôi, khiến tôi phải miễn cưỡng thấy và hiểu rõ. Có vô số người giúp đỡ tôi tẩu thoát – hàng ngàn những người tạm gọi là tôn giáo, với những niềm tin, những giáo điều, những hy vọng và những tưởng tượng của họ – ‘nó là nghiệp, nó là ý muốn của Thượng đế’ – bạn biết không, tất cả đang cho tôi một phương cách để thoát khỏi nó. Nếu tôi có thể ở lại cùng nó và không gạt nó khỏi tôi, không cố gắng che đậy hay phủ nhận nó, vậy thì điều gì xảy ra? Trạng thái cái trí của tôi là gì khi nó chỉ đang theo sát chuyển động của đau khổ? 

Đau khổ chỉ là một từ ngữ, hay một thực sự? Nếu nó là một thực sự và không chỉ là một từ ngữ, vậy thì từ ngữ không có ý nghĩa gì lúc này, vậy thì chỉ có cảm giác của đau khổ mãnh liệt. Liên quan đến cái gì? Liên quan đến một hình ảnh, đến một trải nghiệm, đến cái gì đó mà bạn có hay không có. Nếu bạn có nó, bạn gọi nó là vui thú; nếu bạn không có nó, bạn gọi nó là đau khổ. Vì vậy đau khổ, phiền muộn, liên quan đến cái gì đó. Cái gì đó chỉ là một từ ngữ, hay là một thực sự? Đó là khi phiền muộn hiện diện, nó hiện diện chỉ trong liên quan đến cái gì đó. Nó không hiện diện một mình – thậm chí như sợ hãi không thể hiện diện một mình nhưng chỉ trong liên quan đến cái gì đó: đến một cá thể, đến một biến cố, đến một cảm giác. Lúc này, bạn đang nhận biết được đau khổ. Đau khổ đó tách rời khỏi bạn, và vì vậy bạn chỉ là người quan sátnhận biết được sự đau khổ, hay đau khổ đó là bạn?

Khi không còn người quan sát đang đau khổ, đau khổ có khác biệt với bạn không? Bạn là đau khổ, phải không? Bạn không tách rời khỏi đau khổ – bạn là đau khổ. Điều gì xảy ra? Không có đặt tên, không có tặng cho nó một cái tên và vì vậy gạt nó đi – bạn chỉ là đau khổ đó, cảm giác đó, ý thức của khốn cùng đó. Khi bạn là cái đó, điều gì xảy ra? Khi bạn không đặt tên nó, khi không có sợ hãi liên quan đến nó, liệu trung tâmliên quan đến nó? Nếu trung tâmliên quan đến nó, vậy thìsợ hãi đau khổ. Vậy thì nó phải hành động và làm cái gì đó về đau khổ. Nhưng nếu trung tâmđau khổ, vậy thì bạn làm gì? Không có gì phải được làm, đúng chứ? Nếu bạn là đau khổ và bạn không đang chấp nhận nó, không đặt tên nó, không gạt nó đi – nếu bạn là đau khổ đó, điều gì xảy ra? Vậy thì bạn nói, bạn đau khổ à? Chắc chắn một thay đổi cơ bản đã xảy ra. Vậy thì không còn ‘tôi đau khổ’ bởi vì không có trung tâm để đau khổ, và trung tâm đau khổ bởi vì chúng ta đã không bao giờ tìm hiểu trung tâm là gì. Chúng ta chỉ sống từ từ ngữ sang từ ngữ, từ phản ứng qua phản ứng. Chúng ta không bao giờ nói, ‘Hãy cho tôi xem thử cái sự việc đau khổ đó là gì’. Chúng ta không thể thấy bằng cách ép buộc, bằng cách kỷ luật. Bạn phải nhìn ngắm đầy hứng thú, bằng hiểu rõ tự phát. Vậy thì bạn sẽ thấy rằng cái sự việc chúng ta gọi là đau khổ, phiền muộn, cái sự việc mà chúng ta lẩn tránh, và kỷ luật, tất cả đều tan biến. Nếu tôi không có sự liên hệ với ‘sự kiện’ như phía bên ngoài của tôi, vấn đề không hiện diện, khoảnh khắc tôi thiết lập một liên hệ với nó phía bên ngoài của tôi, vấn đề hiện diện. Chừng nào tôi còn đối xử như cái gì đó phía bên ngoài – tôi đau khổ bởi vì tôi mất người em của tôi, bởi vì tôi không có tiền bạc, bởi vì điều này hay điều kia – tôi thiết lập một liên hệ với nó và liên hệ đó là ảo tưởng. Nếu tôi là sự việc đó, nếu tôi thấy sự kiện, vậy thì toàn sự việc được thay đổi, tất cả nó có một ý nghĩa khác hẳn. Vậy thì có chú ý tổng thể, chú ý hòa hợpvấn đề được chú ý hoàn toàn, được hiểu rõ và được tan biến, và thế là không còn sợ hãi và thế là từ ngữ ‘đau khổ’ không-hiện diện. 

8- VỀ TỈNH THỨC

Câu hỏi: Sự khác nhau giữa trạng thái tỉnh thức và sự tìm hiểu nội tâm là gì? Và ai tỉnh thức trong trạng thái tỉnh thức?

Krishnamurti: Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu chúng ta có ý gì qua những từ ngữ sự tìm hiểu nội tâm? Chúng ta có ý tìm hiểu nội tâm là đang nhìn vào chính mình, tìm hiểu về chính mình. Tại sao người ta tìm hiểu về chính mình? Với mục đích để hoàn thiện, với mục đích để thay đổi, với mục đích để bổ sung. Bạn tìm hiểu nội tâm với mục đích để trở thành cái gì đó, nếu không bạn sẽ không buông thả trong việc tìm hiểu nội tâm. Bạn sẽ không tìm hiểu về chính bạn nếu khôngham muốn để bổ sung, thay đổi, trở thành cái gì đó khác hơn cái gì bạn là. Đó là lý do rõ ràng cho việc tìm hiểu nội tâm. Tôi tức giận và tôi tìm hiểu nội tâm, tôi tìm hiểu về chính tôi, mục đích để loại bỏ sự tức giận hay để bổ sung hay để thay đổi sự tức giận. Nơi nào có sự tìm hiểu nội tâm, mà là ham muốn để bổ sung hay thay đổi những phản ứng, những hành động của cái tôi, luôn luôn có một kết thúc trong quan điểm; khi kết thúc đó không được thành tựu, có tâm trạng chán nản, trầm uất. Vì vậy sự tìm hiểu nội tâm luôn luôn theo cùng trầm uất. Tôi không biết liệu bạn nhận thấy rằng khi bạn tìm hiểu nội tâm, khi bạn nhìn vào chính bạn với mục đích để thay đổi chính bạn, luôn luôn có con sóng của trầm uất. Luôn luôn có một con sóng chán nản mà bạn phải đấu tranh chống lại; lại nữa bạn phải tìm hiểu về chính bạn để vượt qua tâm trạng đó và vân vân. Sự tìm hiểu nội tâm là một qui trình mà trong đó không có sự giải thoát bởi vì nó là một qui trình của thay đổi cái gì là thành cái gì đó mà nó không là. Rõ ràng đó chính xác là điều gì xảy ra khi chúng ta tìm hiểu nội tâm, khi chúng ta buông thả trong hành động đặc biệt đó. Trong hành động đó, luôn luôn có một qui trình tích lũy, ‘cái tôi’ đang tìm hiểu điều gì đó với mục đích để thay đổi nó, vì vậy luôn luôn có một xung đột của ‘có hai’, và vì vậy một qui trình của vô vọng. Không bao giờ có một giải thoát; và, vì nhận ra sự vô vọng đó, có trầm uất.

Trạng thái tỉnh thức hoàn toàn khác hẳn. Tỉnh thứcquan sát mà không-phê bình. Tỉnh thức mang lại hiểu rõ, bởi vì không có phê bình hay đồng hóa nhưng quan sát yên lặng. Nếu tôi muốn hiểu rõ cái gì đó tôi phải quan sát, tôi không được phê bình, tôi không được chỉ trích, tôi không được theo đuổi nó như vui thú hay lẩn tránh nó như không-vui thú. Phải có quan sát yên lặng về một sự kiện. Không có kết thúc trong quan điểm nhưng tỉnh thức được mọi thứ như khi nó nảy sinh. Quan sát đó và hiểu rõ về quan sát đó kết thúc khi có chỉ trích, nhận dạng, hay biện hộ. Sự tìm hiểu nội tâm là tự-hoàn thiện và vì vậy sự tìm hiểu nội tâm là tự-cho mình là trung tâm. Tỉnh thức không là tự-hoàn thiện. Trái lại, nó là sự kết thúc của cái ngã, của ‘cái tôi’, cùng tất cả những đặc điểm đặc biệt, những ký ức, những đòi hỏi và những theo đuổi đặc biệt của nó. Trong sự tìm hiểu nội tâmnhận dạngchỉ trích. Trong tỉnh thức không có chỉ trích hay nhận dạng; thế là không có tự-hoàn thiện. Có một khác biệt vô cùng giữa hai điều này.

Con người muốn hoàn thiện chính anh ấy không bao giờ có thể tỉnh thức, bởi vì hoàn thiện hàm ý sự phê bình và sự thành tựu của một kết quả. Trái lại trong tỉnh thứcquan sát không-phê bình, không-phủ nhận hay không-chấp nhận. Tỉnh thức đó bắt đầu bằng những sự vật bên ngoài, tỉnh thức, khi tiếp xúc với những sự vật, với thiên nhiên. Trước tiên, có tỉnh thức về những sự vật quanh một người, nhạy cảm đến những sự vật, đến thiên nhiên, sau đó đến con người, mà có nghĩa rằng sự liên hệ; sau đó có sự tỉnh thức được những ý tưởng. Tỉnh thức này, nhạy cảm đến những sự vật, đến thiên nhiên, đến con người, đến những ý tưởng, không được hình thành từ những qui trình riêng biệt, nhưng nó là một tiến hành tổng thể hợp nhất. Nó là một quan sát liên tục về mọi thứ, về mọi suy nghĩcảm thấy và hành động khi chúng nảy sinh trong chính người ta. Bởi vì tỉnh thức không là phê bình, nó không có sự tích lũy. Bạn phê bình chỉ khi nào bạn có một tiêu chuẩn, mà có nghĩa rằng có sự tích lũy và vì vậy sự hoàn thiện của cái ngã. Tỉnh thứchiểu rõ những hoạt động của cái ngã, ‘cái tôi’, trong liên hệ của nó với con người, với những ý tưởng và với những sự vật. Tỉnh thức đó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc và vì vậy nó không thể được rèn luyện. Khi bạn rèn luyện một sự việc, nó trở thành thói quentỉnh thức không là thói quen. Một cái trí thói quen trở nên vô cảm, một cái trí đang vận hành trong khe rãnh của một hành động đặc biệt trở nên đờ đẫn, không thể thích ứng, trái lại sự tỉnh thức cần có sự thích ứng, sự nhận biết liên tục. Điều này không khó khăn. Nó là điều gì bạn thực sự làm khi bạn thích thú cái gì đó, khi bạn thích thú nhìn ngắm người con của bạn, người vợ của bạn, cây cối của bạn, những cái cây, những con chim. Bạn quan sát mà không-phê bình, không-nhận dạng; thế là trong quan sát đó có hiệp thông trọn vẹn; người quan sát và vật được quan sát hoàn toàn hiệp thông. Điều này thực sự xảy ra khi bạn quan tâm sâu thẳm, trọn vẹn trong cái gì đó.

Vẫn vậy có sự khác biệt vô cùng giữa sự tỉnh thức và sự hoàn thiện tự-bành trướng của tìm hiểu nội tâm. Sự tìm hiểm nội tâm dẫn đến thất vọng, đến xung đột sâu sắc hơn và to tát hơn; trái lại sự tỉnh thức là một tiến hành của giải thoát khỏi hành động của cái ngã; nó là tỉnh thức được những chuyển động hàng ngày của bạn, được những suy nghĩ của bạn, được những hành động của bạn và nhận biết được một người khác, quan sát anh ấy. Bạn có thể thực hiện điều đó chỉ khi nào bạn thương yêu người nào đó, khi bạn quan tâm sâu sắc đến cái gì đó; khi tôi muốn biết về chính tôi, toàn thân tâm của tôi, toàn nội dung của chính tôi và không phải chỉ một hay hai tầng, vậy thì rõ ràng là phải không có phê bình. Vậy thì tôi phải mở toang đến mọi suy nghĩ, đến mọi cảm thấy, đến mọi tâm trạng, đến tất cả những đè nén; và bởi vì có sự tỉnh thức lan rộng mỗi lúc một nhiều thêm, có tự do mỗi lúc một nhiều hơn khỏi tất cả những chuyển động giấu giếm của tư tưởng, những động cơ và những theo đuổi. Sự tỉnh thứctự do, nó mang lại tự do, nó sinh ra tự do, trái lại sự tìm hiểu nội tâm vun đắp sự xung đột, qui trình của tự-khép kín; vì vậy luôn luôn có thất vọngsợ hãi trong nó. 

Người hỏi cũng muốn biết ai là người tỉnh thức. Khi bạn có một trải nghiệm sâu sắc của bất kỳ loại nào, điều gì đang xảy ra? Khi có một trải nghiệm như thế, bạn có tỉnh thức được rằng bạn đang trải nghiệm hay không? Khi bạn tức giận, tại tích tắc của tức giận hay của ghen tuông hay của hân hoan, bạn có tỉnh thức được rằng bạn đang hân hoan hay bạn đang tức giận? Chỉ khi nào trải nghiệm đó qua rồi thì mới có người trải nghiệm và vật được trải nghiệm. Lúc đó người trải nghiệm quan sát vật được trải ngiệm, mục tiêu của trải nghiệm. Tại khoảnh khắc trải nghiệm, không có người quan sát lẫn vật được quan sát: chỉ có đang trải nghiệm. Hầu hết chúng ta không đang trải nghiệm. Chúng ta luôn luôn ở phía bên ngoài của trạng thái đang trải nghệm và vì vậy chúng ta đưa ra câu hỏi, ai là người quan sát, ai đang tỉnh thức? Chắc chắn một câu hỏi như thế là một câu hỏi sai lầm, đúng chứ? Khoảnh khắc có đang trải nghiệm, không có người mà tỉnh thức lẫn vật mà anh ấy tỉnh thức được. Không có người quan sát cũng như vật được quan sát nhưng chỉ có một trạng thái của đang trải nghiệm. Hầu hết chúng ta thấy khó khăn cực kỳ để sống trong một trạng thái đang trải nghiệm, bởi vì điều đó đòi hỏi một thích ứng lạ thường, một mau lẹ, một cao độ của nhạy cảm; và điều đó bị phủ nhận khi chúng ta đang theo đuổi một kết quả, khi chúng ta muốn thành công, khi chúng ta muốn có một kết thúc trong quan điểm, khi chúng ta đang tính toán – tất cả việc đó mang lại thất vọng. Một người không đòi hỏi bất kỳ điều gì, không đang tìm kiếm một kết thúc, không đang dò dẫm một kết quả cùng tất cả những hàm ý của nó, một con người như thế ở trong một trạng thái đang trải nghiệm liên tục. Lúc đó mọi thứ có một chuyển động, một ý nghĩa; không có gì là cũ kỹ, không có gì là đứng yên, không có gì là lặp lại, bởi vì cái gì là không bao giờ cũ kỹ. Thách thức luôn luôn mới mẻ. Chỉ có phản ứng đến thách thức là cũ kỹ; cái cũ kỹ tạo ra cặn bã thêm nữa, mà là ký ức, người quan sát, mà tách rời chính anh ấy khỏi vật được quan sát, khỏi thách thức, khỏi trải nghiệm.

Bạn có thể thử nghiệm điều này cho chính bạn một cách rất đơn giản và rất dễ dàng. Lần tới bạn tức giận hay ghen tuông hay tham lam hay hung bạo hay bất kỳ điều gì có lẽ là, hãy nhìn ngắm chính bạn. Trong trạng thái đó, ‘bạn’ không hiện diện. Chỉ có trạng thái ‘đang là’ đó. Khoảnh khắc, tích tắc sau đó, bạn đặt tên nó, bạn quy định nó, bạn gọi nó là ghen tuông, tức giận, tham lam; thế là ngay tức khắc bạn đã tạo ra người quan sát và vật được quan sát, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm. Khi có người trải nghiệm và vật được trải nghiệm, vậy thì người trải nghiệm cố gắng bổ sung trải nghiệm, thay đổi nó, ghi nhớ những sự việc về nó và vân vân, và vì vậy duy trì sự phân chia giữa chính anh ấy và vật được trải nghiệm. Nếu bạn không đặt tên cảm giác đó – mà có nghĩa bạn không đang tìm kiếm một kết quả, bạn không đang phê bình, một cách yên lặng bạn chỉ tỉnh thức được cảm giácvậy thì bạn sẽ thấy rằng trong trạng thái của cảm giác, của đang trải nghiệm đó, không có người quan sát và vật được quan sát, bởi vì người quan sát là một hiện tượng kết hợpvì vậy chỉ có đang trải nghiệm.

Vì vậy sự tìm hiểu nội tâm và sự tỉnh thức hoàn toàn khác biệt. Tìm hiểu nội tâm dẫn đến thất vọng, đến xung đột thêm nữa, bởi vì trong nó được hàm ý ham muốn thay đổi và thay đổi chỉ là một tiếp tục được bổ sung. Tỉnh thức là một trạng thái trong đó không-chỉ trích, không-biện hộ hay không-nhận dạng, và vì vậyhiểu rõ; trong trạng thái tỉnh thức thụ độngcảnh giác đó, không có người trải nghiệm lẫn vật được trải nghiệm.

Sự tìm hiểu nội tâm, mà là một hình thức của tự-hoàn thiện, của tự-bành trướng, không bao giờ có thể dẫn đến sự thật, bởi vì nó luôn luôn là một qui trình của tự-khép kín; trái lại sự tỉnh thức là một trạng thái trong đó sự thậtthể hiện diện, sự thật của cái gì là, sự thật đơn giản của tồn tại hàng ngày. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ sự thật của tồn tại hàng ngày, chúng ta mới có thể tiến xa hơn nữa. Bạn phải bắt đầu từ thật gần để tiến xa nhưng hầu hết chúng ta đều muốn nhảy vọt, bắt đầu từ xa mà không có hiểu rõ cái gì gần gũi. Vì chúng ta hiểu rõ cái gần gũi, chúng ta sẽ phát hiện rằng khoảng cách giữa cái gần gũi và cái xa xôi không còn. Không còn khoảng cách – khởi đầu và kết thúc là một. 

9- VỀ LIÊN HỆ 

Câu hỏi: Ông đã thường nói về sự liên hệ. Nó có ý nghĩa gì đối với ông? 

Krishnamurti: Trước hết không có sự việc gì như tách rời. Hiện diện là có liên hệnếu khôngliên hệ không có hiện diện. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ liên hệ? Nó là một thách thức và phản ứng qua lại giữa hai con người, giữa bạn và tôi, sự thách thức mà bạn đưa cho tôi, và tôi chấp nhận hay tôi phản ứng; cũng vậy sự thách thức tôi đưa cho bạn. Sự liên hệ giữa hai con người tạo ra xã hội; xã hội không độc lập khỏi bạn và tôi; tập thể chính nó không là một thực thể tách rời, nhưng bạn và tôi trong liên hệ lẫn nhau của chúng ta tạo ra tập thể, nhóm người, xã hội. ‘Liên hệ’ là nhận biết được sự liên quan lẫn nhau giữa hai con người. Thông thường liên hệ đó được đặt nền tảng trên cái gì? Nó không được đặt nền tảng trên tạm gọi là lệ thuộc qua lại, trợ giúp lẫn nhau hay sao? Ít ra, chúng ta nói nó là sự giúp đỡ lẫn nhau, trợ giúp lẫn nhau và vân vân, nhưng thực ra, tách rời khỏi những từ ngữ, tách rời khỏi bức màn cảm xúcchúng ta chuyển đổi qua lại, nó được đặt nền tảng trên cái gì? Trên thỏa mãn lẫn nhau, phải không? Nếu tôi không làm hài lòng bạn, bạn từ bỏ tôi; nếu tôi gây hài lòng bạn, bạn chấp nhận tôi như người vợ của bạn hay như người hàng xóm của bạn hay như bạn bè của bạn. Đó là sự thật.

Bạn gọi gia đình là gì? Rõ ràng nó là một sự liên hệ của mật thiết, của hiệp thông. Trong gia đình của bạn, trong liên hệ của bạn với người vợ của bạn, với người chồng của bạn, có sự hiệp thông hay không? Chắc chắn đó là điều gì chúng ta có ý qua từ ngữ liên hệ, đúng chứ? Liên hệnghĩa hiệp thông mà không có sợ hãi, tự do để hiểu rõ lẫn nhau, để chuyển tải trực tiếp. Chức chắn liên hệ có nghĩa như thế – hiệp thông cùng một người khác. Phải không? Bạn có hiệp thông cùng người vợ của bạn? Có lẽ bạn có thuộc phần thân thể, nhưng đó không là liên hệ. Bạn và người vợ của bạn sống trong hai phía đối nghịch của một bức tường phân chia, đúng chứ? Bạn có những theo đuổi riêng của bạn, những tham vọng của bạn, và cô ấy có những điều đó của cô ấy. Bạn sống đằng sau bức tường và thỉnh thỏang nhìn qua nó – và việc đó bạn gọi là liên hệ. Đó là một sự kiện, phải không? Bạn có lẽ phóng đại nó, làm êm dịu nó, giới thiệu một nhóm từ ngữ mới mẻ để diễn tả nó nhưng đó là sự kiện – rằng bạn và một người khác sống tách rời, và rằng sống tách rời đó bạn gọi là sự liên hệ.

Nếu có sự liên hệ thực sự giữa hai con người, mà có nghĩa rằng có sự hiệp thông giữa họ, vậy thì những hàm ý to tát lắm. Vậy thì không có sự tách rời; có tình yêu và không phải trách nhiệm hay bổn phận. Chính những con người sống tách rời đằng sau những bức tường của họ mới nói về bổn phận và trách nhiệm – một con người thương yêu không nói về trách nhiệm – anh ấy thương yêu. Vì vậy anh ấy chia sẻ cùng một người khác hân hoan của anh ấy, đau khổ của anh ấy, tiền bạc của anh ấy. Những gia đình của các bạn như thế chứ? Có sự hiệp thông trực tiếp cùng người vợ của bạn, cùng con cái của bạn? Chắc chắn là không. Vì vậy gia đình chỉ là một lý do để tiếp tục danh tánh hay truyền thống của bạn, để cho bạn điều gì bạn muốn, thuộc tình dục hay thuộc tâm lý, vì vậy gia đình trở thành một phương tiện của tự-tiếp tục, tiếp tục danh tánh của bạn. Đó là một loại của vĩnh cửu, một loại của bền vững. Gia đình cũng được sử dụng như một phương tiện của thỏa mãn. Tôi bóc lột không thương xót những người khác trong thế giới kinh doanh, trong thế giới chính trị hay xã hội phía bên ngoài, và ở nhà tôi cố gắng tử tế và rộng lượng. Thật vô lý làm sao! Hay thế giới này đã quá thừa mứa đối với tôi, tôi muốn an bình và tôi đi về nhà. Tôi chịu đựng trong thế giới và tôi đi về nhà và cố gắng tìm sự thanh thản. Vì vậy tôi sử dụng liên hệ như một phương tiện của thỏa mãn, mà có nghĩa rằng tôi không muốn bị quấy rầy bởi sự liên hệ của tôi. 

Vẫn vậy sự liên hệ được tìm kiếm nơi nào có sự thỏa mãn, hài lòng lẫn nhau; khi bạn không tìm kiếm sự thỏa mãn đó bạn thay đổi sự liên hệ; hoặc bạn ly dị, hoặc bạn vẫn sống chung với nhau nhưng tìm kiếm sự thỏa mãn ở nơi nào đó, hoặc bạn chuyển từ một liên hệ này sang một liên hệ khác cho đến khi bạn tìm được cái gì bạn tìm kiếm – mà là sự thỏa mãn, hài lòng, và một ý thức của tự-bảo vệ lẫn thanh thản. Rốt cuộc đó là liên hệ của chúng ta trong thế giới, và vì thế nó là sự kiện. Liên hệ được tìm kiếm nơi nào có thể có sự an toàn, nơi nào bạn như một cá thể có thể sống trong một trạng thái của an toàn, trong một trạng thái của thỏa mãn, trong một trạng thái của dốt nát – tất cả điều đó luôn luôn tạo ra xung đột, đúng chứ? Nếu bạn không thỏa mãn tôi và tôi đang tìm kiếm sự thỏa mãn, tự nhiên phải có xung đột, bởi vì cả hai chúng ta đều tìm kiếm sự an toàn trong lẫn nhau; khi sự an toàn đó không chắc chắn bạn trở nên ghen tuông, bạn trở nên hung bạo, bạn trở nên chiếm hữuvân vân. Vì vậy sự liên hệ luôn luôn sinh ra trong chiếm hữu, trong chỉ trích, trong những đòi hỏi tự-khẳng định để có an toàn, để có thanh thảnthỏa mãn, và theo tự nhiên không có tình yêu trong đó. 

Chúng ta nói về tình yêu, chúng ta nói về trách nhiệm, bổn phận, nhưng thật ra không có tình yêu; liên hệ được đặt nền tảng trên sự thỏa mãn, chúng ta thấy ảnh hưởng của việc đó trong văn minh hiện nay. Cách chúng ta đối xử với những người vợ của chúng ta, con cái, những người hàng xóm, những bạn bè là một thể hiện rằng, thực sự trong sự liên hệ của chúng ta không có tình yêu gì cả. Nó chỉ là một tìm kiếm cho sự thỏa mãn lẫn nhau. Vì đây là như thế, vậy thì mục đích của sự liên hệ là gì? Ý nghĩa cơ bản của nó là gì? Nếu bạn quan sát chính bạn trong liên hệ với những người khác, bạn không thấy rằng liên hệ là một qui trình của tự-bộc lộ hay sao? Sự tiếp xúc của tôi với bạn bộc lộ trạng thái đang hiện diện riêng của tôi, nếu tôi tỉnh thức, nếu tôi dư thừa cảnh giác để nhận biết được sự liên hệ riêng của tôi trong liên hệ? Liên hệ thực sự là một qui trình riêng của tự-bộc lộ mà là một tiến hành của hiểu rõ về chính mình; trong bộc lộ đó có nhiều sự việc bất an, những suy nghĩ, những hoạt động khó chịu, bực bội. Vì tôi không ưa thích điều gì tôi khám phá, tôi chạy trốn khỏi một liên hệ bất an đến một liên hệ thanh thản. Vì vậy liên hệ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu khi chúng ta chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn lẫn nhau, nhưng trở thànhý nghĩa cực kỳ khi nó là một phương tiện của tự-bộc lộ và tự-hiểu rõ về chính mình. 

Rốt cuộc, không có sự liên hệ trong tình yêu, đúng chứ? Chỉ khi nào bạn thương yêu cái gì đó và chờ đợi một đáp trả cho tình yêu của bạn thì mới có một liên hệ. Khi bạn thương yêu, khi bạn dâng hiến chính bạn đến một cái gì đó một cách trọn vẹn, tổng thể, vậy thì không có sự liên hệ

Nếu bạn có thương yêu, nếu bạn có một tình yêu như thế, vậy thì nó là một sự việc lạ thường. Trong tình yêu như thế không có xung đột, không có một người và người khác, có sự hợp nhất hoàn toàn. Nó là một trạng thái của hòa hợp, một đang hiện diện trọn vẹn. Có những khoảnh khắc như thế, những khoảnh khắc hạnh phúc, hân hoan hiếm hoi như thế, khi có tình yêu trọn vẹn, hiệp thông trọn vẹn. Điều gì thường xảy ra là: tình yêu không quan trọng, nhưng cái người còn lại, cái mục tiêu của tình yêu lại trở thành quan trọng; cái mục tiêu được thương yêu trở thành quan trọng mà không phải chính tình yêu. Vậy thì mục tiêu của tình yêu, vì nhiều lý do khác nhau, hoặc thuộc sinh học, thuộc từ ngữ hoặc bởi vì một ham muốn của thỏa mãn, của thanh thảnvân vân, trở thành quan trọng và tình yêu bị lu mờ. Vì vậy sự chiếm hữu, ghen tuông và những đòi hỏi tạo ra xung đột, và tình yêu bị lu mờ dần đi; nó bị lu mờ càng nhiều bao nhiêu, sự liên hệ càng mất đi sự quan trọng, giá trị của nó và ý nghĩa của nó nhiều bấy nhiêu. Vì vậy, hiểu rõ tình yêu là một trong những sự việc khó khăn nhất. Nó không thể hiện diện qua một thôi thúc thuộc trí năng, nó không được sáng chế bởi vô số những phương pháp, những phương tiện và những kỷ luật. Nó là một trạng thái của ‘đang hiện diện’, khi những hoạt động của cái tôi đã kết thúc; nhưng chúng sẽ không kết thúc nếu bạn chỉ đè nén chúng, lẩn tránh chúng hay kỷ luật chúng. Bạn phải hiểu rõ những hoạt động của cái tôi trong tất cả những tầng khác nhau của ý thức. Chúng ta có những khoảnh khắc khi chúng ta có tình yêu, khi không có suy nghĩ, không có động cơ, nhưng những khoảnh khắc đó quá hiếm hoi. Bởi vì chúng hiếm hoi, chúng ta bám vào chúng trong ký ức và thế là tạo ra một rào chắn giữa đang sống thực tế và hành động của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta

Với mục đích hiểu rõ sự liên hệ, đầu tiên rất quan trọng phải hiểu rõ cái gì là, cái gì đang thực sự xảy ra trong sống của chúng ta, trong tất cả những hình thức tinh tế khác biệt; và cũng vậy sự liên hệ thực sự có nghĩa gì. Liên hệ là phơi bày về chính mình; chỉ bởi vì chúng ta không muốn được phơi bày về chính chúng ta nên chúng ta che giấu trong thanh thản, vì vậy liên hệ mất đi chiều sâu, ý nghĩa và vẻ đẹp lạ thường của nó. Chỉ có thể có sự liên hệ thực sự khi có tình yêu, nhưng tình yêu không là sự tìm kiếm thỏa mãn. Tình yêu hiện diện chỉ khi nào có quên bẵng về chính mình, khi có hiệp thông hoàn toàn, không chỉ giữa một hay hai, nhưng hiệp thông cùng cái tối thượng; và điều đó chỉ có thể xảy ra khi cái tôi không còn.

 
10- VỀ CHIẾN TRANH

Câu hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được sự hỗn loạn chính trị hiện nay của chúng ta và sự khủng hoảng trong thế giới? Liệu có bất kỳ điều gì một cá thể có thể thực hiện để chặn đứng cuộc chiến tranh sắp xảy ra?

Krishnamurti: Chiến tranh là sự chiếu rọi đẫm máu và to lớn của sống hàng ngày của chúng ta, phải không? Chiến tranh chỉ là một diễn tả phía bên ngoài của trạng thái bên trong của chúng ta, một phóng đại của hành động hàng ngày của chúng ta. Nó rộng lớn hơn, đổ máu nhiều hơn, hủy diệt nhiều hơn, nhưng nó là kết quả tập thể của những hoạt động cá thể của chúng ta. Vì vậy, bạn và tôi chịu trách nhiệm cho chiến tranh và chúng ta có thể làm gì để chặn đứng nó? Rõ ràng, chiến tranh sắp xảy ra không thể được chặn đứng bởi bạn và tôi, bởi vì nó đã chuyển động rồi; nó đã xảy ra rồi, mặc dù lúc này chủ yếu là ở tầng tâm lý. Vì nó chuyển động rồi, nó không thể được chặn đứng – những vấn đề quá nhiều, quá to lớn, và đã không cứu vãn được. Nhưng bạn và tôi, vì thấy rằng ngôi nhà đang cháy, có thể hiểu rõ những nguyên nhân của đám cháy đó, có thể thoát khỏi nó và xây dựng một nơi mới mẻ, bằng những vật liệu mới mẻ mà không thể bị bắt lửa, mà sẽ không tạo ra những chiến tranh khác. Đó là điều gì tất cả chúng ta có thể thực hiện. Bạn và tôi có thể thấy điều gì đã tạo ra chiến tranh, và nếu chúng ta quan tâm đến việc chặn đứng chiến tranh, vậy thì chúng ta có thể bắt đầu thay đổi chính chúng ta, mà là những nguyên nhân của chiến tranh. 

Một phụ nữ người Mỹ đã đến gặp tôi cách đây vài năm, trong suốt chiến tranh. Bà ấy nói rằng bà ấy đã mất người con trai của bà ấy ở Ý và rằng bà ấy có một cậu con trai khác ở tuổi mười sáu mà bà ấy muốn cứu thoát; vậy là chúng tôi đã nói chuyện về những sự việc đó. Tôi gợi ý với bà ấy rằng, muốn cứu thoát cậu con trai của bà ấy, bà ấy phải ngừng là một người Mỹ; bà ấy phải ngừng tham lam, ngừng chồng chất của cải, ngừng tìm kiếm quyền hành, thống trị, và thuộc tâm lý hãy đơn giản – không chỉ đơn giản trong quần áo, trong những sự vật phía bên ngoài, nhưng đơn giản trong suy nghĩ của bà ấy và trong cảm thấy của bà ấy, trong những liên hệ của bà ấy. Bà ấy đã nói, ‘Điều đó quá nhiều. Ông đang đòi hỏi quá nhiều. Tôi không thể thực hiện nó được, bởi vì những ràng buộc chặt chẽ quá khiến tôi không thể thay đổi được’. Thế là bà ấy phải chịu trách nhiệm cho sự hủy diệt cậu con trai của mình.

 Những hoàn cảnh có thể được kiểm soát bởi chúng ta, bởi vì chúng ta đã tạo ra những hoàn cảnh. Xã hội là sản phẩm của sự liên hệ, sự liên hệ của bạn và tôi cùng với nhau. Nếu chúng ta thay đổi trong sự liên hệ của chúng ta, xã hội thay đổi; chỉ lệ thuộc vào luật pháp, vào ép buộc, cho sự thay đổi xã hội phía bên ngoài, trong khi phía bên trong vẫn còn thoái hoá, trong khi phía bên trong tiếp tục tìm kiếm quyền hành, vị trí, thống trị, là hủy diệt phía bên ngoài, dù được xây dựngtính cách khoa học và cẩn thận đến chừng nào. Phía bên trong luôn luôn thắng thế phía bên ngoài.

Điều gì gây ra chiến tranh – thuộc tôn giáo, thuộc chính trị hay thuộc kinh tế? Chắc chắnniềm tin, hoặc trong chủ nghĩa quốc gia, hoặc trong một học thuyết, hoặc trong một giáo điều đặc biệt. Nếu chúng ta không có niềm tin nhưng có ý muốn tốt lành, tình yêu và ân cần giữa chúng ta, vậy thì sẽ không có những chiến tranh. Nhưng chúng ta đã được nuôi sống trong những niềm tin, những ý tưởng, những giáo điềuvì vậy chúng ta nuôi dưỡng sự bất mãn. Sự khủng hoảng hiện nay có một bản chất ngoại lệ và chúng ta, như những con người, phải, hoặc theo đuổi con đường của xung đột liên tục và những chiến tranh liên tục, mà là kết quả của hành động hàng ngày của chúng ta, hoặc ngược lại ‘thấy’ những nguyên nhân của chiến tranh và quay lưng lại chúng.

Chắc chắn, nguyên nhân tạo ra chiến tranh là sự ham muốn có được quyền hành, vị trí, thanh danh, tiền bạc; cũng cả căn bệnh được gọi là chủ nghĩa quốc gia, kính trọng một lá cờ; và căn bệnh của tôn giáo có tổ chức, tôn sùng một giáo điều. Tất cả điều này là những nguyên nhân của chiến tranh; nếu bạn, như một cá thể, phụ thuộc vào bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào, nếu bạn thèm khát quyền hành, nếu bạn ganh tị, chắc chắn bạn sản sinh ra một xã hội mà sẽ dẫn đến sự hủy diệt. Vì vậy lại nữa nó phụ thuộc vào bạn và không phải phụ thuộc vào những vị lãnh đạo – không phải phụ thuộc vào những vị tạm gọi là những chính khách và tất cả những người như thế. Nó phụ thuộc vào bạn và tôi, nhưng dường như chúng ta không nhận ra điều đó. Nếu một lần chúng ta thực sự cảm thấytrách nhiệm cho những hành động riêng của chúng ta, chúng ta sẽ có thể mang một kết thúc đến tất cả những chiến tranh này, đau khổ thảm khốc này thật mau lẹ! Nhưng bạn thấy không, chúng ta dửng dưng. Chúng ta có ba bữa ăn một ngày, chúng ta có những công việc của chúng ta, chúng ta có tài khoản ngân hàng của chúng ta, nhiều hay ít, và chúng ta nói, ‘Ơn Chúa, đừng quấy rầy chúng tôi, hãy để chúng tôi yên ổn’. Chúng ta càng ở vị trí cao hơn bao nhiêu, chúng ta càng muốn có an toàn, vĩnh cửu, an bình nhiều hơn bấy nhiêu, chúng ta càng muốn đừng ai đụng chạm đến mình bấy nhiêu, chúng ta càng muốn duy trì những sự việc cố định như chúng là bấy nhiêu; nhưng chúng không thể được duy trì như chúng là, bởi vì không có gì phải duy trì. Mọi thứ đều đang phân rã. Chúng ta không muốn đối diện những sự việc này, chúng ta không muốn đối diện sự kiện rằng bạn và tôi phải chịu trách nhiệm cho những chiến tranh. Bạn và tôi có lẽ nói về hòa bình, tổ chức những hội nghị, ngồi quanh chiếc bàn tròn và thảo luận, nhưng phía bên trong, thuộc phần tâm lý, chúng ta muốn quyền hành, vị trí, chúng ta bị thúc đẩy bởi sự tham lam. Chúng ta mưu đồ, chúng ta mê mẩn chủ nghĩa quốc gia, chúng ta bị trói buộc bởi những niềm tin, bởi những giáo điều, với nó chúng ta sẵn lòng chết đi và hủy diệt lẫn nhau. Bạn nghĩ rằng những con người như thế, bạn và tôi, có thể có hòa bình trong thế giới hay sao? Muốn có hòa bình, chúng ta phải an lành; sống an lànhnghĩa không phải để tạo ra thù địch. Hòa bình không là một lý tưởng. Đối với tôi, một lý tưởng chỉ là một tẩu thoát, một lẩn tránh khỏi cái gì là, một mâu thuẫn của cái gì là. Một lý tưởng ngăn cản hành động trực tiếp vào cái gì là. Muốn có hòa bình, chúng ta sẽ phải có tình yêu, chúng ta sẽ phải khởi sự không phải để sống một sống lý tưởng, nhưng để thấy những sự việc như chúng là và hành động vào chúng, thay đổi chúng. Chừng nào mỗi người chúng ta còn tìm kiếm sự an toàn tâm lý, chúng ta sẽ hủy diệt sự an toàn vật chấtchúng ta cần – thực phẩm, quần áo và chỗ ở. Chúng ta đang tìm kiếm sự an toàn tâm lý, mà không tồn tại; và chúng ta tìm kiếm nó, nếu chúng ta có thể, qua quyền hành, qua vị trí, qua chức tước, tên tuổi – tất cả việc đó hủy hoại sự an toàn vật chất. Đây là một sự kiện hiển nhiên, nếu bạn quan sát nó.

Muốn tạo ra hòa bình trong thế giới, muốn chặn đứng tất cả những chiến tranh, phải có một cách mạng trong cá thể, trong bạn và tôi. Cách mạng kinh tế nếu khôngcách mạng phía bên trong này đều vô nghĩa, vì nghèo khổhậu quả của sự điều chỉnh sai lầm về những quy định kinh tế được sản sinh bởi trạng thái tâm lý của chúng tatham lam, ganh tị, ý muốn thấp hèn và tánh chiếm hữu. Muốn kết thúc đau khổ, nghèo đói, chiến tranh, phải có một cách mạng tâm lý và chẳng có bao nhiêu người trong chúng ta sẵn lòng đối diện nó. Chúng ta sẽ thảo luận về hòa bình, thiết lập luật pháp, tạo ra những tổ chức mới, tổ chức Liên hiệp quốc và vân vânvân vân; nhưng chúng ta sẽ không tìm được hòa bình bởi vì chúng ta không từ bỏ vị trí của chúng ta, uy quyền của chúng ta, tiền bạc của chúng ta, tài sản của chúng ta, sống dốt nát của chúng ta. Lệ thuộc vào những người khác là hoàn toàn vô lý; những người khác không thể mang lại hòa bình cho chúng ta. Không vị lãnh đạo nào sẽ trao tặng chúng ta hòa bình, không chính phủ, không quân đội, không quốc gia nào. Điều gì sẽ mang lại hòa bình là sự thay đổi phía bên trong mà sẽ dẫn đến hành động phía bên ngoài. Thay đổi phía bên trong không là sự tách rời, không là sự rút lui khỏi hành động phía bên ngoài. Trái lại, có thể có hành động đúng đắn chỉ khi nào có suy nghĩ đúng đắn, và không có suy nghĩ đúng đắn khi không có hiểu rõ về chính mình. Nếu khônghiểu rõ về chính mình, không có hòa bình.

Muốn kết thúc chiến tranh phía bên ngoài, bạn phải kết thúc chiến tranh trong chính bạn. Một số các bạn sẽ gật đầu và nói, ‘Tôi đồng ý’, và ra khỏi đây và làm chính xác như điều gì các bạn đã làm trong mười năm hay hai mươi năm qua. ‘Đồng ý’ của bạn chỉ thuộc từ ngữ và không có ý nghĩa, bởi vì những đau khổ và những chiến tranh đang xảy ra của thế giới không được chặn đứng bởi sự đồng ý ngẫu nhiên của bạn. Chúng được chặn đứng chỉ khi nào bạn nhận ra sự tác hại, chỉ khi nào bạn nhận ra trách nhiệm của bạn, khi bạn không giao phó nó cho bất kỳ người nào khác. Nếu bạn nhận ra sự đau khổ, nếu bạn thấy sự khẩn cấp của hành động tức khắc và không trì hoãn, vậy thì bạn sẽ tự-thay đổi chính bạn; hòa bình sẽ đến chỉ khi nào chính bạn được an lành, khi chính bạn sống an lành cùng người hàng xóm của bạn.

11- VỀ SỢ HÃI 

Câu hỏi: Làm thế nào tôi loại bỏ được sự sợ hãi, mà gây ảnh hưởng tất cả những hoạt động của tôi?

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ sợ hãi? Sợ hãi cái gì? Có nhiều loại khác nhau của sự hãi và chúng ta không cần phân tích mỗi loại. Nhưng chúng ta có thể thấy rằng, sợ hãi hiện diện khi hiểu rõ về sự liên hệ của chúng ta không được trọn vẹn. Liên hệ không chỉ giữa những con người nhưng còn giữa chính chúng tathiên nhiên, giữa chính chúng tatài sản, giữa chính chúng ta và những ý tưởng; chừng nào liên hệ đó còn không được hiểu rõ trọn vẹn, phải có sợ hãi. Sống là liên hệ. Hiện diện là có liên hệnếu khôngliên hệ không có sống. Không gì có thể hiện diện trong tách rời; chừng nào cái trí còn tìm kiếm trong tách rời, phải có sợ hãi. Sợ hãi không là một trừu tượng; nó hiện diện chỉ trong liên quan đến cái gì đó.

Câu hỏi là, làm thế nào xóa sạch được sợ hãi? Trước hết, bất kỳ vấn đề gì mà bị khuất phục phải được chinh phục lặp đi và lặp lại. Không vấn đề nào có thể bị khuất phục, được chinh phục một cách dứt khoát; nó có thể được hiểu rõ nhưng không thể bị chinh phục. Chúng là hai qui trình hoàn toàn khác biệt, và qui trình chinh phục dẫn đến rối loạn nhiều thêm, sợ hãi nhiều thêm. Kháng cự, thống trị, đấu tranh với một vấn đề hay thiết lập một phòng vệ chống lại nó chỉ tạo ra xung đột thêm nữa, ngược lại nếu chúng ta có thể hiểu rõ sợ hãi, thâm nhập trọn vẹn vào nó từng bước một, khai phá toàn nội dung của nó, vậy thì sợ hãi sẽ không bao giờ quay lại trong bất kỳ hình thức nào. 

Như tôi đã nói, sợ hãi không là một trừu tượng; nó hiện diện chỉ trong liên hệ. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ sợ hãi? Rốt cuộc, chúng ta đều sợ hãi, về không hiện diện, về không trở thành, đúng chứ? Bây giờ, khi có sợ hãi của không hiện diện, của không hoàn thiện, hay sợ hãi về cái không biết được, về chết, liệu sợ hãi đó có thể được khuất phục bởi sự quả quyết, bởi một kết luận, bởi bất kỳ chọn lựa nào hay không? Chắc chắn không. Chỉ đè nén, thăng hoa, hay thay đổi, tạo ra kháng cự thêm nữa, đúng chứ? Vì vậy sợ hãi không bao giờ bị khuất phục qua bất kỳ hình thức của kỷ luật nào, qua bất kỳ hình thức của kháng cự nào. Sự kiện đó phải, một cách rõ ràng, được nhìn thấy, được cảm thấy và được trải nghiệm: sợ hãi không thể bị khuất phục qua bất kỳ hình thức nào của phòng vệ hay kháng cự, cũng không thể được tự do khỏi sợ hãi qua sự tìm kiếm cho một đáp án hay chỉ qua giải thích bằng từ ngữ hay trí năng.

Bây giờ chúng ta sợ hãi điều gì? Chúng ta sợ hãi một sự kiện hay một ý tưởng về sự kiện? Chúng ta sợ hãi sự việc như nó là, hay chúng ta sợ hãi cái gì chúng ta nghĩ nó là? Ví dụ, như là chết. Chúng ta sợ hãi sự kiện chết hay ý tưởng về chết? Sự kiện là một việc và ý tưởng về sự kiện là một việc khác. Tôi sợ hãi từ ngữ ‘chết’ hay về chính sự kiện? Bởi vì tôi sợ hãi từ ngữý tưởng, tôi không bao giờ hiểu rõ sự kiện, tôi không bao giờ quan sát sự kiện, tôi không bao giờ tiếp xúc trực tiếp cùng sự kiện. Chỉ khi nào tôi hiệp thông trọn vẹn cùng sự kiện mới không còn sợ hãi. Nếu tôi không hiệp thông cùng sự kiện, vậy thìsợ hãi, và không có hiệp thông cùng sự kiện chừng nào tôi còn có một ý tưởng, một quan điểm, một lý thuyết, về sự kiện, vì vậy tôi phải rất rõ ràng liệu tôi sợ hãi về từ ngữ, ý tưởng hay sợ hãi về sự kiện. Nếu tôi mặt đối mặt cùng sự kiện, không có gì phải hiểu rõ về nó: sự kiện ở đó và tôi có thể giải quyết nó. Nếu tôi sợ hãi từ ngữ, vậy thì tôi phải hiểu rõ từ ngữ, tìm hiểu toàn qui trình của từ ngữ, thuật ngữ đó, hàm ý điều gì.

Ví dụ, người ta sợ hãi cô độc, sợ hãi đau đớn, sợ hãi sự đau khổ của cô độc. Chắc chắn, sợ hãi đó hiện diện bởi vì người ta không bao giờ thực sự quan sát sự cô độc, người ta không bao giờ hiệp thông cùng nó. Khoảnh khắc người ta hoàn toàn mở toang đến sự kiện của cô độc người ta có thể hiểu rõ nó là gì, nhưng người ta lại có một quan điểm, một ý tưởng về nó, được đặt nền tảng trên hiểu biết từ trước; chính ý tưởng, quan điểm này, hiểu biết từ trước này về sự kiện, việc đó tạo ra sợ hãi. Rõ ràng sợ hãi là kết quả của việc đặt tên, của việc quy định, của chiếu rọi một biểu tượng để đại diện cho sự kiện; điều đó có nghĩa sợ hãi không tách rời khỏi từ ngữ, khỏi quy định

Tôi có một phản ứng, ví dụ như vậy, đối với cô độc; đó là tôi nói rằng tôi sợ hãi ‘không là gì cả’. Tôi sợ hãi về chính sự kiện hay sợ hãi đó được đánh thức bởi vì tôi có sự hiểu biết từ trước về sự kiện, hiểu biếttừ ngữ, biểu tượng, hình ảnh? Làm thế nào có thể có sợ hãi về một sự kiện? Khi tôi mặt đối mặt cùng sự kiện, trong hiệp thông trực tiếp cùng nó, tôi có thể quan sát nó, nhìn ngắm nó; vì vậy không có sợ hãi về sự kiện. Điều gì gây ra sợ hãi là sự hiểu biết của tôi về sự kiện, sự kiện có lẽ là gì hay làm gì.

Chính là quan điểm của tôi, ý tưởng của tôi, trải nghiệm của tôi, hiểu biết của tôi về sự kiện, mới tạo ra sợ hãi. Chừng nào còn có sự từ ngữ hóa của sự kiện, cho sự kiện một danh tánh, và thế là có sự nhận dạng hay chỉ trích nó, chừng nào tư tưởng còn đang nhận xét sự kiện như một người quan sát, phải có sợ hãi. Tư tưởng là sản phẩm của quá khứ, nó chỉ có thể hiện diện qua từ ngữ, qua những biểu tượng, qua những hình ảnh; chừng nào tư tưởng còn đang lưu ý hay đang diễn giải sự kiện, phải có sợ hãi.

Vẫn vậy chính cái trí tạo ra sợ hãi, cái trí là qui trình của suy nghĩ. Suy nghĩtừ ngữ hoá. Bạn không thể suy nghĩ mà không có những từ ngữ, không có những biểu tượng, không có những hình ảnh; những hình ảnh này, mà là những thành kiến, hiểu biết từ trước, những hiểu biết của cái trí, được chiếu rọi trên sự kiện, và từ đó sợ hãi nảy sinh. Được tự do khỏi sợ hãi chỉ khi nào cái trí có thể quan sát sự kiện mà không diễn giải nó, không cho nó một danh tánh, một nhãn hiệu. Việc này vô cùng khó khăn, bởi vì những cảm thấy, những phản ứng, những lo âuchúng ta có, ngay tức khắc được nhận dạng bởi cái trí và được trao tặng một từ ngữ. Sự cảm thấy của ghen tuông được nhận dạng bởi từ ngữ ghen tuông đó. Liệu có thể không nhận dạng một cảm thấy, quan sát cảm thấy đó mà không đặt tên nó? Do bởi sự đặt tên của cảm thấy mới thúc đẩytiếp tục, mới tiếp thêm sức mạnh cho nó. Khoảnh khắc bạn đặt tên cho điều mà bạn gọi là sợ hãi, bạn củng cố nó; nhưng nếu bạn có thể nhìn ngắm cảm thấy đó mà không-đặt tên nó, bạn sẽ thấy rằng nó tan biến đi. Vì vậy nếu người ta muốn hoàn toàn được tự do khỏi sự sợ hãi, điều cốt lõi là phải hiểu rõ toàn qui trình của đặt tên, của chiếu rọi những biểu tượng, những hình ảnh, của cho những sự kiện những cái tên. Có thể được tự do khỏi sợ hãi chỉ khi nào có hiểu rõ về chính mình. Hiểu rõ về chính mình là sự khởi đầu của thông minh, mà là đoạn kết của sợ hãi.

12- VỀ BUỒN CHÁN VÀ HỨNG THÚ 

 
Câu hỏi: Tôi không hứng thú bất kỳ điều gì cả, nhưng hầu hết mọi người lại bận rộn với quá nhiều hứng thú. Tôi không phải làm việc, vì vậy tôi không phải bận rộn. Tôi có nên làm công việc hữu ích nào đó không?

Krishnamurti: Trở thành một người làm công tác xã hội hay một người làm chính trị hay một người làm công việc tôn giáo – thế à? Bởi vì bạn không có việc gì để làm, bạn trở thành một con người đổi mới! Nếu bạn không có gì để làm, nếu bạn buồn chán, tại sao bạn lại không là buồn chán? Tại sao không là điều đó? Nếu bạn đau khổ, hãy là đau khổ đi. Đừng cố gắng tìm ra phương cách nào để thoát khỏi nó, bởi vì sự buồn chán của bạn có ý nghĩa vô cùng, nếu bạn có thể hiểu rõ nó, sống cùng nó. Nếu bạn nói, ‘Tôi buồn chán, vì vậy tôi sẽ làm việc gì khác’, bạn chỉ đang cố gắng tẩu thoát khỏi sự buồn chán, và, vì hầu hết những hoạt động của chúng ta là những tẩu thoát, bạn gây hủy hoại nhiều hơn cho xã hội và trong mọi phương cách khác. Sự ranh mãnh khi bạn tẩu thoát còn ghê gớm nhiều hơn khi bạn là cái gì bạn là và ở cùng nó. Sự khó khăn là, làm thế nào ở cùng nó và không tẩu thoát khỏi nó; bởi vì hầu hết những hoạt động của chúng ta là một qui trình của tẩu thoát, bạn không tẩu thoát và đối diện với nó là điều khó khăn cực kỳ. Vì vậy tôi sung sướng nếu bạn thực sự buồn chán và tôi nói rằng, ‘Chấm hết! Chúng ta hãy ở lại đó, chúng ta nhìn ngắm nó. Tại sao bạn phải làm bất kỳ việc gì khác?’

Nếu bạn buồn chán, tại sao bạn buồn chán? Cái sự việc được gọi là buồn chán là gì? Tại sao bạn không hứng thú bất kỳ điều gì? Phải có những lý do và những nguyên nhân đã làm cho bạn buồn chán: chịu đựng đau khổ, những tẩu thoát, những niềm tin, hoạt động không ngừng nghỉ, đã làm cho cái trí đờ đẫn, quả tim của bạn chai cứng. Nếu bạn có thể tìm ra tại sao bạn buồn chán, tại sao không có hứng thú, vậy thì chắc chắn bạn sẽ giải quyết được vấn đề, đúng chứ? Vậy thì sự hứng thú được thức dậy sẽ vận hành. Nếu bạn không hứng thú trong thâm nhập lý do tại sao bạn buồn chán, bạn không thể ép buộc mình hứng thú trong một hoạt động, chỉ vô tri vô giác đang làm cái gì đó – giống như một con sóc đang chạy loanh quanh trong một cái chuồng. Tôi biết rằng đây là loại hoạt động mà hầu hết chúng ta buông thả trong nó. Nhưng phía bên trong, thuộc tâm lý, chúng ta có thể tìm ra tại sao chúng ta lại ở trong trạng thái buồn chán hoàn toàn này; chúng ta có thể thấy tại sao hầu hết chúng ta lại ở trong trạng thái này; chúng ta đã tự làm kiệt sức chính chúng ta, cả cảm giác lẫn tinh thần; chúng ta đã thử qua quá nhiều sự việc, quá nhiều cảm xúc, quá nhiều vui chơi, quá nhiều trải nghiệm, đến độ chúng ta trở nên chai cứng, không còn sức sống. Chúng ta tham gia một nhóm người, làm mọi thứ chúng ta được yêu cầu và sau đó rời bỏ nó; tiếp theo chúng ta đi đến một nơi khác và thử qua ở đó. Nếu chúng ta thất bại với một người tâm lý học, chúng ta tìm đến một người khác hay vị linh mục; nếu chúng ta thất bại ở đó, chúng ta tìm đến một người thầy khác, và vân vân; chúng ta luôn luôn tiếp tục. Qui trình của liên tục căng ra và thả lỏng này là gây kiệt sức, đúng chứ? Giống như tất cả những cảm giác, chẳng mấy chốc nó sẽ làm đờ đẫn cái trí.

Chúng ta đã thử qua việc đó, chúng ta đã đi từ cảm giác đến cảm giác, từ hưng phấn đến hưng phấn, cho đến khi chúng ta đến một mấu chốt khi chúng ta thực sự ‘kiệt sức’. Bây giờ, khi nhận ra được nó, đừng tiến tới xa thêm nữa; hãy ngừng lại. Hãy yên lặng. Hãy để cho cái trí, tự nó, thâu gom sức mạnh; đừng ép buộc nó. Như đất màu tự-bồi bổ lại suốt mùa đông, vậy là, khi cái trí được thả cho yên lặng, nó tự-bồi bổ lại. Nhưng khó khăn lắm khi thả cho cái trí yên lặng, cho cái trí nghỉ ngơi sau tất cả việc này, vì cái trí luôn luôn đang muốn làm việc gì đó. Khi bạn đến được mấu chốt này nơi bạn tự-cho phép chính bạn để là như bạn là – sự buồn chán, sự xấu xa, sự kinh tởm, hay bất kỳ điều gì – vậy thì có thể giải quyết được nó. 

Điều gì xảy ra khi bạn chấp nhận cái gì đó, khi bạn chấp nhận cái gì bạn là? Khi bạn chấp nhận rằng bạn là cái gì bạn là, vấn đề ở đâu? Có một vấn đề chỉ khi nào chúng ta không chấp nhận một sự việc như nó là và ao ước thay đổi nó – mà không có nghĩa rằng tôi đang ủng hộ sự mãn nguyện; ngược lại. Nếu chúng ta chấp nhận cái gì chúng ta là, vậy thì chúng ta thấy rằng sự việc mà chúng ta đã kinh hãi, sự việc mà chúng ta đã gọi là buồn chán, sự việc mà chúng ta đã gọi là thất vọng, sự việc mà chúng ta đã gọi là sợ hãi, đã trải qua một thay đổi trọn vẹn. Có một thay đổi trọn vẹn về sự việc mà chúng ta sợ hãi.

Đó là lý do tại sao, như tôi đã nói, rất quan trọng phải hiểu rõ về qui trình, về những phương cách suy nghĩ riêng của chúng ta. Hiểu rõ về chính mình không thể được thâu lượm qua bất kỳ người nào, qua bất kỳ quyển sách nào, qua bất kỳ tín ngưỡng nào, tâm lý học, hay người phân tích tâm lý. Nó phải được tìm ra bởi chính bạn, bởi vì nó là sống của bạn; nếu không có sự mở rộngthâm nhập vào hiểu rõ về cái tôi đó, dù làm bất kỳ điều gì bạn muốn, thay đổi bất kỳ những hoàn cảnh, những ảnh hưởng bên ngoài hay bên trong nào – nó sẽ luôn luôn là mảnh đất mầu mỡ của thất vọng, đau khổ, sầu muộn. Muốn vượt khỏi những hoạt động tự-khép kín của cái trí, bạn phải hiểu rõ chúng; và hiểu rõ chúng là tỉnh thức được hành động trong sự liên hệ, liên hệ với những sự việc, với những con người và với những ý tưởng. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương, chúng ta thấy về chính chúng ta, mà không có bất kỳ bênh vực hay chỉ trích nào; và từ đó hiểu rõ rộng rãi hơn và thâm sâu hơn về những phương cách của cái trí riêng của chúng ta, nó có thể tiến xa thêm nữa; nó có thể cho cái trí được yên lặng, để thâu nhận cái đó mà là sự thật

13- VỀ HẬN THÙ

Câu hỏi: Nếu tôi hoàn toàn chân thật, tôi phải thú nhận rằng tôi bực bội, và đôi khi hận thù, hầu như với mọi người. Nó làm cho sống của tôi rất bất hạnhđau khổ. Theo trí năng tôi hiểu rõ rằng tôi là bực bội này, hận thù này; nhưng tôi không thể giải quyết được nó. Ông có thể chỉ cho tôi một phương cách hay không? 

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ ‘theo trí năng’? Khi chúng ta nói rằng chúng ta hiểu rõ điều gì đó theo trí năng, chúng ta có ý gì qua câu đó? Liệu có một sự việc như hiểu rõ theo trí năng? Hay chính là vì cái trí chỉ hiểu rõ những từ ngữ, bởi vì đó là cách duy nhất để truyền đạt lẫn nhau của chúng ta. Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể thực sự hiểu rõ bất kỳ điều gì chỉ theo từ ngữ, theo trí năng? Đó là việc đầu tiên chúng ta phải rõ ràng: liệu hiểu rõ tạm gọi là trí năng là một cản trở cho hiểu rõ. Chắc chắn hiểu rõhoà hợp, không bị phân chia, không từng phần? Hoặc tôi hiểu rõ điều gì đó hoặc tôi không hiểu rõ. Khi nói với chính mình, ‘Tôi hiểu rõ điều gì đó theo trí năng’, chắc chắn là một cản trở cho hiểu rõ. Nó là một qui trình từng phần và vì vậy không có hiểu rõ gì cả.

Bây giờ câu hỏi là như thế này: ‘Làm thế nào tôi, mà bực bội, căm hận, làm thế nào tôi được tự do khỏi, hay giải quyết được vấn đề đó?Chúng ta giải quyết một vấn đề như thế nào? Một vấn đề là gì? Chắc chắn, một vấn đề là cái gì đó đang gây bực bội

Tôi bực bội, tôi căm hận; tôi căm hận mọi người và điều đó gây ra đau khổ. Và tôi nhận biết được nó. Tôi sẽ phải làm gì đây? Nó là một yếu tố gây xáo trộn trong sống của tôi. Tôi phải làm gì, làm thế nào tôi sẽ thực sự được tự do khỏi nó – không chỉ quên bẵng trong chốc lát, nhưng căn bản được tự do khỏi nó? Làm thế nào tôi thực hiện được việc đó?

Nó là một vấn đề đối với tôi bởi vì nó gây bực bội cho tôi. Nếu nó không là một sự việc gây bực bội, nó sẽ không là một vấn đề đối với tôi, đúng chứ? Bởi vì nó gây đau khổ, bực bội, lo âu, bởi vì tôi nghĩ điều đó là xấu xa, tôi muốn loại bỏ nó. Vì vậy cái sự việc mà tôi đang phản kháng là sự bực bội, phải không? Tôi cho nó những cái tên khác nhau vào những thời điểm khác nhau, trong những tâm trạng khác nhau; vào một ngày tôi gọi nó là thế này và vào một ngày khác là cái gì đó nhưng sự ham muốn là, theo cơ bản, không bị bực bội. Đó không là như thế hay sao? Bởi vì vui thú không gây bực bội, tôi chấp nhận nó. Tôi không muốn được tự do khỏi vui thú, bởi vì không có bực bội – ít ra, không phải vào lúc này, nhưng bực bội, hận thù là những nhân tố gây xáo trộn trong sống của tôi và tôi muốn loại bỏ chúng.

Quan tâm của tôi không phải là bị bực bội và tôi đang cố gắng tìm ra một cách mà trong đó tôi sẽ không bao giờ bị bực bội. Tại sao tôi không nên bị bực bội? Tôi phải bị bực bội, để tìm ra, đúng chứ? Tôi phải trải qua những hỗn loạn, khổ sở, lo âu, để tìm ra, đúng chứ? Nếu tôi không bị bực bội tôi sẽ vẫn mê muội và có lẽ đó là điều gì hầu hết chúng ta đều muốn – để được thanh thản, để được ngủ quên, để lẩn tránh bất kỳ bực bội nào, để tìm sự tách rời, sự tách biệt, sự riêng tư, sự an toàn. Nếu tôi không thèm lưu tâm đến sự bực bội – thực sự, không phải trên bề mặt, nếu tôi không thèm quan tâm đến bị bực bội, bởi vì tôi muốn tìm ravậy thì thái độ của tôi đối với hận thù, đối với xáo trộn, trải qua một thay đổi, đúng chứ? Nếu tôi không quan tâm bị bực bội, vậy thì cái tên không quan trọng, phải không? Từ ngữ ‘hận thù’ không quan trọng, phải không? Hay ‘sự bực bội’ với mọi người không quan trọng, phải không? Bởi vì lúc đó tôi đang trải nghiệm trực tiếp trạng thái mà tôi gọi là ‘bực bội’ mà không đặt tên trải nghiệm đó. 

Tức giận là một phẩm chất rất gây bực bội, giống như hận thù và oán hờn; và rất ít người chúng ta trải nghiệm trực tiếp sự tức giận mà không gọi nó thành từ ngữ. Nếu chúng ta không gọi nó thành từ ngữ, nếu chúng ta không gọi nó là tức giận, chắc chắn phải có một trải nghiệm khác, đúng chứ? Bởi vì chúng ta đặt tên nó, chúng ta làm suy giảm một trải nghiệm mới mẻ, hay cố định nó trong những từ ngữ của cũ kỹ, trái lại, nếu chúng ta không đặt tên nó, vậy thì có một trải nghiệm mà được hiểu rõ trực tiếp và hiểu rõ này tạo ra một thay đổi trong trải nghiệm đó.

Ví dụ, sự keo kiệt. Hầu hết chúng ta, nếu chúng ta keo kiệt, đều không ý thức được nó – keo kiệt về những vấn đề tiền bạc, keo kiệt về việc tha thứ mọi người, bạn biết chứ, chỉ là keo kiệt. Tôi chắc chắn chúng ta đều quen thuộc với điều đó. Bây giờ, khi tỉnh thức được nó, làm thế nào chúng ta sẽ được tự do khỏi phẩm chất đó? – không phải để trở nên rộng lượng, đó không là điều quan trọng. Được tự do khỏi keo kiệt hàm ý sự quảng đại, bạn không phải trở thành quảng đại. Rõ ràng người ta phải ý thức được nó. Bạn có lẽ rất quảng đại khi trao một hiến dâng to tát cho xã hội của bạn, cho bạn bè của bạn, nhưng rất keo kiệt khi cho một món quà lớn hơn – bạn biết tôi có ý gì qua từ ngữ ‘keo kiệt’. Người ta không nhận biết được nó. Khi người ta trở nên tỉnh thức được nó, điều gì xảy ra? Chúng ta sử dụng ý chí của chúng ta để quảng đại; chúng ta cố gắng khuất phục nó; chúng ta kỷ luật chính chúng ta để quảng đạivân vânvân vân. Nhưng, rốt cuộc, nỗ lực của ý chí để là cái gì đó vẫn còn là bộ phận của sự keo kiệt trong một vòng tròn rộng lớn hơn, vì vậy nếu chúng ta không làm bất kỳ điều gì về những sự việc đó nhưng chỉ tỉnh thức được những hàm ý của keo kiệt, mà không cho nó một cái tên, vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng, kia kìa, một thay đổi cơ bản xảy ra.

Làm ơn trải nghiệm điều này. Trước hết, người ta phải bị bực bội, và rõ ràng là hầu hết chúng ta không muốn bị bực bội. Chúng ta nghĩ chúng ta đã tìm ra một khuôn mẫu của sống – vị Thầy, niềm tin, bất kỳ điều gì – và ở đó chúng ta bình tâm. Nó giống như có một công việc văn phòng tốt và vận hành ở đó suốt cuộc đời người ta. Với cùng chất lượng tinh thần đó chúng ta tiếp cận những chất lượng khác nhau mà chúng ta muốn loại bỏ. Chúng ta không thấy sự quan trọng của bị quấy rầy, của không-an toàn phía bên trong, của không-lệ thuộc. Chắc chắn chỉ trong không-an toàn bạn mới phát hiện, bạn mới nhìn thấy, bạn mới hiểu rõ, đúng chứ? Chúng ta muốn giống như con người có nhiều tiền bạc, thoải mái; anh ấy sẽ không bị bực bội; anh ấy không muốn bị bực bội

Bực bộicần thiết cho sự hiểu rõ và bất kỳ gắng sức nào để tìm ra an toàn là một cản trở cho sự hiểu rõ. Khi chúng ta muốn loại bỏ cái gì đó mà đang gây bực bội, nó chắc chắn là một cản trở. Nếu chúng ta có thể trải nghiệm trực tiếp một cảm thấy, không đang đặt tên nó, tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm được nhiều điều trong nó; vậy thì không còn một trận chiến với nó, bởi vì người trải nghiệm và vật được trải nghiệm là một, và đó là cốt lõi. Chừng nào người trải nghiệm còn đặt tên cảm thấy, vật được trải nghiệm, anh ấy tách rời chính anh ấy khỏi nó và hành động vào nó; hành động như thế là một hành động ảo tưởng, giả tạo. Nhưng nếu không có đặt tên, vậy thì người trải nghiệm và vật được trải nghiệm là một. Sự hòa hợp đó là cần thiết và phải được triệt để đối diện.

14- VỀ BÀN TÁN

Câu hỏi: Bàn tángiá trị trong phơi bày về chính mình, đặc biệt trong phơi bày những người khác cho tôi. Một cách nghiêm túc, tại sao không sử dụng bàn tán như một phương tiện để khám phá cái gì là? Tôi không bị tác động bởi từ ngữ ‘bàn tán’ chỉ bởi vì từ lâu rồi nó đã bị chỉ trích.

Krishnamurti: Tôi không hiểu tại sao chúng ta bàn tán? Không phải bởi vì nó phơi bày những người khác cho chúng ta. Và tại sao những người khác phải được phơi bày cho chúng ta? Tại sao bạn muốn biết về những người khác? Tại sao có sự quan tâm lạ lùng này về những người khác? Trước hết, tại sao chúng ta bàn tán? Nó là một hình thức của bồn chồn, đúng chứ? Giống như lo âu, nó thể hiện một cái trí bất ổn. Tại sao có sự ham muốn để can thiệp vào những người khác này, để biết những người khác đang làm gì, đang nói gì? Chỉ một cái trí rất nông cạn mới cần bàn tán, đúng chứ? – một cái trí tọc mạch được hướng dẫn sai lầm. Người hỏi dường như nghĩ rằng những người khác được phơi bày cho anh ấy bởi sự quan tâm của anh ấy với họ – với những việc làm của họ, với những suy nghĩ của họ, với những quan điểm của họ. Nhưng liệu chúng ta biết về những người khác nếu chúng ta không biết về chính chúng ta hay sao? Liệu chúng ta có thể nhận xét những người khác, nếu chúng ta không biết phương cách của suy nghĩ riêng của chúng ta, cách chúng ta hành động, cách chúng ta cư xử? Tại sao lại có sự quan tâm lạ thường này về những người khác? Nó không là một tẩu thoát, thực sự, sự ham muốn này để tìm ra những người khác đang suy nghĩ và đang cảm thấy và đang bàn tán điều gì? Nó không cống hiến một tẩu thoát khỏi chính chúng ta, hay sao? Trong nó cũng không có sự ham muốn để can thiệp vào sống của những người khác, hay sao? Sống riêng của chúng ta không đủ khó khăn, không đủ phức tạp, không đủ đau khổ, nếu không chen vào sống của những người khác, can thiệp vào sống của những người khác, hay sao? Có thời gian để suy nghĩ về những người khác trong những bàn tán xấu xa, thù địch, ác tâm, hay sao? Tại sao chúng ta lại làm việc này? Bạn biết chứ, mọi người đều làm nó. Thực tế mọi người đang bàn tán về người nào đó. Tại sao? 

Trước hết, tôi nghĩ chúng ta bàn tán về những người khác bởi vì chúng ta không quan tâm trọn vẹn trong qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta và trong hành động riêng của chúng ta. Chúng ta muốn thấy những người khác đang làm gì và có lẽ, để diễn tả nó hơi hơi lịch sự, bắt chước những người khác. Thông thường, khi chúng ta bàn tán là để chỉ trích những người khác, nhưng, nó còn có nghĩa rộng lượng hơn, có lẽ là bắt chước những người khác. Tại sao chúng ta muốn bắt chước những người khác? Tất cả điều đó không thể hiện sự nông cạn lạ lùng của chúng ta hay sao? Chính một cái trí buồn chán mới cần có sự hưng phấn, và vươn ra khỏi nó để có được điều đó. Nói cách khác, bàn tán là một hình thức của cảm giác, mà chúng ta buông thả trong nó, đúng chứ? Nó có lẽ là một loại cảm giác đặc biệt, nhưng luôn luôn có sự ham muốn để tìm ra hưng phấn, quên lãng này. Nếu người ta thực sự thâm nhập nghi vấn này một cách sâu thẳm, người ta quay vào chính người ta, mà thể hiện rằng người ta quá nông cạn và đang tìm kiếm sự hưng phấn phía bên ngoài bằng cách bàn tán nhảm nhí về những người khác. Lần tới, hãy quan sát bạn khi bạn đang bàn tán về ai đó; nếu bạn tỉnh thức được nó, nó sẽ bộc lộ cho bạn một điều lạ lùng về chính bạn. Đừng che đậy nó bằng cách nói rằng bạn chỉ tò mò về những người khác. Nó thể hiện trạng thái hỗn loạn, một ý thức của hưng phấn, một nông cạn, một không-quan tâm thực sự sâu thẳm trong những con người không có gì cả ngoại trừ sự bàn tán

Vấn đề tiếp theo là, làm thế nào để ngừng lại sự bàn tán. Đó là câu hỏi kế tiếp, phải không? Khi bạn nhận biết được rằng bạn đang bàn tán, làm thế nào bạn ngừng sự bàn tán. Nếu nó đã trở thành một thói quen, một sự việc xấu xatiếp tục từ ngày sang ngày, làm thế nào bạn chấm dứt nó? Câu hỏi như thế phải không? Khi bạn biết bạn đang bàn tán, khi bạn tỉnh thức được rằng bạn đang bàn tán, nhận biết được tất cả những hàm ý của nó, lúc đó bạn không tự nhủ với chính mình, ‘Làm thế nào tôi chấm dứt nó?’ Liệu nó không chấm dứt, khoảnh khắc bạn tỉnh thức được rằng bạn đang bàn tán, hay sao? ‘Làm thế nào’ không nảy sinh. ‘Làm thế nào’ chỉ nảy sinh khi bạn không-tỉnh thức; và sự bàn tán thể hiện một không-tỉnh thức. Hãy trải nghiệm điều này cho chính bạn vào lần tới khi bạn đang bàn tán, và thấy rằng bạn chấm dứt bàn tán mau lẹ làm sao khi bạn tỉnh thức được điều gì bạn đang nói, nhận biết được rằng cái lưỡi của bạn đang rời khỏi bạn. Không phải là hành động của ý chí để chấm dứt nó. Tất cả mọi việc cần làm là tỉnh thức, nhận biết được điều gì bạn đang nói và thấy được những hàm ý của nó. Bạn không cần chỉ trích hay bênh vực sự bàn tán. Tỉnh thức được nó và bạn sẽ thấy bạn chấm dứt sự bàn tán mau lẹ làm sao; bởi vì nó phơi bày cho chính người ta những phương cách riêng của hành động của người ta, cách cư xử của người ta, khuôn mẫu-tư tưởng của người ta; trong sự phơi bày đó, người ta phát hiện được chính người ta, mà còn quan trọng hơn bàn tán về những người khác, về điều gì họ đang làm, về điều gì họ đang suy nghĩ, họ đang cư xử như thế nào.

Hầu hết chúng ta đều đọc những tờ báo hàng ngày được nhét kín những bàn tán, bàn tán toàn cầu. Tất cả chúng đều là một tẩu thoát khỏi chính chúng ta, khỏi sự tầm thường riêng của chúng ta, khỏi sự xấu xa riêng của chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng qua một phấn khích hời hợt trong những sự kiện thế giới chúng ta trở nên mỗi lúc một khôn ngoan hơn, mỗi lúc một có khả năng giải quyết được sống riêng của chúng ta. Chắc chắn, những điều này là những phương cách tẩu thoát khỏi chính chúng ta, đúng chứ? Trong chính chúng ta chúng ta quá trống rỗng, nông cạn; chúng ta quá kinh hãi về chính chúng ta. Chúng ta quá nghèo khó trong chính chúng ta đến độ sự bàn tán hành động như một hình thức của giải trí phong phú, một tẩu thoát khỏi chính chúng ta. Chúng ta cố gắng lấp đầy sự trống rỗng đó trong chúng ta bằng hiểu biết, bằng những nghi lễ, bằng sự bàn tán, bằng những họp nhóm – bằng vô số những phương cách tẩu thoát, vì vậy những tẩu thoát trở thành quan trọng nhất, và không phải hiểu rõ cái gì là. Hiểu rõ cái gì là cần đến sự chú ý; muốn nhận biết được người ta trống rỗng, người ta đang đau khổ, cần sự chú ý vô hạn, và không phải những tẩu thoát, nhưng hầu hết chúng ta ưa thích những tẩu thoát này, bởi vì chúng nhiều vui thú hơn, nhiều dễ chịu hơn. Cũng vậy, khi chúng ta nhận biết được chính chúng ta như chúng ta là, rất khó khăn để đối phó với chính chúng ta; đó là một trong những vấn đềchúng ta phải đối diện. Chúng ta không biết phải làm gì. Khi tôi biết rằng tôi bị trống rỗng, rằng tôi đang đau khổ, rằng tôi đang buồn phiền, tôi không biết phải làm gì, làm thế nào giải quyết được nó đây. Thế là người ta dựa vào mọi loại tẩu thoát. 

Câu hỏi là, phải làm gì đây? Dĩ nhiên, chắc chắn người ta không thể tẩu thoát; vì đó là điều vô lý và trẻ con nhất. Nhưng khi bạn đối diện với bạn như bạn là, bạn phải làm gì? Trước hết, liệu có thể không-phủ nhận hay không-bào chữa nó, nhưng chỉ ở lại cùng nó, như bạn là được không? – điều đó gian khổ cực kỳ, bởi vì cái trí tìm kiếm sự giải thích, sự chỉ trích, sự nhận dạng. Nếu cái trí không làm bất kỳ những sự việc đó nhưng ở lại cùng nó, vậy thì nó giống như chấp nhận cái gì đó. Nếu tôi chấp nhận rằng tôi là người da mầu, đó là sự kết thúc của nó; nhưng nếu tôi ham muốn thay đổi thành màu sáng hơn, vậy thì vấn đề nảy sinh. Chấp nhận cái gì là là việc khó khăn nhất; người ta có thể thực hiện được điều đó chỉ khi nào không có tẩu thoát, và sự chỉ trích hay sự biện hộ là một hình thức của tẩu thoát. Vì vậy khi người ta hiểu rõ toàn qui trình của tại sao người ta bàn tán và khi người ta nhận ra sự vô lý của nó, sự tàn nhẫn và tất cả mọi sự việc bao hàm trong nó, thế là người ta được bỏ lại cùng người ta là gì, và chúng ta luôn luôn tiếp cận nó bằng cách hoặc hủy diệt nó, hoặc thay đổi nó thành cái gì khác. Nếu chúng ta không làm những sự việc kia, nhưng tiếp cận nó bằng ý định hiểu rõ nó, cùng nó trọn vẹn, vậy thì chúng ta phát hiện rằng nó không còn là sự việc mà chúng ta kinh hãi. Vậy thì có thể thay đổi cái gì là đó. 

15- VỀ PHÊ BÌNH 

Câu hỏi: Phê bìnhvị trí nào trong sự liên hệ? Sự khác nhau giữa phê bình phá hoạiphê bình xây dựng là gì? 

Krishnamurti: Trước hết, tại sao chúng ta phê bình? Vì mục đích hiểu rõ phải không? Hay nó chỉ là một qui trình của phàn nàn? Nếu tôi phê bình bạn, liệu tôi hiểu rõ bạn? Hiểu rõ có được qua sự phê bình hay sao? Nếu tôi muốn hiểu rõ, không phải hiểu rõ một cách hời hợt nhưng sâu thẳm toàn ý nghĩa về sự liên hệ của tôi với bạn, tôi phải bắt đầu phê bình bạn hay sao? Hay tôi tỉnh thức được sự liên hệ này giữa bạn và tôi, đang yên lặng quan sát nó – không chiếu rọi những ý kiến của tôi, những bình phẩm của tôi, những nhận xét, những nhận dạng hay chỉ trích, nhưng yên lặng quan sát điều gì đang xảy ra? Và nếu tôi không phê bình, điều gì xảy ra? Người ta dễ buồn ngủ phải không? Mà không có nghĩa rằng chúng ta không buồn ngủ nếu chúng ta đang càu nhàu. Có lẽ việc đó trở thành một thói quenchúng ta tự-ru ngủ qua thói quen. Liệu có một hiểu rõ sâu thẳm hơn, rộng rãi hơn của sự liên hệ qua phê bình hay sao? Không đặt thành vấn đề liệu phê bìnhxây dựng hay phá hoạichắc chắn, hai điều đó đều có liên quan. Vì vậy câu hỏi là: ‘Trạng thái cần thiết của cái trí và tâm hồn mà sẽ hiểu rõ sự liên hệ là gì?’ Sự tiến hành của hiểu rõ là gì? Chúng ta hiểu rõ điều gì đó bằng cách nào? Bạn hiểu rõ người con của bạn bằng cách nào, nếu bạn quan tâm đến người con của bạn? Bạn quan sát, phải không? Bạn nhìn ngắm em chơi đùa, bạn tìm hiểu em trong những tâm trạng khác nhau của em; bạn không chiếu rọi ý kiến của bạn vào em. Bạn không nói rằng em ấy nên là điều này hay điều kia. Bạn nhìn ngắm một cách tỉnh táo, tỉnh thức một cách năng động, đúng chứ? Vậy thì, có lẽ, bạn bắt đầu hiểu rõ em. Nếu bạn liên tục đang phê bình, liên tục đang đưa vào cá tính đặc biệt riêng của bạn, những khuynh hướng của bạn, những ý kiến của bạn, đang quyết định em nên là hay không nên là cái gì, và tất cả mọi chuyện như thế, chắc chắn bạn tạo ra một rào chắn trong liên hệ đó. Bất hạnh thay hầu hết chúng ta đều phê bình với mục đích để định hình, với mục đích để can thiệp; nó cho chúng ta một vui thú nào đó, một hài lòng nào đó, khi định hình cái gì đó – sự liên hệ với một người chồng, một người con hay bất kỳ ai. Bạn cảm thấy một ý thức của quyền lực trong nó, bạn là ông chủ, và trong đó có một thỏa mãn lạ lùng. Chắc chắn qua tất cả qui trình đó, không có hiểu rõ về liên hệ. Chỉ có sự áp đặt, sự ham muốn đúc khuôn một người khác đến khuôn mẫu đặc biệt thuộc cá tánh của bạn, ham muốn của bạn, ao ước của bạn. Tất cả điều này ngăn cản hiểu rõ về liên hệ, đúng chứ? 

Tiếp theo còn có tự-phê bình. Phê bình về chính mình, phê bình, chỉ trích, hay biện hộ về chính nình – việc đó có mang lại hiểu rõ về chính mình hay không? Khi tôi bắt đầu phê bình về chính tôi, tôi không giới hạn sự tiến hành của hiểu rõ, của tìm hiểu hay sao? Liệu sự tìm hiểu nội tâm, một hình thức của tự-phê bình, phơi bày cái tôi hay sao? Điều gì khiến cho sự phơi bày cái tôi có thể xảy ra được? Luôn luôn phân tích, sợ hãi, phê bìnhchắc chắn điều đó không giúp phơi bày. Điều gì tạo ra sự phơi bày cái tôi để cho bạn bắt đầu hiểu rõ nó là sự tỉnh thức liên tục được nó mà không có bất kỳ chỉ trích, mà không có bất kỳ nhận dạng nào. Phải có một tự phát nào đó; bạn không thể liên tục đang phân tích nó, đang kỷ luật nó, đang định hình nó. Sự tự phát này là cốt lõi cho hiểu rõ. Nếu tôi chỉ giới hạn, kiểm soát, chỉ trích, vậy thì tôi chặn đứng chuyển động của tư tưởngcảm thấy, phải không? Chính là trong chuyển động của tư tưởngcảm thấy, tôi mới khám phá – không phải trong thuần túy kiểm soát. Khi người ta khám phá, lúc đó rất quan trọng phải tìm ra cách hành động về nó như thế nào. Nếu tôi hành động phụ thuộc vào một ý tưởng, phụ thuộc vào một kiểu mẫu, phụ thuộc vào một lý tưởng, vậy thì tôi ép buộc cái tôi vào một khuôn mẫu đặc biệt. Trong đó không có hiểu rõ, không có thay đổi. Nếu tôi có thể nhìn ngắm ‘cái tôi’ mà không có bất kỳ chỉ trích, mà không có bất kỳ nhận dạng, vậy thì có thể vượt khỏi nó. Đó là lý do tại sao toàn qui trình của phỏng chừng chính mình đến một lý tưởnghoàn toàn sai lầm. Những lý tưởng là những vị chúa tự-tạo tác, và tuân phục vào một hình ảnh tự-chiếu rọi chắc chắn không là một giải thoát

Vẫn vậy có thể có hiểu rõ chỉ khi nào cái trí tỉnh thức một cách yên lặng, đang nhìn ngắm – mà gian nan lắm, bởi vì chúng ta được thỏa mãn trong năng động, trong không ngừng nghỉ, trong phê bình, trong chỉ trích, bênh vực. Đó là toàn cấu trúc của thân tâm chúng ta; và qua bức màn của những ý tưởng, những thành kiến, những quan điểm, những trải nghiệm, những ký ức, chúng ta cố gắng hiểu rõ. Liệu có thể được tự do khỏi tất cả những bức màn này, và thế là hiểu rõ một cách trực tiếp? Chắc chắn chúng ta làm việc đó khi vấn đề rất mãnh liệt; chúng ta không trải qua tất cả những phương pháp này – chúng ta tiếp cận nó một cách trực tiếp. Hiểu rõ về sự liên hệ có được chỉ khi nào qui trình tự-phê bình được hiểu rõ và cái trí yên lặng. Nếu bạn đang lắng nghe tôi và đang cố gắng theo sát, mà không có quá nhiều nỗ lực, điều gì tôi ao ước chuyển tải, vậy thì có thể có sự hiểu rõ lẫn nhau của chúng ta. Nhưng nếu bạn luôn luôn đang phê bình, đang tuôn ra những quan điểm của bạn, điều gì bạn đã học hành từ những quyển sách, điều gì người nào đó đã bảo cho bạn và vân vânvân vân, vậy thì bạn và tôi không có liên hệ, bởi vì bức màn này ở giữa chúng ta. Nếu cả hai chúng ta đang cố gắng tìm ra những khúc mắc của vấn đề, mà nằm trong chính vấn đề, nếu cả hai chúng ta đều háo hức theo nó đến tận cùng, tìm ra sự thật của nó, khám phá nó là gì – vậy thì chúng taliên hệ. Vậy thì cái trí của bạn vừa tỉnh thức lẫn thụ động, đang nhìn ngắm để thấy điều gì là đúng thực trong nói chuyện này. Vì vậy cái trí của bạn phải nhạy bén lạ thường, không bám theo bất kỳ ý tưởng hay lý tưởng nào, bất kỳ nhận định, bất kỳ quan điểm mà bạn đã cô đọng qua những trải nghiệm đặc biệt của bạn. Chắc chắn, hiểu rõ hiện diện khi có sự thích ứng mau lẹ của một cái trí mà tỉnh thức một cách thụ động. Vậy thì nó có thể thâu nhận, vậy thìnhạy cảm. Một cái trí không nhạy cảm khi nó nhồi nhét đầy những ý tưởng, những thành kiến, những quan điểm, hoặc ủng hộ hoặc chống đối.

Muốn hiểu rõ sự liên hệ phải có một tỉnh thức thụ động – mà không hủy hoại sự liên hệ. Trái lại nó làm cho sự liên hệ sinh động nhiều hơn, có ý nghĩa nhiều hơn. Vậy thì trong liên hệ đó có thể có thương yêu thực sự; có một nồng ấm, một ý thức gần gũi, mà không chỉ là cảm tình hay cảm giác. Nếu chúng ta có thể tiếp cận như thế hay ở trong trạng thái liên hệ như thế với mọi sự vật sự việc, vậy thì những vấn đề của chúng ta được giải quyết rất dễ dàng – những vấn đề tài sản, những vấn đề sở hữu, bởi vì chúng ta là cái chúng ta sở hữu. Con ngườisở hữu tiền bạc là tiền bạc. Con ngườinhận dạng chính anh ấy với tài sảntài sản hay ngôi nhà hay món đồ đạc. Tương tự như thế với những ý tưởng hay những con người; khi có tình trạng sở hữu, không có liên hệ. Hầu hết chúng ta đều sở hữu bởi vì chúng ta không có gì cả nếu chúng ta không sở hữu. Chúng ta là những cái vỏ trống không nếu chúng ta không sở hữu, nếu chúng ta không lấp đầy sống của chúng ta bằng đồ đạc, bằng âm nhạc, bằng hiểu biết, bằng cái này hay cái kia. Và cái vỏ đó gây nhiều huyên náo, và huyên náo đó chúng ta đang gọi là đang sống; và với việc đó chúng ta được thỏa mãn. Khi có một gián đoạn, một phá vỡ điều đó, vậy thìđau khổ, bởi vì lúc đó bỗng nhiên bạn khám phá chính bạn chính xác như bạn là – một cái vỏ trống không, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Tỉnh thức được toàn nội dung của sự liên hệ là hành động, và từ hành động đó có thể có sự liên hệ thực sự, có thể khám phá chiều sâu vô hạn của nó, ý nghĩa vô cùng của nó và biết được tình yêu là gì.

 
16- VỀ TIN TƯỞNG THƯỢNG ĐẾ

Câu hỏi: Tin tưởng Thượng đế là một động cơ mãnh liệt để hướng đến sống tốt lành hơn. Tại sao ông phủ nhận Thượng đế? Tại sao ông không cố gắng làm sống lại lòng trung thành của con người trong ý tưởng về Thượng đế?

Krishnamurti: Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề một cách rộng rãithông minh. Tôi không đang phủ nhận Thượng đế – thật ngớ ngẩn khi làm như vậy. Chỉ những người không thấy sự thật mới buông thả trong những từ ngữ vô nghĩa. Con người mà nói anh ấy biết, không biết gì cả; con người mà đang trải nghiệm sự thật từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc không có phương tiện để chuyển tải sự thật đó.

Niềm tin là một phủ nhận sự thật, niềm tin cản trở sự thật; tin tưởng Thượng đế không là tìm được Thượng đế. Người tin tưởng hay người không-tin tưởng không tìm được Thượng đế; bởi vì sự thật là cái không biết được, và niềm tin hay không-niềm tin của bạn trong cái không biết được chỉ là một tự-chiếu rọi và vì vậy không thực sự. Tôi biết bạn tin tưởng và tôi biết nó chẳng có ý nghĩa bao nhiêu trong sống của bạn. Có nhiều người tin tưởng; hàng triệu người tin tưởng Thượng đế và được an ủi trong đó. Trước hết, tại sao bạn tin tưởng? Bạn tin tưởng vì nó cho bạn sự thỏa mãn, an ủi, hy vọng, và bạn nói nó trao tặng bạn ý nghĩa cho sống. Thật ra, niềm tin của bạn chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, bởi vì bạn tin tưởng và trục lợi, bạn tin tưởng và giết chóc, bạn tin tưởng một Thượng đế toàn cầu và lại tàn sát lẫn nhau. Người giàu có cũng tin tưởng Thượng đế; anh ấy trục lợi một cách tàn nhẫn, tích lũy tiền bạc và sau đó dựng lên một ngôi đền hay trở thành một người đầy từ tâm.

Những người đã thả bom nguyên tử ở Hiroshima đã nói rằng Thượng đế theo cùng họ; những người đã bay từ nước Anh để hủy diệt nước Đức đã nói rằng Thượng đế là người cùng lái máy bay với họ. Những người độc tài, những vị thủ tướng, những vị tướng lãnh, những vị tổng thống, tất cả đều nói về Thượng đế, họ có sự trung thành mãnh liệt nơi Thượng đế. Họ đang phục vụ, đang tạo nên một sống tốt lành hơn cho con người? Những người mà nói rằng họ tin tưởng Thượng đế đã hủy diệt một nửa thế giớithế giới ở trong sự đau khổ hoàn toàn. Qua sự không-khoan dung của tôn giáo, có những phân chia của những con người như những người tin tưởng và những người không-tin tưởng, dẫn đến những chiến tranh tôn giáo. Nó thể hiện bạn là một người có đầu óc chính trị lạ lùng làm sao. 

Tin tưởng Thượng đế là ‘một động cơ mãnh liệt để hướng đến sống tốt lành hơn’? Tại sao bạn cần có một động cơ dẫn đến một sống tốt lành hơn? Chắc chắn, động cơ của bạn phải là ham muốn riêng của bạn để sống trong sángđơn giản, đúng chứ? Nếu bạn nhờ vào một động cơ, bạn không hứng thú tạo ra sống tốt lành, bạn chỉ quan tâm động cơ của bạn, mà khác biệt với động cơ của tôi – và chúng ta sẽ cãi cọ vì động cơ đó. Nếu cùng nhau chúng ta sống hạnh phúc không phải bởi vì chúng ta tin tưởng Thượng đế nhưng bởi vì chúng ta là những con người, vậy thì chúng ta sẽ chia sẻ toàn bộ những phương tiện của sản suất với mục đích để tạo ra những sự vật cho tất cả mọi người. Bởi vì không-thông minh, chúng ta chấp nhận những ý tưởng của một siêu-thông minh mà chúng ta gọi là ‘Thượng đế’; nhưng ‘Thượng đế’ này, siêu-thông minh này, sẽ không cho chúng ta một sống tốt lành hơn. Điều gì dẫn đến một sống tốt lành hơn là thông minh; và không thể có thông minh nếu có niềm tin, nếu có những phân chia giai cấp, nếu những phương tiện sản xuất nằm trong bàn tay của một số ít người, nếu có những quốc tịch tách rời và những chính phủ cầm quyền. Tất cả điều này thể hiện không-thông minh và chính là không-thông minh đang ngăn cản sống tốt lành hơn, không phải không-tin tưởng trong Thượng đế.

Tất cả các bạn đều tin tưởng trong nhiều cách khác nhau, nhưng sự tin tưởng của các bạn không là thực sự. Sự thật là điều gì bạn là, điều gì bạn làm, điều gì bạn suy nghĩ, và niềm tin của bạn trong Thượng đế chỉ là một tẩu thoát khỏi sống đơn điệu, xuẩn ngốc và hung hăng của bạn. Vả lại, niềm tin luôn luôn phân chia con người: có người Ấn độ giáo, người Phật giáo, người Thiên chúa giáo, người cộng sản, người xã hội, người tư bảnvân vân. Niềm tin, ý tưởng, những phân chia; nó không bao giờ mang con người lại cùng nhau. Bạn có lẽ mang một ít người cùng nhau trong một nhóm và nhóm đó phản kháng một nhóm khác. Những ý tưởng, những niềm tin không bao giờ hợp nhất; trái lại, chúng tách rời, không-hòa hợp và hủy diệt. Vì vậy niềm tin của bạn trong Thượng đế thật ra đang lan tràn sự đau khổ trong thế giới; mặc dù nó có lẽ mang lại cho bạn vài giây phút thanh thản, trong thực tế nó đã gây ra cho bạn nhiều đau khổ hơn và hủy hoại hơn trong hình thức của những chiến tranh, đói kém, phân chia giai cấp và hành động tàn ác của những cá thể tách rời. Vì vậy niềm tin của bạn không có giá trị gì cả. Nếu bạn thực sự tin tưởng Thượng đế, nếu nó là một trải nghiệm thực sự cho bạn, vậy thì khuôn mặt của bạn sẽ có một nụ cười; bạn sẽ không hủy diệt những con người.

Bây giờ, sự thật là gì, Thượng đế là gì? Thượng đế không là từ ngữ, từ ngữ không là sự việc. Muốn biết cái không đo lường được, không thuộc thời gian, cái trí phải được tự do khỏi thời gian, mà có nghĩa cái trí phải được tự do khỏi tất cả tư tưởng, khỏi tất cả những ý tưởng về Thượng đế. Bạn biết gì về Thượng đế hay sự thật? Thật ra, bạn không biết bất kỳ điều gì về sự thật đó. Tất cả mọi điều bạn biết là những từ ngữ, những trải nghiệm của những người khác hay vài khoảnh khắc nào đó của những trải nghiệm khá mơ hồ của riêng bạn. Chắc chắn đó không là Thượng đế, đó không là sự thật, đó không vượt khỏi lãnh vực của thời gian. Muốn biết cái vượt khỏi thời gian, qui trình của thời gian phải được hiểu rõ, thời giantư tưởng, qui trình của trở thành, sự tích lũy của hiểu biết. Đó là toàn nền tảng của cái trí; chính cái trí là nền tảng, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn tầng ý thức bên trong, cả ý thức tập thể lẫn ý thức cá thể. Vì vậy cái trí phải được tự do khỏi cái đã được biết, mà có nghĩa rằng cái trí phải hoàn toàn yên lặng, không phải làm cho yên lặng. Cái trí đạt được yên lặng như một kết quả, như một kết quả của hành động được khẳng định, của luyện tập, của kỷ luật, không là một cái trí yên lặng. Cái trí bị ép buộc, bị kiểm soát, bị định hình, bị đặt vào cái khung và bị thúc giục yên lặng, không là cái trí yên lặng. Yên lặng hiện diện chỉ khi nào bạn hiểu rõ toàn qui trình của tư tưởng, bởi vì hiểu rõ qui trình là kết thúc nó và kết thúc qui trình của tư tưởng là khởi đầu của yên lặng.

Chỉ khi nào cái trí yên lặng hoàn toàn không chỉ tại tầng bên ngoài nhưng cơ bản, xuyên thấu, cả tầng bên ngoài lẫn những tầng sâu thẳm hơn của ý thức – chỉ lúc đó cái không biết được mới hiện diện. Cái không biết được không là cái gì đó để được trải nghiệm bởi cái trí, yên lặng, một mình nó, có thể được trải nghiệm, không có gì cả ngoại trừ yên lặng. Nếu cái trí trải nghiệm bất kỳ điều gì khác với yên lặng, nó chỉ đang chiếu rọi những ham muốn riêng của nó và một cái trí như thế không yên lặng, chừng nào cái trí còn không yên lặng, chừng nào tư tưởng trong bất kỳ hình thức nào, có ý thức hay không-ý thức, còn đang chuyển động, không thể có yên lặng. Yên lặng là sự tự do khỏi quá khứ, khỏi hiểu biết, khỏi cả ký ức bên ngoài lẫn ký ức bên trong; khi cái trí hoàn toàn yên lặng, không đang vận dụng, khi có yên lặng mà không là một sản phẩm của sự nỗ lực, chỉ lúc đó cái không-thời gian, cái vĩnh hằng hiện diện. Trạng thái đó không là một trạng thái của ghi nhớ – không có thực thể mà ghi nhớ, mà trải nghiệm.

Vì vậy Thượng đế hay sự thật hay điều gì bạn muốn là sự việc mà hiện diện từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và nó xảy ra chỉ trong một trạng thái tự do và tự phát, không phải khi cái trí bị kỷ luật theo một khuôn mẫu. Thượng đế không là một sự việc của cái trí, nó không đến qua tự-chiếu rọi, nó hiện diện chỉ khi nào có đạo đức, mà là tự do. Đạo đức là đang đối diện với sự kiện của cái gì là và đang đối diện với sự kiện là một trạng thái của hạnh phúc. Chỉ khi nào cái trí được hạnh phúc, yên lặng, không có bất kỳ chuyển động của riêng nó, không có sự chiếu rọi của tư tưởng, có ý thức hay không-ý thức – chỉ lúc đó vĩnh hằng mới hiện diện.

17- VỀ KÝ ỨC 

Câu hỏi: Ông nói rằng, ký ức, là trải nghiệm không trọn vẹn. Tôi có một ký ức và một ấn tượng rõ ràng về những buổi nói chuyện trước đây của ông. Trong ý nghĩa gì nó là một hành động không trọn vẹn? Làm ơn giải thích tường tận ý tưởng này.

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ ký ức? Bạn đi học và đầy những sự kiện, hiểu biết thuộc kỹ thuật. Nếu bạn là một kỹ sư, bạn sử dụng ký ức của hiểu biết kỹ thuật để xây dựng một cây cầu. Đó là ký ức thực tế. Cũng có ký ức thuộc tâm lý. Bạn đã nói điều gì đó cho tôi, dễ chịu hay khó chịu, và tôi lưu giữ nó; lần tới khi tôi gặp bạn, tôi gặp bạn bằng ký ức đó, ký ức về điều gì bạn đã nói hay đã không nói. Có hai khía cạnh đối với ký ức, khía cạnh tâm lý và khía cạnh thực tế. Chúng luôn luôn có liên hệ với nhau, vì vậy không rõ rệt. Chúng ta biết ký ức thực tếcần thiết như một phương tiện để kiếm sống, nhưng ký ức tâm lýcần thiết hay không? Nhân tố giữ lại ký ức tâm lý là gì? Thuộc tâm lý điều gì làm cho người ta nhớ lại sự sỉ nhục lẫn ngợi khen? Tại sao người ta giữ lại những ký ức nào đó và loại bỏ những ký ức khác? Rõ ràng người ta giữ lại những ký ức gây vui thú và lẩn tránh những ký ức gây bực bội. Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng những ký ức đau khổ bị gạt đi mau lẹ hơn những ký ức vui thú. Cái trí là ký ức, ở bất kỳ mức độ nào, ở bất kỳ cái tên nào bạn gọi nó; cái trí là sản phẩm của quá khứ, nó được thành lập dựa vào quá khứ, mà là ký ức, một trạng thái bị quy định. Bây giờ bằng ký ức đó chúng ta gặp gỡ sống, chúng ta gặp gỡ một thách thức mới. Thách thức luôn luôn mới mẻ và phản ứng của chúng ta luôn luôn cũ kỹ, bởi vì nó là kết quả của quá khứ. Vì vậy trải nghiệm không-ký ức là một trạng thái và trải nghiệm có-ký ức là một trạng thái khác. Đó là có một thách thức mà luôn luôn mới mẻ. Tôi gặp gỡ nó bằng một phản ứng, bằng tình trạng bị quy định của cái cũ kỹ. Vì vậy điều gì xảy ra? Tôi thẩm thấu cái mới mẻ, tôi không hiểu rõ nó; và trải nghiệm cái mới mẻ bị quy định bởi quá khứ. Vì vậy có một hiểu rõ từng phần về cái mới mẻ, không bao giờ có hiểu rõ trọn vẹn. Chỉ khi nào có hiểu rõ trọn vẹn về bất kỳ sự việc gì, nó mới không để lại dấu vết nào của ký ức.

Khi có một thách thức, mà luôn luôn mới mẻ, bạn gặp gỡ nó bằng phản ứng của cái cũ kỹ. Phản ứng cũ kỹ quy định cái mới mẻ và vì vậy biến dạng nó, cho nó một thành kiến vì vậy không có hiểu rõ trọn vẹn về cái mới mẻ, đến độ cái mới mẻ bị thẩm thấu vào cái cũ kỹtùy theo đó củng cố cái cũ kỹ. Điều này dường như trừu tượng nhưng nó không khó khăn nếu bạn tìm hiểu nó kỹ lưỡng và cẩn thận. Vào lúc này tình huống trong thế giới cần đến một tiếp cận mới mẻ, một cách giải quyết mới mẻ vấn đề thế giới, mà luôn luôn mới mẻ. Chúng ta không thể tiếp cận nó mới mẻ lại bởi vì chúng ta tiếp cận nó bằng những cái trí bị quy định của chúng ta, bởi những thành kiến thuộc quốc gia, địa phương, gia đìnhtôn giáo. Những trải nghiệm có trước của chúng ta đang hành động như một cản trở đến hiểu rõ về thách thức mới mẻ, vì vậy chúng ta tiếp tục vun quén và củng cố ký ức và vì vậy chúng ta không bao giờ hiểu rõ cái mới mẻ, chúng ta không bao giờ gặp gỡ thách thức một cách nguyện vẹn, trọn vẹn. Chỉ khi nào người ta có thể gặp gỡ thách thức mới mẻ lại, trong sáng lại, mà không có quá khứ, chỉ khi đó nó mới sinh ra hoa trái của nó, sự phong phú của nó.

Người hỏi nói rằng, ‘Tôi có một ký ức và một ấn tượng rõ ràng về những nói chuyện trước đây của ông. Trong ý nghĩ nào nó là một trải nghiệm không-trọn vẹn?’ Chắc chắn, nó là một trải nghiệm không-trọn vẹn nếu nó chỉ là một ấn tượng, một ký ức. Nếu bạn hiểu rõ điều gì đã được nói, thấy được sự thật của nó, sự thật đó không là một ký ức. Sự thật không là một ký ức, bởi vì sự thật luôn luôn mới mẻ, luôn luôn đang tự-thay đổi chính nó. Bạn có một ký ức về nói chuyện lần trước. Tại sao? Bởi vì bạn đang sử dụng nói chuyện lần trước như một hướng dẫn, bạn không hiểu rõtrọn vẹn. Bạn muốn thâm nhập vào nó, và có-ý thức hay không-ý thức nó đang được duy trì. Nếu bạn hiểu rõ trọn vẹn cái gì đó, đó là thấy sự thật của cái gì đó một cách ‘tổng thể’, bạn sẽ phát giác không có ký ức nào cả. Giáo dục của chúng ta là sự vun quén của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hànhnghi lễ tôn giáo của bạn, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả đều là sự củng cố của ký ức. Chúng ta có ý gì qua việc đó? Tại sao chúng ta bám vào ký ức? Tôi không biết liệu bạn đã nhận thấy điều đó, khi người ta lớn lên, người ta quay trở lại với quá khứ, vào những hân hoan của nó, vào những đau khổ của nó, vào những vui thú của nó; nếu người ta còn trẻ người ta hướng về tương lai. Tại sao chúng ta đang làm điều này? Tại sao ký ức đã trở thành quá quan trọng? Vì lý do rõ ràngđơn giản rằng chúng ta không biết làm thế nào để sống trọn vẹn, tổng thể trong hiện tại. Chúng ta đang sử dụng hiện tại như một phương tiện dẫn đến tương lai và vì vậy hiện tại không còn ý nghĩa. Chúng ta không thể sống trong hiện tại bởi vì chúng ta đang sử dụng hiện tại như một con đường dẫn đến tương lai. Bởi vì tôi sẽ trở thành cái gì đó, không bao giờ có một hiểu rõ trọn vẹn về chính tôi, và hiểu rõ về chính tôi, điều gì tôi chính xác là ngay lúc này, không cần đến sự vun quén của ký ức. Trái lại, ký ức là một cản trở cho hiểu rõ về cái gì là. Tôi không biết bạn đã nhận ra rằng một tư tưởng mới mẻ, một cảm thấy mới mẻ, chỉ hiện diện khi cái trí không bị trói buộc trong mạng lưới của ký ức. Khi có một khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ, giữa hai ký ức, khi khoảng ngừng đó có thể được duy trì, vậy thì từ khoảng ngừng đó một trạng thái mới mẻ hiện diện mà không còn là ký ức nữa. Chúng ta có những ký ức và chúng ta vun quén ký ức như những phương tiện của sự tiếp tục. ‘Cái tôi’ và ‘cái của tôi’ trở nên rất quan trọng chừng nào sự vun quén của ký ức còn tồn tại, và bởi vì hầu hết chúng ta được tạo thành của ‘cái tôi’ và của ‘cái của tôi’, ký ức đóng một vai trò rất quan trọng trong sống của chúng ta. Nếu bạn không có ký ức, tài sản của bạn, gia đình của bạn, những ý tưởng của bạn, sẽ không còn quan trọng như thế nữa; vì vậy để củng cố sức mạnh cho ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, bạn vun quén ký ức. Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng có một khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ, giữa hai cảm giác. Trong khoảng ngừng đó, mà không là sản phẩm của ký ức, có một tự do lạ thường khỏi ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’ và khoảng ngừng đó là không-thời gian.

Chúng ta hãy nhìn vấn đề một cách khác. Chắc chắn, ký ức là thời gian, đúng chứ? Ký ức tạo ra ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai. Ký ức của ngày hôm qua quy định ngày hôm nay và vì vậy định hình ngày mai. Đó là quá khứ qua hiện tại tạo ra tương lai. Có một qui trình thời gian đang xảy ra, mà là ý muốn để trở thành. Ký ức là thời gian, và qua thời gian chúng ta muốn đạt được một kết quả. Hôm nay tôi là người thư ký và, nếu cho tôi thời gian và cơ hội, tôi sẽ trở thành người giám đốc hay ông chủ. Vì vậy tôi phải có thời gian, và với tinh thần như vậy chúng ta nói rằng, ‘Tôi sẽ đạt được sự thật, tôi sẽ tiếp cận được Thượng đế’. Vì vậy tôi phải có thời gian để nhận ra, mà có nghĩa tôi phải vun quén ký ức, củng cố ký ức qua luyện tập, qua sự kỷ luật để là cái gì đó, để thành tựu, để kiếm được, mà có nghĩa tiếp tục trong thời gian. Qua thời gian chúng ta hy vọng thành tựu cái không-thời gian, qua thời gian chúng ta hy vọng kiếm được cái vĩnh hằng. Bạn có thể làm được việc đó hay sao? Bạn có thể nắm bắt được cái vĩnh hằng trong mạng lưới thời gian, qua ký ức, mà thuộc thời gian hay sao? Cái không-thời gian chỉ có thể hiện diện khi ký ức, mà là ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, kết thúc. Nếu bạn thấy sự thật của điều đó – rằng qua thời gian cái không-thời gian không thể được hiểu rõ hay được thâu nhận – vậy thì chúng ta có thể tìm hiểu vấn đề của ký ức. Ký ức của những sự kiện kỹ thuật là cần thiết; nhưng ký ức thuộc tâm lýduy trì cái ngã, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, mà cho sự nhận dạng và tự-tiếp tục, hoàn toàn gây hủy hoại cho sống và cho sự thật. Khi người ta thấy sự thật của điều đó, điều giả dối rơi rụng ngay; vì vậy không còn lưu trữ lại thuộc tâm lý của trải nghiệm ngày hôm qua.

 Bạn thấy cảnh hoàng hôn diễm ảo, một cái cây dễ thương trong cánh đồng khi lần đầu tiên bạn bắt gặp nó, bạn tận hưởng nó trọn vẹn, tổng thể; nhưng bạn quay lại nó với ham muốn tận hưởng nó lần nữa. Điều gì xảy ra khi bạn quay lại nó với ham muốn tận hưởng nó? Không còn tận hưởng, bởi vì chính là ký ức của cảnh hoàng hôn ngày hôm qua mà bây giờ bạn đang hồi tưởng, ký ức đang xô đẩy, đang thúc giục bạn để tận hưởng. Ngày hôm qua không có ký ức, chỉ có một tận hưởng tự phát, một đáp trả trực tiếp; ngày hôm nay bạn ham muốn nắm bắt lại trải nghiệm của ngày hôm qua. Đó là, ký ức đang ngăn cản giữa, bạn và hoàng hôn, vì vậy không có tận hưởng, không có sự phong phú, sự trọn vẹn của vẻ đẹp. Lại nữa, bạn có một người bạn, mà nói điều gì đó với bạn ngày hôm qua, một lời sỉ nhục hay ngợi khen và bạn lưu trữ ký ức đó; cùng ký ức đó ngày hôm nay bạn gặp lại người bạn của bạn. Bạn thực sự không gặp gỡ người bạn của bạn – bạn mang cùng với bạn ký ức của ngày hôm qua, mà ngăn cản. Vì vậy chúng ta tiếp tục, vây quanh chính chúng ta và những hành động của chúng ta bằng ký ức, và vì vậy không có trạng thái mới mẻ, không có trạng thái trong sáng. Đó là lý do tại sao ký ức làm cho sống đờ đẫn, chán ngán và trống rỗng. Chúng ta sống trong thù địch lẫn nhau bởi vì ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’ được củng cố qua ký ức. Ký ức đi vào sống qua hành động trong hiện tại; chúng ta cho sống đi vào ký ức qua hiện tại nhưng khi chúng ta không cho sống đi vào ký ức, nó tan biến đi. Ký ức về những sự kiện, về những sự việc thuộc kỹ thuật, là một cần thiết rõ ràng, nhưng ký ức như một lưu trữ thuộc tâm lý gây hư hại cho hiểu rõ về sống, sự hiệp thông lẫn nhau.

18- CHỊU THUA ‘CÁI GÌ LÀ’ 

Câu hỏi: Điều gì là sự khác biệt giữa cho phép ý muốn của Thượng đế chi phốiý tưởng ông đang nói về sự chấp nhận cái gì là?

Krishnamurti: Chắc chắn có một khác biệt vô cùng, phải không? Cho phép ý muốn của Thượng đế chi phối hàm ý rằng bạn biết ý muốn của Thượng đế rồi. Bạn không đang chấp nhận điều gì đó mà bạn không biết. Nếu bạn biết sự thật, bạn không thể chấp nhận nó; bạn không còn ‘hiện diện’; không có sự chấp nhận đến một ý muốn cao hơn. Nếu bạn đang chấp nhận một ý muốn cao hơn, vậy thì ý muốn cao hơn đó là sự chiếu rọi của chính bạn; bởi vì sự thật không thể biết được qua cái đã được biết. Nó hiện diện chỉ khi nào cái đã được biết không còn hiện diện. Cái đã được biết là một tạo tác của cái trí, bởi vì tư tưởng là kết quả của cái đã được biết, của quá khứ, và tư tưởng chỉ có thể tạo ra cái gì nó biết; vì vậy cái gì nó biết không là cái vĩnh hằng. Đó là lý do tại sao khi bạn chấp nhận ý muốn của Thượng đế, bạn đang chấp nhận những chiếu rọi riêng của bạn; nó có lẽ gây thỏa mãn, gây thanh thản nhưng nó không là sự thật.

Muốn hiểu rõ cái gì là cần một tiến hành khác hẳn – có lẽ từ ngữ ‘tiến hành’ không đúng nhưng điều gì tôi có ý nói là như thế này: muốn hiểu rõ cái gì là còn khó khăn hơn nhiều, nó cần thông minh nhiều, tỉnh thức nhiều, hơn là chỉ chấp nhận hay giao phó bạn cho một ý tưởng. Hiểu rõ cái gì là không cần nỗ lực; nỗ lực là một xao nhãng. Muốn hiểu rõ cái gì đó, muốn hiểu rõ cái gì là bạn không thể bị xao nhãng, đúng chứ? Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn đang nói gì tôi không thể lắng nghe nhạc, tiếng ồn của những người bên ngoài, tôi phải trao toàn chú ý của tôi vào nó. Vẫn vậy tỉnh thức được cái gì là là một khó khăn và một gian lao cực kỳ, bởi vì chính suy nghĩ của chúng ta trở thành một xao nhãng. Chúng ta không muốn hiểu rõ cái gì là. Chúng ta quan sát cái gì là qua lăng kính của thành kiến, của chỉ trích hay của nhận dạng, và rất gian lao để tháo bỏ cặp kính này và nhìn ngắm cái gì là. Chắc chắn cái gì là là một sự kiện, là sự thật, và tất cả cái khác là một tẩu thoát, không là sự thật. Muốn hiểu rõ cái gì là, xung đột của phân hai phải kết thúc, bởi vì phản ứng tiêu cực của trở thành cái gì đó khác hơn cái gì là là khước từ hiểu rõ cái gì là. Nếu tôi muốn hiểu rõ sự hung hăng tôi không được đi vào cái đối nghịch, tôi phải không bị xao nhãng bởi nỗ lực của trở thành hay thậm chí bởi nỗ lực của cố gắng hiểu rõ cái gì là. Nếu tôi hung hăng, điều gì xảy ra? Nếu tôi không đặt tên cho sự hung hăng, nó kết thúc; mà có nghĩa rằng trong chính vấn đề là đáp án và không phải rời khỏi. 

Nó không là vấn đề của chấp nhận cái gì là; bạn không chấp nhận cái gì là, bạn không chấp nhận rằng bạn da nâu hay da trắng, bởi vì nó là một sự kiện; chỉ khi nào bạn đang cố gắng trở thành cái gì khác, bạn phải chấp nhận. Khoảnh khắc bạn chấp nhận một sự kiện, nó không còn có bất kỳ ý nghĩa nào; nhưng một cái trí được đào tạo để suy nghĩ về quá khứ hay về tương lai, được đào tạo để chạy trốn khỏi vô số phương hướng khác biệt, một cái trí như thế không thể hiểu rõ cái gì là. Nếu khônghiểu rõ cái gì là bạn không thể tìm ra sự thật, và nếu khônghiểu rõ đó sống không còn ý nghĩa, sống là một chiến đấu liên tục trong đó đau khổphiền muộn tiếp tục. Sự thật chỉ có thể được hiểu rõ bằng cách hiểu rõ cái gì là. Nó không thể được hiểu rõ nếu có bất kỳ phê bình hay nhận dạng nào. Cái trí mà luôn luôn đang phê bình hay đang nhận dạng không thể hiểu rõ; nó chỉ có thể hiểu rõ những vấn đề mà nó bị trói buộc trong đó. Hiểu rõ cái gì là, tỉnh thức được cái gì là, phơi bày những chiều sâu lạ thường, mà trong đó là sự thật, hạnh phúchân hoan

19- VỀ CẦU NGUYỆNTHIỀN ĐỊNH 

Câu hỏi: Sự ao ước được bày tỏ trong cầu nguyện không là một con đường dẫn đến Thượng đế hay sao? 

Krishnamurti: Trước hết, chúng ta sẽ tìm hiểu những vấn đề được chứa đựng trong câu hỏi này. Trong nó có hàm ý lời cầu nguyện, tập trung là thiền định. Bây giờ bạn có ý gì qua từ ngữ cầu nguyện? Trước hết trong cầu nguyện có sự thỉnh cầu, sự khẩn khoản đến điều gì bạn gọi là Thượng đế, sự thật. Bạn, như một cá thể, đang đòi hỏi, đang thỉnh cầu, đang nài nỉ, đang tìm kiếm sự hướng dẫn từ cái gì đó mà bạn gọi là Thượng đế; bởi vì tiếp cận của bạn là một tiếp cận của tìm kiếm một phần thưởng, tìm kiếm một thỏa mãn. Bạn đang gặp phiền muộn, thuộc quốc gia hay cá thể, và bạn cầu nguyện để có được sự hướng dẫn; hay bạn bị hoang mang và bạn nài nỉ sự rõ ràng, bạn tìm kiếm trợ giúp đến điều gì bạn gọi là Thượng đế. Trong việc này được hàm ý rằng Thượng đế, dù Thượng đế có lẽ là gì chăng nữa – chúng ta không bàn luận điều đó trong lúc này – sắp sửa khai quang sự hoang mang mà bạn và tôi đã tạo tác. Rốt cuộc, chính là chúng ta đã tạo ra sự hoang mang, sự đau khổ, sự hỗn loạn, sự chuyên chế kinh hoàng, không có tình yêu, và chúng ta muốn cái gì chúng ta gọi là Thượng đế khai quang nó. Nói cách khác, chúng ta muốn sự hoang mang của chúng ta, sự đau khổ của chúng ta, sự phiền muộn của chúng ta, sự xung đột của chúng ta, được khai quang bởi một ai đó, chúng ta thỉnh cầu một người khác mang đến ánh sáng và hạnh phúc cho chính chúng ta

Bây giờ khi bạn cầu nguyện, khi bạn nài nỉ, thỉnh cầu cái gì đó, thông thường nó hiện diện. Khi bạn xin, bạn nhận; nhưng điều gì bạn nhận được không tạo ra trật tự, bởi vì điều gì bạn nhận được không mang lại sự rõ ràng, hiểu rõ. Nó chỉ gây hài lòng, trao tặng sự thỏa mãn nhưng không tạo ra hiểu rõ, bởi vì, khi bạn đòi hỏi, bạn nhận được điều mà bạn tự-chiếu rọi. Làm thế nào, sự thật, Thượng đế, có thể đáp lại đòi hỏi riêng biệt của bạn? Làm thế nào cái vô hạn, cái không lời, có thể liên quan đến những lo âu, những đau khổ, những hoang mang nhỏ nhoi tầm thường của chúng ta, mà chính chúng ta đã tạo ra? Vì vậy cái gì trả lời? Chắc chắn, cái vô hạn không thể trả lời cái có hạn, cái nhỏ nhoi, cái tầm thường. Nhưng cái gì trả lời? Tại khoảnh khắc khi chúng ta cầu nguyện chúng ta tương đối yên lặng, trong một trạng thái của thâu nhận; lúc đó tầng ý thức bên trong riêng của chúng ta mang lại một rõ ràng tích tắc. Bạn muốn cái gì đó, bạn đang mong ước nó, và trong khoảnh khắc của mong ước, của nài nỉ khẩn thiết, bạn hơi hơi thâu nhận, cái trí tầng ý thức bên ngoài náo động của bạn tương đối yên lặng, vì vậy cái trí tầng ý thức bên trong tự-chiếu rọi chính nó vào cái đó và bạn có một câu trả lời. Chắc chắn nó không là câu trả lời từ sự thật, từ cái không đo lường được – nó là phản ứng của ý thức bên trong riêng của bạn. Vì vậy chúng ta hãy đừng bị lẫn lộn và nghĩ rằng khi lời cầu nguyện của bạn được đáp lại bạn đang trong liên hệ cùng sự thật. Sự thật phải đến với bạn; bạn không thể đến với nó.

Trong vấn đề cầu nguyện này có một nhân tố khác được bao hàm: phản ứng của cái đó mà chúng ta gọi là tiếng nói bên trong. Như tôi đã nói, khi cái trí đang van xin, đang khẩn khoản, nó tương đối yên lặng; khi bạn nghe tiếng nói bên trong, nó là tiếng nói riêng của bạn đang tự-chiếu rọi chính nó vào cái trí tương đối yên lặng đó. Lại nữa, làm thế nào nó có thể là tiếng nói của sự thật? Một cái trí bị hoang mang, dốt nát, khao khát, đòi hỏi, van xin, làm thế nào nó có thể hiểu rõ sự thật? Cái trí có thể thâu nhận sự thật chỉ khi nào nó tuyệt đối yên lặng, không đang đòi hỏi, không đang khao khát, không đang ao ước, không đang xin xỏ, dù cho chính bạn, cho quốc gia hay cho một người nào khác. Khi cái trí tuyệt đối yên lặng, khi ham muốn không còn, chỉ đến lúc đó sự thật hiện diện. Một người đang đòi hỏi, đang thỉnh cầu, đang xin xỏ, đang ao ước tìm kiếm phương hướng sẽ tìm được điều gì anh ấy tìm kiếm nhưng nó sẽ không là sự thật. Điều gì anh ấy nhận được sẽ là sự phản ứng của những tầng ý thức bên trong của cái trí riêng của anh ấy mà tự-chiếu rọi chính chúng ra tầng ý thức bên ngoài; tiếng nói nhỏ nhoi, yên lặng mà hướng dẫn anh ấy đó không là sự thật nhưng chỉ là sự phản ứng của tầng ý thức bên trong.

Trong vấn đề cầu nguyện này cũng có vấn đề của tập trung. Với hầu hết chúng ta, tập trung là một qui trình của loại trừ. Tập trung được tạo ra qua nỗ lực, ép buộc, hướng dẫn, bắt chước, và vì vậy tập trung là một qui trình của loại trừ. Tôi quan tâm đến điều tạm gọi là thiền định nhưng tư tưởng của tôi bị xao nhãng, thế là tôi cố định cái trí của tôi vào một bức tranh, một hình ảnh, hay một ý tưởng và loại trừ tất cả những suy nghĩ khác. Qui trình tập trung này, mà là loại trừ, được coi như một phương tiện của thiền định. Đó là điều gì bạn thực hiện, phải không? Khi bạn ngồi xuống để tham thiền, bạn cố định cái trí của bạn vào một từ ngữ, vào một hình ảnh, hay vào một bức tranh nhưng cái trí lại lang thang khắp mọi nơi. Có sự ngắt ngang liên tục của những ý tưởng khác, những suy nghĩ khác, những cảm giác khác và bạn cố gắng đẩy chúng ra xa; bạn lãng phí thời gian của bạn đấu tranh với những suy nghĩ của bạn. Qui trình này bạn gọi là thiền định. Đó là bạn đang cố gắng tập trung vào cái gì đó mà bạn không hứng thú và những suy nghĩ của bạn cứ đang dồn dập, đang gia tăng, đang phá ngang, vì vậy bạn lãng phí năng lượng của bạn trong loại trừ, trong chặn đứng, đẩy ra xa; nếu bạn có thể tập trung vào tư tưởng đã được chọn lựa của bạn, vào một mục tiêu đặc biệt, cuối cùng bạn nghĩ bạn đã thành công trong thiền định. Chắc chắn đó không là thiền định, đúng chứ? Thiền định không là một qui trình loại trừ – loại trừ trong ý nghĩa chặn đứng, dựng lên sự kháng cự chống lại những ý tưởng đang len lỏi vào. Cầu nguyện không là thiền định, và tập trung như loại trừ không là thiền định

Thiền định là gì? Tập trung không là thiền định, bởi vì nơi nào có hứng thú, muốn tập trung vào cái gì đó là việc tương đối dễ dàng. Một vị tướng đang lên kế hoạch cho chiến tranh, tàn sát, rất tập trung. Một người kinh doanh đang kiếm tiền rất tập trung – thậm chí anh ấy có lẽ còn tàn nhẫn, gạt đi mọi cảm giác khác và tập trung hoàn toàn vào điều gì anh ấy muốn. Một con người hứng thú bất kỳ điều gì có sự tập trung, một cách tự nhiên, tự nguyện. Sự tập trung như thế không là thiền định, nó chỉ là sự loại trừ.

Vì vậy thiền định là gì? Chắc chắn thiền địnhhiểu rõthiền định cốt lõihiểu rõ. Làm thế nào có thể có được hiểu rõ nếu có sự loại trừ? Làm thế nào có thể có hiểu rõ khi có nài nỉ, van xin? Trong hiểu rõan lành, có tự do; điều mà bạn hiểu rõ, từ điều đó bạn được giải thoát. Chỉ tập trung hay cầu nguyên không mang lại hiểu rõ. Hiểu rõ là chính nền tảng, sự tiến hành cơ bản của thiền định. Bạn không phải chấp nhận từ ngữ của tôi vì nó, nhưng nếu bạn tìm hiểu sự cầu nguyện của bạn và sự tập trung một cách rất tỉ mỉ, sâu sắc, bạn sẽ phát hiện rằng hai điều này không dẫn đến hiểu rõ. Chúng chỉ dẫn đến cố chấp, đến một cố định, đến ảo tưởng. Trái lại thiền định, trong đó có hiểu rõ, mang lại tự do, rõ ràng và sự hoà hợp.

Vậy thì, chúng ta có ý gì qua từ ngữ hiểu rõ? Hiểu rõ có ý rằng cho một ý nghĩa đúng đắn, giá trị đúng đắn, đến tất cả mọi sự việc. Dốt nát là cho những giá trị sai lầm; chính bản chất của sự dốt nát là không-hiểu rõ được những giá trị đúng đắn. Hiểu rõ hiện diện khi có những giá trị đúng đắn, khi những giá trị đúng đắn được thiết lập. Và làm thế nào người ta thiết lập được những giá trị đúng đắngiá trị đúng đắn về tài sản, giá trị đúng đắn về liên hệ, giá trị đúng đắn về những ý tưởng. Muốn những giá trị đúng đắn hiện diện, bạn phải hiểu rõ người suy nghĩ, đúng chứ? Nếu tôi không hiểu rõ người suy nghĩ, mà là chính tôi, điều gì tôi chọn lựa không có ý nghĩa; đó là nếu tôi không biết chính tôi, vậy thì hành động của tôi, tư tưởng của tôi, không có nền tảng gì cả. Vì vậy hiểu rõ về chính mình là sự khởi đầu của thiền định – không phải hiểu biết mà bạn nhặt nhạnh từ những quyển sách của tôi, từ những uy quyền, từ những vị đạo sư, nhưng hiểu rõhiện diện qua tự-thâm nhập, mà là tự-tỉnh thức. Thiền định là sự khởi đầu của hiểu rõ về chính mình, và nếu khônghiểu rõ về chính mình không có thiền định. Nếu tôi không hiểu rõ những phương cách của những tư tưởng của tôi, của những cảm thấy của tôi, nếu tôi không hiểu rõ những động cơ của tôi, những ham muốn của tôi, những đòi hỏi của tôi, sự theo đuổi những khuôn mẫu của hành động của tôi, mà là những ý tưởngnếu không hiểu rõ về chính tôi, không có nền tảng cho suy nghĩ; người suy nghĩ mà chỉ xin xỏ, cầu khẩn, hay loại trừ, mà không hiểu rõ về chính anh ấy, chắc chắn phải chấm dứt trong hoang mang, trong ảo tưởng

Sự khởi đầu của thiền địnhhiểu rõ về chính mình, mà có nghĩa rằng tỉnh thức được mỗi chuyển động của tư tưởngcảm thấy, biết tất cả những tầng ý thức của tôi, không chỉ những tầng trên bề mặt mà còn những tầng giấu giếm, những hoạt động sâu thẳm bị che kín. Muốn biết được những hoạt động sâu thẳm bị che kín, những động cơ giấu giếm, những phản ứng, những tư tưởng và những cảm thấy, phải có sự yên lặng trong cái trí tầng ý thức bên ngoài; đó là tầng ý thức bên ngoài phải yên lặng để thâu nhận sự chiếu rọi của tầng ý thức bên trong. Tầng ý thức bên ngoài, bề mặt bị bận rộn bởi những hoạt động hàng ngày của nó, bởi việc kiếm sống, lừa gạt những người khác, trục lợi những người khác, chạy trốn khỏi những vấn đề – tất cả những hoạt động hàng ngày của sự tồn tại của chúng ta. Cái trí bề mặt đó phải hiểu rõ được ý nghĩa đúng đắn của những hoạt động riêng của nó và vì vậy mang lại sự yên lặng cho chính nó. Nó không thể mang lại sự yên lặng, sự yên ổn bằng sự tổ chức, bằng sự ép buộc, bằng sự kỷ luật. Nó có thể mang lại yên lặng, an lành, yên ổn, chỉ bằng cách hiểu rõ được những hoạt động của riêng nó, bằng cách quan sát chúng, bằng cách tỉnh thức được chúng, bằng cách thấy được sự hung bạo riêng của nó, nó nói như thế nào với người giúp việc, với người vợ, với người con gái, với người mẹ và vân vân. Khi cái trí hời hợt phía bên ngoài tỉnh thức được trọn vẹn tất cả những hoạt động của nó, qua hiểu rõ đó trở thành yên lặng một cách tự phát, không bị gây mê bởi sự cưỡng bách hay bị thống trị bởi ham muốn; vậy thì nó ở trong một vị trí để thâu nhận những hàm ý, những ám chỉ của tầng ý thức bên trong, của nhiều, nhiều tầng giấu giếm của cái trí – những bản năng chủng tộc, những kỷ niệm bị chôn giấu, những theo đuổi được che đậy, những vết thương sâu thẳm mà vẫn chưa chữa trị được. Chỉ khi nào tất cả điều này đã được tự-chiếu rọi và được hiểu rõ, khi toàn ý thức không bị chất đầy, không bị trói buộc bởi bất kỳ tổn thương nào, bởi bất kỳ kỷ niệm nào, vậy là nó ở trong một vị trí để thâu nhận cái vĩnh cửu.

Thiền địnhhiểu rõ về chính mình, và nếu không hiểu rõ về chính mình không có thiền định. Nếu bạn luôn luôn không tỉnh thức được tất cả những phản ứng của bạn, nếu bạn không ý thức trọn vẹn, nhận biết được những hoạt động hàng ngày của bạn, chỉ giam chính mình trong một căn phòng và ngồi trước một bức ảnh của vị đạo sư của bạn, vị thầy của bạn, để tham thiền, là một tẩu thoát, bởi vì nếu khônghiểu rõ về chính mình không có suy nghĩ đúng đắn và, nếu khôngsuy nghĩ đúng đắn, điều gì bạn làm không có ý nghĩa, dù những dự tính của bạn có cao quí chừng nào. Vẫn vậy, cầu nguyện không có ý nghĩa nếu khônghiểu rõ về chính mình, nhưng khi có hiểu rõ về chính mình có suy nghĩ đúng đắn và thế là hành động đúng đắn. Khi có hành động đúng đắn không có hoang mang, và vì vậy không có van xin một ai đó dẫn bạn thoát khỏi nó. Một con người tỉnh thức trọn vẹnthiền định; anh ấy không cầu nguyện bởi vì anh ấy không muốn thứ gì cả. Qua cầu nguyện, qua quy định, qua lặp lại, và tất cả mọi chuyện như thế, bạn có thể tạo ra một yên lặng nào đó, nhưng đó chỉ là sự đờ đẫn, làm yếu ớt cái trí và tâm hồn đến một trạng thái dật dờ. Nó đang gây mê cái trí; và sự loại trừ, mà bạn gọi là tập trung, không dẫn đến sự thật – không loại trừ nào có thể thực hiện được việc đó. Điều gì mang lại hiểu rõhiểu rõ về chính mình. Và nếu có ý định đúng đắn, sự tỉnh thức sẽ không khó khăn lắm. Nếu bạn hứng thú muốn khám phá toàn qui trình về chính bạn – không chỉ phần bề mặt nhưng toàn qui trình thuộc toàn thân tâm của bạn – vậy thìtương đối dễ dàng. Nếu bạn thực sự muốn biết về chính bạn, bạn sẽ lật tung khắp tâm hồn của bạn và cái trí của bạn để biết được toàn nội dung của nó và khi có ý định để biết, bạn sẽ biết. Vậy thì bạn có thể theo sát, không chỉ trích hay biện hộ, mọi chuyển động của suy nghĩcảm thấy; bằng cách theo sát mọi suy nghĩ và mọi cảm thấy khi nó nảy sinh, bạn sáng tạo sự yên lặng mà không bị cưỡng bách, không bị quy định, nhưng là kết quả của không có vấn đề, không có mâu thuẫn. Nó giống như cái ao mà trở nên an lành, lặng lẽ, vào bất kỳ chiều tối nào không có gió; khi cái trí đứng yên, lúc đó cái không thể đo lường hiện diện.

20- VỀ CÁI TRÍ TẦNG Ý THỨC BÊN NGOÀI VÀ BÊN TRONG 

Câu hỏi: Cái trí tầng ý thức bên ngoài là dốt nát và sợ hãi cái trí tầng ý thức bên trong. Ông đang diễn giảng chủ yếu về cái trí tầng ý thức bên ngoài và từng đó đủ chưa? Phương pháp của ông sẽ mang lại sự giải phóng của tầng ý thức bên trong? Làm ơn giải thích cặn kẽ làm thế nào người ta có thể giải quyết được cái trí tầng ý thức bên trong một cách trọn vẹn.

Krishnamurti: Chúng ta biết rằng có cái trí tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong nhưng hầu hết chúng ta vận hành chỉ ở mức độ bên ngoài, trong tầng ý thức bên ngoài của cái trí, và theo thực tế toàn sống của chúng ta bị giới hạn vào đó. Chúng ta sống trong tầng tạm gọi là ý thức bên ngoài của cái trí, và chúng ta không bao giờ chú ý đến cái trí tầng ý thức bên trong sâu thẳm hơn mà từ đó thỉnh thoảng có một hàm ý, một ám chỉ ra phía bên ngoài; hàm ý đó bị lơ là, bị biến dạng hay bị giải thích theo những đòi hỏi của ý thức bên ngoài đặc biệt của chúng ta ngay lúc đó. Bây giờ người hỏi nêu ra, ‘Ông đang giảng giải chủ yếu về cái trí tầng ý thức bên ngoài và từng đó đủ chưa?’ Chúng ta xem thử liệu chúng ta có ý gì qua từ ngữ cái trí tầng ý thức bên ngoài. Cái trí tầng ý thức bên ngoài có khác biệt cái trí tầng ý thức bên trong? Chúng ta đã phân chia tầng ý thức bên ngoài khỏi tầng ý thức bên trong; điều này có đúng đắn không? Điều này có thực sự không? Có một phân chia như thế giữa tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong hay sao? Có một rào chắn rõ rệt, một đường ranh nơi tầng ý thức bên ngoài chấm dứt và tầng ý thức bên trong bắt đầu hay sao? Chúng ta biết rằng tầng bên ngoài, cái trí tầng ý thức bên ngoài, là năng động nhưng liệu đó là dụng cụ duy nhấtnăng động suốt ngày hay sao? Nếu tôi chỉ đang giải thích tầng bên ngoài của cái trí, vậy thì chắc chắn điều gì tôi đang nói sẽ không có giá trị, không có ý nghĩa. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều bám vào điều gì cái trí tầng ý thức bên ngoài đã chấp nhận, bởi vì cái trí tầng bên ngoài thấy rằng thuận tiện khi điều chỉnh đến những sự kiện hiển nhiên nào đó; nhưng tầng ý thức bên trong có lẽ phản kháng, và thường phản kháng, và thế là có sự xung đột giữa cái tạm gọi là tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong. 

Vì vậy, vấn đề của chúng ta là điều này, đúng chứ? Thật ra chỉ có một trạng thái, không phải hai trạng thái như ý thức bên ngoài và bên trong; chỉ có một trạng thái tồn tại, mà là ý thức, mặc dù có lẽ bạn phân chia nó như cái bên ngoài và cái bên trong. Nhưng ý thức đó luôn luôn thuộc quá khứ, không bao giờ thuộc hiện tại; bạn chỉ nhận biết được những sự việc đã qua rồi. Bạn ý thức được điều gì tôi cố gắng chuyển tải sau đó một giây, bạn hiểu rõ nó một tích tắc sau đó, đúng chứ? Bạn không bao giờ ý thức được hay tỉnh thức được cái ngay lúc này. Hãy nhìn ngắm tâm hồn và cái trí riêng của bạn, và bạn sẽ thấy rằng ý thức đang vận hành giữa quá khứ và tương lai, và rằng hiện tại chỉ là một đoạn đường của quá khứ dẫn đến tương lai. Vì vậy ý thức là một chuyển động của quá khứ đến tương lai. 

Nếu bạn quan sát cái trí riêng của bạn đang vận hành, bạn sẽ thấy rằng chuyển động đến quá khứ và đến tương lai là một qui trình trong đó hiện tại không hiện diện. Hoặc quá khứ là một phương tiện tẩu thoát khỏi hiện tại, mà có lẽ khó chịu, hoặc tương lai là một hy vọng tẩu thoát khỏi hiện tại. Vì vậy cái trí bị bận rộn bởi quá khứ hay bởi tương lai và loại bỏ hiện tại. Đó là, cái trí bị quy định bởi quá khứ, bị quy định như một người Ấn độ, một người Ba la môn giáo hay một người không-Ba la môn giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Phật giáovân vân, và cái trí bị quy định đó tự-chiếu rọi chính nó vào tương lai; vì vậy nó không bao giờ có thể quan sát một cách trực tiếp và không-thiên lệch vào bất kỳ sự kiện nào. Nó hoặc chỉ trích và phủ nhận sự kiện, hoặc chấp nhậnđồng hóa chính nó cùng sự kiện. Chắc chắn, một cái trí như thế không thể thấy bất kỳ sự kiện nào như một sự kiện. Đó là trạng thái ý thức của chúng ta mà bị quy định bởi quá khứ, và suy nghĩ của chúng ta là sự phản ứng bị quy định đến sự thách thức của một sự kiện; bạn càng phản ứng tùy theo tình trạng bị quy định của niềm tin, của quá khứ nhiều bao nhiêu, càng có sự củng cố của quá khứ nhiều bấy nhiêu. Rõ ràng, sự củng cố của quá khứ đó là sự tiếp tục của chính nó, mà nó gọi là tương lai. Vì vậy, đó là trạng thái cái trí của chúng ta, của ý thức chúng ta – một quả lắc dao động tới lui giữa quá khứ và tương lai. Đó là ý thức của chúng ta, mà được tạo thành từ không chỉ những tầng bên ngoài nhưng còn cả những tầng sâu thẳm bên trong của cái trí. Chắc chắn, ý thức như thế không thể vận hành tại một mức độ khác hẳn, bởi vì nó chỉ biết hai chuyển động tới và lui đó.

Nếu bạn quan sát rất cẩn thận, bạn sẽ thấy rằng nó không là một chuyển động liên tục nhưng có một khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ; mặc dù có lẽ chỉ là một phần tích tắc của một giây, có một khoảng ngừng mà có ý nghĩa trong sự dao động tới và lui của quả lắc. Chúng ta thấy sự kiện rằng suy nghĩ của chúng ta bị quy định bởi quá khứ mà được chiếu rọi vào tương lai; khoảnh khắc bạn chấp nhận quá khứ, bạn cũng phải chấp nhận tương lai, bởi vì không có hai trạng thái như quá khứ và tương lai nhưng một trạng tháibao gồm cả ý thức bên ngoài và ý thức bên trong, cả quá khứ tập thể và quá khứ cá thể. Quá khứ tập thể và quá khứ cá thể, phản ứng đến hiện tại, cho những phản ứng nào đó mà tạo ra ý thức cá thể; vì vậy ý thức là thuộc quá khứ và đó là toàn nền tảng của sự tồn tại của chúng ta. Khoảnh khắc bạn có quá khứ, rõ ràng bạn có tương lai, bởi vì tương lai chỉ là sự tiếp tục của quá khứ được bổ sung nhưng nó vẫn còn là quá khứ, vì vậy vấn đề của chúng ta là làm thế nào tạo ra một thay đổi trong qui trình này của quá khứ mà không tạo tác một tình trạng bị quy định khác, một quá khứ khác.

Nói cách khác, vấn đề là như thế này: hầu hết chúng ta đều phủ nhận một hình thức đặc biệt của bị quy địnhtìm kiếm một hình thức khác, một bị quy định dễ chịu hơn, quan trọng hơn, rộng rãi hơn. Bạn từ bỏ một tôn giáo và thâu nhận một tôn giáo khác, phủ nhận một hình thức của niềm tinchấp nhận một hình thức khác. Rõ ràng, sự thay thế như thế không là hiểu rõ sống, sống là liên hệ. Vấn đề của chúng ta là làm thế nào được tự do khỏi tất cả tình trạng bị quy định. Hoặc bạn nói không thể được, vì không cái trí con người nào đã từng có thể được tự do khỏi tình trạng bị quy định, hoặc bạn bắt đầu thử nghiệm, tìm hiểu, khám phá. Nếu bạn khẳng định rằng điều đó không thể được, rõ ràng bạn không còn theo đuổi. Sự khẳng định của bạn có lẽ được đặt nền tảng vào trải nghiệm rộng rãi hay giới hạn, hoặc vào sự chấp nhận duy nhất của một niềm tin; nhưng sự khẳng định như thế là sự phủ nhận của sự thật, của tìm hiểu, của thâm nhập, của khám phá. Muốn tìm ra liệu cái trí có thể hoàn toàn được tự do khỏi tất cả tình trạng bị quy định, bạn phải được tự do để tìm hiểukhám phá.

Bây giờ tôi nói dứt khoát cái trí có thể được tự do khỏi tất cả tình trạng bị quy định – không phải rằng bạn nên chấp nhận uy quyền của tôi. Nếu bạn chấp nhậndo bởi uy quyền, bạn sẽ không bao giờ khám phá, nó sẽ là một thay thế khác và việc đó không có ý nghĩa. Khi tôi nói có thể được, tôi nói nó bởi vì đối với tôi, nó là một sự thật và tôi có thể giải thích nó cho bạn bằng từ ngữ, nhưng nếu bạn muốn tìm ra sự thật về nó cho chính bạn, bạn phải thử nghiệm nó và theo sát nó thật mau lẹ.

Hiểu rõ toàn qui trình của tình trạng bị quy định không đến với bạn qua sự phân tích hay sự tìm hiểu nội tâm; bởi vì khoảnh khắc bạn có người phân tích, chính người phân tích, chính anh ấy là bộ phận của nền tảng quá khứ và thế là sự phân tích của anh ấy không có ý nghĩa. Đó là một sự kiện và bạn phải gạt bỏ nó đi. Người phân tích mà tìm hiểu, mà phân tích sự việc anh ấy đang quan sát, chính anh ấy là bộ phận của tình trạng bị quy định và thế là bất kỳ giải thích nào của anh ấy, bất kỳ hiểu rõ nào của anh ấy, bất kỳ phân tích nào của anh ấy có lẽ như thế nào, nó vẫn còn là bộ phận của nền tảng quá khứ. Vì vậy bằng cách đó không có sự giải thoát, và phá vỡ nền tảng quá khứ là tối thiết, bởi vì muốn gặp gỡ sự thách thức của mới mẻ, cái trí phải mới mẻ; muốn khám phá Thượng đế, sự thật, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, cái trí phải trong sáng, không bị vấy bẩn bởi quá khứ. Phân tích quá khứ, đến được một kết luận qua một chuỗi của những thử nghiệm, tạo ra những khẳng định và những phủ nhận và mọi việc như thế, hàm ý, trong chính bản thể của nó, sự tiếp tục của nền tảng quá khứ trong những hình thức khác nhau; khi bạn thấy sự thật của sự kiện đó bạn sẽ phát giác rằng người phân tích không còn. Vậy thì không có thực thể tách rời khỏi nền tảng quá khứ: chỉ có tư tưởng như nền tảng quá khứ, tư tưởngphản ứng của ký ức, cả ý thức bên ngoài lẫn ý thức bên trong, cả cá thể lẫn tập thể.

Cái trí là kết quả của quá khứ, mà là qui trình của tình trạng bị quy định. Làm thế nào cái trí có thể được tự do? Muốn được tự do, cái trí phải không chỉ thấy và hiểu rõ sự dao động như quả lắc của nó giữa quá khứ và tương lai mà còn tỉnh thức được khoảng ngừng giữa những suy nghĩ. Khoảng ngừng đó là tự phát, nó không được tạo ra qua bất kỳ thúc đẩy, qua bất kỳ ao ước, qua bất kỳ ép buộc.

Nếu bạn quan sát rất cẩn thận, bạn sẽ thấy rằng mặc dầu phản ứng, chuyển động của suy nghĩ, có vẻ thật mau lẹ, luôn luôn có khoảng trống, khoảng ngừng giữa những suy nghĩ. Giữa hai suy nghĩ có một khoảng yên lặng mà không liên quan đến qui trình của suy nghĩ. Nếu bạn quan sát bạn sẽ thấy rằng khoảng yên lặng đó, khoảng ngừng đó, không thuộc thời gian và sự khám phá khoảng ngừng đó, trải nghiệm trọn vẹn khoảng ngừng đó, giải thoát bạn khỏi tình trạng bị quy địnhhay nói khác đi nó không giải thoát ‘bạn’ nhưng có sự giải thoát khỏi tình trạng bị quy định. Vì vậy hiểu rõ qui trình của suy nghĩthiền định. Lúc này chúng ta không chỉ đang bàn luận cấu trúc và qui trình của suy nghĩ, mà là nền tảng của ký ức, của trải nghiệm, của hiểu biết, nhưng chúng ta cũng đang cố gắng tìm ra liệu cái trí có thể tự-giải thoát chính nó khỏi nền tảng quá khứ. Chỉ khi nào cái trí không đang trao sự tiếp tục cho suy nghĩ, khi nó vẫn còn ở cùng sự yên lặng mà không bị thúc giục, mà không có bất kỳ nguyên nhân nào – chỉ lúc đó có thể có tự do khỏi nền tảng quá khứ.

21- VỀ TÌNH DỤC

Câu hỏi: Chúng ta biết tình dục như một nhu cầu tâm sinh lý không tránh khỏi và dường như nó là nguyên nhân gốc rễ của sự hỗn loạn trong sống cá thể của thế hệ chúng ta. Làm thế nào chúng ta giải quyết được vấn đề này?

Krishnamurti: Tại sao bất kỳ điều gì chúng ta tiếp cận chúng ta đều biến nó thành vấn đề? Chúng ta đã biến Thượng đế thành một vấn đề, chúng ta đã biến tình yêu thành một vấn đề, chúng ta đã biến sự liên hệ, đang sống thành một vấn đề, và chúng ta đã biến tình dục thành một vấn đề? Tại sao? Tại sao mọi thứ chúng ta làm đều là một vấn đề, một kinh hoàng? Tại sao chúng ta đang đau khổ? Tại sao tình dục đã trở thành một vấn đề? Tại sao chúng ta chấp nhận sống cùng những vấn đề, tại sao chúng ta không kết thúc chúng? Tại sao chúng ta không chết đi những vấn đề của chúng ta thay vì mang chúng ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác? Tình dục chắc chắn là một câu hỏi liên quan nhưng có câu hỏi căn bản, tại sao chúng ta biến sống thành một vấn đề? Làm việc, tình dục, kiếm tiền, suy nghĩ, cảm thấy, trải nghiệm – bạn biết rồi, toàn công việc của sống – tại sao nó là một vấn đề? Nhất thiết không phải bởi vì chúng ta luôn luôn suy nghĩ từ một quan điểm đặc biệt, từ một quan điểm cố định hay sao? Chúng ta luôn luôn suy nghĩ từ một trung tâm hướng ra bên ngoài, nhưng bên ngoài là trung tâm đối với hầu hết chúng tavì vậy bất kỳ thứ gì chúng ta tiếp cận đều hời hợt. Nhưng sống không hời hợt; nó đòi hỏi sống trọn vẹn và bởi vì chúng ta chỉ sống hời hợt chúng ta chỉ biết sự phản ứng hời hợt. Bất kỳ điều gì chúng ta làm ở bên ngoài rõ ràng phải tạo ra một vấn đề, và đó là sống của chúng ta: chúng ta sống trên bề mặt và chúng ta mãn nguyện để sống ở đó cùng tất cả những vấn đề của bề mặt. Những vấn đề tồn tại chừng nào chúng ta còn sống trên bề mặt, trên vòng ngoài, cái vòng ngoài là ‘cái tôi’ và những cảm giác của nó, mà có thể được diễn tả thành những từ ngữ hay những hành động hay tồn tại trong cái trí dựa vào những thành kiến cá thể, mà có thể được đồng hóa với vũ trụ, với quốc gia hay với cái gì khác được tạo tác bởi cái trí. 

Chừng nào chúng ta còn sống trong lãnh vực của cái trí, còn phải có những phức tạp, còn phải có những vấn đề; đó là tất cả những điều chúng ta biết. Cái trí là cảm giác, cái trí là kết quả của những cảm giác và những phản ứng được tích lũy, và bất kỳ thứ gì nó tiếp cận chắc chắn phải tạo ra đau khổ, hoang mang, một vấn đề vô tận. Cái trí là nguyên nhân thực sự của những vấn đề của chúng ta, cái trí mà đang làm việc một cách máy móc cả ngày lẫn đêm, có ý thức và không-ý thức. Cái trí là một vật hời hợt nhất và chúng ta đã trải qua những thế hệ, chúng ta đã trải qua toàn sống của chúng ta, đang vun quén cái trí, đang biến nó thành mỗi lúc một khôn lanh hơn, mỗi lúc một tinh vi hơn, mỗi lúc một ma mãnh hơn, mỗi lúc một bất lương và gian ngoan hơn, tất cả việc đó đều hiển hiện trong mọi hoạt động thuộc sống của chúng ta. Chính bản chất cái trí của chúng ta là gian manh, bất lương, không có khả năng đối diện những sự kiện, và đó là mấu chốt mà tạo ra những vấn đề; và đó là mấu chốt mà là chính vấn đề.

Chúng ta có ý gì qua vấn đề của tình dục? Nó là một hành động, hay nó là một suy nghĩ về hành động? Chắc chắn nó không là hành động. Hành động ái ân không là vấn đề đối với bạn, giống như ăn uống không là vấn đề đối với bạn, nhưng nếu bạn suy nghĩ về ăn uống hay bất kỳ việc gì khác suốt ngày bởi vì bạn không có gì để suy nghĩ, nó trở thành một vấn đề đối với bạn. Hành động ái ânvấn đề hay nó là sự suy nghĩ về hành động? Tại sao bạn suy nghĩ về nó? Tại sao bạn tưởng tượng nó, mà rõ ràng bạn đang làm? Những rạp chiếu bóng, những tạp chí, những câu chuyện, cách phụ nữ ăn mặc, mọi thứ đang hình thành sự suy nghĩ về tình dục của bạn. Tại sao cái trí tưởng tượng nó, tại sao cái trí suy nghĩ về tình dục? Tại sao? Tại sao nó đã trở thành một đề tài trọng tâm trong sống của bạn? Khi có quá nhiều sự việc đang kêu gọi, đang cần đến sự chú ý của bạn, bạn trao trọn chú ý của bạn vào sự suy nghĩ về tình dục. Điều gì xảy ra, tại sao những cái trí của các bạn lại quá bận tâm với nó? Bởi vì đó là một cách của tẩu thoát cuối cùng, đúng chứ? Nó là một cách của tự-quên lãng hoàn toàn. Trong thời gian đó, ít nhất trong khoảnh khắc đó, bạn có thể quên bẵng chính mình – và không có cách nào khác để quên bẵng chính mình. Bất kỳ điều gì bạn làm trong sống đều nhấn mạnh đến ‘cái tôi’, đến cái ngã. Việc kinh doanh của bạn, tôn giáo của bạn, thần thánh của bạn, những người lãnh đạo của bạn, những hành động thuộc kinh tế, thuộc chính trị của bạn, những tẩu thoát của bạn, những hoạt động xã hội của bạn, sự gia nhập một đảng này và khước từ một đảng khác – và tất cả việc đó đang củng cố và trao sức mạnh cho ‘cái tôi’. Đó là, chỉ có một hành động duy nhất mà không nhấn mạnh vào ‘cái tôi’, vì vậy tình dục trở thành một vấn đề, đúng chứ? Khi chỉ có một sự việc trong sống của bạn mà là một con đường dẫn đến sự tẩu thoát cuối cùng, đến quên lãng trọn vẹn về chính bạn dầu ước gì chỉ được một vài giây, bạn bám vào nó bởi vì đó là khoảnh khắc duy nhất mà trong đó bạn hạnh phúc. Mỗi vấn đề khác mà bạn tiếp cận đều trở thành một ác mộmg, một nguồn đau khổphiền muộn, vì vậy bạn bám vào một sự việc mà cho bạn sự quên lãng hoàn toàn mà bạn gọi là hạnh phúc. Nhưng khi bạn bám vào nó, nó cũng trở thành một ác mộng, bởi vì sau đó bạn muốn được tự do khỏi nó, bạn không muốn là một nô lệ cho nó. Thế là bạn sáng chế, lại nữa từ cái trí, ý tưởng của trong trắng, của độc thân, và bạn cố gắng sống độc thân, trong trắng, qua sự đè nén, tất cả việc đó là những vận hành của cái trí để tự-cắt đứt chính nó khỏi cái sự kiện ‘tình dục’. Điều này lại nữa cho sự nhấn mạnh đặc biệt vào ‘cái tôi’ mà đang cố gắng trở thành cái gì đó, thế là lại nữa bạn bị trói buộc trong khó nhọc, trong phiền muộn, trong nỗ lực, trong đau khổ.

Tình dục trở thành một vấn đề khó khăn và phức tạp cực kỳ chừng nào bạn còn không hiểu rõ cái trí mà suy nghĩ về vấn đề. Chính hành động không bao giờ có thể là một vấn đề nhưng sự suy nghĩ về hành động tạo ra vấn đề. Hành động bạn bảo vệ; bạn sống phóng đãng, hay buông thả mình trong hôn nhân, vì vậy biến người vợ của bạn thành một gái điếm mà phía bên ngoài thể hiện rất được kính trọng, và bạn thỏa mãn để nó lại ở đó. Chắc chắn vấn đề có thể được giải quyết chỉ khi nào bạn hiểu rõ toàn qui trình của ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’: người vợ của tôi, đứa con của tôi, tài sản của tôi, chiếc xe của tôi, thành tựu của tôi, thành công của tôi; nếu bạn không hiểu rõgiải quyết được tất cả việc đó, tình dục như một vấn đề sẽ tồn tại. Chừng nào bạn còn tham vọng, thuộc chính trị, thuộc tôn giáo, hay trong bất kỳ cách nào khác, chừng nào bạn còn đang nhấn mạnh vào cái tôi, người suy nghĩ, người trải nghiệm, bằng cách nuôi nấng anh ấy trên những tham vọng dù trong danh tánh của chính bạn như một cá thể hay trong cái tên của quốc gia, của đảng phái hay của một ý tưởng mà bạn gọi là tôn giáochừng nào còn có hoạt động của tự-bành trướng này, bạn sẽ có một vấn đề tình dục. Một mặt, bạn đang tạo tác, đang nuôi nấng, đang bành trướng chính bạn, và mặt kia bạn đang cố gắng quên bẵng chính bạn, làm mất chính mình dầu ước gì chỉ trong một khoảnh khắc. Làm thế nào hai cái này có thể cùng nhau tồn tại? Sống của bạn là một mâu thuẫn; sự củng cố ‘cái tôi’ và sự quên bẵng ‘cái tôi’. Tình dục không là một vấn đề; vấn đề là sự mâu thuẫn này trong sống của bạn; và mâu thuẫn không thể được khắc phục bởi cái trí, bởi vì chính cái trí là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn có thể được hiểu rõ chỉ khi nào bạn hiểu rõ trọn vẹn toàn qui trình của sự tồn tại hàng ngày của bạn. Xem chiếu bóng và nhìn ngắm những phụ nữ trên màn ảnh, đọc những quyển sách mà kích thích sự suy nghĩ, những tạp chí với những bức ảnh hở hang, cách bạn nhìn những người phụ nữ, liếc mắt lén lút – tất cả việc này đang khuyến khích cái trí qua những phương cách ranh mãnh để củng cố cái tôi và cùng lúc bạn lại cố gắng tử tế, thương yêu, ân cần. Hai điều này không thể theo cùng nhau. Con người tham vọng, thuộc tinh thần hay cách khác, luôn luôn có một vấn đề, bởi vì những vấn đề kết thúc chỉ khi nào cái tôi được quên bẵng, khi ‘cái tôi’ không-hiện diện, và không-hiện diện của cái tôi không là một hành động của ý chí, nó không là một phản ứng thuần túy. Tình dục trở thành một phản ứng; khi cái trí cố gắng giải quyết vấn đề, nó chỉ làm cho vấn đề hoang mang thêm, rối rắm thêm, đau khổ thêm. Hành động không là vấn đề nhưng cái trí là vấn đề, cái trí mà nói rằng nó phải trong trắng. Trong trắng không thuộc cái trí. Cái trí chỉ có thể đè nén những hoạt động riêng của nó và sự đè nén không là trong trắng. Trong trắng không là một đạo đức, trong trắng không thể được vun quén. Chắc chắn, người đang vun quén khiêm tốn không là một người khiêm tốn; anh ấy có thể gọi sự kiêu ngạo của anh ấy là khiêm tốn, nhưng anh ấy là một người kiêu ngạo, và đó là lý do tại sao anh ấy tìm kiếm để trở thành khiêm tốn. Kiêu ngạo không bao giờ có thể trở thành khiêm tốn và trong trắng không là sự việc của cái trí – bạn không thể trở nên trong trắng. Bạn sẽ biết trong trắng chỉ khi nào có tình yêu, và tình yêu không thuộc cái trí và cũng không là một sự việc của cái trí. 

Vì vậy, vấn đề của tình dụchành hạ quá nhiều người trên khắp thế giới chỉ có thể được giải quyết khi cái trí được hiểu rõ. Chúng ta không thể kết thúc suy nghĩ, nhưng suy nghĩ kết thúc khi người suy nghĩ kết thúc, và người suy nghĩ kết thúc chỉ khi nào có một hiểu rõ về toàn qui trình. Sợ hãi hiện diện khi có sự phân chia giữa người suy nghĩsuy nghĩ của anh ấy; khi không có người suy nghĩ, chỉ đến lúc đó mới không có sự xung đột trong suy nghĩ. Điều gì được hàm ý không cần nỗ lực để hiểu rõ. Người suy nghĩ hiện diện qua suy nghĩ; lúc đó người suy nghĩ tự-tác động vào chính anh ấy để định hình, để kiểm soát những suy nghĩ của anh ấy hay kết thúc chúng. Người suy nghĩ là một thực thể tưởng tượng, một ảo tưởng của cái trí. Khi có một nhận ra về suy nghĩ như một sự kiện, vậy thì không cần thiết phải suy nghĩ về sự kiện. Nếu có sự tỉnh thức không-chọn lựa, đơn giản, vậy thì điều được hàm ý trong sự kiện bắt đầu tự-phơi bày về chính nó. Thế là suy nghĩ như sự kiện kết thúc. Vì vậy bạn sẽ thấy rằng những vấn đề mà đang gậm nhấm tâm hồn và cái trí của chúng ta, những vấn đề của cấu trúc xã hội của chúng ta, có thể được giải quyết. Vậy thì tình dục không còn là vấn đề, nó có vị trí riêng của nó, nó cũng không là một vấn đề ghê tởm và cũng không là một vấn đề trong sạch. Tình dụcvị trí của nó, nhưng khi cái trí cho nó một vị trí thống trị, vậy thìtrở thành một vấn đề. Cái trí cho tình dục một vị trí thống trị bởi vì nó không thể sống mà không có hạnh phúc nào đó, và thế là tình dục trở thành một vấn đề; khi cái trí hiểu rõ toàn qui trình của nó và vì vậy kết thúc, đó là khi suy nghĩ không còn, vậy thìsáng tạo, và chính sáng tạo đó làm cho chúng ta hạnh phúc. Ở trong trạng thái sáng tạo đó là hạnh phúc, bởi vì nó là trạng thái tự-quên lãng về cái tôi mà trong đó không có phản ứng từ cái tôi. Đây không là câu trả lời trừu tượng cho vấn đề hàng ngày của tình dục – nó là đáp án duy nhất. Cái trí phủ nhận tình yêu và nếu không có tình yêu không có trong trắng; chính bởi vì không có tình yêu nên bạn khiến cho tình dục thành một vấn đề

22- VỀ TÌNH YÊU

Câu hỏi: Ông có ý gì qua từ ngữ tình yêu?

Krishnamurti: Chúng ta sẽ khám phá bằng cách hiểu rõ tình yêu không là gì, bởi vì, vì tình yêu là cái không biết được, chúng ta phải đến với nó bằng cách loại bỏ cái đã được biết. Cái không biết được không thể được khám phá bởi cái trí đầy nghẹt cái đã được biết. Điều gì chúng ta đang cố gắng làm là tìm ra những giá trị của cái đã được biết, quan sát cái đã được biết, và khi ‘cái đã được biết’ được nhìn ngắm một cách trong sáng, không-phê bình, cái trí trở nên tự do khỏi cái đã được biết; rồi thì chúng ta sẽ biết tình yêu là gì. Vì vậy chúng ta phải tiếp cận tình yêu một cách tiêu cực, không phải tích cực

Đối với hầu hết chúng ta tình yêu là gì? Khi chúng ta nói chúng ta thương yêu một ai đó, chúng ta có ý gì? Chúng ta có ý chúng ta sở hữu người đó. Từ sự sở hữu đó nảy sinh ghen tuông, bởi nếu tôi mất cô ấy hay anh ấy điều gì xảy ra? Tôi cảm thấy trống rỗng, lạc lõng; vì vậy tôi hợp pháp hóa quyền sở hữu; tôi cột chặt cô ấy hay anh ấy. Từ việc cột chặt, sở hữu con người đó, có ghen tuông, có sợ hãi và tất cả vô số những xung đột mà nảy sinh từ sở hữu. Chắc chắn, sở hữu như thế không là tình yêu, đúng chứ? 

Rõ ràng tình yêu không là cảm giác. Cảm giác, cảm xúc không là tình yêu, bởi vì cảm giáccảm xúc chỉ là những cảm tính. Một con người tôn giáo mà khóc lóc về Jesus hay Krishna, về vị đạo sư của anh ấy, hay một ai khác, chỉ thuộc cảm giác, cảm xúc. Anh ấy đang buông thả trong cảm giác, mà là một qui trình của suy nghĩ, và suy nghĩ không là tình yêu. Suy nghĩ là kết quả của cảm giác, vì vậy con ngườiđa cảm, mà xúc động, không thể biết được tình yêu. Lại nữa, chúng ta không đa cảmxúc động hay sao? Sự đa cảm, sự xúc động, chỉ là một hình thức của tự-bành trướng. Chắc chắn đầy cảm xúc không là tình yêu, bởi vì con người cảm xúc có thể tàn nhẫn khi những tình cảm của anh ấy không được đáp ứng, khi những cảm giác của anh ấy không có nơi tuôn trào. Một con người đa cảm có thể bị kích động đến hận thù, đến chiến tranh, đến tàn sát. Một con người cảm xúc, đầy nước mắt cho tôn giáo của anh ấy, chắc chắn không có tình yêu. 

Tha thứ là tình yêu? Điều gì được hàm ý trong tha thứ? Bạn chỉ trích tôi, và tôi bực bội nó, ghi nhớ nó; vì vậy, hoặc qua ép buộc hoặc qua phẩn uất tôi nói rằng, ‘Tôi tha thứ cho bạn’. Trước hết tôi nhớ lại và sau đó tôi loại bỏ. Mà có nghĩa gì? Tôi vẫn còn là hình bóng trung tâm. Tôi vẫn còn quan trọng, chính là tôi mà đang tha thứ cho ai đó. Chừng nào còn có thái độ tha thứ, chính tôi là người quan trọng, không phải người đã chỉ trích tôi. Thế là khi tôi duy trì sự oán giận và sau đó loại bỏ sự oán giận đó, mà bạn gọi là sự tha thứ, nó không là tình yêu. Một con người thương yêu không có kẻ thù, và đối với tất cả mọi việc anh ấy dửng dưng. Thông cảm, tha thứ, sự liên hệ của sở hữu, ghen tuông và sợ hãi – tất cả những điều này không là tình yêu. Tất cả đều thuộc cái trí, đúng chứ? Chừng nào cái trí còn nắm toàn quyền, không có tình yêu, bởi vì cái trí của bạn phân xử chỉ qua sự sở hữu và sự phân xử của nó chỉ là sự sở hữu trong những hình thức khác nhau. Cái trí chỉ có thể làm hư hỏng tình yêu, nó không thể sinh ra tình yêu, nó không thể sinh ra vẻ đẹp. Bạn có thể sáng tác một bài thơ về tình yêu, nhưng đó không là tình yêu.

Rõ ràng, không có tình yêu khi không có sự tôn trọng, khi bạn không tôn trọng một người khác, dù anh ấy là người giúp việc của bạn hay người bạn của bạn. Bạn không nhận thấy rằng bạn không tôn trọng, tử tế, rộng lượng với những người giúp việc của bạn, với những người mà tạm gọi là thuộc ‘chiếu dưới’ của bạn, hay sao? Bạn đã tôn trọng những người thuộc chiếu trên, ông chủ của bạn, người tỉ phú, người đàn ông có căn nhà rộng lớn và có một tước hiệu, người mà cho bạn vị trí tốt hơn, việc làm tốt hơn, từ đó bạn có thể nhận cái gì đó. Nhưng bạn xua đuổi những người thấp kém hơn bạn, bạn có một ngôn ngữ đặc biệt dành cho họ. Vì vậy nơi nào không có sự tôn trọng không có tình yêu; nơi nào không có thương yêu, không có trắc ẩn, không có tha thứ, không có tình yêu. Và bởi vì hầu hết chúng ta đều ở trong trạng thái này, chúng ta không có tình yêu. Chúng ta không tôn trọng, không trắc ẩn, không rộng lượng. Chúng ta dư thừa tánh chiếm hữu, đầy cảm xúccảm giác mà có thể bị xoay chuyển về một hướng khác: giết chóc, tàn sát và hợp nhất qua những ý định dốt nát, dại dột. Vì vậy làm thế nào có thể có được tình yêu?

Bạn có thể biết được tình yêu chỉ khi nào tất cả những sự việc này ngừng lại, kết thúc, chỉ khi nào bạn không sở hữu, khi bạn không còn theo đuổi cảm xúc bằng cách sùng bái một mục tiêu. Sự sùng bái như thế là một van xin, đang tìm kiếm cái gì đó trong một hình thức khác. Một con người cầu nguyện không biết tình yêu là gì. Bởi vì bạn chiếm hữu, bởi vì bạn tìm kiếm một kết thúc, một kết quả qua sùng bái, qua cầu nguyện, mà làm cho bạn có cảm xúc, cảm giác, dĩ nhiên không có tình yêu; chắc chắn, không có tình yêu khi không có sự tôn trọng. Bạn có lẽ nói rằng bạn có tôn trọng nhưng tôn trọng của bạn dành cho những người chiếu trên, sự tôn trọng đó phát sinh từ mong muốn cái gì đó, sự tôn trọng của sợ hãi. Nếu bạn thực sự cảm thấy tôn trọng, bạn sẽ tôn trọng những người hèn kém nhất cũng như những người tạm gọi là cao quý nhất; bởi vì bạn không có sự tôn trọng như thế, không có tình yêu. Chẳng bao nhiêu người trong chúng taquảng đại, khoan dung, nhân từ! Bạn quảng đại khi nó đền bù cho bạn, bạn có nhân từ khi bạn có thể thấy cái gì đó đền đáp lại. Khi những sự việc này biến mất, khi những sự việc này không đầy nghẹt cái trí của bạn, và khi những sự việc của cái trí không ngập tràn tâm hồn của bạn, vậy thì có tình yêu; và tình yêu, một mình nó, có thể thay đổi sự dốt nát, sự điên khùng hiện nay trong thế giới – không phải những hệ thống, những lý thuyết, hoặc của cánh tả hoặc cánh hữu. Bạn thực sự thương yêu chỉ khi nào bạn không chiếm hữu, khi bạn không ganh tị, không tham lam, khi bạn dư thừa sự tôn trọng, khi bạn rộng lượngtừ bi, khi bạn có sự ân cần với người vợ của bạn, con cái của bạn, người hàng xóm của bạn, những người giúp việc bất hạnh

Tình yêu không thể được suy nghĩ, tình yêu không thể được vun quén, tình yêu không thể được luyện tập. Luyện tập tình yêu, luyện tập tình huynh đệ, vẫn còn trong lãnh vực của cái trí, vì vậy nó không là tình yêu. Khi tất cả điều này kết thúc, vậy thì tình yêu hiện diện, vậy thì bạn sẽ biết tình yêu là gì. Vậy thì tình yêu không thuộc về số lượng nhưng chất lượng. Bạn không nói, ‘Tôi thương yêu toàn thế giới’ nhưng khi bạn biết được cách thương yêu một người, bạn biết cách thương yêu tổng thể. Bởi vì chúng ta không biết làm thế nào để thương yêu một người, tình yêu nhân loại của chúng taảo tưởng. Khi bạn thương yêu, không có một cũng không có nhiều: chỉ có tình yêu. Chỉ khi nào có tình yêu thì tất cả những vấn đề của chúng ta mới có thể được giải quyết và sau đó chúng ta sẽ biết ân lành của nó và hạnh phúc của nó.

 

23- VỀ CHẾT

Câu hỏi: Chết có liên quan gì với sống? 

Krishnamurti: Có một phân chia giữa chết và sống à? Tại sao chúng ta nghĩ chết như cái gì đó tách khỏi sống? Tại sao chúng ta sợ hãi chết? Và tại sao có quá nhiều sách đã được viết về chết? Tại sao có sự phân ranh giới này giữa sống và chết? Và sự phân chia đó là thực sự, hay chỉ là sự tùy tiện, một sự việc của cái trí?

Khi chúng ta nói về sống, chúng ta có ý đang sống như một qui trình của sự tiếp tục mà trong đó có sự nhận dạng. Tôi và ngôi nhà của tôi, tôi và người vợ của tôi, tôi và tài khoản ngân hàng của tôi, tôi và những trải nghiệm quá khứ của tôi – đó là điều gì chúng ta có ý qua từ ngữ sống, phải không? Sống là một qui trình của sự tiếp tục trong ký ức, cả ý thức bên ngoài lẫn ý thức bên trong, cùng vô số những đấu tranh, những cãi cọ, những biến cố, những trải nghiệm của nó và vân vân. Tất cả việc đó là điều gì chúng ta gọi là sống; đối nghịch nó có chết, mà là kết thúc tất cả việc đó. Bởi vì đã tạo ra sự đối nghịch, mà là chết, và bị sợ hãi nó, chúng ta tiếp tục tìm kiếm sự liên quan giữa sống và chết; nếu chúng ta có thể nối liền khoảng cách bằng sự giải thích nào đó, bằng niềm tin trong sự tiếp tục, trong đời sau, chúng ta được thỏa mãn. Chúng ta tin tưởng sự đầu thai hay trong hình thức liên tục nào đó của tư tưởng, và sau đó chúng ta cố gắng thiết lập một liên quan giữa cái đã được biết và cái không biết được. Chúng ta cố gắng nối liền cái đã được biết và cái không biết được, và vì vậy cố gắng tìm ra sự liên quan giữa quá khứ và tương lai. Đó là điều gì chúng ta đang làm khi chúng ta tìm hiểu liệu có bất kỳ sự liên quan nào giữa sống và chết, đúng chứ? Chúng ta muốn biết làm thế nào nối liền đang sống và kết thúc – đó là ham muốn căn bản của chúng ta.

Bây giờ, liệu kết thúc, mà là chết, có thể biết được trong khi đang sống? Nếu chúng ta có thể biết chết là gì trong khi chúng ta đang sống, vậy thì chúng ta sẽ không có vấn đề. Chính bởi vì chúng ta không thể trải nghiệm cái không biết được trong khi chúng ta đang sống nên chúng ta bị sợ hãi về nó. Đấu tranh của chúng tathiết lập một liên quan giữa chính chúng ta, mà là kết quả của cái đã được biết, và cái không biết được mà chúng ta gọi là chết. Liệu có thể có sự liên quan giữa quá khứ và cái gì đó mà cái trí không thể tưởng tượng, mà chúng ta gọi là chết? Tại sao chúng ta tách rời hai cái này? Không phải bởi vì cái trí của chúng ta chỉ có thể vận hành trong lãnh vực của cái đã được biết, trong lãnh vực của sự tiếp tục? Người ta chỉ biết về chính người ta như một người suy nghĩ, như một người hành động cùng những ký ức nào đó của đau khổ, của vui thú, của tình yêu, của nhân từ, của vô số loại trải nghiệm; người ta chỉ biết về chính người ta như đang tiếp tục – ngược lại người ta sẽ không có hồi ức của chính người ta như là cái gì đó. Bây giờ khi cái sự việc đó kết thúc, mà chúng ta gọi là chết, có sợ hãi về cái không biết được; vì vậy chúng ta muốn rút cái không biết được vào cái đã được biết, và toàn nỗ lực của chúng ta là cho sự tiếp tục của cái không biết được. Đó là, chúng ta không muốn biết sống, mà gồm cả chết, nhưng chúng ta muốn biết làm thế nào để tiếp tục mà không dẫn đến một kết thúc. Chúng ta không muốn biết sống và chết, chúng ta chỉ muốn biết làm thế nào để tiếp tục mà không có kết thúc.

Cái tiếp tục không có mới mẻ lại. Không thể có mới mẻ, không thể có sáng tạo, trong cái có sự tiếp tục – điều đó quá rõ ràng. Chỉ khi nào sự tiếp tục kết thúc mới có thể có cái luôn luôn mới mẻ. Nhưng chúng ta sợ hãi chính sự kết thúc này, và chúng ta không thấy rằng chỉ trong sự kết thúc mới có thể có cái mới mẻ, cái sáng tạo, cái không biết được – không phải trong sự chuyên chở từ ngày này sang ngày khác những trải nghiệm của chúng ta, những ký ức và những bất hạnh của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chết đi mỗi ngày tất cả những sự việc cũ kỹ đó, mới có thể có cái mới mẻ. Cái mới mẻ không thể hiện diện nơi nào có sự tiếp tục – cái mới mẻ là cái sáng tạo, cái không biết được, cái vĩnh hằng, Thượng đế hay cái tên nào bạn muốn. Con người, cái thực thể tiếp tục, mà tìm kiếm cái không biết được, sự thật, cái vĩnh hằng, sẽ không bao giờ tìm được nó, bởi vì anh ấy có thể tìm ra chỉ cái anh ấy chiếu rọi từ chính anh ấy, và cái anh ấy chiếu rọi không là sự thật. Chỉ trong kết thúc, trong chết, cái mới mẻ có thể được biết; và con ngườitìm kiếm để tìm được một liên quan giữa sống và chết, để nối liền cái tiếp tục với cái mà anh ấy nghĩ là vượt khỏi, đang sống trong một thế giới không thật, ảo tưởng, mà là một chiếu rọi của chính anh ấy. 

Bây giờ liệu có thể, trong khi đang sống, chết đi – mà có nghĩa kết thúc, ‘không là gì cả’? Liệu có thể, khi đang sống trong thế giới này, nơi mọi thứ đang trở thành mỗi lúc một nhiều hơn hay đang trở thành mỗi lúc một ít hơn, nơi mọi thứ là một qui trình của thăng tiến, đạt được, thành công, liệu có thể, trong một thế giới như thế, biết được chết? Liệu có thể kết thúc tất cả những ký ức – không phải ký ức về những sự kiện, làm thế nào đi đến ngôi nhà của bạn và vân vân, nhưng sự quyến luyến bên trong vào sự an toàn tâm lý qua ký ức, những ký ức người ta đã tích lũy, lưu trữ, và trong đó người ta tìm kiếm sự an toàn, hạnh phúc? Liệu có thể kết thúc tất cả điều đó – mà có nghĩa rằng chết đi mỗi ngày để cho có lẽ có một mới mẻ lại ngày mai? Chỉ lúc đó người ta mới biết chết trong khi đang sống. Chỉ trong chết đó, trong kết thúc đó, trong kết thúc sự tiếp tục, mới có cái mới mẻ, cái sáng tạo đó mà là vĩnh hằng.

24- VỀ THỜI GIAN

Câu hỏi: Quá khứ có thể tan biến ngay tức khắc, hay nó luôn luôn cần đến thời gian? 

Krishnamurti: Chúng ta là kết quả của quá khứ. Tư tưởng của chúng ta được hình thành dựa vào ngày hôm qua và nhiều ngàn ngày hôm qua. Chúng ta là kết quả của thời gian, và những phản ứng của chúng ta, những thái độ hiện tại của chúng ta, là ảnh hưởng chồng chất của nhiều ngàn khoảnh khắc, những biến cố và những trải nghiệm. Vì vậy đối với đa số chúng ta, quá khứhiện tại, mà là một sự kiện không thể chối cãi. Bạn, những suy nghĩ của bạn, những hành động của bạn, những phản ứng của bạn, là kết quả của quá khứ. Lúc này, người hỏi muốn biết liệu quá khứ đó có thể được tan biến ngay tức khắc, mà có nghĩa không ở trong thời gian nhưng ngay tức khắc được xóa sạch; hay cái trí cần đến thời gian để thoát khỏi quá khứ chồng chất này và được tự do sống trong hiện tại? Hiểu rõ câu hỏi này rất quan trọng, mà là như thế này: vì mỗi người chúng ta là kết quả của quá khứ, cùng một nền tảng của vô số những ảnh hưởng, đang liên tục thay đổi, đang luôn luôn biến đổi, liệu có thể xóa sạch nền tảng đó mà không trải qua qui trình của thời gian?

Quá khứ là gì? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ quá khứ? Chắc chắn chúng ta không có ý, quá khứ tuần tự theo đồng hồ. Chúng ta có ý, chắc chắn, những trải nghiệm được tích lũy, những phản ứng, những kỷ niệm, những truyền thống, hiểu biết được tích lũy, kho lưu trữ tầng ý thức bên trong của vô số những tư tưởng, những cảm thấy, những ảnh hưởng và những phản ứng. Bằng nền tảng đó, liệu có thể hiểu rõ sự thật, bởi vì sự thật phải không thuộc thời gian: nó là không-thời gian. Vì vậy người ta không thể hiểu rõ cái không-thời gian bằng một cái trí mà là kết quả của thời gian. Người hỏi muốn biết liệu có thể làm tự do cái trí, hay cho phép cái trí, mà là kết quả của thời gian, không-hiện diện ngay tức khắc; hay người ta phải trải qua một chuỗi dài của những tìm hiểu và những phân tích và nhờ vậy làm tự do cái trí khỏi nền tảng của nó.

Cái trí là nền tảng; cái trí là kết quả của thời gian; cái trí là quá khứ, cái trí không là tương lai. Nó có thể tự-chiếu rọi chính nó vào tương lai và cái trí sử dụng hiện tại như một con đường vào tương lai, vì vậy nó – dù nó làm gì chăng nữa, dù hoạt động của nó, hoạt động quá khứ của nó, hoạt động hiện tại của nó, hoạt động tương lai của nó là gì chăng nữa – vẫn còn trong mạng lưới của thời gian. Liệu cái trí có thể kết thúc hoàn toàn, liệu qui trình của tư tưởng có thể kết thúc? Bây giờ, chắc chắn có nhiều tầng của cái trí; điều gì chúng ta gọi là ý thức có nhiều tầng, mỗi tầng trao đổi với tầng khác, mỗi tầng phụ thuộc vào tầng khác, vận hành hỗ tương; toàn ý thức của chúng ta không những đang trải nghiệm nhưng còn đang đặt tên và đang quy định, và đang lưu trữ như ký ức. Đó là toàn qui trình của ý thức, đúng chứ? 

Khi chúng ta nói về ý thức, chúng ta có ý là trải nghiệm, đặt tên hay quy định trải nghiệm đó và qua đó lưu trữ trải nghiệm đó trong ký ức, đúng chứ? Tất cả việc này, ở những mức độ khác nhau, là ý thức. Liệu cái trí mà là kết quả của thời gian, có thể trải qua qui trình của phân tích, từng bước một, với mục đích để làm tự do chính nó khỏi nền tảng, hay liệu nó có thể được tự do khỏi thời gian một cách tuyệt đối và nhìn ngắm sự thật một cách trực tiếp?

Muốn được tự do khỏi nền tảng, nhiều người phân tích nói rằng bạn phải tìm hiểu mỗi phản ứng, mỗi phức tạp, mỗi cản trở, mỗi bủa vây, mà rõ ràng hàm ý một qui trình của thời gian. Điều này có ý, người phân tích phải hiểu rõ điều gì anh ấy đang phân tích, và anh ấy không được diễn giải sai lầm điều gì anh ấy đang phân tích. Nếu anh ấy diễn giải sai lầm điều gì anh ấy đang phân tích, nó sẽ dẫn anh ấy đến những kết luận sai lầm và thế là thiết lập một nền tảng khác. Người phân tích phải có thể phân tích những suy nghĩ và những cảm thấy của anh ấy mà không có một sai lệch nhỏ nhiệm; và anh ấy không bỏ sót một bước nào trong sự phân tích của anh ấy, bởi vì thực hiện một bước sai lầm, tạo ra một kết luận sai lầm, là tái thiết lập một nền tảng theo một phương hướng khác hẳn, trên một mức độ khác hẳn. Vấn đề này cũng nảy sinh: liệu người phân tích khác biệt điều gì anh ấy phân tích? Người phân tích và điều được phân tích không là một hiện tượng kết hợp hay sao?

Chắc chắn người trải nghiệm và trải nghiệm là một hiện tượng kết hợp; chúng không là hai qui trình tách rời, vì vậy trước hết chúng ta hãy thấy sự khó khăn của phân tích. Hầu như không thể phân tích toàn nội dung của ý thức chúng ta, và vì vậy được tự do nhờ vào qui trình đó. Rốt cuộc, ai là người phân tích? Người phân tích không khác biệt, mặc dù anh ấy có lẽ nghĩ rằng anh ấy khác biệt, với sự việc mà anh ấy đang phân tích. Anh ấy có lẽ tự-tách rời chính anh ấy khỏi sự việc anh ấy phân tích, nhưng người phân tích là bộ phận của sự việc anh ấy phân tích. Tôi có một suy nghĩ, tôi có một cảm thấy – ví dụ, tôi tức giận. Người mà phân tích sự tức giận vẫn còn là bộ phận của sự tức giận, và thế là người phân tích cũng như vật được phân tích là một hiện tượng kết hợp, chúng không là hai lực lượng hay hai qui trình tách rời. Vì vậy sự khó khăn của phân tích về chính chúng ta, tháo gỡ, theo dõi về chính chúng ta từ trang này sang trang khác, canh chừng mỗi phản ứng, mỗi đáp trả, là mất thời gian và gian lao vô cùng. Vì vậy đó không là cách để làm tự do chúng ta khỏi nền tảng quá khứ, đúng chứ? Phải có một cách trực tiếp nhiều hơn, đơn giản nhiều hơn, và đó là điều gì bạn và tôi sẽ tìm ra. Với mục đích tìm ra, chúng ta phải loại bỏ điều giả dối và không bám vào nó. Thế là, sự phân tích khôngphương cách, và chúng ta phải được tự do khỏi qui trình của phân tích. 

Vậy thì bạn đã còn lại cái gì? Bạn quen với sự phân tích, phải không? Người quan sát đang quan sát – người quan sát và vật được quan sát là một hiện tượng kết hợp – người phân tích đang cố gắng phân tích cái anh ấy quan sát sẽ không làm tự do anh ấy khỏi cái nền tảng quá khứ của anh ấy. Nếu điều đó là như thế, và đúng là như vậy, bạn buông bỏ cái qui trình đó, đúng chứ? Nếu bạn thấy nó là một phương cách giả dối, nếu bạn nhận ra không chỉ bằng từ ngữ nhưng thực sự nó là một qui trình giả dối, vậy thì điều gì xảy ra cho sự phân tích của bạn? Bạn ngừng phân tích, phải không? Vậy thì bạn đã còn lại cái gi? Nhìn ngắm, theo sát nó, và bạn sẽ thấy người ta có thể được tự do khỏi nền tảng quá khứ mau lẹ và nhanh chóng biết chừng nào. Nếu đó không là phương cách, bạn còn lại cái gì nữa? Trạng thái của cái trí mà quen thuộc với sự phân tích, tìm hiểu, tìm kiếm, phân loại, rút ra những kết luậnvân vân là gì? Nếu qui trình đó đã kết thúc, trạng thái cái trí của bạn là gì?

Bạn nói rằng cái trí trống không. Hãy tiến tới sâu thêm nữa vào cái trí trống không đó. Nói cách khác, khi bạn loại bỏ cái gì được biết như giả dối, điều gì đã xảy ra cho cái trí của bạn? Rốt cuộc bạn đã loại bỏ cái gì? Bạn đã loại bỏ qui trình giả dối mà là kết quả của một nền tảng. Không phải như thế hay sao? Đột nhiên, như nó đã là, bạn đã loại bỏ toàn sự việc. Thế là cái trí của bạn, khi bạn loại bỏ qui trình phân tích cùng tất cả những hàm ý của nó và thấy nó như giả dối, được tự do khỏi ngày hôm qua và thế là có thể nhìn ngắm trực tiếp, không-trải qua qui trình của thời gian, và thế là loại bỏ nền tảng ngay tức khắc.

Đặt toàn câu hỏi này theo cách khác, suy nghĩ là kết quả của thời gian, phải không? Suy nghĩ là kết quả của môi trường sống, của những ảnh hưởng thuộc xã hộitôn giáo, mà tất cả là bộ phận của thời gian. Bây giờ, liệu suy nghĩ có thể được tự do khỏi thời gian? Đó là, suy nghĩ là kết quả của thời gian, liệu nó có thể ngừng lại và được tự do khỏi qui trình của thời gian? Suy nghĩ có thể được kiểm soát, được định hình; nhưng sự kiểm soát suy nghĩ vẫn còn trong lãnh vực của thời gianvì vậy khó khăn của chúng ta là: làm thế nào một cái trí mà là kết quả của thời gian, của nhiều ngàn hay hôm qua, ngay tức khắc có thể được tự do khỏi nền tảng phức tạp này? Bạn có thể được tự do khỏi nó, không phải ngày mai nhưng trong hiện tại, trong ngay lúc này. Việc đó có thể thực hiện được chỉ khi nào bạn nhận ra điều giả dối; và chắc chắn điều giả dối là qui trình phân tích, và đó là qui trình duy nhấtchúng ta có. Khi qui trình phân tích này hoàn toàn kết thúc, không phải qua sự ép buộc nhưng qua hiểu rõ sự giả dối không tránh khỏi của qui trình đó, vậy thì bạn sẽ phát hiện rằng cái trí của bạn tuyệt đối được tách khỏi quá khứ – mà không có nghĩa rằng bạn không nhận ra quá khứ, nhưng rằng cái trí của bạn không có sự hiệp thông trực tiếp cùng quá khứ. Thế là nó có thể tự-giải thoát chính nó khỏi quá khứ ngay tức khắc, ngay lúc này, và sự tách khỏi quá khứ này, sự tự do hoàn toàn khỏi ngày hôm qua này, không phải theo tuần tự đồng hồ nhưng theo tâm lý, là điều có thể xảy ra được; và đó là cách duy nhất để hiểu rõ sự thật

Trình bày nó một cách rất đơn giản, khi bạn muốn hiểu rõ cái gì đó, trạng thái cái trí của bạn là gì? Khi bạn muốn hiểu rõ người con của bạn, khi bạn muốn hiểu rõ người nào đó, điều gì đó mà người khác đang nói, trạng thái cái trí của bạn là gì? Bạn không đang phân tích, không đang phê bình, không đang nhận xét điều gì người khác đang nói; bạn đang lắng nghe, đúng chứ? Cái trí của bạn ở trong một trạng thái nơi qui trình của suy nghĩ không còn năng động nhưng rất tỉnh táo. Sự tỉnh táo đó không thuộc thời gian, đúng chứ? Bạn chỉ đang tỉnh thức, thâu nhận một cách thụ độngtuy nhiên vẫn tỉnh táo trọn vẹn; và chỉ trong trạng thái này mới có hiểu rõ. Khi cái trí bị kích động, đang tìm hiểu, đang lo âu, đang phân loại, đang phân tích, không có hiểu rõ. Khi có sự mãnh liệt để hiểu rõ, cái trí hoàn toàn yên lặng. Dĩ nhiên, điều này, bạn phải thử nghiệm, không phải thâu nhận những từ ngữ giải thích về nó của tôi, nhưng bạn có thể thấy rằng bạn càng phân tích nhiều bao nhiêu, bạn càng hiểu rõ ít hơn bấy nhiêu. Bạn có lẽ hiểu rõ những sự kiện nào đó, những trải nghiệm nào đó, nhưng toàn nội dung của ý thức không thể được trống không qua qui trình phân tích. Nó có thể được trống không chỉ khi nào bạn thấy được sự giả dối của sự tiếp cận qua phân tích. Khi bạn thấy điều giả dối như điều giả dối, vậy thì bạn bắt đầu thấy điều gì là sự thật; và chính sự thật sẽ giải thoát bạn khỏi nền tảng. 

25- VỀ HÀNH ĐỘNG KHÔNG Ý TƯỞNG

Câu hỏi: Để cho Sự thật hiện diện, ông ủng hộ hành động không-ý tưởng. Liệu có thể luôn luôn hành động không ý-tưởng, đó là, luôn luôn không một mục đích?

Krishnamurti: Hiện nay hành động của chúng ta là gì? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ hành động? Hành động của chúng ta – điều gì chúng ta muốn làm hay muốn là – được đặt nền tảng trên ý tưởng, đúng chứ? Đó là tất cả mà chúng ta biết; chúng ta có những ý tưởng, những lý tưởng, những hứa hẹn, vô số công thức về chúng ta là gì và chúng ta không là gì. Nền tảng hành động của chúng ta là phần thưởng trong tương lai hay sợ hãi hình phạt. Chúng ta biết điều đó, đúng chứ? Hành động như thế đang gây tách rời, đang gây khép kín. Bạn có một ý tưởng của đạo đứctùy theo ý tưởng đó bạn sống, bạn hành động, trong sự liên hệ. Đối với bạn, sự liên hệ, thuộc tập thể hay cá thể, là hành động hướng về lý tưởng, hướng về đạo đức, hướng về thành tựuvân vân.

Khi hành động của tôi được đặt nền tảng trên một lý tưởng mà là một ý tưởng – như ‘Tôi phải can đảm’, ‘Tôi phải tuân theo kiểu mẫu’, ‘Tôi phải nhân từ’, ‘Tôi phải lo lắng cho xã hội’ và vân vâný tưởng đó định hình hành động của tôi, hướng dẫn hành động của tôi. Tất cả chúng ta đều nói, ‘Có một mẫu mực của đạo đức mà tôi phải tuân theo’; mà có nghĩa, ‘Tôi phải sống theo mẫu mực đó’. Vì vậy hành động được đặt nền tảng trên ý tưởng đó. Giữa hành động và ý tưởng có một khoảng trống, một phân chia, có một qui trình thời gian. Đó là như thế, phải không? Nói cách khác, tôi không nhân từ, tôi không thương yêu, không có sự tha thứ trong tâm hồn của tôi nhưng tôi cảm thấy tôi phải nhân từ. Vì vậy có một khoảng trống giữa tôi là gì và tôi nên là gì; chúng ta luôn luôn đang cố gắng kết nối khoảng trống đó. Đó là hoạt động của chúng ta, đúng chứ?

Bây giờ điều gì sẽ xảy ra nếu ý tưởng không tồn tại? Ngay tức khắc, bạn sẽ xóa sạch khoảng trống, đúng chứ? Bạn sẽ là cái gì bạn là. Bạn nói rằng ‘Tôi xấu xí, tôi phải trở nên đẹp đẽ; tôi sẽ làm gì đây?’ – mà là hành động được đặt nền tảng trên ý tưởng. Bạn nói rằng ‘Tôi không nhân từ, tôi phải trở nên nhân từ’. Vì vậy bạn giới thiệu ý tưởng tách rời khỏi hành động. Vì vậy không bao giờ hành động thực sự về cái gì bạn là, nhưng luôn luôn hành động được đặt nền tảng trên lý tưởng của cái gì bạn sẽ là. Con người dốt nát luôn luôn nói rằng anh ấy sẽ trở nên thông minh. Anh ấy ngồi làm việc, đấu tranh để trở thành; anh ấy không bao giờ ngừng lại, anh ấy không bao giờ nói ‘Tôi dốt nát’. Vì vậy hành động của anh ấy, mà được đặt nền tảng trên ý tưởng, không là hành động gì cả.

Hành động có nghĩa đang làm, đang chuyển động. Nhưng khi bạn có ý tưởng, nó chỉ là ý tưởng đang xảy ra, qui trình tư tưởng đang xảy ra liên quan đến hành động. Nếu khôngý tưởng, điều gì sẽ xảy ra? Bạn là cái gì bạn là. Bạn không nhân từ, bạn không tha thứ, bạn tàn ác, ngu xuẩn, không ý tứ. Liệu bạn có thể ở cùng điều đó? Nếu bạn làm được, vậy thì thấy điều gì xảy ra? Khi tôi công nhận rằng tôi không nhân từ, ngu xuẩn, điều gì xảy ra khi tôi tỉnh thức được nó là như thế? Không có nhân từ, không có thông minh hay sao? Khi tôi hoàn toàn công nhận trạng thái không nhân từ, không bằng từ ngữ, không hời hợt, khi tôi nhận ra tôi không nhân từ và không thương yêu, trong chính thấy cái gì là đó là có tình yêu? Tôi tức khắc trở thành nhân từ? Nếu tôi thấy sự cần thiết phải sạch sẽ, nó rất đơn giản: tôi đi rửa ráy. Nhưng nếu nó là một lý tưởng rằng tôi nên sạch sẽ, vậy thì điều gì xảy ra? Sự sạch sẽ bị trì hoãn hay không tự nhiên.

Hành động được đặt nền tảng trên ý tưởng rất giả tạo, nó không là hành động thực sự gì cả, chỉ là thực hiện ý tưởng, mà chỉ là qui trình-tư tưởng đang xảy ra.

Hành động mà thay đổi chúng ta như những con người, mà mang lại sự tái sinh, sự cứu rỗi, sự chuyển đổi – gọi nó bằng bất kỳ danh tánh nào bạn muốn – hành động như thế không được đặt nền tảng trên ý tưởng. Nó là hành động không liên quan đến chuỗi phần thưởng hay hình phạt. Hành động như thế là không-thời gian, bởi vì cái trí, mà là qui trình thời gian, qui trình tính toán, qui trình phân chia, qui trình tách rời, không chen vào nó. 

Câu hỏi này không dễ dàng được giải quyết. Hầu hết các bạn đặt ra những câu hỏi và chờ đợi một câu trả lời ‘đúng’ hay ‘sai’. Rất dễ dàng khi đặt những câu hỏi như thế này ‘Ông có ý gì?’ rồi sau đó ngồi ngả người ra và để cho tôi giải thích, nhưng nó gian lao vô cùng khi tìm ra đáp án cho chính các bạn, thâm nhập vấn đề thật sâu thẳm, thật rõ ràng và không có bất kỳ biến dạng, để cho vấn đề ngừng hiện diện. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi cái trí thực sự yên lặng khi đối diện với vấn đề. Vấn đề, nếu bạn thương yêu nó, cũng đẹp đẽ như cảnh hoàng hôn. Nếu bạn đối nghịch với vấn đề, bạn sẽ không bao giờ hiểu rõ. Hầu hết chúng ta đều đối nghịch bởi vì chúng ta sợ hãi kết quả, sợ hãi điều gì có lẽ xảy ra nếu chúng ta tiến tới, vì vậy chúng ta mất đi ý nghĩaảnh hưởng của vấn đề

26- VỀ CÁI CŨ KỸ VÀ CÁI MỚI MẺ 

Câu hỏi: Khi tôi lắng nghe ông, tất cả dường như rõ ràng và mới mẻ. Ở nhà, tình trạng không yên ổn nhàm chán cũ kỹ tự-khẳng định nó. Có điều gì sai trái với tôi?

Krishnamurti: Điều gì thực sự đang xảy ra trong sống của chúng ta? Liên tục có sự thách thức và đáp trả. Đó là tồn tại, đó là sống, phải không? – một thách thức và đáp trả liên tục. Thách thức luôn luôn mới mẻ và đáp trả luôn luôn cũ kỹ. Tôi đã gặp bạn ngày hôm qua và bạn đến với tôi ngày hôm nay. Bạn khác hẳn, bạn được thay đổi, bạn đã thay đổi, bạn là mới mẻ; nhưng tôi có hình ảnh của bạn như bạn đã là ngày hôm qua. Vì vậy tôi dẫn dắt cái mới mẻ vào cái cũ kỹ. Tôi không gặp bạn mới mẻ lại nhưng tôi có hình ảnh của bạn ngày hôm qua, vì vậy đáp trả của tôi đến thách thức luôn luôn bị quy định. Ở đây, trong khoảnh khắc, bạn không còn là một người Ba la môn giáo, một người Thiên chúa giáo, người giai cấp cao hay bất kỳ người nào – bạn quên hết mọi thứ. Bạn chỉ đang lắng nghe, thâm nhập, cố gắng tìm ra. Khi bạn bắt đầu lại với sống hàng ngày của bạn, bạn trở thành cái tôi cũ kỹ của bạn – bạn quay lại trong công việc của bạn, giai cấp của bạn, hệ thống của bạn, gia đình của bạn. Nói cách khác cái mới mẻ luôn luôn đang được thẩm thấu bởi cái cũ kỹ, vào những thói quen, những phong tục, những ý tưởng, những truyền thống, những ký ức cũ kỹ. Không bao giờ có cái mới mẻ, bởi vì bạn luôn luôn đang gặp gỡ cái mới mẻ bằng cái cũ kỹ. Thách thức là mới mẻ nhưng bạn gặp gỡ nó bằng cái cũ kỹ. Vấn đề trong câu hỏi này là làm thế nào làm tự do suy nghĩ khỏi cái cũ kỹ để cho luôn luôn là mới mẻ. Khi bạn thấy một bông hoa, khi bạn thấy một khuôn mặt, khi bạn thấy bầu trời, một cái cây, một nụ cười, bạn sẽ gặp gỡ nó mới mẻ lại như thế nào? Tại sao chúng ta không gặp gỡ nó mới mẻ lại? Tại sao cái cũ kỹ thẩm thấu cái mới mẻ và thay đổi nó; tại sao cái mới mẻ không còn nữa khi bạn trở về nhà?

Sự đáp trả cũ kỹ nảy sinh từ người suy nghĩ. Người suy nghĩ không luôn luôn là cái cũ kỹ hay sao? Bởi vì suy nghĩ của bạn được hình thành trên quá khứ, khi bạn gặp gỡ cái mới mẻ chính là người suy nghĩ đang gặp gỡ nó; trải nghiệm của ngày hôm qua đang gặp gỡ nó. Người suy nghĩ luôn luôn là cái cũ kỹ. Vì vậy chúng ta quay lại cùng vấn đề trong một cách khác: làm thế nào giải thoát cái trí khỏi chính nó như người suy nghĩ? Làm thế nào loại bỏ được ký ức, không phải những ký ức thực tế nhưng ký ức tâm lý, mà là sự tích lũy của trải nghiệm? Nếu khôngtự do khỏi cặn bã của trải nghiệm, không thể thâu nhận cái mới mẻ. Để làm tự do tư tưởng, làm tự do qui trình suy nghĩvì vậy gặp gỡ cái mới mẻ là gian lao lắm – phải không – bởi vì tất cả những niềm tin của chúng ta, tất cả những truyền thống của chúng ta, tất cả những phương pháp trong giáo dục của chúng ta là một qui trình của bắt chước, mô phỏng, ghi nhớ, xây dựng kho lưu trữ của ký ức. Ký ức đó liên tục đang đáp trả đến cái mới mẻ; chúng ta gọi sự đáp trả của ký ức đó là suy nghĩsuy nghĩ đó gặp gỡ cái mới mẻ. Vì vậy làm thế nào có thể có cái mới mẻ? Chỉ khi nào không còn cặn bã của ký ức mới có thể có trạng thái mới mẻ, và có cặn bã khi trải nghiệm không hoàn tất, không chấm dứt, không kết thúc; đó là khi hiểu rõ về trải nghiệm không-trọn vẹn. Khi trải nghiệm trọn vẹn, không có cặn bã – đó là vẻ đẹp của sống. Tình yêu không là cặn bã, tình yêu không là trải ngiệm, nó là một trạng thái của đang là. Tình yêu mãi mãi mới mẻ. Vì vậy vấn đề của chúng ta là: liệu người ta có thể gặp gỡ cái mới mẻ liên tục, thậm chí ngay cả ở nhà? Chắc chắn người ta có thể. Muốn làm được điều đó, người ta phải tạo ra một cách mạng trong suy nghĩ, trong cảm thấy; bạn có thể tự do chỉ khi nào mỗi biến cố được giải thích từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, khi mọi phản ứng được hiểu rõ trọn vẹn, không chỉ lơ là quan sát nó rồi quên đi. Có tự do khỏi ký ức đang tích lũy chỉ khi nào mỗi suy nghĩ, mỗi cảm thấy được trọn vẹn, được hiểu rõ. Nói cách khác, khi mỗi suy nghĩcảm thấy được hiểu rõ, được hoàn tất, có một kết thúc và có một không gian giữa kết thúc đó và suy nghĩ kế tiếp. Trong không gian của yên lặng đó, có mới mẻ lại, trạng thái sáng tạo mới mẻ xảy ra.

Đây không là lý thuyết, đây không là không thực tế. Nếu bạn cố gắng hiểu rõ mỗi suy nghĩ và mỗi cảm thấy, bạn sẽ khám phá rằng nó thực tế lạ thường trong sống hàng ngày của bạn, bởi vì lúc đó bạn là mới mẻ và cái gì mới mẻ luôn luôn vĩnh hằng. Là mới mẻ là sáng tạo và là sáng tạohạnh phúc; một người hạnh phúc không lo âu dù anh ấy giàu có hay nghèo nàn, anh ấy không lưu tâm đến tầng lớp nào của xã hội, giai cấp nào hay quốc gia nào mà anh ấy phụ thuộc. Anh ấy không có những người lãnh đạo, không thần thánh, không đền chùa, không nhà thờ và vì vậy không cãi cọ, không kẻ thù

Chắc chắn đó là phương cách thực tế nhất để giải quyết được những khó khăn của chúng ta trong thế giới hỗn loạn hiện nay này. Chính do bởi chúng ta không-sáng tạo, trong ý nghĩa tôi đang sử dụng từ ngữ đó, nên chúng ta mới quá chống đối xã hội ở mọi mức độ khác nhau của ý thức chúng ta. Muốn rất thực tếhiệu quả trong những liên hệ thuộc xã hội của chúng ta, trong liên hệ của chúng ta với mọi thứ, người ta phải có hạnh phúc; không thể có hạnh phúc nếu khôngkết thúc; không thể có hạnh phúc nếu có một qui trình liên tục của đang trở thành. Trong kết thúc, có mới mẻ lại, tái sinh, một trạng thái mới mẻ, một trong sáng, một hân hoan.

Cái mới mẻ bị thẩm thấu vào cái cũ kỹ và cái cũ kỹ hủy diệt cái mới mẻ, chừng nào còn có nền tảng, chừng nào cái trí, người suy nghĩ còn bị quy định bởi tư tưởng của anh ấy. Muốn được tự do khỏi nền tảng, khỏi những ảnh hưởng bị quy định, khỏi ký ức, phải có tự do khỏi sự tiếp tục. Có sự tiếp tục chừng nào suy nghĩ và những cảm thấy không được kết thúc trọn vẹn. Bạn hoàn tất một suy nghĩ khi bạn theo đuổi suy nghĩ đó đến tận cùng của nó và thế là mang lại một kết thúc cho mỗi suy nghĩ, cho mỗi cảm thấy. Tình yêu không là thói quen, ký ức; tình yêu luôn luôn mới mẻ. Có thể gặp gỡ cái mới mẻ chỉ khi nào cái trí trong sáng; và cái trí không-trong sáng chừng nào còn có cặn bã của ký ức. Ký ức thuộc thực tế, cũng như thuộc tâm lý. Tôi không đang nói về ký ức thực tế nhưng về ký ức tâm lý. Chừng nào trải nghiệm còn không được hiểu rõ trọn vẹn, có cặn bã, mà là cái cũ kỹ, mà thuộc ngày hôm qua, sự việc mà là quá khứ; quá khứ luôn luôn đang thẩm thấu cái mới mẻ và vì vậy đang hủy diệt cái mới mẻ. Chỉ khi nào cái trí được tự do khỏi cái cũ kỹ nó mới gặp gỡ mọi thứ mới mẻ lại, và trong đó có hân hoan


27- VỀ ĐẶT TÊN 

Câu hỏi: Làm thế nào người ta có thể nhận biết được một cảm xúc mà không đặt tên hay cho nó nhãn hiệu? Nếu tôi nhận biết được một cảm thấy, dường như tôi biết cảm thấy đó là gì hầu như ngay tức khắc sau khi nó nảy sinh. Hay ông có ý gì đó khác hẳn khi ông nói, ‘ Đừng đặt tên’?

Krishnamurti: Tại sao chúng ta đặt tên bất kỳ thứ gì? Tại sao chúng ta cho một nhãn hiệu đến một bông hoa, đến một con người, đến một cảm thấy? Hoặc để chuyển tải những cảm thấy của người ta, để diễn tả bông hoa và vân vânvân vân; hay để đồng hóa chính người ta cùng cảm thấy đó. Đó không là như thế hay sao? Tôi đặt tên cái gì đó, một cảm thấy, để chuyển tải nó. ‘Tôi tức giận.’ Hay tôi đồng hóa chính tôi với cảm thấy đó với mục đích để củng cố nó hay làm tan biến nó hay làm điều gì đó về nó. Chúng ta cho một cái tên đến cái gì đó, đến một bông hoa hồng, để chuyển tải nó đến những người khác hay, bằng cách cho nó một cái tên, chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ nó. Chúng ta nói, ‘Đó là một bông hồng’, mau lẹ nhìn nó và tiếp tục. Bằng cách cho nó một cái tên, chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ nó; chúng ta đã phân loại nó và nghĩ rằng nhờ đó chúng ta đã hiểu rõ toàn nội dung và vẻ đẹp của bông hoa đó.

Bằng cách cho một cái tên đến cái gì đó, chúng ta chỉ đặt nó vào một bảng phân loại và chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ nó; chúng ta không quan sát nó tỉ mỉ hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta không cho nó một cái tên, chúng ta bị bắt buộc phải nhìn nó. Đó là, chúng ta tiếp cận bông hoa hay bất kỳ thứ gì bằng một trạng thái mới mẻ, bằng một chất lượng tìm hiểu mới mẻ; chúng ta quan sát nó như thể chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy nó trước kia. Đặt tên là một phương cách rất tiện lợi để gạt bỏ những sự việc và những con người – bằng cách nói rằng họ là người Đức, người Nhật, người Mỹ, người Ấn độ, bạn có thể cho họ một nhãn hiệu và hủy diệt cái nhãn hiệu. Nếu bạn không cho một nhãn hiệu đến con người, bạn bị bắt buộc phải quan sát họ và thế là sẽ khó khăn nhiều lắm khi giết chết một ai đó. Bạn có thể hủy diệt cái nhãn hiệu bằng một quả bom và cảm thấy đúng đắn, nhưng nếu bạn không cho một nhãn hiệu và vì vậy phải thấy sự việc một cách cá thể – dù nó là một con người hay một bông hoa hay một biến cố hay một cảm xúcvậy thì bạn bị bắt buộc phải suy nghĩ sự liên hệ của bạn với nó, và với hành động theo sau. Vì vậy đặt tên hay cho nó một nhãn hiệu là một cách rất tiện lợi để dẹp bỏ bất kỳ điều gì, để khước từ, chỉ trích hay biện hộ nó. Đó là một khía cạnh của câu hỏi.

Mấu chốt mà từ đó bạn đặt tên là gì, trung tâm mà luôn luôn đang đặt tên, đang chọn lựa, đang xếp loại là gì. Tất cả chúng ta đều cảm thấy có một trung tâm, một mấu chốt, mà từ đó chúng ta đang hành động, từ đó chúng ta đang nhận xét, từ đó chúng ta đang đặt tên, đúng chứ? Trung tâm đó, mấu chốt đó là gì? Một số người muốn nghĩ nó là một bản thể thuộc tinh thần, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn. Vì vậy chúng ta hãy tìm xem mấu chốt đó, trung tâm đó, mà đang đặt tên, đang quy định, đang nhận xét là gì. Chắc chắn mấu chốt đó là ký ức, đúng chứ? Một chuỗi của những cảm xúc, được nhận dạng và được khép kín – quá khứ được cho sự sống qua hiện tại. Mấu chốt đó, trung tâm đó, cho thông tin trên hiện tại qua việc đặt tên, xếp loại, nhớ lại.

Khi chúng ta tìm hiểu nó, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ thấy rằng chừng nào trung tâm này, mấu chốt này, còn tồn tại, không thể có hiểu rõ. Chỉ nhờ vào sự tan biến của mấu chốt này mới có hiểu rõ, bởi vì, rốt cuộc, mấu chốt đó là ký ức; ký ức của vô vàn trải nghiệm mà đã được cho những cái tên, những nhãn hiệu, những nhận dạng. Cùng những trải nghiệm được đặt tên và được phân loại đó, từ trung tâm đó, có sự chấp nhận và sự phủ nhận, sự khẳng định để là hay không là, tùy theo những cảm xúc, những vui thú và những đau khổ của ký ức về những trải nghiệm. Vì vậy trung tâm đó là từ ngữ. Nếu bạn không đặt tên trung tâm đó, liệu có một trung tâm hay sao? Đó là nếu bạn không suy nghĩ dựa vào những từ ngữ, nếu bạn không sử dụng những từ ngữ, bạn có thể suy nghĩ hay sao? Suy nghĩ hiện diện qua qui trình từ ngữ hóa; hay qui trình từ ngữ hóa bắt đầu phản ứng đến suy nghĩ? Trung tâm, mấu chốt là ký ức của vô vàn trải nghiệm của vui thú và đau khổ, được từ ngữ hóa. Hãy quan sát nó trong chính bạn, thưa bạn, và bạn sẽ thấy những từ ngữ đó đã trở thành quan trọng nhiều hơn, những nhãn hiệu đã trở thành quan trọng nhiều hơn, thực thể; và chúng ta sống bằng những từ ngữ.

 Đối với chúng ta, những từ ngữ như sự thật, Thượng đế, đã trở nên rất quan trọng – hay sự cảm thấy mà những từ ngữ kia miêu tả. Khi chúng ta nói từ ngữ ‘người Mỹ’, ‘người Thiên chúa giáo’, ‘người Ấn độ giáo’ hay từ ngữ ‘tức giận’ – chúng tatừ ngữ đang miêu tả sự cảm thấy đó. Nhưng chúng ta không biết cảm thấy đó là gì, bởi vì từ ngữ đã trở thành quan trọng. Khi bạn gọi mình là một người Phật giáo, một người Thiên chúa giáo, từ ngữ đó có nghĩa gì, ý nghĩa đằng sau từ ngữ đó là gì, điều đó bạn không bao giờ tìm hiểu, đúng chứ? Trung tâm, mấu chốt của chúng tatừ ngữ, nhãn hiệu. Nếu nhãn hiệu không quan trọng, nếu điều gì quan trọng là cái đằng sau nhãn hiệu, vậy thì bạn có thể tìm hiểu nhưng nếu bạn bị đồng hóa cùng nhãn hiệu và bị trói buộc bởi nó, bạn không thể tiến tới. Và chúng ta bị đồng hóa cùng nhãn hiệu: ngôi nhà, hình dáng, danh tánh, đồ đạc, tài khoản ngân hàng, những quan điểm của chúng ta, những kích thích của chúng tavân vânvân vân. Chúng ta là tất cả những sự việc đó – những sự việc đó được miêu tả bởi một cái tên. Những sự việc đã trở thành quan trọng, những cái tên, những nhãn hiệu; và thế là trung tâm, mấu chốt, là từ ngữ

Nếu khôngtừ ngữ, không có nhãn hiệu, có trung tâm hay sao? Có một tan biến, có một trống không – không phải sự trống không của sợ hãi, mà là một sự việc hoàn toàn khác hẳn. Có một ý thức của hiện diện như ‘không là gì cả’; bởi vì bạn đã xóa sạch tất cả những nhãn hiệu, hay nói khác hơn, bởi vì bạn đã hiểu rõ tại sao bạn cho những nhãn hiệu đến những cảm thấy và những ý tưởng; bạn hoàn toàn mới mẻ, đúng chứ? Không có trung tâm từ đó bạn đang hành động. Trung tâm, mà là từ ngữ, đã tan biến. Nhãn hiệu đã bị xóa sạch, và bạn ở đâu như trung tâm? Bạn vẫn còn ở đó, nhưng đã có một thay đổi. Thay đổi đó hơi hơi gây kinh hãi; vì vậy, bạn không muốn tiếp tục tiến tới cùng cái gì thậm chí được hàm ý trong nó; bạn đang bắt đầu nhận xét nó rồi, quyết định liệu bạn ưa thích nó hay không-ưa thích nó. Bạn không tiếp tục tiến tới cùng sự hiểu rõ điều gì đang đến nhưng bạn đang nhận xét rồi, mà có nghĩa bạn có một trung tâm mà từ đó bạn đang hành động. Thế là bạn lưu lại cố định cái khoảnh khắc bạn nhận xét; những từ ngữ ‘ưa thích’ và ‘không-ưa thích’ trở thành quan trọng. Nhưng điều gì xảy ra khi bạn không đặt tên? Bạn nhìn vào một cảm xúc, một cảm giác, một cách trực tiếp nhiều hơn và vì vậy có một liên hệ hoàn toàn khác hẳn với nó, một cách chính xác như bạn có đối với một bông hoa khi bạn không đặt tên nó. Bạn bị bắt buộc phải nhìn ngắm nó mới mẻ. Khi bạn không đặt tên một nhóm người, bạn bị bắt buộc phải nhìn ngắm mỗi bộ mặt cá thể và không còn đối xử với tất cả họ như một tập thể. Vì vậy bạn tỉnh táo nhiều hơn, nhìn ngắm nhiều hơn, hiểu rõ nhiều hơn; bạn có một ý thức sâu đậm hơn của trắc ẩn, tình yêu; nhưng nếu bạn đối xử với tất cả họ như một tập thể, nó không còn nữa.

Nếu bạn không đặt tên, bạn phải lưu tâm mọi cảm thấy khi nó nảy sinh. Khi bạn đặt tên, cảm thấy đó khác hẳn cái tên? Hay cái tên đánh thức cảm thấy? Làm ơn hãy suy nghĩ nó kỹ càng. Khi chúng ta đặt tên, hầu hết chúng ta củng cố thêm cảm thấy. Cảm thấy và đặt tên xảy ra tức khắc. Nếu có một khoảng ngừng giữa đặt tên và cảm thấy, vậy thì bạn có thể phát giác liệu rằng cảm thấy có khác biệt đặt tên, và vậy là bạn có thể tiếp cận ‘cảm thấy’ mà không đặt tên nó.
Vấn đề là như thế này, làm thế nào được tự do khỏi một cảm thấychúng ta đặt tên, như sự tức giận, phải không? Không phải làm thế nào khuất phục nó, thăng hoa nó, kiềm chế nó, tất cả đều quá ngớ ngẩn và không-chín chắn; nhưng làm thế nào thực sự được tự do khỏi nó? Muốn thực sự được tự do khỏi nó, chúng ta phải tìm được liệu từ ngữ quan trọng hơn cảm thấy. Từ ngữ ‘tức giận’ có ý nghĩa nhiều hơn chính cảm thấy. Muốn thực sự tìm được điều đó, phải có một khoảng ngừng giữa cảm thấy và đặt tên. Đó là một nhiệm vụ.

Nếu tôi không đặt tên một cảm thấy, đó là nói rằng, nếu suy nghĩ không đang vận hành chỉ bởi vì những từ ngữ, hay nếu tôi không suy nghĩ dựa vào những từ ngữ, những hình ảnh hay những biểu tượng, mà hầu hết chúng ta đều làm – vậy thì điều gì xảy ra? Vậy thì chắc chắn cái trí không chỉ là người quan sát. Khi cái trí không đang suy nghĩ dựa vào những từ ngữ, những biểu tượng, những hình ảnh; không có người suy nghĩ tách rời khỏi suy nghĩ, mà là từ ngữ. Vậy thì cái trí là yên lặng, đúng chứ? – không phải được làm yên lặng, nó là yên lặng. Khi cái trí thực sự yên lặng, vậy là những cảm thấy nảy sinh có thể được giải quyết ngay tức khắc. Chỉ khi nào chúng ta đặt những cái tên cho những cảm thấyvì vậy củng cố chúng thì những cảm thấy đó mới có sự tiếp tục; chúng được lưu trữ trong trung tâm, từ đó chúng ta cho những cái tên nhiều thêm nữa, hoặc để củng cố hoặc để chuyển tải chúng.

Khi cái trí không còn là trung tâm, bởi vì người suy nghĩ được tạo thành bởi những từ ngữ, bởi những trải nghiệm quá khứ – tất cả đều là những kỷ niệm, những nhãn hiệu, được lưu trữ và đặt trong những bảng phân loại, trong những ngăn chật hẹp – khi nó không làm bất kỳ sự việc đó, vậy thì, chắc chắn cái trí là yên lặng. Nó không còn bị trói buộc, nó không còn là một trung tâm như cái tôi – ngôi nhà của tôi, thành tựu của tôi, công việc của tôi – mà vẫn còn là những từ ngữ, đang kích thích cảm thấy, và vì vậy đang củng cố ký ức. Khi không có những sự việc này đang xảy ra, cái trí rất yên lặng. Trạng thái đó không là tiêu cực. Trái lại, khi đến được mấu chốt đó, bạn phải trải qua tất cả điều này, mà là một nhiệm vụ gian nan; nó không phải là đang học hành một vài bộ từ ngữ và đang lặp lại chúng giống như một em học sinh – ‘không đặt tên’, ‘không đặt tên’. Để theo sát tất cả những hàm ý của nó, để trải nghiệm nó, để thấy cái trí vận hành như thế nào và vì vậy đến được mấu chốt khi bạn không còn đặt tên, mà có nghĩa không còn là một trung tâm tách khỏi suy nghĩchắc chắn toàn tiến hành này là thiền định thực sự. 

Khi cái trí thực sự yên lặng, vậy là cái vô hạn có thể hiện diện. Bất kỳ qui trình nào khác, bất kỳ tìm kiếm nào khác về sự thật, chỉ là tự-chiếu rọi, tự-tạo tác và vì vậy không thực sự. Nhưng tiến hành này rất gian nan, và nó có ý rằng cái trí phải luôn luôn tỉnh thức được mọi sự việc đang xảy ra bên trong đối với nó. Muốn đến được mấu chốt này, không thể có phê bình hay biện hộ từ khởi đầu đến kết thúc – không phải rằng đây là một kết thúc. Không có kết thúc, bởi vì có cái gì đó lạ thường vẫn đang xảy ra. Đây không là sự hứa hẹn. Nó dành cho bạn để thử nghiệm, để thâm nhập vào chính bạn sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn, để cho nhiều tầng của trung tâm được tan biến, và bạn có thể thực hiện nó một cách mau lẹ hay lười biếng. Nó gây hứng thú lạ thường khi nhìn ngắm qui trình của cái trí, cách nó lệ thuộc vào những từ ngữ, cách những từ ngữ kích động ký ức hay đánh thức những trải nghiệm chết rồi và trao sự sống cho chúng. Trong qui trình đó cái trí đang sống hoặc trong tương lai hoặc trong quá khứ. Vì vậy những từ ngữ có một ý nghĩa cực kỳ, thuộc thần kinh cũng như thuộc tâm lý. Và làm ơn đừng học hành tất cả điều này từ tôi hay từ một quyển sách. Bạn không thể học hành nó từ một người khác hay tìm được nó trong một quyển sách. Điều gì bạn học hành hay tìm được trong một quyển sách sẽ không là sự thật. Nhưng bạn có thể trải nghiệm nó, bạn có thể nhìn ngắm chính bạn đang hành động, nhìn ngắm chính bạn đang suy nghĩ, thấy bạn đang suy nghĩ như thế nào, bạn đang đặt tên ‘cảm thấy’ mau lẹ như thế nào khi nó nảy sinh – và nhìn ngắm toàn qui trình giải thoát cái trí khỏi trung tâm của nó. Vậy thì cái trí, vì là yên lặng, có thể thâu nhận cái vĩnh hằng.

28- VỀ CÁI ĐÃ ĐƯỢC BIẾT VÀ
 CÁI KHÔNG BIẾT ĐƯỢC

Câu hỏi: Cái trí của chúng ta chỉ biết ‘cái đã được biết’. Cái gì trong chúng ta mà thúc giục chúng ta tìm ra ‘cái không biết được’, sự thật, Thượng đế?

Krishnamurti: Cái trí của bạn thúc giục hướng đến cái không biết được hay sao? Có một thôi thúc trong chúng ta về phía cái không biết được, sự thật, Thượng đế? Làm ơn hãy suy nghĩ nó một cách nghiêm túc. Đây không là một câu hỏi hoa mỹ nhưng chúng ta hãy thực sự tìm ra. Có một thôi thúc bên trong mỗi người chúng ta để tìm ra cái không biết được hay sao? Có à? Làm thế nào bạn có thể tìm ra cái không biết được? Nếu bạn không biết nó, làm thế nào bạn tìm ra nó? Có một thôi thúc cho sự thật, hay nó chỉ là một ham muốn cho cái đã được biết, được lan rộng? Bạn hiểu tôi có ý gì chứ? Tôi đã biết nhiều thứ; chúng đã không cho tôi hạnh phúc, thỏa mãn, hân hoan. Vì vậy bây giờ tôi đang muốn cái gì đó khác mà sẽ cho tôi hân hoan nhiều hơn, hạnh phúc nhiều hơn, sinh lực nhiều hơn – bất kỳ điều gì bạn muốn. Liệu cái đã được biết, mà là cái trí của tôi – bởi vì cái trí của tôi là cái đã được biết, kết quả của quá khứ – liệu cái trí đó có thể tìm kiếm cái không biết được? Nếu tôi không biết sự thật, cái không biết được, làm thế nào tôi có thể tìm kiếm nó? Chắc chắn nó phải đến, tôi không phải tìm kiếm nó. Nếu tôi tìm kiếm nó, tôi đang tìm kiếm cái gì đó mà là cái đã được biết, được chiếu rọi bởi cái tôi.

Vấn đề của chúng ta không phải là: cái gì trong chúng tathúc đẩy chúng ta tìm kiếm cái không biết được – điều đó đã rõ ràng rồi. Chính là ham muốn riêng của chúng ta để có nhiều an toàn hơn, nhiều vĩnh cửu hơn, nhiều cố định hơn, nhiều hạnh phúc hơn, để tẩu thoát khỏi phiền muộn, khỏi đau khổ, hoang mang. Đó là động cơ rõ ràng của chúng ta. Khi có động cơ đó, thôi thúc đó, bạn sẽ tìm ra một tẩu thoát tuyệt vời, một chỗ ẩn náu tuyệt vời – trong Phật, trong Chúa hay trong những khẩu hiệu chính trị và mọi chuyện của nó. Đó không là sự thật; đó không là cái không thể biết được, cái không biết được. Vì vậy thôi thúc cho cái không biết được phải kết thúc, tìm kiếm cái không biết được phải ngừng lại; mà có nghĩa rằng phải có hiểu rõ về cái đã được biết chồng chất, mà là cái trí. Cái trí phải hiểu rõ về chính nó như cái đã được biết, bởi vì đó là tất cả mà nó biết. Bạn không thể suy nghĩ về cái gì đó mà bạn không biết. Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái gì đó mà bạn biết.

Khó khăn của chúng ta là cho cái trí không tiếp tục trong cái đã được biết; điều đó chỉ có thể xảy ra khi cái trí hiểu rõ về chính nó và về làm thế nào tất cả chuyển động của nó từ quá khứ, đang chiếu rọi chính nó qua hiện tại sang tương lai. Nó là một chuyển động liên tục của cái đã được biết; liệu chuyển động đó có thể được kết thúc? Nó có thể kết thúc chỉ khi nào hệ thống máy móc của qui trình riêng của nó được hiểu rõ, chỉ khi nào cái trí hiểu rõ về chính nó và những công việc của nó, những phương cách của nó, những mục đích của nó, những theo đuổi của nó, những đòi hỏi của nó – không chỉ những đòi hỏi trên bề mặt mà còn những thôi thúc và những động cơ sâu thẳm bên trong. Đây là một nhiệm vụ gian nan. Không chỉ trong một gặp gỡ hay tại một giảng thuyết hay trong đọc một quyển sách mà bạn sẽ tìm được nó. Trái lại nó cần liên tục cảnh giác, liên tục nhận biết được mọi chuyển động của suy nghĩ – không chỉ khi bạn đang thức giấc mà cũng còn khi bạn đang ngủ. Nó phải là một tiến hành tổng thể, không phải là một qui trình từng phần, thỉnh thoảng.

Cũng vây, ý định phải đúng đắn. Đó là phải chấm dứt sự mê tín rằng phía bên trong tất cả chúng ta đều mong muốn cái không biết được. Chính là một ảo tưởng khi suy nghĩ rằng tất cả chúng ta đang tìm kiếm Thượng đếchúng ta không tìm kiếm Thượng đế. Chúng ta không phải tìm kiếm ánh sáng. Sẽ có ánh sáng khi không còn bóng tối, và qua bóng tối chúng ta không thể tìm ra ánh sáng. Tất cả mọi điều chúng ta có thể làm là xóa sạch những cản trở mà tạo ra bóng tối, và việc xóa sạch tùy thuộc vào ý định. Nếu bạn đang xóa sạch chúng với mục đích để thấy ánh sáng, vậy thì bạn không đang xóa sạch cái gì cả, bạn chỉ đang thay thế từ ngữ ánh sáng thay vì bóng tối. Thậm chí khi nhìn vượt khỏi bóng tối là một tẩu thoát khỏi bóng tối.

Chúng ta phải suy nghĩ không phải cái gì đang thúc đẩy chúng ta, nhưng tại sao chúng ta lại ở trong tình trạng hoang mang như thế, phiền muộn như thế, ganh đua như thế và thù hận như thế – tất cả những sự việc ngu xuẩn của sự tồn tại của chúng ta. Khi những điều này không còn, vậy thì có ánh sáng, chúng ta không phải tìm kiếm nó. Khi dốt nát tan biến, có thông minh. Những người dốt nát cố gắng trở thành thông minh vẫn còn là dốt nát. Dốt nát không bao giờ có thể biến thành thông minh; chỉ khi nào dốt nát chấm dứt thì mới có thông minh, trí tuệ. Con người dốt nát mà cố gắng trở thành thông minh, thông thái, chắc chắn không bao giờ có thể được. Muốn biết cái gì là dốt nát, người ta phải tìm hiểu nó, không phải trên bề mặt, nhưng trọn vẹn, hoàn toàn, sâu thẳm, sâu sắc; người ta phải tìm hiểu tất cả những tầng khác nhau của dốt nát và khi dốt nát không còn, thông minh hiện diện.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra, không phải liệu có cái gì đó nhiều hơn nữa, cái gì đó to tát hơn cái đã được biết, mà đang thôi thúc chúng ta hướng về cái không biết được, nhưng thấy cái gì trong chúng ta mà đang tạo ra sự hoang mang, những chiến tranh, những khác biệt giai cấp, sự kênh kiệu, sự chạy theo những người nổi tiếng, sự tích lũy hiểu biết, sự tẩu thoát qua âm nhạc, qua nghệ thuật, qua quá nhiều cách. Chắc chắn, rất quan trọng phải thấy chúng như chúng là, và quay lại chính chúng ta như chúng ta là. Từ đó chúng ta có thể tiếp tục tiến tới. Vậy thì, xóa sạch cái đã được biết tương đối dễ dàng. Khi cái trí yên lặng, khi nó không còn đang chiếu rọi chính nó vào tương lai, ao ước cho cái gì đó; khi cái trí thực sự yên lặng, an bình sâu thẳm, cái không biết được hiện diện. Bạn không thể tìm kiếm nó. Bạn không thể mời mọc nó. Cái bạn mời mọc chỉ là cái bạn biết. Bạn không thể mời mọc một người khách không quen biết. Bạn chỉ có thể mời mọc người bạn quen biết. Nhưng bạn không biết cái không biết được, Thượng đế, sự thật, hay từ ngữ gì bạn muốn. Nó phải đến. Nó chỉ có thể hiện diện khi cánh đồng đúng đắn, khi mảnh đất được dọn dẹp sạch sẽ, nhưng nếu bạn dọn dẹp với mục đích để cho nó đến, vậy thì bạn sẽ không có nó. 

Vấn đề của chúng ta không phải tìm kiếm cái không thể biết được bằng cách nào, nhưng hiểu rõ những qui trình tích lũy của cái trí, mà luôn luôn là cái đã được biết. Đó là một nhiệm vụ gian nan: mà đòi hỏi sự chú ý liên tục, một tỉnh táo liên tục mà trong đó không có ý thức của xao nhãng, của nhận dạng, của chỉ trích; nó là đang hiện diện cùng cái gì là. Chỉ đến lúc đó cái trí có thể yên lặng. Không thiền định nào, kỷ luật nào, có thể làm cho cái trí yên lặng, trong ý nghĩa thực sự của từ ngữ. Chỉ khi nào cơn gió ngừng lại cái hồ mới lặng yên. Bạn không thể làm cho cái hồ lặng yên. Công việc của chúng ta không phải là theo đuổi cái không thể biết được nhưng hiểu rõ sự hoang mang, sự phiền muộn, sự đau khổ, trong chính chúng ta; và rồi cái sự việc đó âm thầm hiện diện, trong đó có hân hoan.

29- SỰ THẬTDỐI TRÁ

Câu hỏi: Làm thế nào sự thật, như ông đã nói, khi được lặp lại, trở thành một dối trá? Cái gì thực sự là một dối trá? Tại sao lại sai trái khi dối trá? Đây không là một vấn đề tinh tế và sâu sắc trên tất cả mọi mức độ của sự tồn tại của chúng ta hay sao?

Krishnamurti: Có hai câu hỏi nơi đây, vì vậy chúng ta hãy tìm hiểu câu hỏi đầu tiên, đó là: khi một sự thật được lặp lại, làm thế nào nó trở thành một dối trá? Chúng ta lặp lại cái gì? Bạn có thể lặp lại một hiểu rõ, hay sao? Tôi hiểu rõ cái gì đó. Tôi có thể lặp lại nó? Tôi có thể diễn tả nó ra từ ngữ, tôi có thể truyền đạt nó nhưng chắc chắn trải nghiệm không là cái gì được lặp lại, đúng chứ? Chúng ta bị trói buộc trong từ ngữ và mất đi ý nghĩa của trải nghiệm. Nếu bạn đã có một trải nghiệm, bạn có thể lặp lại nó hay sao? Bạn có lẽ muốn lặp lại nó, bạn có lẽ có ham muốn cho sự lặp lại của nó, cho cảm giác của nó, nhưng ngay khi bạn có một trải nghiệm, nó qua rồi, nó không thể được lặp lại. Điều gì có thể được lặp lại là cảm giáctừ ngữ liên quan mà trao sự sống cho cảm giác đó. Bất hạnh thay, bởi vì hầu hết chúng ta đều là những người tuyên truyền, chúng ta bị trói buộc trong sự lặp lại của từ ngữ. Vì vậy chúng ta sống dựa vào từ ngữsự thật bị khước từ. 

Ví dụ, cảm giác của tình yêu. Bạn có thể lặp lại nó hay sao? Khi bạn nghe những từ ngữ ‘Hãy thương yêu người hàng xóm của bạn’, đó là một sự thật đối với bạn? Nó là sự thật khi nào bạn có thương yêu người hàng xóm; và tình yêu đó không thể được lặp lại ngoại trừ chỉ là từ ngữ. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều hạnh phúc, mãn nguyện, với sự lặp lại ‘Hãy thương yêu người hàng xóm của bạn’ hay ‘Đừng tham lam’. Vì vậy sự thật của một người khác hay một trải nghiệm thực sự mà bạn đã có, chỉ qua sự lặp lại, không trở thành một sự thật. Trái lại, sự lặp lại ngăn cản sự thật. Chỉ lặp lại những ý tưởng nào đó không là sự thật

Khó khăn trong việc này là hiểu rõ câu hỏi mà không suy nghĩ dựa vào điều đối nghịch. Một dối trá không là cái gì đó đối nghịch với sự thật. Người ta có thể thấy sự thật của điều gì đang được nói, không phải trong đối nghịch hay trong tương phản, như một dối trá hay một sự thật; nhưng chỉ thấy rằng hầu hết chúng ta đều lặp lại mà không có hiểu rõ. Ví dụ, chúng ta đã bàn luận về việc đặt tên hay không đặt tên một cảm giácvân vân. Nhiều người trong các bạn sẽ lặp lại nó, tôi chắc chắn, suy nghĩ rằng nó là ‘sự thật’. Bạn sẽ không bao giờ lặp lại một trải nghiệm nếu nó là một trải nghiệm trực tiếp. Bạn có lẽ truyền đạt nó nhưng khi nó là một trải nghiệm thực sự những cảm giác đằng sau nó đều biến mất, nội dung cảm giác đằng sau những từ ngữ hoàn toàn tan biến.

Ví dụ, ý tưởng rằng người suy nghĩsuy nghĩ là một. Nó có lẽ là một sự thật đối với bạn, bởi vì bạn đã trải nghiệm trực tiếp nó. Nếu tôi lặp lại nó, nó sẽ không là sự thật, đúng chứ? – làm ơn hãy hiểu, sự thật không như đối nghịch dối trá. Nó sẽ không thực, nó chỉ là sự lặp lại và vì vậy sẽ không có ý nghĩa. Bạn thấy, bằng sự lặp lại chúng ta tạo ra một giáo điều, chúng ta xây dựng một nhà thờ và trong đó chúng ta tìm một chỗ ẩn núp. Từ ngữ và không-sự thật, trở thành ‘sự thật’. Từ ngữ không là sự việc. Đối với chúng ta, sự việc là từ ngữ và đó là lý do tại sao người ta phải rất cẩn thận không nên lặp lại điều gì đó mà người ta không thực sự hiểu rõ. Nếu bạn hiểu rõ điều gì đó, bạn có thể truyền đạt nó, nhưng những từ ngữ và ký ức đã làm mất đi sự quan trọng thuộc cảm giác của chúng. Vì vậy nếu người ta hiểu rõ điều đó, trong nói chuyện thông thường, tầm nhìn của người ta, từ ngữ của người ta, thay đổi.

chúng ta đang tìm kiếm sự thật qua hiểu rõ về chính mình và không là những người tuyên truyền, rất quan trọng phải hiểu rõ điều này. Qua sự lặp lại người ta làm mê hoặc chính người ta bằng những từ ngữ hay bằng những cảm giác. Người ta bị trói buộc trong những ảo tưởng. Muốn được tự do khỏi điều dó, rất cần thiết phải trải nghiệm trực tiếp và muốn trải nghiệm trực tiếp, người ta phải tỉnh thức được chính mình trong qui trình của sự lặp lại, của những thói quen, của những từ ngữ, của những cảm giác. Tỉnh thức đó cho người ta một tự do lạ thường, để cho có thể có một mới mẻ lại, một trải nghiệm liên tục, một trong sáng.

Câu hỏi khác là: ‘Cái gì thực sự là một dối trá? Tại sao lại sai trái khi dối trá? Đây không là một vấn đề tinh tế và sâu sắc trên mọi mức độ của sự tồn tại của chúng ta hay sao?’

Một dối trá là gì? Một mâu thuẫn, một tự-mâu thuẫn, đúng chứ? Người ta có thể mâu thuẫn, nhận biết được hay không nhận biết được; nó có thể hoặc cố ý hay vô tình; mâu thuẫn có thể rất, rất tinh tế hay rõ ràng. Khi sự phân chia trong mâu thuẫn rất lớn lao, lúc đó hoặc người ta trở nên mất cân bằng hoặc người ta nhận ra sự phân chia và bắt đầu sửa chữa nó.

Muốn hiểu rõ vấn đề này, một dối trá là gì và tại sao chúng ta dối trá, người ta phải tìm hiểu nó mà không suy nghĩ dựa vào một đối nghịch. Liệu chúng ta có thể quan sát vấn đề mâu thuẫn này trong chính chúng ta và không cố gắng để không-mâu thuẫn? Khó khăn của chúng ta trong việc tìm hiểu câu hỏi này là chúng ta quá sẵn lòng phê bình một dối trá, đúng chứ? Nhưng muốn hiểu rõ nó, liệu chúng ta có thể suy nghĩ về nó mà không dựa vào sự thậtgiả dối, nhưng cái gì là sự mâu thuẫn. Tại sao chúng ta mâu thuẫn? Tại sao có mâu thuẫn trong chính chúng ta? Liệu không có một gắng sức để sống theo một khuôn mẫu, theo một kiểu mẫu – một phỏng chừng liên tục của chính chúng ta đến một khuôn mẫu, một nỗ lực liên tục để là cái gì đó, hoặc trong đôi mắt của người khác hoặc trong đôi mắt riêng của chúng ta? Có một ham muốn, đúng chứ? Để tuân phục đến một khuôn mẫu; khi người ta không đang sống dựa vào khuôn mẫu đó, có sự mâu thuẫn.

Bây giờ tại sao chúng ta có một khuôn mẫu, một kiểu mẫu, một phỏng chừng, một ý tưởngchúng ta đang cố gắng sống dựa vào? Tại sao? Rõ ràng là để được an toàn, để được bảo vệ, để được ưa chuộng, để có một quan điểm tốt của chính chúng tavân vân. Có hạt giống của sự mâu thuẫn. Chừng nào chúng ta còn đang phỏng chừng chính chúng ta đến cái gì đó, cố gắng là cái gì đó, phải có sự mâu thuẫn; vì vậy phải có phân chia này giữa giả dốisự thật. Tôi nghĩ điều này rất quan trọng, nếu bạn yên lặng tìm hiểu nó. Không phải rằng không có giả dốisự thật; nhưng tại sao có sự mâu thuẫn trong chính chúng ta? Đó không phải bởi vì chúng ta đang gắng sức để là điều gì đó – để cao quí, để tốt lành, để đạo đức, để sáng tạo, để hạnh phúcvân vân. Trong chính ham muốn để là cái gì đó, có một mâu thuẫn – không phải là điều gì khác. Chính mâu thuẫn này rất phá hoại. Nếu người ta có thể đồng hóa hoàn toàn cùng cái gì đó, cùng cái này hay cùng cái kia, vậy thì sự mâu thuẫn chấm dứt; khi chúng ta đồng hóa chính chúng ta cùng cái gì đó, có sự tự-khép kín, có một kháng cự, mà tạo ra mất thăng bằng – đó là một sự việc rõ ràng

Tại sao lại có mâu thuẫn trong chính chúng ta? Tôi đã làm điều gì đó và tôi không muốn nó bị phát giác; tôi đã suy nghĩ điều gì đó nhưng không thấu suốt, điều đó khiến tôi ở trong một trạng thái mâu thuẫn, và tôi không ưa thích nó. Khi có sự phỏng chừng, phải có sợ hãi và chính sợ hãi này gây mâu thuẫn. Trái lại nếu khôngtrở thành, không có gắng sức để là cái gì đó, vậy thì không có ý thức của sợ hãi; không có mâu thuẫn; không có dối trá trong chúng ta ở bất kỳ mức độ nào, có ý thức hay không ý thức – cái gì đó phải được kiềm chế, cái gì đó phải được bộc lộ. Bởi vì hầu hết sống của chúng ta là một vấn đề của những tâm trạng và những phô diễn, phụ thuộc vào những tâm trạng của chúng ta, chúng ta phô diễn – mà là sự mâu thuẫn. Khi tâm trạng biến mất, chúng ta là cái gì chúng ta là. Chính mâu thuẫn này mới thực sự quan trọng, không phải liệu bạn đưa ra một lời nói dối xã giao vô tội hay không. Chừng nào sự mâu thuẫn này còn tồn tại, phải có một sự tồn tại hời hợt và thế là những sợ hãi hời hợt cần phải được bảo vệ – và thế là những lời nói dối vô tội – bạn biết, tất cả mọi chuyện theo sau. Chúng ta hãy theo dõi câu hỏi này, không phải hỏi cái gì là một dối trá và cái gì là sự thật, nhưng, không có những đối nghịch này, tìm hiểu vấn đề của sự mâu thuẫn trong chính chúng ta – mà khó khăn cực kỳ, bởi vì khi chúng ta lệ thuộc quá nhiều vào những cảm giác, hầu hết sống của chúng tamâu thuẫn. Chúng ta lệ thuộc vào những ký ức, vào những quan điểm; chúng ta có quá nhiều sợ hãichúng ta muốn che đậy – tất cả sự mâu thuẫn tự-tạo tác này trong chính chúng ta; khi mâu thuẫn đó trở thành không chịu nổi, người ta bị mất thăng bằng. Người ta muốn an lành và mọi thứ mà người ta thực hiện đều tạo ra chiến tranh, không chỉ trong gia đình mà còn phía bên ngoài. Thay vì hiểu rõ điều gì tạo ra xung đột, chúng ta chỉ cố gắng để trở thành nhiều hơn và nhiều hơn một sự việc này hay một sự việc khác, sự đối nghịch, vì vậy đang tạo ra sự phân chia lớn lao hơn. 

Liệu có thể hiểu rõ tại sao có sự mâu thuẫn trong chính chúng ta – không chỉ trên bề mặt mà còn sâu thẳm hơn, thuộc tâm lý? Trước hết, người ta có nhận biết được rằng người ta sống một sống mâu thuẫn hay không? Chúng ta muốn hòa bình và chúng ta lại là những người theo chủ nghĩa quốc gia; chúng ta muốn lẩn tránh sự đau khổ của xã hộituy nhiên mỗi người chúng ta lại là những cá thể, bị giới hạn, khép kín. Chúng ta đang liên tục sống trong mâu thuẫn. Tại sao? Không phải bởi vì chúng ta là những nô lệ cho cảm giác hay sao? Điều này không cần được phủ nhận cũng như được chấp nhận. Nó cần đến nhiều hiểu rõ về những hàm ý của cảm giác, mà là những ham muốn. Chúng ta ham muốn quá nhiều sự việc, tất cả đang mâu thuẫn với một sự việc khác. Chúng ta khoác vào quá nhiều mặt nạ xung đột; chúng ta mang vào một mặt nạ khi nó phù hợp cho chúng ta và khước từ nó khi có một cái gì khác gây lợi lộc nhiều hơn, gây vui thú nhiều hơn. Chính trạng thái mâu thuẫn này mới tạo ra sự dối trá. Đối nghịch với điều đó, chúng ta sáng chế ‘sự thật’. Nhưng chắc chắn sự thật không là đối nghịch của sự dối trá. Cái mà có một đối nghịch không là sự thật. Sự đối nghịch chứa đựng đối nghịch riêng của nó, vì vậy nó không là sự thật, và muốn hiểu rõ vấn đề này một cách rất sâu sắc, người ta phải nhận biết được tất cả những mâu thuẫn trong đó chúng ta sống. Khi tôi nói, ‘Tôi thương yêu bạn’, cùng với nó liền có ganh tị, ghen tuông, lo âu, sợ hãi – mà là mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn này phải được hiểu rõ và người ta có thể hiểu rõ nó chỉ khi nào người ta tỉnh thức được nó, tỉnh thức mà không có bất kỳ chỉ trích hay biện hộ – chỉ nhìn ngắm nó. Muốn nhìn ngắm nó một cách thụ động, người ta phải hiểu rõ tất cả qui trình của biện hộchỉ trích

Nó không là một công việc dễ dàng, nhìn ngắm một cách thụ động vào cái gì đó; nhưng trong hiểu rõ điều đó, người ta bắt đầu hiểu rõ toàn qui trình của những phương cách của cảm thấysuy nghĩ của người ta. Khi người ta tỉnh thức được toàn ý nghĩa của mâu thuẫn trong chính người ta, nó mang lại một thay đổi lạ thường: vậy thì, bạn là chính bạn, không phải cái gì đó mà bạn phải cố gắng để là. Bạn không còn đang theo đuổi một lý tưởng, đang tìm kiếm hạnh phúc. Bạn là cái gì bạn là và từ đó bạn có thể tiến tới. Vậy thì không thể có mâu thuẫn.



30- VỀ THƯỢNG ĐẾ 

Câu hỏi: Ông đã nhận ra sự thật. Liệu ông có thể nói cho chúng tôi Thượng đế là gì? 

Krishnamurti: Làm thế nào bạn biết tôi đã nhận ra? Muốn biết rằng tôi đã nhận ra bạn cũng phải nhận ra. Đây không chỉ là một câu trả lời khôn khéo. Muốn biết cái gì đó bạn phải thuộc về nó. Bạn cũng phải đã có sự trải nghiệm cho chính bạn và vì vậy câu nói ‘tôi đã nhận ra’ của bạn, rõ ràng là không có ý nghĩa. Điều gì quan trọng nếu tôi đã nhận ra hay đã không nhận ra? Điều gì tôi đang nói không là sự thật hay sao? Thậm chí nếu tôi là một người hoàn hảo nhất, nếu điều gì tôi nói không là sự thật tại sao bạn lại lắng nghe tôi? Chắc chắn sự nhận ra của tôi không liên quan gì đến điều tôi đang nói, và người mà tôn sùng một người khác bởi vì người khác đã nhận ra, đang tôn sùng uy quyền và vì thế người ấy không bao giờ có thể tìm ra sự thật. Hiểu rõ về điều gì đã được nhận ra và biết người đã nhận ra không quan trọng gì cả, đúng chứ? 

Tôi biết toàn truyền thống đều nói rằng, ‘Hãy ở cùng người đã nhận ra.’ Làm thế nào bạn có thể biết rằng ông ta đã nhận ra? Tất cả mọi điều bạn có thể làm là ở cùng ông ta và thậm chí như thế, ngày nay đó là việc khó khăn cực kỳ. Chẳng có bao nhiêu con người tốt lành, trong ý nghĩa thực sự của từ ngữ – người mà không đang tìm kiếm cái gì đó, người mà không đang theo đuổi cái gì đó. Những người kia mà đang tìm kiếm cái gì đó và đang theo đuổi cái gì đó là những người trục lợi và vì vậy rất khó khăn cho bất kỳ người nào muốn tìm được một người bạn để thương yêu.

Chúng ta lý tưởng hóa những người đã nhận rahy vọng rằng họ sẽ trao tặng chúng ta cái gì đó, mà là một liên hệ giả dối. Làm thế nào người đã nhận ra có thể chuyển tải nếu không có tình yêu? Đó là sự khó khăn của chúng ta. Trong mọi bàn luận của chúng ta, chúng ta không thực sự thương yêu lẫn nhau; chúng ta nghi ngờ. Bạn muốn cái gì đó từ tôi, hiểu biết, sự nhận ra, hay bạn muốn kết bạn với tôi, tất cả điều đó thể hiện rằng bạn không thương yêu. Bạn muốn cái gì đó và bạn đi ra ngoài để trục lợi. Nếu chúng ta thực sự thương yêu lẫn nhau, vậy thì sẽ có sự chuyển tải tức khắc. Vậy thì, không đặt thành vấn đề liệu bạn đã nhận ra hay tôi đã không nhận ra hay liệu bạn là người cao quý hay người thấp hèn. Bởi vì những tâm hồn của chúng ta đã khô cằn, Thượng đế đã trở thành quan trọng cực kỳ. Đó là, bạn muốn biết Thượng đế bởi vì bạn đã mất đi bài hát vui tươi trong tâm hồn của bạn và bạn theo đuổi người ca sĩyêu cầu anh ấy dạy cho bạn ca hát. Anh ấy có thể dạy bạn phương pháp kỹ thuật nhưng kỹ thuật không dẫn bạn đến sáng tạo. Bạn không thể là một ca sĩ nếu chỉ biết cách ca hát. Bạn có lẽ biết tất cả những buớc của một điệu nhảy nhưng nếu bạn không có sáng tạo trong tâm hồn của bạn, bạn chỉ vận hành như một cái máy. Bạn không thể thương yêu nếu mục đích của bạn chỉ là đạt được một kết quả. Không có sự việc như một lý tưởng, bởi vì đó chỉ là một thành tựu. Vẻ đẹp không là một thành tựu, nó là sự thật, ngay lúc này, không phải ngày mai. Nếu có thương yêu bạn sẽ hiểu rõ cái không biết được, bạn sẽ biết Thượng đế là gì và không cần ai bảo cho bạn – và đó là vẻ đẹp của tình yêu. Nó là vĩnh hằng trong chính nó. Bởi vì không có tình yêu, chúng ta muốn một ai đó, hay Thượng đế, trao tặng nó cho chúng ta. Nếu chúng ta thực sự thương yêu, bạn có biết đây sẽ là một thế giới khác biệt biết chừng nào hay không? Chúng ta sẽ là những con người hạnh phúc thực sự. Vì vậy chúng ta không nên đầu tư hạnh phúc của chúng ta trong những sự việc, trong gia đình, trong những lý tưởng. Chúng ta nên hạnh phúc và thế là những sự việc, những con người và những lý tưởng sẽ không chi phối được sống của chúng ta. Tất cả chúng đều là những sự việc phụ. Bởi vì chúng ta không thương yêuchúng ta không hạnh phúc nên chúng ta đầu tư trong những sự việc, nghĩ rằng chúng sẽ trao tặng hạnh phúc cho chúng ta, và một trong những sự việc mà chúng ta đầu tư là Thượng đế.

Bạn muốn tôi nói cho bạn sự thật là gì. Cái không thể diễn tả được có thể đặt vào những từ ngữ hay sao? Liệu bạn có thể đo lường cái gì đó không thể đo lường được? Bạn có thể bắt được gió trong bàn tay của bạn hay sao? Nếu bạn làm được, đó là gió à? Nếu bạn đo lường được cái không thể đo lường được, đó là sự thật hay sao? Nếu bạn hình thành công thức về nó, đó là sự thật hay sao? Chắc chắn không, khoảnh khắc bạn diễn tả cái gì đó mà không thể diễn tả được, nó không còn là sự thật. Khoảnh khắc bạn diễn giải cái không thể biết được vào cái đã được biết, nó ngừng là cái không thể biết được. Tuy nhiên đó lại là điều gì chúng ta đang khao khát. Luôn luôn chúng ta muốn biết, bởi vì như thế chúng ta sẽ có thể tiếp tục, như thế chúng ta nghĩ chúng ta sẽ có thể theo đuổi vĩnh hằng, hạnh phúc tột đỉnh. Chúng ta muốn biết bởi vì chúng ta không hạnh phúc, bởi vì chúng ta đang cố gắng cực kỳ, bởi vì chúng ta bị kiệt quệ, bị thoái hóa. Tuy nhiên thay vì nhận ra sự kiện đơn giản – rằng chúng tathoái hóa, rằng chúng ta là đờ đẫn, kiệt sức, rối loạnchúng ta muốn chuyển động khỏi ‘cái gì là cái đã được biết’ vào cái không biết được, mà lại nữa trở thành cái đã được biết và thế là chúng ta không bao giờ có thể tìm được sự thật.

Vì vậy thay vì hỏi ai đã nhận ra hay Thượng đế là gì, tại sao không trao toàn chú ý của bạn và nhận biết của bạn vào cái gì là? Vậy thì bạn sẽ tìm ra cái không biết được, hay nói khác hơn nó sẽ đến với bạn. Nếu bạn hiểu rõ cái đã được biết là gì, bạn sẽ trải nghiệm sự yên lặng lạ thường đó mà không bị thôi thúc, không bị ép buộc, sự trống không sáng tạo đó mà trong nó, một mình, sự thật có thể thâm nhập. Nó không thể thâm nhập cái mà đang trở thành, đang gắng sức; nó chỉ có thể thâm nhập cái mà đang là, mà hiểu rõ cái gì là. Vậy thì bạn sẽ thấy rằng sự thật đó không ở trong khoảng cách; cái không biết được không xa lắm đâu; nó ở trong cái gì là. Bởi vì đáp án của một nghi vấn ở trong nghi vấn, thế là sự thật ở trong cái gì là; nếu chúng ta có thể hiểu rõ cái gì là, vậy thì chúng ta sẽ biết được sự thật

Gian lao cực kỳ khi tỉnh thức được đờ đẫn, tỉnh thức được tham lam, tỉnh thức được ý muốn xấu xa, tham vọngvân vân. Chính sự kiện tỉnh thức được cái gì là là sự thật. Chính là sự thậtgiải thoát, không phải sự cố gắng của bạn để được giải thoát. Vì vậy sự thật không xa lắm đâu, nhưng chúng ta đặt nó quá xa bởi vì chúng ta cố gắng sử dụng nó như một phương tiện của tự-tiếp tục. Nó ở đây, ngay lúc này, trong tức khắc. Vĩnh hằng hay không-thời gian là ‘ngay lúc này’, và ngay lúc này không thể được hiểu rõ bởi một con người bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian. Muốn giải thoát tư tưởng khỏi thời gian cần hành động, nhưng cái trí lười biếng, nó quá lờ đờ, và vì vậy luôn luôn tạo ra những ngáng trở khác. Nó chỉ có thể xảy ra được bằng thiền định đúng đắn, mà có nghĩa rằng ‘hành động trọn vẹn’, không phải một hành động tiếp tục, và hành động trọn vẹn chỉ có thể được hiểu rõ khi cái trí nắm bắt được qui trình của sự tiếp tục, mà là ký ức – không phải ký ức thực tế nhưng ký ức thuộc tâm lý. Chừng nào ký ức còn vận hành, cái trí không thể hiểu rõ cái gì là. Nhưng cái trí của người ta, toàn thân tâm của người ta, trở nên sáng tạo lạ thường, tỉnh thức một cách thụ động, khi người ta hiểu rõ ý nghĩa của sự kết thúc, bởi vì trong kết thúc có mới mẻ lại, trái lại trong tiếp tục có chết, có thoái hóa.



31- VỀ NHẬN RA TỨC KHẮC

Câu hỏi: Chúng tôi có thể nhận ra tức khắc sự thật mà ông đang nói, nếu không cần sự chuẩn bị trước hay sao? 

Krishnamurti: Bạn có ý gì qua từ ngữ sự thật? Đừng sử dụng một từ ngữchúng ta không biết ý nghĩa; chúng ta có thể sử dụng một từ ngữ đơn giản hơn, một từ ngữ trực tiếp hơn. Bạn có thể hiểu rõ, bạn có thể nắm bắt được một vấn đề một cách trực tiếp hay không? Đó là điều gì được bao hàm, đúng chứ? Liệu bạn có thể hiểu rõ cái gì là, tức khắc, ngay lúc này? Khi hiểu rõ cái gì là, bạn sẽ hiểu rõ ý nghĩa của sự thật; nhưng khi nói rằng người ta phải hiểu rõ sự thật chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Liệu bạn có thể hiểu rõ một vấn đề một cách trực tiếp, một cách trọn vẹn, và được tự do khỏi nó? Đó là điều gì được hàm ý trong câu hỏi này, đúng chứ? Liệu bạn có thể hiểu rõ một khủng hoảng, một thách thức, ngay tức khắc, thấy được toàn ý nghĩa của nó và được tự do khỏi nó? Điều gì bạn hiểu rõ không để lại dấu vết; vì vậy hiểu rõ hay sự thật là ‘người giải thoát’. Ngay lúc này liệu bạn có thể được giải thoát khỏi một vấn đề, khỏi một thách thức? Sống là một chuỗi của những thách thức và những đáp trả, đúng chứ? Và nếu đáp trả đến một thách thức của bạn bị quy định, bị giới hạn, không-trọn vẹn, vậy thì thách thức đó để lại dấu vết của nó, cặn bã của nó, mà được củng cố thêm nữa bởi một thách thức mới khác. Vì vậy có một ký ức cặn bã liên tục, những tích lũy, những vết sẹo, và cùng tất cả những dấu vết này bạn cố gắng gặp gỡ cái mới mẻ, và thế là bạn không bao giờ gặp gỡ được cái mới mẻ. Vì vậy bạn không bao giờ hiểu rõ, không bao giờ có một giải thoát khỏi bất kỳ thách thức nào. 

Vấn đề, câu hỏi là, liệu tôi có thể hiểu rõ một thách thức một cách trọn vẹn, trực tiếp; thấy được tất cả ý nghĩa của nó, tất cả hương thơm của nó, chiều sâu của nó, vẻ đẹp của nó và xấu xa của nó, và vì vậy được tự do khỏi nó. Một thách thức luôn luôn mới mẻ, đúng chứ? Ví dụ, một vấn đề mà bạn đã có ngày hôm qua đã trải qua sự biến đổi đến độ khi bạn gặp gỡ nó ngày hôm nay, nó mới mẻ rồi. Nhưng bạn gặp gỡ nó bằng cái cũ kỹ, bởi vì bạn gặp gỡ nó mà không thay đổi, chỉ đang bổ sung cho những suy nghĩ riêng của bạn.

Cho phép tôi trình bày nó theo cách khác. Bạn đã gặp tôi ngày hôm qua. Trong khoảng thời gian đó bạn đã thay đổi. Bạn đã trải qua một thay đổi nhưng tôi vẫn giữ hình ảnh ngày hôm qua của bạn. Tôi gặp gỡ bạn ngày hôm nay bằng hình ảnh về bạn của tôi và vì vậy tôi không hiểu rõ bạn – tôi chỉ hiểu rõ hình ảnh về bạn mà tôi đã thâu lượm ngày hôm qua. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, mà được bổ sung, được thay đổi, tôi phải xóa sạch, tôi phải được tự do khỏi hình ảnh của ngày hôm qua. Nói cách khác, muốn hiểu rõ một thách thức, mà luôn luôn mới mẻ, tôi cũng phải gặp gỡ nó mới mẻ lại, phải không có cặn bã của ngày hôm qua; thế là tôi phải giã từ ngày hôm qua.

Rốt cuộc, sống là gì? Nó là cái gì đó luôn luôn mới mẻ, đúng chứ? Nó là cái gì đó luôn luôn đang trải qua sự thay đổi, đang sáng tạo một cảm thấy mới mẻ. Ngày hôm nay không bao giờ giống hệt ngày hôm qua, và đó là vẻ đẹp của sống. Liệu bạn và tôi có thể gặp gỡ mỗi vấn đề mới mẻ lại? Liệu bạn, khi bạn về nhà, có thể gặp gỡ người vợ của bạn và người con của bạn mới mẻ lại, gặp gỡ thách thức mới mẻ lại? Bạn không thể làm được điều đó nếu bạn bị chất đầy bởi những ký ức của ngày hôm qua. Vì vậy muốn hiểu rõ sự thật của một vấn đề, của một liên hệ, bạn phải tiếp cận nó trong sáng lại – không phải bằng một ‘cái trí cởi mở’, bởi vì điều đó không có ý nghĩa gì cả. Bạn phải đến với nó mà không có những dấu vết của ký ức ngày hôm qua – mà có nghĩa, khi mỗi thách thức nảy sinh, tỉnh thức được tất cả những phản ứng của ngày hôm qua, và qua tỉnh thức được những ký ức, cặn bã của ngày hôm qua, bạn sẽ phát giác rằng chúng rơi rụng ngay mà không có đấu tranh, và thế là cái trí của bạn là mới mẻ.

Liệu người ta có thể nhận ra sự thật ngay tức khắc, mà không-chuẩn bị trước? Tôi nói rằng có thể – không phải từ tưởng tượng nào đó, không phải từ ảo tưởng nào đó của tôi; nhưng thuộc tâm lý thử nghiệm nó và bạn sẽ thấy. Hãy đem ra bất kỳ thách thức nào, bất kỳ biến cố nhỏ nào – đừng chờ đợi một khủng hoảng lớn lao nào đó – và thấy bạn đáp trả lại nó như thế nào. Hãy tỉnh thức được nó, những phản ứng của bạn, những ý định của bạn, những thái độ của bạn và bạn sẽ hiểu rõ chúng, bạn sẽ hiểu rõ cái nền tảng của bạn. Tôi cam đoan với bạn, bạn có thể thực hiện được nó ngay tức khắc nếu bạn trao toàn chú ý của bạn vào nó. Nếu bạn đang tìm kiếm ý nghĩa trọn vẹn của nền tảng của bạn, nó bộc lộ ý nghĩa của nó, và bỗng nhiên bạn khám phá sự thật, hiểu rõ về vấn đề. Hiểu rõ hiện diện từ ngay lúc này, hiện tại, mà luôn luôn không-thời gian. Mặc dù nó có lẽ là ngày mai, nó vẫn là ngay lúc này; chỉ trì hoãn, chuẩn bị để thâu nhận cái mà là ngày mai, là tự-ngăn cản chính bạn không hiểu rõ cái gì là ngay lúc này. Chắc chắn bạn có thể hiểu rõ trực tiếp cái gì là ngay lúc này, đúng chứ? Muốn hiểu rõ cái gì là, bạn phải không bị quấy rầy, không bị xao nhãng, bạn phải trao cái trí và quả tim của bạn cho nó. Nó phải là quan tâm duy nhất của bạn tại ngay khoảnh khắc đó, một cách trọn vẹn. Vậy là, cái gì là trao tặng bạn toàn chiều sâu của nó, toàn ý nghĩa của nó, và vậy là bạn được tự do khỏi vấn đề đó. 

Ví dụ, nếu bạn muốn biết sự thật, ý nghĩa thuộc tâm lý của tài sản, nếu bạn thực sự muốn hiểu rõ trực tiếp, ngay lúc này, làm thế nào bạn tiếp cận nó? Chắc chắn bạn phải cảm thấy mật thiết với vấn đề, bạn phải không sợ hãi nó, bạn phải không có bất kỳ tín điều nào, bất kỳ câu trả lời nào, giữa chính bạn và vấn đề. Chỉ khi nào bạn, một cách trực tiếp, trong hiệp thông cùng vấn đề, bạn sẽ tìm được đáp án. Nếu bạn giới thiệu một đáp án, nếu bạn phê bình, nếu bạn không-ưa thích thuộc tâm lý, vậy thì bạn sẽ trì hoãn, bạn sẽ chuẩn bị để ngày mai hiểu rõ điều gì có thể được hiểu rõ trong ‘ngay lúc này’. Vậy là bạn sẽ không bao giờ hiểu rõ. Trực nhận sự thật không cần sự chuẩn bị; chuẩn bị hàm ý thời gianthời gian không là phương tiện của hiểu rõ sự thật. Thời gian là sự tiếp tụcsự thật là không-thời gian, không-tiếp tục. Hiểu rõ là không-tiếp tục, nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, không-cặn bã.

Tôi nghĩ rằng tôi đang khiến cho nó trở thành khó khăn lắm, phải không? Nhưng thật dễ dàng, thật đơn giản để hiểu rõ, nếu bạn chỉ muốn thử nghiệm nó. Nếu bạn lãng đãng vào một giấc ngủ, tham thiền về nó, nó trở nên rất khó khăn. Khi không có một rào chắn giữa bạn và tôi, tôi hiểu rõ bạn. Nếu tôi khoáng đạt với bạn, tôi hiểu rõ bạn trực tiếp – và khoáng đạt không là một vấn đề của thời gian. Thời gian sẽ làm tôi khoáng đạt hay sao? Chuẩn bị, hệ thống, kỷ luật, sẽ làm cho tôi khoáng đạt với bạn? Không. Điều gì làm cho tôi khoáng đạt với bạn là ý định để hiểu rõ của tôi. Tôi muốn khoáng đạt với bạn bởi vì tôi không có gì để che giấu, tôi không sợ hãi; vì vậy tôi khoáng đạt và có hiệp thông ngay tức khắc, có sự thật. Muốn nhận được sự thật, muốn biết vẻ đẹp của nó, muốn biết hân hoan của nó, phải có sự tiếp nhận tức khắc, không bị che khuất bởi những lý thuyết, những sợ hãi và những đáp án. 

 

32- VỀ ĐƠN GIẢN

Câu hỏi: Đơn giản là gì? Nó hàm ý đang thấy rất rõ ràng những cốt yếu và loại bỏ mọi thứ khác? 

Krishnamurti: Chúng ta hãy xem thử đơn giản không là gì. Đừng nói, ‘Nó là tiêu cực’ hay ‘Nói cho chúng tôi điều gì đó tích cực’. Đó là phản ứng nhẹ dạ, không chín chắn. Những người trao tặng bạn ‘điều tích cực’ là những người trục lợi; họ có cái gì đó để trao tặng bạn điều bạn mong muốn và qua đó họ trục lợi bạn. Chúng ta không đang thực hiện loại đó. Chúng ta đang cố gắng tìm ra sự thật của đơn giản. Vì vậy bạn phải loại bỏ, gạt đi những ý tưởngquan sát mới mẻ lại. Người có nhiều, sợ hãi cách mạng, cả phía bên trong lẫn phía bên ngoài.

Chúng ta hãy tìm ra điều gì không là đơn giản. Một cái trí phức tạp không là đơn giản, đúng chứ? Một cái trí khôn ngoan khôngđơn giản; một cái trí luôn luôn có một mục đích mà nó đang làm việc hướng về đó, một phần thưởng, một sợ hãi, không là một cái trí đơn giản, đúng chứ? Một cái trí bị chất đầy hiểu biết không là một cái trí đơn giản; một cái trí bị khập khễnh bởi những niềm tin không là một cái trí đơn giản, đúng chứ? Một cái trí đã đồng hóa chính nó cùng cái gì đó to tát hơn và đang cố gắng duy trì sự đồng hóa đó, không là một cái trí đơn giản, đúng chứ? Chúng ta nghĩ có một hoặc hai cái khố là đơn giản, chúng ta muốn sự phô trương phía bên ngoài của đơn giảnchúng ta dễ dàng bị đánh lừa bởi việc đó. Đó là lý do tại sao người rất giàu có tôn sùng những người đã từ bỏ.

Đơn giản là gì? Đơn giản có thể là sự loại bỏ những không-cốt yếu và sự theo đuổi những cốt yếu – mà có nghĩa một qui trình của chọn lựa. Liệu nó có nghĩa chọn lựa – chọn lựa những cốt yếu và loại bỏ những không-cốt yếu? Qui trình của chọn lựa này là gì? Thực thể mà chọn lựa là gì? Cái trí, phải không? Không đặt thành vấn đề bạn gọi nó là gì. Bạn nói, ‘Tôi sẽ chọn cái này, mà là cốt yếu’. Làm thế nào bạn biết được điều gì là cốt yếu? Hoặc bạn có một khuôn mẫu về điều gì người khác đã nói, hoặc trải nghiệm riêng của bạn nói rằng cái gì đó là cốt yếu. Liệu bạn có thể tin cậy sự trải nghiệm của bạn? Khi bạn chọn lựa, chọn lựa của bạn được đặt nền tảng trên ham muốn, đúng chứ? Cái gì bạn gọi là ‘cốt yếu’ là cái mà cho bạn sự thỏa mãn. Thế là bạn quay lại cùng qui trình, đúng chứ? Liệu một cái trí rối loạn có thể chọn lựa? Nếu nó có thể, sự chọn lựa cũng phải bị rối loạn.

Vì vậy sự chọn lựa giữa cốt yếu và không-cốt yếu không là đơn giản. Nó là một xung đột. Một cái trí trong xung đột, trong rối loạn, không bao giờ có thể đơn giản. Khi bạn loại bỏ, khi bạn thực sự quan sát và thấy tất cả những sự việc giả dối này, những ma mãnh của cái trí, khi bạn nhìn ngắm nó và tỉnh thức được nó, vậy thì bạn sẽ tự-biết cho chính bạn đơn giản là gì? Một cái trí bị trói buộc bởi niềm tin không bao giờ là một cái trí đơn giản. Một cái trí bị què quặt bởi hiểu biết không là đơn giản. Một cái trí bị xao nhãng bởi Thượng đế, bởi phụ nữ, bởi âm nhạc, không là một cái trí đơn giản. Một cái trí bị trói buộc trong lề thói của văn phòng, của những nghi lễ, của những khấn vái, một cái trí như thế không là đơn giản. Đơn giản là hành động không-ý tưởng. Nhưng đó là một sự việc rất hiếm hoi; đó có nghĩa là sáng tạo. Chừng nào còn không có sáng tạo, chúng ta còn là những trung tâm của ma mãnh, đau khổ và hủy hoại. Đơn giản không là sự việc mà bạn có thể theo đuổi và trải nghiệm. Đơn giản hiện diện, như một bông hoa nở tại đúng khoảnh khắc, khi mỗi người hiểu rõ toàn qui trình của tồn tạiliên hệ. Bởi vì chúng ta đã không bao giờ suy nghĩ về nó, quan sát nó, chúng ta không tỉnh thức được nó; chúng ta tôn vinh tất cả những hình thức bên ngoài của vài vật sở hữu nhưng những thứ đó không là đơn giản. Đơn giản không phải để được tìm ra; nó không ở đó như một chọn lựa giữa cốt yếu và không-cốt yếu. Nó hiện diện chỉ khi nào cái tôi không còn; khi cái trí không bị trói buộc trong những phỏng đoán, những kết luận, những niềm tin, những ý tưởng. Chỉ một cái trí tự do như thế có thể tìm ra sự thật. Một cái trí như thế, một mình nó, có thể nhận ra cái không thể đo lường được, cái không thể đặt tên; và đó là đơn giản.

33- VỀ HỜI HỢT 

Câu hỏi: Làm thế nào một con người hời hợt trở thành nghiêm túc?

Krishnamurti: Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hời hợt, đúng chứ? Hời hợt có ý gì? Thuộc căn bản, bị lệ thuộc, phải không? Lệ thuộc vào sự kích động, lệ thuộc vào sự thách thức, lệ thuộc vào một người khác, lệ thuộc theo tâm lý vào những giá trị nào đó, những trải nghiệm nào đó, những ký ức nào đó – tất cả việc đó giải thích cho sự hời hợt? Khi tôi lệ thuộc vào việc đến nhà thờ mỗi buổi sáng hay mỗi tuần lễ để được thăng hoa, với mục đích để được giúp đỡ, điều đó không làm cho tôi hời hợt hay sao? Nếu tôi phải thực hành những nghi lễ nào đó để duy trì ý thức hòa đồng của tôi hay để có được một cảm giác mà lúc trước có lẽ tôi đã trải qua, điều đó không làm cho tôi hời hợt hay sao? Nó không làm cho tôi hời hợt khi tôi giao phó chính bản thân mình cho một quốc gia, cho một kế hoạch hay cho một nhóm người chính trị đặc biệt hay sao? Chắc chắn toàn qui trình lệ thuộc này là một lẩn tránh của cái tôi; sự đồng hóa này cùng cái to tát hơn là sự phủ nhận của tôi là gì. Nhưng tôi không thể phủ nhận tôi là gì; tôi phải hiểu rõ tôi là gì và không cố gắng đồng hóa chính tôi cùng vũ trụ, cùng Thượng đế, cùng một đảng phái chính trị đặc biệt hay bất kỳ điều gì bạn muốn. Tất cả việc này dẫn đến sự suy nghĩ nông cạn và từ suy nghĩ nông cạn có hành động luôn luôn ma mãnh, dù trên kích cỡ thế giới hay kích cỡ của cá thể

Trước hết, chúng tacông nhận rằng chúng ta đang làm những sự việc này hay không? Chúng ta không công nhận; chúng ta biện hộ chúng. Chúng ta nói rằng, ‘Tôi sẽ làm gì nếu tôi không làm những sự việc này? Tôi sẽ tồi tệ hơn; cái trí của tôi sẽ phân rã. Bây giờ, ít ra, tôi đang đấu tranh để hướng đến cái gì đó tốt lành hơn.’ Chúng ta càng đấu tranh nhiều bao nhiêu, chúng ta càng hời hợt nhiều bấy nhiêu. Tôi phải thấy điều đó trước, đúng chứ? Đó là một trong những sự việc khó khăn nhất; thấy tôi là gì, thừa nhận rằng tôi dốt nát, tôi nông cạn, tôi hẹp hòi, tôi ghen tuông. Nếu tôi thấy tôi là gì, nếu tôi công nhận nó, vậy thì từ đó tôi có thể khởi hành. Chắc chắn, một cái trí nông cạn là một cái trí tẩu thoát khỏi cái gì là; không-tẩu thoát đòi hỏi sự thâm nhập gian nan, sự phủ nhận của trì trệ. Khoảnh khắc tôi biết tôi nông cạn, có sẵn rồi một tiến hành của thâm nhập sâu thẳm – nếu tôi không làm bất kỳ điều gì về sự nông cạn. Nếu cái trí nói rằng, ‘Tôi nhỏ nhen, và tôi sẽ tìm hiểu nó, tôi sẽ hiểu rõ toàn thể sự nhỏ nhen này, ảnh hưởng nông cạn này’, vậy thì có thể xảy ra sự thay đổi; nhưng một cái trí nhỏ nhen, công nhận rằng nó nhỏ nhen và cố gắng không-nhỏ nhen bằng cách đọc sách, bằng cách gặp gỡ mọi người, bằng cách du lịch, bằng cách năng động như một con khỉ, vẫn còn là một cái trí nhỏ nhen. 

Lại nữa, bạn thấy, có một cách mạng thực sự chỉ khi nào chúng ta tiếp cận vấn đề này một cách đúng đắn. Tiếp cận đúng đắn đến vấn đề cho một tự tin lạ thường mà tôi cam đoan bạn di chuyển được những hòn núi – những hòn núi của những thành kiến, những quy định riêng của bạn. Tỉnh thức được một cái trí nông cạn, không cố gắng trở thành sâu thẳm. Một cái trí nông cạn không bao giờ biết được những chiều sâu vô tận. Nó có thể có nhiều hiểu biết, thông tin, nó có thể lặp lại những từ ngữ – bạn biết toàn vòng ngoài của cái trí hời hợt mà năng động. Nhưng nếu bạn biết rằng bạn hời hợt, nông cạn, nếu bạn tỉnh thức được sự nông cạn và quan sát tất cả những hoạt động của nó mà không-phê bình, không-chỉ trích, vậy thì chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy rằng cái sự việc nông cạn hoàn toàn biến mất, mà không có hành động của bạn vào nó. Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn, sự cảnh giác, không phải một ham muốn háo hức cho một kết quả, cho sự thành tựu. Chính cái trí nông cạn mới muốn một thành tựu, một kết quả.

Bạn càng tỉnh thức được toàn qui trình này nhiều bao nhiêu, bạn sẽ khám phá những hoạt động của cái trí nhiều bấy nhiêu; nhưng bạn phải quan sát chúng mà không cố gắng kết thúc chúng, bởi vì khoảnh khắc bạn tìm kiếm một kết thúc, lại nữa bạn bị trói buộc trong sự phân hai của ‘cái tôi’ và ‘cái-không tôi’ – và tiếp tục vấn đề

 

34- VỀ NHỎ NHEN 

Câu hỏi: Cái trí nên được bận tâm bởi điều gì?

Krishnamurti: Đây là một ví dụ rất tốt của xung đột được hiện diện như thế nào: xung đột giữa cái gì nên là và cái gì là. Trước hết chúng ta thiết lập cái gì nên là, lý tưởng, và sau đó cố gắng sống tùy theo khuôn mẫu đó. Chúng ta nói rằng cái trí nên được bận tâm bởi những vấn đề cao quý, bởi không-ích kỷ, bởi quảng đại, bởi tử tế, bởi tình yêu; đó là khuôn mẫu, niềm tin, điều nên là, điều bắt buộc, và chúng ta cố gắng sống theo. Thế là có sự xung đột đang chuyển động giữa sự chiếu rọi của cái gì nên là và thực tế, cái gì là, và qua xung đột đó chúng ta hy vọng được thay đổi. Chừng nào chúng ta còn đang đấu tranh với cái gì nên là, chúng ta cảm thấy đạo đức, chúng ta cảm thấy tốt lành, nhưng điều gì quan trọng: cái nên là hay cái gì là? Nhưng cái trí của chúng ta được bận tâm bởi điều gì – một cách thực sự, không phải theo lý thuyết? Bởi những nhỏ nhen, đúng chứ? Bởi người ta trông như thế nào, bởi tham vọng, bởi tham lam, bởi ganh tị, bởi bàn tán, bởi tàn nhẫn. Cái trí sống trong một thế giới của những nhỏ nhen và một cái trí nhỏ nhen đang tạo ra một khuôn mẫu cao quý, vẫn còn là nhỏ nhen, đúng chứ? Vấn đề không phải là cái trí nên được bận tâm bởi điều gì nhưng liệu chính cái trí có thể được tự do khỏi những nhỏ nhen? Nếu chúng ta tỉnh thức, nếu chúng ta đang tìm hiểu, chúng ta biết được những nhỏ nhen đặc biệt riêng của chúng ta: nói chuyện liên tục, huyên thuyên không ngớt của cái trí, lo âu về điều này và điều kia, tò mò về điều gì những con người đang làm hay không-đang làm, cố gắng thành tựu một kết quả, tìm kiếm những thêu dệt riêng của người ta và vân vân. Người ta bị bận tâm bởi những điều đó và chúng ta biết nó rất rõ. Liệu điều đó có thể được thay đổi? Đó là vấn đề, phải không? Khi hỏi cái trí nên được bận tâm bởi điều gì hoàn toàn không-chín chắn.

Bây giờ, bởi vì tỉnh thức được cái trí của tôi là nhỏ nhen, và bận tâm bởi những nhỏ nhen, liệu nó có thể làm tự do chính nó khỏi quy định này? Cái trí, bởi chính bản chất của nó, không nhỏ nhen hay sao? Cái trí là gì ngoại trừ kết quả của ký ức? Ký ức của cái gì? Của làm thế nào để sống còn, không chỉ thuộc phần thân thể nhưng cũng còn thuộc phần tâm lý qua sự phát triển của những đạo đức, những phẩm chất nào đó, đang lưu trữ những trải nghiệm, đang tự-thiết lập của chính nó trong những hoạt động riêng của nó. Đó không là nhỏ nhen hay sao? Cái trí, bởi vì là kết quả của ký ức, của thời gian, là nhỏ nhen trong chính nó; nó có thể làm gì để làm tự do chính nó khỏi sự nhỏ nhen riêng của nó? Nó có thể làm bất kỳ điều gì hay sao? Làm ơn, hãy thấy sự quan trọng của điều này. Liệu cái trí, mà là hoạt động tự cho mình là trung tâm, có thể làm tự do chính nó khỏi hoạt động đó? Chắc chắn, nó không thể; dù nó làm bất kỳ điều gì, nó vẫn còn nhỏ nhen. Nó có thể phỏng đoán về Thượng đế, nó có thể sáng chế những hệ thống chính trị, nó có thể tạo tác những niềm tin; nhưng nó vẫn còn ở phía bên trong lãnh vực của thời gian, sự thay đổi của nó vẫn còn từ ký ức sang ký ức, nó vẫn còn bị trói buộc bởi sự giới hạn riêng của nó. Liệu cái trí có thể phá vỡ sự giới hạn đó? Hay liệu sự giới hạn đó sụp đổ khi cái trí yên lặng, khi nó không còn lăng xăng, khi nó thừa nhận những nhỏ nhen riêng của nó, dù nó có lẽ đã tưởng tượng chúng to tát đến chừng nào. Khi cái trí, bởi vì đã thấy những nhỏ nhen của nó, hoàn toàn nhận biết được chúng và thế là trở nên thực sự yên lặng – chỉ như thế những nhỏ nhen này mới có thể rơi rụng. Chừng nào bạn còn đang tìm hiểu, cái trí nên được bận tâm bởi điều gì; nó sẽ được bận tâm bởi những nhỏ nhen, dù nó dựng lên một nhà thờ, dù nó cầu nguyện hay dù nó viếng thăm một ngôi đền. Chính cái trí là nhỏ nhen, tầm thường, và chỉ bằng cách nói nó nhỏ nhen bạn không xóa sạch được sự nhỏ nhen của nó. Bạn phải hiểu rõ nó, cái trí phải công nhận những hoạt động riêng của nó, và trong sự tiến hành của công nhận đó, trong sự tỉnh thức được những nhỏ nhen mà, một cách nhận biết được hay không-nhận biết được, nó đã thiết lập; cái trí trở nên yên lặng. Trong yên lặng đó có một trạng thái sáng tạo, và đây là nhân tố mang lại một thay đổi.


35- VỀ SỰ YÊN LẶNG CỦA CÁI TRÍ 

Câu hỏi: Tại sao ông nói về sự yên lặng của cái trí, và sự yên lặng này là gì?

Krishnamurti: Liệu không cần thiết, nếu chúng ta muốn hiểu rõ bất kỳ việc gì, cái trí nên yên lặng hay sao? Nếu chúng ta có một vấn đề, chúng ta lo âu về nó, đúng chứ? Chúng ta tìm hiểu nó, chúng ta phân tích nó, chúng ta tách nó ra từng mảnh, trong hy vọng hiểu rõ nó. Bây giờ, chúng ta hiểu rõ được qua nỗ lực, qua phân tích, qua so sánh, qua bất kỳ hình thức nào của đấu tranh thuộc tinh thần, hay sao? Chắc chắn, hiểu rõ có được chỉ khi nào cái trí rất yên lặng. Chúng ta nói rằng, chúng ta càng đấu tranh với vấn đề của đói khát, của chiến tranh, hay bất kỳ vấn đề nào của nhân loại nhiều bao nhiêu, chúng ta càng đối nghịch với nó nhiều bấy nhiêu, chúng ta sẽ hiểu rõ nhiều bấy nhiêu. Bây giờ, điều đó đúng à? Những chiến tranh đã và đang xảy ra trong hàng thế kỷ, xung đột giữa những cá thể, giữa những xã hội; phía bên trong và bên ngoài, liên tục ở đó. Chúng ta giải quyết được chiến tranh đó, xung đột đó, bằng xung đột thêm nữa, bằng đấu tranh thêm nữa, bằng sự gắng sức ma mãnh thêm nữa, hay sao? Hay chúng ta hiểu rõ vấn đề chỉ khi nào chúng ta trực tiếp ở trước mặt nó, khi chúng ta đối diện với sự kiện? Chúng ta có thể đối diện với sự kiện chỉ khi nào chúng ta không có sự kích động can thiệp giữa cái trí và sự kiện; vì vậy nếu chúng ta muốn hiểu rõ, liệu không quan trọng rằng cái trí phải yên lặng hay sao?

Chắc chắn bạn sẽ hỏi rằng, ‘Cái trí có thể được làm cho yên lặng bằng cách nào?’ Đó là phản ứng ngay tức khắc, phải không? Bạn nói rằng, ‘Cái trí của tôi bị kích động và làm thế nào tôi có thể giữ nó yên lặng?’ Liệu bất kỳ hệ thống nào có thể làm cho cái trí yên lặng? Liệu một công thức, một kỷ luật, có thể làm cho cái trí yên lặng? Nó có thể; nhưng khi cái trí được làm yên lặng, đó là sự yên lặng, đó là sự tĩnh lặng hay sao? Hay cái trí chỉ bị khép kín trong một ý tưởng, trong một công thức, trong một cụm từ? Một cái trí như thế là một cái trí chết rồi, đúng chứ? Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người cố gắng theo đuổi sống tinh thần, tạm gọi là tinh thần, đều chết rồi – bởi vì họ đã rèn luyện cái trí của họ để được yên lặng, họ đã khép kín chính họ trong một công thức cho sự yên lặng. Rõ ràng, một cái trí như thế không bao giờ yên lặng; nó chỉ bị đè nén, bị kiềm chế.

Cái trí yên lặng khi nó thấy sự thật rằng hiểu rõ chỉ hiện diện khi nó yên lặng; rằng nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải yên lặng, tôi không thể có những phản ứng chống lại bạn, tôi không được có thành kiến, tôi phải xóa sạch tất cả những kết luận của tôi, những trải nghiệm của tôi, và gặp gỡ bạn mặt đối mặt. Chỉ đến lúc đó, khi cái trí được tự do khỏi tình trạng bị quy định của tôi, tôi có hiểu rõ. Khi tôi thấy được sự thật của việc đó, vậy thì cái trí được yên lặng – và vậy thì không có vấn đề của làm thế nào để khiến cho cái trí yên lặng. Chỉ sự thật có thể giải thoát cái trí khỏi sự hình thành ý tưởng riêng của nó; muốn thấy sự thật, cái trí phải nhận ra sự kiện rằng chừng nào nó còn bị kích động nó không thể có hiểu rõ. Sự yên lặng của cái trí, sự bình thản của cái trí, không là một sự việc được sản sinh bởi sức mạnh-ý chí, bởi bất kỳ hành động nào của ham muốn; nếu nó như vậy, vậy thì một cái trí bị khép kín, bị tách rời như thế, nó là một cái trí chết rồi và vì vậy không thể thích ứng, không thể mềm dẻo, không thể nhạy bén. Một cái trí như thế không sáng tạo.

Vậy thì, vấn đề của chúng ta là, không phải làm thế nào khiến cho cái trí yên lặng nhưng thấy được sự thật của mỗi vấn đề khi nó phơi bày cho chúng ta. Nó giống như ao nước mà trở nên phẳng lặng khi gió ngừng thổi. Cái trí của chúng ta bị kích động bởi vì chúng ta có những vấn đề; và để lẩn tránh những vấn đề, chúng ta làm cho cái trí yên lặng. Bây giờ cái trí đã chiếu rọi những vấn đề này và không có những vấn đề nào tách khỏi cái trí; và chừng nào cái trí còn chiếu rọi bất kỳ ý tưởng nào của nhạy cảm, thực hành bất kỳ phương pháp nào của yên lặng, nó không bao giờ có thể được yên lặng. Khi cái trí nhận ra rằng chỉ bằng cách yên lặng mới có hiểu rõvậy thì nó trở nên rất yên lặng. Sự yên lặng đó không bị áp đặt, không bị kỷ luật, nó là một yên lặng không thể được hiểu rõ bởi một cái trí bị kích động.

Nhiều người tìm kiếm sự yên lặng của cái trí khỏi sống náo động bằng cách rút lui đến một ngôi làng, đến những tu viện, đến những hòn núi, hay họ rút lui vào những ý tưởng, khép kín chính họ trong một niềm tin hay lẩn tránh những con người mà mang lại cho họ sự rắc rối. Sự tách rời như thế không là sự yên lặng của cái trí. Sự khép kín của cái trí trong một ý tưởng, hay sự lẩn tránh những con người mà làm cho sống phức tạp không mang lại sự yên lặng của cái trí. Sự yên lặng của cái trí hiện diện chỉ khi nào không còn qui trình tách rời qua sự tích lũy, nhưng hoàn toàn hiểu rõ về toàn qui trình của liên hệ. Sự tích lũy làm cho cái trí già nua; chỉ khi nào cái trí mới mẻ, khi cái trí trong sáng, không còn qui trình của tích lũy – chỉ lúc đó mới có thể có sự yên lặng của cái trí. Một cái trí như thế không là chết rồi, nó năng động nhất. Cái trí yên lặng là cái trí năng động nhất, nhưng nếu bạn muốn thử nghiệm nó, muốn tìm hiểu nó thật sâu thẳm, bạn sẽ thấy rằng trong sự yên lặng không có sự chiếu rọi của tư tưởng. Rõ ràng, ở mọi mức độ, tư tưởngphản ứng của ký ức và tư tưởng không bao giờ có thể trong một trạng thái sáng tạo. Nó có lẽ diễn tả sáng tạo nhưng tư tưởng, trong chính nó, không bao giờ có thể sáng tạo. Khi có sự yên lặng, sự an bình đó của cái trí mà không là một kết quả, vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng, trong sự yên lặng đó có hoạt động lạ thường, một hành động lạ thường mà một cái trí bị kích động bởi tư tưởng không bao giờ có thể biết được. Trong yên lặng đó không có sự hình thành công thức, không-ý tưởng, không-ký ức; yên lặng đó là một trạng thái của sáng tạo mà có thể được trải nghiệm chỉ khi nào có hiểu rõ trọn vẹn về toàn qui trình của ‘cái tôi’. Ngược lại, sự yên lặng không có ý nghĩa. Chỉ trong yên lặng đó, mà không là một kết quả, vĩnh hằng được lộ diện, mà vượt khỏi thời gian

36- VỀ Ý NGHĨA CỦA SỐNG 

Câu hỏi: Chúng tôi sống nhưng chúng tôi không biết tại sao. Đối với quá nhiều người chúng tôi, sống dường như khôngý nghĩa. Ông có thể giải thích cho chúng tôi ý nghĩamục đích của sống của chúng tôi?

Krishnamurti: Bây giờ, tại sao bạn đưa ra câu hỏi này? Tại sao bạn đang yêu cầu tôi giải thích cho bạn ý nghĩa của sống, mục đích của sống? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ sống? Sống có một ý nghĩa, một mục đích à? Sống trong chính nó không là mục đích riêng của nó, ý nghĩa riêng của nó hay sao? Tại sao chúng ta muốn nhiều hơn nữa? Bởi vì chúng ta quá thất vọng với sống của chúng ta, sống của chúng ta quá trống rỗng, quá phô trương, quá đơn điệu, đang làm cùng một sự việc lặp đi và lặp lại, chúng ta muốn cái gì đó nhiều hơn nữa, cái gì đó vượt khỏi cái mà chúng ta đang làm. Bởi vì sống hàng ngày của chúng ta quá trống rỗng, quá nhàm chán, quá vô nghĩa, quá lờ đờ, quá dốt nát; chúng ta nói rằng sống phải có một ý nghĩa trọn vẹn hơn và đó là lý do tại sao bạn đưa ra câu hỏi này. Chắc chắn, một người đang sống phong phú, một người thấy sự việc như chúng là và mãn nguyện với cái gì anh ấy có, không bị rối loạn; anh ấy rõ ràng, vì vậy anh ấy không hỏi mục đích của sống là gì. Đối với anh ấy, chính đang sống là khởi đầu lẫn kết thúc. Sự khó khăn của chúng ta là, bởi vì sống của chúng ta trống rỗng, chúng ta muốn tìm ra một mục đích cho sống và theo đuổi nó. Một mục đích của sống như thế chỉ thuần túy là sự hành động của tư tưởng, không có bất kỳ sự thật nào; khi mục đích của sống được theo đuổi bởi một cái trí dốt nát, đờ đẫn, bởi một tâm hồn trống rỗng, mục đích đó cũng sẽ trống rỗng. Vì vậy mục đích của chúng ta là làm thế nào cho sống của chúng ta ‘giàu có’ hơn, không phải với tiền bạc và mọi chuyện còn lại của nó nhưng giàu có phía bên trong – mà không là cái gì đó bí ẩn. Khi bạn nói rằng mục đích của sống là hạnh phúc, mục đích của sống là tìm được Thượng đế, chắc chắn ham muốn để tìm được Thượng đế đó, là một tẩu thoát khỏi sống và Thượng đế của bạn chỉ là một sự việc đã được biết. Bạn chỉ có thể chuyển động đến một mục tiêu mà bạn biết; nếu bạn thiết lập một hướng đi đến sự việc mà bạn gọi là Thương đế, chắc chắn đó không là Thượng đế. Sự thật chỉ có thể hiểu rõ trong đang sống, không phải trong tẩu thoát. Khi bạn tìm kiếm một mục đích cho sống, bạn thực sự đang tẩu thoát và không đang hiểu rõ sống là gì. Sống là liên hệ, sống là hành động trong liên hệ; khi tôi không hiểu rõ sự liên hệ, hay khi sự liên hệ bị hỗn loạn, lúc đó tôi tìm kiếm một ý nghĩa trọn vẹn hơn. Tại sao sống của chúng ta quá trống rỗng? Tại sao chúng ta quá cô độc, quá tuyệt vọng? Bởi vì chúng ta không bao giờ nhìn ngắm về chính chúng tahiểu rõ về chính chúng ta. Chúng ta không bao giờ tự-thú nhận với chính chúng ta rằng, sống này là tất cả những gì chúng ta biết và rằng, thế là nó nên được hiểu rõ đầy đủ và trọn vẹn. Chúng ta thích chạy trốn khỏi chính chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng ta tìm kiếm một mục đích của sống tách khỏi sự liên hệ. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu rõ hành động, mà là sự liên hệ của chúng ta với con người, với tài sản, với những niềm tin và những ý tưởng, vậy thì chúng ta sẽ phát hiện rằng sự liên hệ, chính nó, mang lại phần thưởng riêng của nó. Bạn không phải tìm kiếm. Nó giống như tìm kiếm tình yêu. Bạn có thể tìm được tình yêu bằng cách tìm kiếm nó hay sao? Tình yêu không thể được vun quén. Bạn sẽ tìm được tình yêu chỉ trong sự liên hệ, không phải phía bên ngoài sự liên hệ, và do bởi chúng ta không có tình yêu nên chúng ta muốn một mục đích của sống. Khi có tình yêu mà là vĩnh hằng riêng của nó, vậy thì không có tìm kiếm Thượng đế, bởi vì tình yêu là Thượng đế.

Chính vì cái trí của chúng ta đầy ắp những thông tin kỹ thuật và những thầm thì mê tín, nên sống của chúng ta quá trống rỗng và đó là lý do tại sao chúng ta tìm kiếm một mục đích vượt khỏi chính chúng ta. Muốn tìm được mục đích của sống chúng ta phải đi qua cái cửa của chính chúng ta; có ý thức hay không ý thức, chúng ta lẩn tránh đối diện những sự việc như chúng là trong chính chúng, và vì vậy chúng ta khẩn cầu Thượng đế mở cho chúng ta một cái cửa thoát khỏi đây. Câu hỏi về mục đích của sống này chỉ được đặt ra bởi những người không thương yêu. Tình yêu có thể tìm được chỉ trong hành động, mà là sự liên hệ


37- VỀ SỰ RỐI LOẠN CỦA CÁI TRÍ 

Câu hỏi: Tôi đã lắng nghe tất cả những nói chuyện của ông và tôi đã đọc tất cả những quyển sách của ông. Đầy khẩn thiết, tôi muốn hỏi ông, mục đích sống của tôi có thể là gì nếu, như ông nói, tất cả tư tưởng phải kết thúc, tất cả hiểu biết phải được kiểm soát, tất cả ký ức phải không còn? Làm thế nào ông liên quan ‘trạng thái đang là’ đó, dù nó có lẽ là gì tùy ông, với thế giới trong đó chúng ta đang sống? Một đang là như thế có liên quan gì đến sự tồn tại đau khổphiền muộn của chúng ta? 

Krishnamurti: Chúng ta muốn biết trạng thái này là gì mà chỉ có thể hiện diện khi tất cả hiểu biết, khi người công nhận, không còn; chúng ta muốn biết trạng thái này có liên quan gì với thế giới của hoạt động hàng ngày, những theo đuổi hàng ngày của chúng ta. Chúng ta biết sống hiện nay của chúng ta là gì – phiền muộn, đau khổ, luôn luôn sợ hãi, không có gì vĩnh cửu; chúng ta biết điều đó rất rõ. Chúng ta muốn biết trạng thái khác này có liên quan gì với sống hiện nay – và nếu chúng ta gạt đi hiểu biết, trở nên tự do khỏi những ký ức của chúng tavân vân, mục đích của sự tồn tại là gì? 

Mục đích của sự tồn tại như chúng ta biết nó lúc này là gì? – không phải một cách lý thuyết nhưng thực sự? Mục đích của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta là gì? Chỉ để sống còn, đúng chứ? – cùng tất cả đau khổ của nó, cùng tất cả phiền muộn, và hỗn loạn, những chiến tranh, sự hủy diệt của nó và vân vân. Chúng ta có thể sáng chế những lý thuyết, chúng ta có thể nói: ‘Điều này không nên là, nhưng điều nào đó nên là.’ Nhưng đây là tất cả những lý thuyết, chúng không là những sự kiện. Điều gì chúng ta biết là sự hỗn loạn, đau khổ, phiền muộn, thù hận vô tận. Chúng ta cũng biết, nếu chúng ta có sự nhận biết, làm thế nào những việc này xảy ra được. Mục đích của sống, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, mỗi ngày, là hủy diệt lẫn nhau, trục lợi lẫn nhau, hoặc như những cá thể hoặc như những con người tập thể. Trong cô độc của chúng ta, trong đau khổ của chúng ta, chúng ta cố gắng sử dụng những người khác, chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi chính chúng ta – qua vui chơi, qua thần thánh, qua hiểu biết, qua mọi hình thức của niềm tin, qua sự đồng hóa. Đó là mục đích của chúng ta, có ý thức hay không có ý thức, như hiện nay chúng ta sống. Liệu có một mục đích sâu thẳm hơn, rộng lớn hơn vượt khỏi, một mục đích mà không-hỗn loạn, không-thâu lợi? Liệu trạng thái không-nỗ lực đó có bất kỳ liên quan gì với sống hàng ngày của chúng ta? 

Chắc chắn không có liên quan gì đến sống của chúng ta. Làm thế nào nó có thể có liên quan được? Nếu cái trí của chúng ta bị hoang mang, bị đau khổ, bị cô độc, làm thế nào ‘những bị’ đó có liên quan với cái gì đó mà không thuộc về nó? Làm thế nào sự thật có thể được liên quan với cái giả dối, đến ảo tưởng? Chúng ta không muốn thú nhận điều đó, bởi vì hy vọng của chúng ta, hoang mang của chúng ta làm cho chúng ta tin tưởng một cái gì đó lớn lao hơn, cao quý hơn, mà chúng ta nói có liên quan với chúng ta. Trong sự tuyệt vọng của chúng ta, chúng ta tìm kiếm sự thật, hy vọng rằng trong khám phá được nó sự tuyệt vọng của chúng ta sẽ tan biến. 

Vì vậy chúng ta có thể thấy rằng một cái trí bị hoang mang, một cái trí bị chất đầy đau khổ, một cái trí nhận biết được sự trống rỗng, sự cô độc riêng của nó, không bao giờ có thể tìm ra cái vượt khỏi chính nó. Cái vượt khỏi cái trí chỉ có thể hiện diện khi những nguyên nhân của hoang mang, đau khổ, được xóa sạch hay được hiểu rõ. Tất cả mọi điều mà tôi đã và đang giải thích, đang trình bày là, làm thế nào để hiểu rõ về chính chúng ta, bởi vì nếu không hiểu rõ về chính chúng ta cái còn lại không hiện diện, cái còn lại chỉ là một ảo tưởng. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ về toàn qui trình của chính chúng ta, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, vậy là chúng ta sẽ thấy rằng trong khai quang sự rối loạn riêng của chúng ta, cái còn lại hiện diện. Vậy thì trải nghiệm cái còn lại sẽ có một liên hệ với cái này. Nhưng cái này không bao giờ có liên quan với cái còn lại. Đang ở phía bên này của bức màn, đang trong bóng tối, làm thế nào người ta có thể trải nghiệm được ánh sáng, được tự do? Nhưng ngay khi có trải nghiệm về sự thật, vậy là bạn có thể liên quan nó với thế giới chúng ta sống này. 

Nếu chúng ta chưa bao giờ biết được tình yêu là gì, nhưng chỉ biết được những rối loạn, những đau khổ, những xung đột liên tục, làm thế nào chúng ta có thể trải nghiệm tình yêu đó mà không thuộc tất cả những điều này? Nhưng khi một lần chúng ta đã trải nghiệm cái khác lạ, vậy là chúng ta không phải bận tâm để tìm ra sự liên hệ. Vậy là tình yêu, thông minh, vận hành. Nhưng muốn trải nghiệm trạng thái khác lạ đó, tất cả hiểu biết, những kỷ niệm được tích lũy, những hoạt động tự-nhận dạng, phải kết thúc, để cho cái trí không thể có bất kỳ những cảm giác tự-chiếu rọi nào. Vậy là, đang trải nghiệm cái khác lạ đó, có hành động trong thế giới này.

Chắc chắn đó là mục đích của sự tồn tại – vượt khỏi hoạt động tự cho mình là trung tâm của cái trí. Bởi vì đã trải nghiệm trạng thái khác lạ đó, mà không thể đo lường được bởi cái trí, vậy thì chính trải nghiệm về cái khác lạ mang lại một cách mạng bên trong. Vậy thì, nếu có tình yêu, không còn những vấn đề thuộc xã hội. Không còn vấn đề thuộc bất kỳ loại nào khi có tình yêu. Bởi vì chúng ta không biết làm thế nào để thương yêu, chúng ta có những vấn đề thuộc xã hội và những hệ thống triết học trình bày phương cách giải quyết những vấn đề của chúng ta. Tôi khẳng định những vấn đề này không bao giờ được giải quyết bởi bất kỳ hệ thống nào, hoặc của phe tả hoặc phe hữu hoặc phe trung lập. Chúng có thể được giải quyết – sự rối loạn của chúng ta, sự đau khổ của chúng ta, tự-hủy diệt của chúng ta – chỉ khi nào chúng ta có thể trải nghiệm trạng thái khác lạ đó mà không là tự-chiếu rọi.

38- VỀ THAY ĐỔI 

Câu hỏi: Ông có ý gì qua từ ngữ thay đổi? 

Krishnamurti: Chắc chắn, phải có một cách mạng cơ bản. Sự khủng hoảng của thế giới yêu cầu nó. Sống của chúng ta yêu cầu nó. Những biến cố hàng ngày, những theo đuổi, những lo âu của chúng ta yêu cầu nó. Những vấn đề của chúng ta yêu cầu nó. Phải có một cách mạng cơ bản triệt để, bởi vì mọi thứ quanh chúng ta đã sụp đổ. Mặc dầu dường như có trật tự, thật ra có sự thoái hoá, sự hủy diệt từ từ: con sóng của hủy diệt đang liên tục bủa vây con sóng của sống.

Vì vậy phải có một cách mạng – nhưng không phải một cách mạng được đặt nền tảng trên một ý tưởng. Một cách mạng như thế chỉ là sự tiếp tục của ý tưởng, không phải một thay đổi cơ bản. Một cách mạng được đặt nền tảng trên một ý tưởng mang lại đổ máu, thoái hóa, hỗn loạn. Từ hỗn loạn bạn không thể tạo ra trật tự; bạn không thể cố ý tạo ra hỗn loạnhy vọng có được trật tự từ hỗn loạn đó. Bạn không phải là người chọn lựa của Thượng đế mà sẽ sáng tạo trật tự từ hỗn loạn. Đó là một cách suy nghĩ dối trá của những người mà ao ước tạo ra càng ngày càng nhiều hỗn loạn với mục đích mang lại trật tự. Bởi vì lúc này họ có quyền hành, họ cho rằng họ biết tất cả những phương cách tạo ra trật tự. Vì thấy tổng thể thảm kịch này – sự lặp lại liên tục của những chiến tranh, xung đột không ngừng nghỉ giữa những giai cấp, giữa những chủng tộc, sự bất bình đẳng kinh hoàng thuộc xã hội và kinh tế, sự bất bình đẳng của khả năng và tài năng, hố sâu giữa những người hạnh phúc, không bị buồn thảm, và những người bị trói buộc trong hận thù, xung đột, và đau khổ – vì thấy tất cả việc này, phải có một cách mạng, phải có một thay đổi hoàn toàn, đúng chứ?

Thay đổi này, cách mạng cơ bản này, là một kết thúc cuối cùng, hay nó là khoảnh khắc sang khoảnh khắc? Tôi biết chúng ta ưa thích nó là một kết thúc cuối cùng, bởi vì suy nghĩ về tương lai xa xăm dễ dàng hơn nhiều. Cuối cùng chúng ta sẽ được thay đổi, cuối cùng chúng ta sẽ hạnh phúc, cuối cùng chúng ta sẽ tìm được sự thật; trong khi chờ đợi, chúng ta hãy tiếp tục. Chắc chắn một cái trí như thế, đang suy nghĩ dựa vào tương lai, không thể hành động trong hiện tại; vì vậy một cái trí như thế không đang tìm kiếm sự thay đổi, nó chỉ đang lẩn tránh sự thay đổi. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ thay đổi?

Thay đổi không ở trong tương lai, không bao giờ có thể ở trong tương lai. Nó chỉ có thể ngay lúc này, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Vì vậy chúng ta có ý gì qua từ ngữ thay đổi? Chắc chắn nó rất đơn giản: thấy điều giả dối như điều giả dối và thấy sự thật như sự thật. Thấy sự thật trong điều giả dối và thấy điều giả dối trong cái mà đã được chấp nhận như sự thật. Thấy điều giả dối như điều giả dốisự thật như sự thật là thay đổi, bởi vì khi bạn thấy cái gì đó rất rõ ràng như sự thật, sự thật đó giải thoát. Khi bạn thấy sự việc gì đó là giả dối, sự việc giả dối đó rơi rụng ngay. Khi bạn thấy những nghi lễ đó chỉ là những sự lặp lại hão huyền, khi bạn thấy sự thật của nó và không biện hộ nó, có thay đổi, đúng chứ?, bởi vì một trói buộc khác đã tan biến. Khi bạn thấy sự phân biệt giai cấp đó là giả dối, rằng nó tạo ra xung đột, tạo ra đau khổ, phân chia giữa con người – khi bạn thấy sự thật của nó, chính sự thật đó giải thoát. Chính sự nhận biết được sự thật đó là thay đổi, đúng chứ? Bởi vì chúng ta bị vây quanh bởi quá nhiều giả dối, đang nhận biết được sự giả dối từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc là thay đổi. Sự thật không tích lũy. Nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Cái tích lũy, chồng chất là ký ức, và qua ký ức bạn không bao giờ có thể tìm ra sự thật, bởi vì ký ức thuộc về thời gianthời gianquá khứ, hiện tại và tương lai. Thời gian, mà là sự tiếp tục, không bao giờ có thể tìm ra cái vĩnh hằng; vĩnh hằng không là tiếp tục. Cái kéo dài không là vĩnh hằng. Vĩnh hằng là trong khoảnh khắc. Vĩnh hằng là trong ngay lúc này. Ngay lúc này không là sự phản ảnh của quá khứ cũng không là sự tiếp tục của quá khứ sang hiện tại đến tương lai.
Một cái trí ham muốn một thay đổi ở tương lai hay hướng đến sự thay đổi như một kết thúc cuối cùng, không bao giờ có thể tìm ra sự thật, vì sự thật là một sự việc phải hiện diện từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, phải được khám phá mới mẻ lại; không thể có sự khám phá qua tích lũy. Làm thế nào bạn có thể khám phá được cái mới mẻ nếu bạn có một gánh nặng của cái cũ kỹ? Chỉ khi nào kết thúc gánh nặng đó bạn mới khám phá được cái mới mẻ. Muốn khám phá cái mới mẻ, cái vĩnh hằng, trong hiện tại, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, người ta cần một cái trí tỉnh táo lạ thường, một cái trí không đang tìm kiếm một kết quả, một cái trí không đang trở thành. Một cái trí đang trở thành không bao giờ biết được hạnh phúc trọn vẹn của sự mãn nguyện; không phải sự mãn nguyện của thỏa mãn lờ đờ; không phải sự mãn nguyện của một kết quả được thành tựu, nhưng sự mãn nguyện mà đến khi cái trí thấy được sự thật trong cái gì là và sự giả dối trong cái gì là. Nhận biết được sự thật đó là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc; và nhận biết đó bị trì hoãn qua sự diễn tả bằng từ ngữ về khoảnh khắc đó.

Thay đổi không là một kết thúc, một kết quả. Thay đổi không là một kết quả. Kết quả hàm ý cặn bã, một nguyên nhân và một hậu quả. Nơi nào có nguyên nhân, chắc chắnhậu quả. Hậu quả chỉ là kết quả của ham muốn được thay đổi của bạn. Khi bạn ham muốn được thay đổi, bạn vẫn còn đang suy nghĩ dựa vào đang trở thành; cái đang trở thành không bao giờ có thể biết được cái đang là. Sự thật là đang là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và hạnh phúctiếp tục không là hạnh phúc. Hạnh phúctrạng thái đang là đó mà là không-thời gian. Trạng thái không-thời gian đó chỉ có thể đến khi có một bất mãn lạ thường – không phải bất mãn đã tìm được một phương tiện để tẩu thoát nhưng bất mãn mà không có lối thoát , không có tẩu thoát, không còn đang tìm kiếm sự thành tựu. Chỉ đến lúc đó, trong trạng thái bất mãn lạ thường đó, sự thậtthể hiện diện. Sự thật đó không dành cho mua bán, hay lặp lại; nó không thể bị trói buộc trong những quyển sách. Nó phải được tìm ra từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, trong nụ cười, trong nước mắt, dưới chiếc lá khô, trong những suy nghĩ vẩn vơ, trong sự phong phú của tình yêu.
Tình yêu không khác biệt sự thật. Tình yêu là trạng thái mà trong đó qui trình tư tưởng, như thời gian, đã hoàn toàn kết thúc. Nơi nào tình yêu hiện diện, có sự thay đổi. Nếu không có tình yêu, cách mạng không có ý nghĩa, bởi vì lúc đó cách mạng chỉ là một hủy diệt, một thoái hóa, một đau khổ chồng chất vô tận. Nơi nào có tình yêu, có cách mạng, bởi vì tình yêu là sự thay đổi từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. 

Đã dịch:

1-Sổ tay của Krishnamurti
Krishnamurti’s Notebook
2-Ghi chép của Krishnamurti
Krishnamurti’s Journal
3-Krishnamurti độc thoại
Krishnamurti to Himself
4-Bàn về giáo dục
On Education
5-Bàn về liên hệ
On Relationship
6-Thư gửi trường học
Letters to Schools
7-Nói chuyện cuối cùng 1985 tại Saanen
Last Talk at Saanen 1985
8-Nghĩ về những việc này
Think on these things
9-Ngẫm nghĩ cùng Krishnamurti
Daily Meditation with Krishnamurti
10-Thiền định 1969
Meditaion 1969
11-Bàn về Thượng đế
On God
12 –Tương lai là ngay lúc này
The Future is now
13 – Bàn về sống và chết 
On living and dying (2-2009)
14- Bàn Về Tình Yêu và Sự Cô Độc
15- Bàn Về Xung Đột, J. Krisnamurti
On Conflict
16 – Sự thức dậy của thông minh (Tập I/II)
The Awakening of Intelligence
17 – Bàn về sợ hãi (7-2009)
On Fear
18 - Bàn Về Học Hành Và Hiểu Biết
19- Vượt Khỏi Bạo Lực 
Beyond Violence
20 – Sự thức dậy của thông minh (Tập II/II)
The Awakening of Intelligence
21 - Nghi Vấn Không Đáp Án
22 – Tự do đầu tiên và cuối cùng [4-2010]
The First and Last Freedom

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
16/08/2013(Xem: 16654)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.