Cội nguồn

22/08/20174:00 SA(Xem: 7182)
Cội nguồn

CỘI NGUỒN
Quang Kính Võ Đình Ngoạn

   

     Cá hồi ( salmon )  thuộc chủng loại salmonidae được sinh ra từ thượng nguồn các sông hồ. Song chúng chỉ sống nơi đây khoảng thời gian ngắn.  Rồi loài cá nầy đã vội giả từ nơi chúng được sinh ra để làm một chuyến hải trình ngàn dậm về chốn biển khơi. Nơi có nguồn thực phẩm dồi dào thích hợp cho cuộc sống của chúng. Nhưng rồi với năng khiếu bẩm sinh, bản năng sinh tồn tự nhiên, khiến chúng cảm nhận được rằng chỉ có cội nguồn mới là nơi an toàn, là nơi che chở cho những bọc trứng, những đàn cá mới chào đời không bị các loài thuỷ tộc khác sát hại. Do đó chúng đã không quản ngại gian nan  nguy hiểm đến tính mạng lội ngược dòng sông trở về nguồn. Nơi chúng đã có một thời sinh sống. Cuộc hành trình về nguồn lần nầy qủa thật là một  cảnh bi hùng.  Bởi lẻ nguồn năng lượng nơi thân thể chúng đều dùng cho việc vượt thác, vượt ghềnh trở về nơi cố quận. Rồi những con cá yếu sức lần lượt giả từ cỏi đời. Xác cá chết trắng xóa cả một khúc sông. Những thân xác nầy biến thành bửa tiệc linh đình cho các chú gấu đang chực sẳn hai bên bờ để đánh chén. Đàn cá còn lại vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đầy nguy hiểm ấy.  Số lượng cá về được đến nguồn có lẻ chỉ còn độ 20%-25% số lượng của đàn cá lúc ra đi. Khi sinh nở xong, những cá mẹ chỉ sống được với đàn con dại khoản thời gian ngắn. Rồi chúng cũng vội từ giả cỏi đời vì kiệt sức. Không riêng gì giống cá hồi.  Nhiều loài sinh vật khác vì săn bắt mồi, vì tránh cái lạnh mùa đông...Nên chúng phải tạm rời khỏi nơi mình sinh ra và lớn lên. Rồi xuân  đến chúng lại về  nơi chốn củ như loài chim lạc. Khi xưa tổ tiên người Việt đã nhìn theo hướng bay của loài chim nầy mà di dời về phương nam để tránh cái họa diệt vong do người phương bắc mang đến. Giống chim bồ câu được con người thuần hóa, nuôi dưỡng làm vật đưa tinđặc tính dù ở vạn dặm xa xôi vẫn tìm về nơi mình đã từng sinh sống...

     Từ thuở khai thiên lập địa. Từ thuở loài người hiện diện trên qủa tinh cầu nầy thì khái niệm cội nguồn cũng được phát sinh. Thời kỳ con người còn ăn lông ở lổ...Ý niệm cội nguồn có thể là những hang động, nơi che mưa, tránh nắng của một nhóm người, nơi sinh sống của một bộ tộc, một quốc gia.. .Nhưng rồi xã hội loài người, cuộc sống  ngày càng thăng hoa. Phạm trù cội nguồn cũng  không còn đơn thuần là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nơi có mồ mả tổ tiên, ông bà cha mẹ...nhưng nó bao gồm nhiều lãnh vực như cội nguồn đất đai,  cội nguồn văn hóa, cội nguồn  lịch sữ, cội nguồn tâm linh...

     Khi xưa ông Trần Tế Xương  nhiều lần đi thi bị trượt nên đã thốt lên những câu thơ đầy cay đắng:          --------

Thi không ăn ớt  thế mà cay
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ
Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày
Cống hỷ , mét xì đây biết cả
Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây.

 Xã hội chúng ta đang sống có những phương tiện thông tin, giao thông hiện đại... Do đó hiện nay người Việt không phải chỉ biết một vài quốc gia láng giềng chung quanh hay nước Pháp, nước Tàu là đế quốc đã đô hộ mình như thời ông tú Vị Xuyên đã sống. Qua báo chí, qua sự học hỏi về sử ký, địa dư, qua trang mạng điện tử... đa phần nguời Việt bây giờ có một kiến thức rộng rãi hơn về thế giới bên ngoài. Ngày nay do nhiều nguyên nhân đưa đẩy đã khiến  một số lượng không nhỏ người Việt phải ly hương sống nhiều nơi trên thế giới.  Trong số người Việt ly hương đó cũng có nhiều người lâu lâu trở về thăm lại quê cha đất tổ, thăm cha mẹ, bà con họ hàng. Song cũng không ít người chưa một lần trở lại quê xưa. Họ sẳn sàng chấp nhận đất nước  mình đang sống làm quê hương thứ hai và gởi nấm xương tàn tại nơi đây. Đối với những nguời chưa một lần về lại nơi chôn nhau cắt rốn ấy. Có phải chăng họ đã quên đi nguồn gốc của mình? Theo thiển ý kẻ viết . Họ không quên đi cội nguồn của mình.  Nhưng trái lại những người nầy có những tình cảm rất sâu đậm với quê hương, đất nước. Hành trình về nguồn của họ không phải trên những chiếc boeing 737, không phải trên các con tàu rẽ sóng đại dương hay trên những chiếc xe điện siêu tốc xuyên biên giới... Nhưng hành trình về quê hương của họ được thể hiện qua tâm thức, qua những kỷ niệm vui, buồn mà họ đã sống, qua việc bảo tồn nền văn hóa, di sản lịch sử  dân tộc... Giờ đây xin mời qúi vị cùng kẻ viết thử lướt qua cuộc hành trình về nguồn bằng tâm thức ấy.

     Kẻ viết còn nhớ vào năm 1963. Trong giờ học địathế giới nói về châu Phi. Thầy giáo dạy môn sử địa có kể cho học sinh trong lớp nghe câu truyện đi tìm về  cội nguồn tổ tiên, cội nguồn dân tộc của một  người Mỹ gốc Phi. Rất tiếc lâu ngày người viết không còn nhớ tên ( hình như ông ta là một văn sỉ ). Ý muốn về nguồn nầy được phát sinh bởi một ngôn từ rất xa lạ mà thuở thiếu thời cho đến khi khôn lớn ông thường nghe ông bà cha mẹ nhắn đến. Nhất là lúc sắp lâm chung.  Đó là chử Maputo. Nếu lấy năm 1963 làm dấu móc thời gian. Những năm trước đó ngôn từ Maputo có lẻ cũng không mấy hấp dẫn với các nhà khảo cứu về địa lý. Bởi nó chỉ là tên một vũng( Đầm) có con sông Maputo chảy ra Ấn Độ Dương. Qua sự nghiên cứu về lịch sử chử Maputo còn là tên một tù trưởng của một bộ tộc. Vị tù trưởng nầy luôn luôn chiến đấu chống lại sự  thống trị của người Bồ Đồ Nha. Nhờ những nghiên cứu tìm tòi đó. Người Mỹ gốc Phi nầy đã xác quyết được rằng quê cha, đất tổ của mình  chính là nước Mozambique nằm gần Ấn Độ Dương. Sau đó ông đã thực hành một chuyến viễn du.  Ngày 25 tháng 6 năm 1975 nước Mozambique tuyên bố độc lập. Dân tộc nầy thoát khỏi ách  đô hộ của người Bồ Đồ Nha và trở thành nước Cộng Hòa Mozambique. Thủ đô Lourenco Marques được đổi thành Maputo để vinh danh vị tù trưởng nêu trên. Sự kiện đổi tên thủ đô càng chứng tỏ được rằng vùng đất Mozambique qủa thật đó là cội nguồn, là quê cha đất tổ của ông.  Chúng ta cũng nên nhớ rằng những tư nhân Bồ Đồ Nha đặt tên  thành phố là Lourenco Marques nhằm ghi ơn nhà thám hiểm Âu châu đầu tiên đã đặt chân đến nơi nầy. Thủ phủ ấy khi xưa là một trung tâm buôn bán nô lệ nổi tiếng. Đó chính là nơi khiến những người dân châu Phi hiền lành, chất phát trở thành người nô lệ sống kiếp lưu đày.

     Trở lại câu chuyện tổ tiên của người Mỹ gốc Phi. Chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy. Một thế lực phi nhân có thể giam cầm, bắt nguời khác sống kiếp sống nô lệ, thân thể họ bị đày đọa...  Song không một thế lực nào có thể giam cầm được những tư duy, những tâm tư, tình cảm mà họ đã dành cho quê hương đất nước. Qua chử Maputo đó. Những người dân Phi khốn khổ đã về lại quê hương trong tâm thức. Họ hình dung được nơi quê cha đất tổ– Nơi ấy có những ruộng mía bạt ngàn, những rừng dừa trỉu qủa với đầm nước trong xanh đầy tôm cá, với rừng cao su bát ngát, với rừng bông gòn bung qủa trắng xóa trên cây, những kỷ thuật làm đồ gốm lâu đời cha truyền con nối... và nhất là vị anh hùng dân tộc Maputo luôn luôn anh dũng tranh đấu dành quyền  độc lập, tự do cho dân tộc. Vùng đất đó họ đã được sinh ra và lớn lên trong tình làng nghĩa xóm mà bây giờ chỉ còn trong ký ức... Chử Maputo đó như là một thông điệp gởi đến thế hệ mai sau hãy nhớ về cội nguồn, hãy nhớ đến quê hương khốn khổ của mình.

     Khác với những người châu Phi sống cuộc đời nô lệ đầy tăm tối. Người Việt chúng ta dù muốn, dù không cũng ra đi trong tinh thần tự nguyện. Chúng ta mang theo cả một gia tài văn hóa đến xứ người. Gia tài văn hóa ấy.  nó bao gồm về huyền thoại lịch sử  và chính sử của dân tộc, nó bao gồm về tín ngưỡng dân gian hay tín  ngưỡng tôn giáo... Nó thể hiện qua ca dao tục ngữ  được lưu truyền, qua sinh hoạt của cộng đồng người Việt ly hương...

     Hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có huyền thoại lịch sử cho dân tộc mình. Người Nhật cho rằng họ là con cháu của Thái Dương thần nữ. Người Ấn nghỉ rằng họ được  sinh ra từ những nơi trong thân thể của vị thần Phạm Thiên...Đối với dân tộc Việt. Qua câu truyện ông Lạc Long Quân là rồng và bà Âu Cơ  là tiên. Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng, nở ra ra một trăm con. Năm mươi con theo cha xuống biển, năm mươi con theo mẹ lên núi. Phải chăng huyền thoại lịch sử đó nhằm mục đích khuyên con cháu dù người Kinh hay người Thượng đều nên thuận hoà giao hảo.  Do truyền thuyết nầy. Người Việt đã tự nhận mình là giống tiên rồng. Cũng từ huyền sử trên trong văn học Việt Nam có một ngôn từ rất thân thương. Đó là chử  đồng bào. Ôi ngôn từ đồng bào ấy khiến trong kho tàng văn chương có những câu ca dao tục ngữ khuyên răn con cháu hãy thương yêu, đùm bọc lấy nhau để sống, để được sinh tồn như các câu thơ:


Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một  giàn

Hoặc      
Nhiểu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Câu truyện Phù Đổng Thiên Vương để lại cho thế hệ con cháu mai sau một bài học lịch sử giử nước. Khi đất nước bị giặc ngoại xâm. Việc chiến đấu, bảo vệ để vẹn toàn lãnh thổ, bảo vệ di sản văn hóa, độc lập, tự do...Đó chính là nhiệm vụ của toàn dân từ cậu bé lên ba cho đến các vị bô lảo, đến các bậc nữ nhi hào kiệt... Câu chuyện thánh Gióng đã khiến thế hệ mai sau có những bậc nữ nhi anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu, cô Giang, cô Bắc, một Trần quốc Toản còn trẻ không được vào họp để bàn việc nước đã bóp nát quả cam đang cầm trong tay mà không hay biết... Hoài Văn Hầu Quốc Toản đã về gom góp gia nhân, thân quyến, tiền của mua sắm khí giới tuyển quân. Cờ đề sáu chử Phá cường địch báo hoàng ân. Đội quân của ông đã khiến cho quân giặc Nguyên Mông nhiều phen khốn đốn. Ngoài ra trong lịch sử Việt Nam còn có những truyền thuyết nói lên tinh thần quyết tâm bảo vệ tổ quốc dù dân tộc đang sống dưới ách thống trị của ngoại lai như câu truyện Gò Đồng Trụ. Tương truyền rằng khi  hai bà Trưng bị bại nhảy xuống Hát Giang tuẩn tiết. Mã Viện cao ngạo cho dựng một  cột đồng trên đề dòng chử Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Để cho cột đồng khỏi ngã. Mỗi người  Việt đi ngang qua đều bỏ vào đấy một tảng đất hoặc đá khiến  lâu  ngày nơi ấy trở thành gò đất to lớn. Cột đồng của Mã Viện đã không ngã. Nhưng đồng trụ cũng không thể đứng ngạo nghễ trên đất nước Việt. Nó đã vỉnh viễn bị chôn sâu vào lòng đất lạnh. Khi đất nước hùng cường thì tổ tiên ta đã không ngần ngại bẻ gảy mọi âm mưu xâm lượt của ngoại bang từ trong trứng nước. Như câu chuyện lịch sử dũng tướng Lý Thường Kiệt xua quân đánh thẳng vào Châu Ung và Châu Liêm là cơ sở hậu cần của nhà Tống. Nơi tàn trử lương thực, quân cụ để chuẩn bị cho việc xâm chiếm nước Nam. Sự kiện lịch sử nầy khiến trong dân gian Việt có câu ca dao truyền tụng:

Nực cười châu chấu đá xe,
Ngở rằng chấu ngã, ai ngờ xe nghiêng.

     Hành trình về nguồn của những người Việt ly hương ấy được  biểu lộ qua nhiều hình thức. Nơi chôn nhau cắt rốn đó được trở về trong ký ức của mỗi người Việt xa quê qua nhiều hình ảnh. Nó có thể là làn khói lam chiều tỏa lên từ những mái tranh .  Hình ảnh lủy tre làng soi bóng dưới dòng nước trong xanh. Đó đây có vài chú mục đồng ngồi trên lưng trâu nghêu ngao hát ai bảo chăn trâu là khổ?  chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau. Để rồi hình dung một Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh phất ngọn cờ lau dựng lên nghiệp lớn. Mở màn cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc, xuyên suốt qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Nơi xóm làng thân thương ấy có những cánh đồng xanh um màu mạ mới. Nơi ruộng đồng ấy. Người nông dân đã cần cù lao động để đổi lấy bát cơm. Sự lao động cần cù nầy được biểu hiện qua bức tranh thủy mạc:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa

mà những nông dân cần cù chất phác ấy chỉ có niềm ước ao đơn giản:

Lạy trời cho đến tháng mười,
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn.

Trong hoạt cảnh đồng áng ấy. Đó đây vang lên giọng hát câu hò nhằm xua đi những nhọc nhằng lao tác. Nó có thể là điệu hò Nam bộ hay quan họ Bắc Ninh, những câu hát đố của nhũng chàng trai, trêu ghẹo các cô thôn nữ ...Hành trình về nguồn cũng được thể hiện qua những di sản văn hoá vật thể trải dài từ Nam chí Bắc. Với Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Tháp rùa đứng giửa Hồ Gươm, con đê Phủ Lý, chùa Một Cột  nét đặc thù nền văn hóa Việt... Miền Trung có tháp chuông Thiên Mụ soi hình dưới dòng nước Hương giang,  chùa Từ Đàm nơi khởi đầu cho phong trào tranh đấu đòi quyền bình đẳng, tự do tôn giáo vào năm  1963, với cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp, với những lăng tẩm, đền đài của các vua nhà Nguyễn, phố cổ Hội An...Rồi ký ức về nguồn lại xuôi vào Nam. Với Sài Gòn hoa lệ. Nơi được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn  Đông. Với cảng Nhà Rồng tấp nập tàu bè qua lại, với chợ Bến Thành, với chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi một thời rực lửa đấu tranh, đền thờ đức Tả Quân Lê Văn Duyệt nghi nghút khói hương và còn nhiều, còn  nhiều nữa. Làm sao kể xiết...

     Lòng nhớ quê hương ấy không những được hiện về trong ký ức của mỗi một người Việt xa xứ. Song nó còn được thể hiện qua các sinh hoạt cộng đồng. Trong lể hội tết nguyên đán được tổ chức hằng năm. Cội nguồn ấy lại hiện về trong ngày giổ tổ Hùng Vương, ngày vía hai bà Trưng, ngày vía đức thánh Trần. Nó còn được thể hiện qua tín ngưỡng dân gian với ngày vía bà Chúa Xứ hay bà chúa Liễu Hạnh....Sự trở về cội  nguồn ấy nó còn thể hiện được tinh thần tương thân, tương ái xuyên qua các hội đoàn, các hội ái hửu. Như hội ái  hửu Quảng Đà, hội thân hửu Quảng Ngãi, Nhóm thân hửu Gia Long - Trưng vương, Trần Hưng Đạo - Bùi thị Xuân, nhóm Quốc Học- Đồng Khánh, nhóm nhớ Huế...Hàng năm các hội đoàn nầy tổ chức gặp mặt hàn huyên tâm sự. Ngoài ra người Việt tha phương còn tổ chức những đại hội về nguồn để cùng nhau thảo luận tìm ra một phương án hầu duy trì, bảo tồn được nền văn hóa Việt nơi xứ người. Hằng năm vào dịp nghĩ hè. Những vị có nhiệt tình với quê hương, dân tộc, họ thường tổ chức các trại hè về nguồn cho các em thanh thiếu niên nam, nữ  mở các lớp Việt ngữ để thế hệ mai sauthiện duyên hơn trong việc tìm về cội nguồn của mình, để khỏi xa lạ, bở ngỡ khi tiếp xúc với người thân ở quê nhà.. .  

     Đa phần đời sống tâm linh của người Việt là đạo Phật. Sự hiện diện của Phật giáo ở Việt Nam đã có từ lâu. Do đó mọi sinh hoạt  tôn giáo đều ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn hóa nước nầy. Bởi vậy văn hóa Phật giáo cũng là văn hóa Việt Nam. Vì lý do đó những nơi nào có người Việt sinh sống là nơi ấy có những ngôi chùa hiện diện. Tại nơi đây các trưởng tử Như Lai hoằng dương giáo pháp Phật Đà. Tại nơi đây các hành giả đến tu học đạo giải thoát. Tại nơi đây người dân Việt đã trở về cội nguồn dân tộc qua hình ảnh người người đi chùa lể Phật, xin lộc đầu năm. Cầu hồng ân Tam Bảo hộ trì cho thân bằng, quyến thuộc. Với những mâm cổ có bánh chưng bánh dày để dâng cúng ông bà, tổ tiên. Với ngày hội Vu Lan báo hiếu nhắc nhở con cháu nhớ đến bổn phận của mình, với những bài thuyết giảng nói đến bổn phận của mỗi một người đối với môi trường sống xung quanh... Hình ảnh các ngôi chùa trở thành thân thương, qúi mến trong tâm tư của người Phật tử . Chính nơi đây là nơi che chở cho nếp sống tâm linh. Nơi duy trì, bảo vệ nền văn hoá nước nhà:

Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông

     Qua câu chuyện người Mỹ gốc Phi tìm về cội nguồn dân tộc mà người viết đã nghe được khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Chắc đã khiến không ít qúi vị thấy cảm phục cho cuộc hành trình tìm về nơi quê cha đất tổ mà nguời nầy đã thực hiện. Tình cảm ấy ôi thật thiêng liêng! ôi thật trân qúi thay! Đành rằng huyền sử của một dân tộc hay huyền sử một tôn giáo ngày nay nó không thể  giải đáp những nghi vấn mà khoa học đòi hỏi, không còn thích nghi với sự tìm tòi, khám phá của khoa học; song nó luôn luôn vẫn là nét đẹp về văn hóachúng ta cần bảo tồn di sản ấy. Mặc dù người Việt ly hương xa lìa nơi chôn nhau cắt, rốn. Nơi có mồ mả tổ tiên ông bà. Nơi ấy chính là cội nguồn đất đai. Kẻ viết thiết nghỉ cội nguồn đất đai đó  nó vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm tư của những người Việt xa xứ qua những nét đẹp văn hóa vật thể ở quê nhà. Nhưng cội nguồn đất đai có thể không còn hiện diện trong ta.  Khi mà chúng ta đã đánh mất đi cội nguồn văn hóa, cội nguồn lịch sử, cội nguồn tâm linh của dân tộc. Do đó chúng ta trân trọng kính  phục thay cho những ai đã không quên đi cội nguồn dân tộc. Nhưng ngược lại chúng ta đau buồn và thương thay cho những ai đó đã chối bỏ truyền thống văn hóa dân tộc,  chối bỏ huyền thoại lịch sử tiên rồng để chấp nhận một huyền thoại ngoại lai. Họ đã đánh mất đi món ăn tinh thần cần thiết cho cuộc sống. Khiến họ chẳng khác gì những cô hồn vất vưỡng không văn hoá. Cho dù họ đang sống chính trên mảnh đất quê hương song họ vẫn là những người khách bơ vơ, xa lạ. Ôi đau khổ thay cho những ai đã đánh mất đi cội nguồn văn hóa của mình.

 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
03/10/2014(Xem: 9144)
21/08/2014(Xem: 9940)
04/01/2017(Xem: 12830)
02/11/2023(Xem: 1254)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.