Thư Viện Hoa Sen

Hành Trình Của Giọt Nước | Tác Giả Tiểu Lục Thần Phong

09/02/20253:16 SA(Xem: 1670)
Hành Trình Của Giọt Nước | Tác Giả Tiểu Lục Thần Phong

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC
(Tùy bút – Viết từ Vancouver đến Atlanta) 
Tác giả Tiểu Lục Thần Phong


 

cảnh troi may nuocKIẾP NẠN THỜI ĐẠI

Bão bùng mưa gió rồi cũng qua đi, giọt Xíu thoát ra khỏi mọi hệ lụy của hình tướngthế gian này, không còn ràng buộc bởi bất cứ sự dụ hoặc nào. Giọt Xíu sung sướng ngao du khắp mười phương, không chỗ nào là không có mặt,  có mặt khắp mọi nơi mà như thể không hề có mặt. Giọt Xíu ung dung tự tại trong trời đất, núi rừng, sông hồ, biển khơi, đô thành, tiểu trấn, đồng quê kể cả ở sa mạc hoang vu, tha ma mộ địa…

Giọt Xíu vi vu thì thầm với gió mây. Xíu không đi một mình, có cả anh em nhà Xíu cùng đi, nào là giọt Cả, giọt Lớn, giọt Bé, giọt Thừa, giọt Út, giọt Xinh…Trong lúc thong dong, Xíu kể cho anh em họ phương xa nghe chuyện kiếp nạn của xứ mình, giọng giọt Xíu nhẹ nhàng tha thiết nhưng cũng pha phần ai oán:

- Năm ấy xứ mình xảy ra kiếp nạn lớn, quan quyền xứ mình vô cảm, bất tri và tham lam vô độ. Bọn họ bao che cho bọn tư bản bất nhân, làm ăn bất chánh. Bọn chúng vì lợi nhuận tối đa mà ra tay hạ độc tàn hại muôn loại, bao nhiêu hóa chất, chất thải độc hại, chất thải công nghiệp… tuồn hết ra biển. Biển mênh mông đến vậy mà bị nhiễm độc thê thảm. Toàn bộ thủy tộc chết sạch, đến loài chim trên trời rỉa xác cá nhiễm độc ấy cũng lăn ra chết nốt. Ngay cả những người thợ lặn lặn xuống để truy tìm cống xả cũng bị nhiễm độc mà chết, kẻ sống sót thì dặt dẹo mang đủ thứ bệnh. Ngư dân vùng ấy bế tắc sinh kế, không còn nguồn sống, đời sống vốn đã khổ sở giờ thêm nạn này nữa cho nên kiệt quệ. Biển nhiễm độc thành biển chết, làng xóm tiêu điều, dân tình khổ đau. Kiếp nạn ghê gớm từ thuở tạo thiên lập địa đến giờ chưa từng thấy qua. Cả một vùng biển chết, không cá chim, không một bóng người, không một con thuyền nhỏ. Kiếp nạn thê thảm, muôn loài bị hạ độc, người dân đau khổ khốn cùng, mẹ thiên nhiên bị bức tử. Đã thế người dân xứ này còn khổ đau bội phần bởi những kẻ cầm quyền chẳng chịu trách nhiệm, cứ lấp liếm, dối trá phủ nhận sự ô nhiễm. Chúng còn bày trò ăn cá mà thực chất cá từ nơi khác đem đến. Chúng to mồm rêu rao: “Thiên nhiên vẫn ở ngưỡng an toàn”. Cả một hệ thống từ trên xuống dưới với một bộ máy tuyên truyền dối trá, .Chúng dựng chuyện nói xạo, nói sai sự thật. Chúng đánh đập, khủng bố, bỏ tù tất cả nhũngai dám nói lên sự thật. Chúng trù dập người thưa kiện. Chúng bưng bít tất cả mọi thứ, ngăn chặn mọi tin tức từ bên ngoài, dập tắt những tiếng nói đòi công lý, tiếng nói vì lương tâm. Cái tâm bọn chúng quá nhỏ bé nhưng cái ác và sự tham lam thì vô hạn. Với bọn chúng thì tiền bạc và quyền lực là trên hết.

Giọt Xíu rưng rưng vừa phẫn nộ nên cầm lòng chẳng đặng, thố lộ hết nỗi lòng bấy lâu nay. Giọt Cả, giọt Trung, giọt Thừa, giọt Út… ôm lấy Xíu, vỗ về Xíu, đồng cảm với Xíu. Cả anh em nhà Xíu hòa làm một khiến giọt nước long lanh và lớn đến nỗi rơi xuống khiến bọn người dưới đất reo lên: “Ồ, mưa bóng mây, mưa bóng mây”. Những giọt nước dính trên cọng cỏ, cánh hoa, chóp lá...long lanh. Qua giọt nước ấy hình ảnh vũ trụ bao la, sơn hà đại địa cho đến vạn vật cỏ cây đều hiện bóng.

Giọt Cả khẽ khàng nói với giọt Xíu mà cũng là nói với tất cả anh em mình:

- Kiếp nạn của thời hiện đại rất dễ sợ, không chỉ mỗi anh em giọt nước chúng ta bị ô nhiễm mà tất cả mọi thứ gần xa đều cùng chung số phận. Đất đai nhiễm ô hoang hóa, không khí ô nhiễm nặng nề, khí thải, khói, bụi, chất độc lơ lửng trong ấy, nhất là ở các thành phố lớn, đô thị đông dân, khu vực công nghiệp… Nguồn nước của chúng ta thì không còn phải nói nữa. Sông suối, ao hồ, đầm lấy, biển cả… đầy hóa chất, rác thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, rác nhựa ngập ngụa trong các đại dương khiến cho các loài cá voi, rùa biển nuốt phải mà chết thảm. Loài người đang phát triển cao độ về kinh tế và kỹ thuật nhưng loài người cũng đang vì kinh tế và kỹ thuật mà hủy hoại môi trường sống của chính họ và của muôn loài. Loài người không thể tồn tại  mà không có thiên nhiên và muôn loài, tất cả tương tác cộng sinh. Khổ nỗi loài người tham lam, tàn độc và vô minh nên quên đi cái lý duyên sanh này! Trách nhiệm đầu tiên thuộc về các tập đoàn kinh tế lớn nhỏ, bọn họ vì lợi nhuận mà tàn hại môi trường, vắt kiệt môi trường, xả thải gây ô nhiễm môi trường. Kế đến là những kẻ cầm quyền chỉ vì lợi ích cá nhân, lợi ích phe nhóm, lợi ích băng đảng mà bảo kê cho việc tàn hại môi trường. Người dân cũng không thể vô can, một bộ phận lớn dân chúng tiêu xài vô tội vạ, xả rác thải vô cùng lớn, lượng chất thải rắn, lỏng, khí… tuồn hết ra môi trường tự nhiên. Loài người hạ độc muôn loài, tàn hại thiên nhiên cũng chính là tự hạ độc mình. Hậu quả nhãn tiềnthức ăn của loài người giờ toàn hóa chất, nguồn nước uống ô nhiễm, không khí hít thở ô nhiễm. Bọn họ tự đưa chất độc, chất ô nhiễm vào thân thể họ, bởi vậy mà càng ngày càng có nhiều căn bệnh quái lạ, ung thư tràn lan, dịch bệnh xảy ra nhiều hơn và khốc liệt hơn… tất cả đều tương ưng với mức độ ô nhiễm mà chính loài người gây ra.

Giọt Út, em kế của Xíu xưa nay nhí nhảnh dễ thương, thánh thót như tiếng dương cầm, rất yêu nghệ thuật và yêu đời. Út vốn sống trong tháp ngà chẳng quan tâm gì đến chuyện thế sự dân tình, ấy vậy mà hôm nay cũng nói những điều làm cho Xíu và mấy anh em trong họ phải ngạc nhiên:

- Loài người ngày xưa có kiếp nạn động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố… Ngày nay loài người vẫn có những kiếp nạn ấy, nhiêu đó chưa đủ, bọn họ còn tạo thêm kiếp nạn thời đại là nạn ô nhiễm môi trường. Loài người tự phụ phát triển cao độ, phát triển nhất trong loài linh trưởng nhưng xem ra cũng tệ lắm. Bọn họ tận hưởng thiên nhiên rồi quay lại làm hại thiên nhiên. Bọn họ tự cho mình thông minh, chế ra các phương tiện khoa học kỹ thuật tân tiến nhưng xem ra chẳng có dự cảm hay linh cảm bằng nhiều loài vật. Trước khi động đất thì động vật sợ hãi nhốn nháo tìm cách bỏ chạy tứ tung còn loài người thì không hề hay biết. Trước khi có động đất hay sóng thần thì các loài thủy tộc dưới nước lao vào bờ. Rồi những loài chim có thể định vị con mồi trong nước một cách chính xác mà chẳng cần AI hay high tech chi cả. Con chim bay, con cá lội, con thú chạy… còn vi diệu hơn những phương tiện kỹ thuật do loài người chế ra. Loài người hôm nay ngoài kiếp nạn thời đại ô nhiễm môi trường, bọn họ còn có kiếp nạn nhân tạo khác đó là ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm văn hóa. Mạng xã hội của loài người là cả một mớ hỗn độn, thuyết âm mưu, tin giả, chuyện tầm phào, chuyện nhảm nhí, nói xàm làm bậy...Sự ô nhiễm văn hóa ấy là dấu hiệu của văn hóa suy đồi, đạo đức suy thoái. Tinh thầntâm linh của con người cũng ô nhiễm nặng như môi trường bên ngoài.

Giọt Giữa nghe đến đây thì phản ứng:

- Giọt Út nói cũng có lý, tuy nhiên kiếp nạn ô nhiễm văn hóatinh thần của loài người không thuộc cảnh giới của chúng ta, mình đề cập đến e không thích hợp.

Giọt Cả gật gù khiến bọng nước rung rinh tưởng chừng sắp rơi xuống:

- Không có chi là không thích hợp, tuy khác cảnh giới nhưng chúng ta cùng tương tác cộng sinh. Chúng tatrách nhiệm chung, vì yêu thương mà nói để cảnh tỉnh, để chấn tác. Hy vọng một sự thức tỉnh xảy ra để chuyển biến theo hướng tốt. Hy vọng sự phục hồi cho mẹ thiên nhiên và muôn loài, phục hồi thiên nhiên cũng như phục hồi niềm tin, văn hóa, đạo đức và nhân luân.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (1)
HÓA THÂN

Đang bay lơ lửng trogn không trung, vô tình gặp luồng khí lạnh từ Bắc Cực thổi về làm cho hơi nước từ giọt Xíu ngưng tụ lại và hóa thành bông tuyết trắng tinh khôi, đẹp vô cùng. Những anh em của Xíu cùng hóa ra bông tuyết hết ráo, từng đám bông tuyết bám vào khung cửa sổ của chiếc máy bay Boeing 777 bay ngang qua. Giọt Xíu giờ là bông tuyết trông đẹp và dễ thương làm sao. Xíu nghiêng nghiêng mắt nhìn vào bên trong và đụng phải ánh mắt tò mò đang nhìn ra ngoài. Xíu nghe lời thì thầm từ đôi mắt ấy:

- Trời! Sao vi diệu thế này! Bông tuyết tí xíu dính vào cửa sổ trong khi máy bay bay với vận tốc gần 650 dặm một giờ  thế mà không rơi.
Giọt Xíu khoác chiếc áo choàng trắng tinh nhoẻn miệng cười, nét mặt rạng rỡ tự hào:

- Ta cũng vi diệu lắm đấy chứ! Tại người không biết đấy thôi!

Xíu nói với đôi mắt ấy với chút tự hào về bản thân, không biết đôi mắt của con người kia có nghe được lời của Xíu hay không, trong khi ấy thì Xíu lại nghe rõ mồm một những gì con người nói. Xíu thấy đôi mắt kia mở to đầy ngạc nhiên, miệng thốt lên lời:

- Em ơi nhìn kìa! Mây trắng trùng trùng mênh mông đến vô tận xứ. Mây trắng bay lang thang khắp vũ trụ không một chút phiền muộn, ung dung tự tại, tự do tuyệt đối. Nó chẳng một chút dính mắc.

Không nghe tiếng trả lời, Xíu khe khẽ thầm thì với đôi mắt ấy:

- Người không biết đấy thôi, không chỉ mây trắng. Tớ đây cũng ngao du khắp mười phương trong trời đất, chẳng có chi ngăn ngại được tớ. Trong mây trắng cũng có tớ và vô số anh em họ hàng của tớ. Bọn tớ còn vi diệu hơn cả mây trắng. Bọn tớ có thể hóa thân từ nước thành hơi, có thể biến ra bông tuyết, lại có thể hóa thành băng giá hoặc đá lạnh cứng như đá. Bọn tớ từ hơi ngưng tụ thành giọt rồi mưa xuống dưới đất kia chảy dài theo sông suối, tích tụ trong ao hồ hoặc về với đại dương bao la. Rồi từ những mặt nước ấy bọn tớ lại bốc hơi bay lên với mây trắng trời xanh, cả một cái vòng tuần hoàn quay bất tận, bất chấp tháng năm kiếp số, chẳng kể bọn người của các cậu có hay không có trên thế gian này.

Xíu nói chưa dứt lời thì chiếc Boeing bay ngang qua dãy tuyết sơn trùng trùng điệp điệp. Đôi mắt của con người kia nhìn xuống dưới với vẻ sửng sờ  mê mẩn tâm thần. Người chủ của đôi mắt ấy thốt lên:

- Thật hùng vĩ biết bao! Những rặng tuyết sơn kéo dài ngút tầm mắt, máy bay bay nhanh như vậy mà cả giờ đồng hồ rồi chưa qua hết dãy tuyết sơn này.

Xíu cười khanh khách, âm thanh trong vắt thánh thót như thể gió khua động những chuông băng giá:

- Người thấy chưa? Tuyết sơn cũng chính là họ hàng anh em nhà tớ tụ hội lại mà thành. Từng giọt, từng giọt xíu xiu đã tích tụ theo tháng năm kiếp số mà ra tuyết vĩnh cửu trên những rặng tuyết sơn ấy. Tuyết sơn hùng vĩ là vậy nhưng cũng chính là Xíu, Xíu bé tí teo thế này cũng thể là tuyết sơn. Từ tuyết sơn bọn tớ lại phân thân ra vô lượng những giọt nước nhỏ róc rách chảy ra từ các mạch ngầm,  rồi từ những  dòng nước tí ti kai sẽ tụ thành sông suối chảy ra ao hồ, biển cả...

Đôi mắt người kia dán chặt vào ô cửa sổ của máy bay nhỏ bằng hai bàn tay, từ trong ấy vọng lời nho nhỏ:

- Ừ nhỉ, anh em họ hàng nhà giọt nước có mặt khắp mọi nơi nhưng ở các hành tinh khác như mặt trăng, sao hỏa, sao kim… chắc gì đã có mặt. Các phi hành gia và các khoa học gia đã chứng minh điều đó.

Xíu nghe thế liền nói:

- Ừ, có lẽ là vậy nhưng cũng có thể bọn người các cậu chưa tìm thấy bọn tớ ở các hành tinh khác đấy thôi!

- Các cậu vi diệu thật, rong chơi khắp mười phương, hóa thân thật đa dạng. Tuy nhiên khi các cậu gây ngập lụt nơi này, hạn hán nơi kia cũng vi diệu sao?

Ồ, không! Người các cậu hiểu sai rồi! Bọn tớ có thể hóa thân, xuất nhập nhiều tướng trạng nhưng sự xuất hiện nơi này hay nơi kia thì phụ thuộc vào nhân duyên thời tiết và chịu sự chi phối của phước đức con người ở địa phương ấy. Bọn tớ không có khả năng thay đổi nhân duyên hay cưỡng lại cái quả tội phước của con người.

- Các cậu vi diệu như vậy nhưng không lẽ lại hùa nhau xuất hiện cùng một thời điểm để rồi gây mưa lớn lũ lụt làm hại người và vật?

- Tớ đã bảo rồi, đấy là duyên hợp tan tự nhiên, là phước phần phúc phận của con người ở địa phương ấy! Bọn tớ tuyệt nhiên chỉ mang lại sự sống cho muôn loài, còn tai họa lũ lụt hay hạn hán là do sự chiêu cảm cộng nghiệp của cả cái cộng đồng.

- Cậu là giọt Xíu trong trẻo tinh khiết đến vậy. Bọn các cậu ở đại dương, tuyết sơn cũng trinh nguyên là vậy, thế mà các cậu cũng bị nhiễm phóng xạ, nhiễm hóa chất và nhiễm bao nhiêu sự dơ bẩn khác, tại sao vậy?

- Vấn đề này phải hỏi loài người các cậu mới đúng! Chính loài người các cậu tham lam ích kỷ đã khai thác đến độ hủy diệt một cách tàn bạo môi trường tự nhiên, làm tổn hại muôn loài, làm bẩn đến anh em nhà tớ. Không chỉ họ nhà giọt nước, cả đất đai, không khí và bầu trời cũng ô nhiễm nghiêm trọnghoạt động kinh tế của loài người. Bọn tớ cho dù có bị nhiễm bẩn nhưng bản chất thanh tịnh vẫn không thay đổi.

Tiếng máy bay rì rầm, nó bay giữa một biển mây trắng, bên trên xanh thăm thẳm vô cùng vô tận, bên dưới từng lớp mây nhởn nhơ như vô số cuộn bông gòn ai bỏ quên. Máy bay chui qua những đám mây trắng như con trẻ chơi trò trốn tìm cút bắt. Dưới nữa thì mặt đất cũng bao la ngút ngát. Đường chân trời nằm ngang tầm mắt, người chủ của đôi mắt bên trong máy bay đưa tay toan chạm vào đường chân trời nhưng chỉ chạm được vào lớp nhựa trong suốt của cửa sổ. Đôi mắt ấy thoáng một tí ngỡ ngàng dường như có chút tỉnh mộng:

- Đường chân trời, những giấc mơ cứ ngỡ trong tầm với nhưng vĩnh viễn không bao giờ chạm tới được! Nhiều khi thế mà lại hay, một khi đã chạm được thì liệu đường chân trời và những giấc mơ có còn ước mơ để chạm?

Chiếc Boeing chợt giằng xóc dữ dội, rung lắc, trồi lên hụp xuống, lại có khoảnh khắc rơi tự do trong mấy trăm yard… Bên trong máy bay loa phát thanh kêu gọi mọi người buộc dây an toànngồi yên tại chỗ vì máy bay lọt vào vùng nhiễu động không khí.

Đôi mắt có chút âu lo sợ sệt, người chủ đôi mắt ấy suy nghĩ miên man liên tưởng đến những tai nạn hàng không, một nỗi sợ mơ hồ dâng lên. Tâm tư của anh ấy vẫn thường có ý nghĩ về những sự hóa thân giữa không trung đẹp biết bao, tuy nhiên chủ nhân của đôi mắt ấy không dám nói ra vì nhẫn tâm quá. Sinh mạng bao con người trong chiếc máy bay đâu thể xem như pháo hoa được!

Những phút nhiễu động rồi cũng qua đi, những phút ấy như thể dài cả thế kỷ, sự lo lắng sợ sệt hiện rõ trên từng gương mặt. Máy bay vẫn rì rầm trên đường bay, đôi mắt nhìn ra ngoài nhưng không thấy có vật chi để định lượng nên ngỡ như máy bay đứng yên. Nhìn xuống sơn hà đại địa mênh mông không sao tưởng nổi: Núi non, đồng cỏ, rừng rú, sông hồ, đại dương … trải rộng không ngằn mé, chẳng thấy đâu là giới tuyến hay biên giới như trên những tấm bản đồ. Những giới tuyến vô hình ấy là do đồng loại của đôi mắt kia vẽ ra. Chính con người đã chia chẻ, phân cách để rồi đánh nhau, tru diệt nhau để giành lấy mảnh đất ấy và hoang tưởng cho là của mình mà nào phải của mình. Bọn người phân chia lập ra biên giới, ranh giới, giới tuyến rồi tuyên bố: “đất của tao, cấm bọn mày xâm phạm, cấm tụi bay vượt qua lằn ranh”.  Chao ơi tham lamngu si, làm gì có đất này của mày,  đất kia của tao! Làm gì có chuyện vạn tuế, muôn năm, sống mãi, đời đời..! Tất cả chỉ là cộng trú, tạm trú một thời gian nào đó mà thôi! Đất đai mênh mông làm gì có ranh giới, con người chỉ túm tụm co cụm ở những thành thị xóm làng làm sao thấy được  sự mênh mông bao la của sơn hà đại địa, ấy vậy mà con người chỉ vì tấc đất lại có thể đoạn tình, tru diệt, truy sát.

Đôi mắt người kia còn suy tư thì tiếng cô tiếp viên mời nước làm cắt ngang dòng. Người chủ đôi mắt ấy nhận lấy ly nước tinh khiết và không quên cảm ơn. Họ cảm ơn vì họ là con người, cảm ơn tất cả những trợ giúp của đồng loại dù là lớn hay nhỏ, cảm ơn cả núi rừng kia, bầu trời nọ, đám mây này. Cảm ơn tất cả những hóa thân hiển hình của Xíu và anh em nhà Xíu. Đôi mắt lại lần nữa nhìn ra bên ngoài nhưng lần này không thấy bông tuyết bé xíu kia đâu nữa, có lẽ nó bị rơi khi gặp vùng nhiễu động khí quyển, cũng có thể nó lại hóa thành hơi hòa vào không khí, cũng có thể nó ở trong đám mây trắng kia. Máy bay bay qua đại dương xanh thẳm không thấy bến bờ. Đôi mắt nhìn xuống thấy vô lượng những giọt nước đang tung tăng vùng vẫy trong bể cả. Phải chăng giọt kia là Xíu? Ơ, không phải, ấy là giọt Cả. Thế còn giọt kia là giọt Út, giọt Điệu, giọt Xinh? Đôi mắt cố nhìn để tìm xem đâu là giọt Xíu nhưng chẳng tài nào phân biệt được, giọt nào cũng có thể là giọt Xíu mà giọt Xíu cũng có thể là chính anh em của mình. Tất cả đều cùng có đặc tính là những giọt mát trong tinh khiết, giọt lành, giọt đầu, giọt cuối… Bất ngờ đôi mắt ngộ ra và khe  khẽ nói:

- Ừ thì giọt nào cũng là giọt Xíu mà giọt Xíu cũng là tất cả những giọt kia.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (2)

QUA CÕI NÀY

 

Máy bay đáp xuống phi trường, dòng người lục tục đi ra khỏi lòng chiếc Boeing 777. Xíu nhìn quanh quất thấy ngoài sân đậu lềnh khênh đủ loại máy bay với các thương hiệu khác nhau. Bên trong thì nhân công nhanh chóng dọn dẹp lau chùi, khuân chuyển đồ cũ và nhận những xe thức ăn mới chuẩn bị cho chuyến bay kế tiếp. Vào trong sảnh, người đông ơi là đông, ai ai cũng hối hả tất bật, kẻ thì lo đi ra ngoài, người thì tìm kiếm thông tin cho chuyến bay chuyển tiếp. Cũng có rất nhiều hành khách nằm ngồi vật vạ khắp nơi vì những chuyến bay trễ hay bị hủy.

Xíu vốn đã quen với cảnh tượng này nhưng vẫn không tránh khỏi tánh tò nhìn xem thiên hạ rộn ràng. Bất chợt Xíu nhìn thấy nhiều người nhăn mặt bịt mũi đi thật nhanh, thì ra khu vực nhà vệ sinh bị nghẹt hay sao ấy, mùi khai bốc ra ngoài. Xíu cũng thoáng cau mày, bản thân nước vốn thanh tịnh kia mà, tại sao lại khai như thế? Xíu biết nước từ thân thể con người bài tiết ra, nó mang theo những khoáng chất và chất thải nên bốc mùi như thế! Nước đã thanh lọc thân thể con người, cung cấp sự sống cho con người. Thân người và muôn loài mượn nước, mượn Xíu và anh em Xíu để duy trì và phát triển xác thân và rồi từ cái xác thân ấy làm ô nhiễm Xíu.

Tại bồn rửa mặt, đôi mắt gặp Xíu và cả hai mừng hớn hở. Xíu rửa hết những bụi bặm và những tế bào chết li ti khó nhìn thấy trên đôi mắt ấy, rửa hết những nét mệt mỏi trên gương mặt sau chuyến bay dài. Giọt Xíu mát lạnh tinh khiết làm cho đôi mắt trong veo và gương mặt tươi tỉnh trở lại. Xíu chấp nhận hòa với chất dơ, cặn bã rửa cả hai bàn tay người để rồi xà bông và vô số vi khuẩn trên hai bàn tay ấy nhập hết vào Xíu và anh em Xíu. Sau đó Xíu và anh em Xíu chảy hết xuống đường ống xả, hết lượt này đến lượt khác, anh em nhà Xíu miệt mài, liên lỉ phục vụ hành khách ở sân bay và cũng như tất cả những nơi khácthế gian này.

Có tiếng thì thầm của những giọt nước nhưng đôi mắt người không phân biệt được giọt nào là Xíu, giọt nào là anh em của Xíu:

- Cậu thấy đấy, bọn tớ từ tâm vô lượng, yêu thương không ngằn mé, không phân biệt chẻ chia… Bọn tớ phục vụ loài người các cậu mà không phân chia ta – địch, Tây – Tàu, nam – nữ, sang – hèn, trí – ngu… Đừng nói là loài người các cậu, ngay cả động vật, thực vật bọn tớ cũng hết lòng tận hiến, thương yêuđiều kiện. Ấy vậy mà thực vậtđộng vật xem ra tử tế hơn loài người các cậu. Bọn chúng không làm ô nhiễm bọn tớ, không gây nhiễm độc cho anh em họ hàng nhà giọt Xíu. Chỉ có loài người các cậu mới làm điều tàn ác và ngu xuẩn ấy. Loài người các cậu đổ vào thiên nhiên bao nhiêu là chất độc, chất hóa học làm ô nhiễm nặng nề sông, suối, ao, hồ, biển cả, tầng mạch ngầm… Khí thải từ sinh hoạt và sản xuất của loài người làm ô nhiễm không khí tức cũng là ô nhiễm họ nhà giọt Xíu ở thể hơi, thể khí. Loài người các cậu đã tàn hại và làm ô nhiễm môi trường sống của chính loài người và muôn loài cũng bị họa lây. Xíu và anh em họ hàng nhà Xíu sau khi phục vụ loài người và được loài người tuồn hết ra ngoài thiên nhiên,khiến cho nước ở cống rãnh trở nên đen xì, hôi thối vô cùng. Bản tánh tự nhiên của bọn tớ vốn thanh tịnh ấy vậy mà giờ bị nhiễm bẩn nặng nề. Tớ nói cho cậu biết thế thôi, bọn tớ không bắt tội các cậu và cũng không thể làm gì hơn được, chỉ có điều là loài người các cậu sẽ nhận lấy cái hậu quả do chính tự mình gây ra, hậu quả không thể tránh, không sớm thì muôn thôi, hiện tại cũng đã và đang xảy ra khắp nơi rồi!

Đôi mắt ráo hoảnh, muốn nghe giọt Xíu nói nữa, lời của giọt Xíu cũng chính là những tâm tư trong lòng của đôi mắt này. Chỉ trong khoảnh khắc những lời thì thầm ấy làm xao động mạnh nhưng rồi người chủ đôi mắt ấy cũng phải bước đi sau khi uống thêm ngụm nước mát trong tinh khiết từ vòi nước công cộng ở sảnh đợi.

Trời ơi những giọt nước mát trong lan tỏa trong miệng, chảy xuống cổ rồi xuống dạ dày. Làn sóng mát theo máu truyền đến từng tế bào khiến cả châu thân hạ nhiệt, đôi mắt dường như cũng long lanh như giọt Xíu vì cảm nhận được sự kỳ diệu từ những giọt Xíu. Xíu và anh em Xíu sau khi vào thân rồi thì nhanh chóng đi khắp lục phủ ngũ tạng, tim mạch, não bộ, làn da… Đi một vòng khép kín, làm một hành trình nội thân để mang những tế bào chết, những khoáng chất dư thừa, những cặn bã từ trong các hệ thống, tẩy rửa nội quan… Vô số những giọt nước khi đi qua làn da lại hóa làm hơi và bay vào không khí, một số đi qua miệng mũi cũng hóa làn hơi khi bay ra ngoài. Bình thường thì đôi mắt và mọi người không thấy Xíu và anh em nhà Xíu qua làn da hay qua hơi thở, chỉ khi nào hoạt động mạnh hoặc rất nắng nóng để đổ mồi hôi thì họ mới thấy được Xíu và anh em Xíu hiện ra thân nước. Một lượng lớn anh em nhà Xíu đi qua đường thận sau khi thanh tẩy những nội quan của con người. Anh em nhà Xíu chịu nhiễm dơ, chịu bị hôi, bị khai để giúp thân thể con người thải ra ngoài những chất độc hại. Đôi mắt biết ơn Xíu và anh em Xíu lắm nhưng nó không thể nói thành lời. Đôi mắt biết rằng nó, thân thể này, loài người, động vật, thực vật mà không có Xíu và anh em nhà Xíu thì không thể nào tồn tại được!

Xíu và anh em Xíu ở hành tinh này đem lại sự sống cho muôn loài. Những giọt nước xinh xinh, tinh khiết không chết bao giờ, không đi cũng không đến. Những giọt Xíu từ vô thủy đến nay cứ luân phiên hóa thân hiển hình dưới nhiều hình dạng và trạng thái khác  nhau. Hành trình của giọt Xíu vô cùng vô tận, không khởi đầu và cũng không kết thúc khi mà thế gian này còn. Hành trình của Xíu cũng giống hành trình của đôi mắt kia, nó đã hình thành, trụ lại và hoại diệt vô số lần rồi. Nó cũng chuyển hình dịch đạo từ mắt trời, mắt người, mắt quỷ thần, mắt phi nhân, mắt thú...trong vô lượng kiếp. Không một ai có thể đếm được, chỉ có thể dùng ngôn ngữ trong kinh Phật mà nói ấy là hằng hà vô số, vô lượng vô biên, bất khả tư nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết.

Về đến nhà, người chủ đôi mắt ấy lập tức vào phòng thờ kính ngưỡng nhìn pho tượng đức Thế Tôn, hai tay nâng chén nước trong tinh khiết dâng lên cúng dường. Và mỗi ngày người chủ của đôi mắt ấy đều thay nước mới. Những giọt Xíu thanh tịnh đầy ắp trong chén nước trên bàn thờ Phật. Những giọt Xíu cúng dường Như Lai mà không sanh tâm phân biệt, càng không có tâm cống cao ngã mạn. Giọt Xíu xem việc cúng dường Thế Tôn hay tưới hoa tưới cỏ, hoặc dâng cho loài người, loài vật uống cũng đều là trách vụ thiêng liêng. Cúng dường hay bố thí cũng đều là phụng sự, bổn phận, trách vụ của Xíu và anh em họ hàng nhà Xíu là thế. Hành trình của Xíu từ thiên nhiên đi vào nhà máy nước, rồi qua chợ búa, kế đến về ngôi nhà của người chủ đôi mắt này, để rồi dâng lên cúng dường cũng giống như hành trình đi qua thân thể người và động thực vật, tuy có cái tướng khác nhau và có cái dụng khác nhau nhưng bản chất phục vụ sự sống, cúng dường thì giống nhau. Bản nhiên thanh tịnh của giọt Xíu và anh em nhà Xíu là như thế, mãi mãi như thế.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (3)

QUÊN THÂN VÌ THA NHÂN

Về đến nhà, đôi mắt lăn ra ngủ như chết trong khi ấy giọt Xíu vẫn âm thầm len lỏi qua từng tế bào trong thân chủ nhân của đôi mắt. Ngay cả trong đôi mắt, Xíu cần cù lau rửa những hạt bụi tí hon mà ngay cả đôi mắt cũng không nhận ra, tẩy đi những tế bào chết, thoa nhẹ một lớp mỏng ẩm ướt cho đôi mắt. Xíu và anh em nhà Xíu chia nhau đi từ đầu tới chân, ra vào qua lỗ mũi cùng với không khí, thẩm thấu qua da, lùng sục khắp lục phủ ngũ tạng, tim mạch… Cả bọn khuân những thứ căn bã thải ra từ các cơ quan nội tạng, gom những chất canxi, đường, muối dư thừa để đem xuống thận và rồi từ đó thải ra ngoài. Xíu, Xinh, Điệu, Sót, Út, Thừa… làm việc cật lực mà không hề biết mệt, dĩ nhiên là đôi mắt ấy không hề hay biết. Bọn Xíu đâu cần lời cảm ơn, chỉ hy vọng là chủ nhân của đôi mắt ấy bổ sung thêm  lượng nước bị hao hụt để sự sống duy trì một cách tốt nhất. Xíu những mong chủ nhân của đôi mắt ấy hoạt động, ăn uống lành mạnh để tránh bớt bậnh tật, đỡ dư thừa những chất có hại… Việc ấy cũng đồng nghĩa giảm bớt áp lực cho Xí và anh em nhà Xíu.

Đôi mắt ấy ngủ say sưa không hay biết gì đến Xíu và anh em nhà Xíu, không một lời cảm ơn, không một chút quan tâm. Nhiều lúc Xíu nghĩ nếu mà Xíu và anh em nhà Xíu từ bỏ đôi mắt ấy đi, từ bỏ cái xác thân chủ của đôi mắt mà đi thì chỉ trong thời gian ngắn thôi là cả xác thân và đôi mắt ấy sẽ thành vô dụng.

Giọt Xíu tuy nhỏ bé như tên gọi, long lanh như sương mai, dĩ nhiên là chẳng có chi mềm hơn nữa, ấy vậy mà giọt Xíu có năng lực lớn vô cùng. Trong thân người, thân động vật, thực vật muôn loài nếu không có Xíu và anh em Xíu thì coi như tất cả bỏ đi, chẳng còn sự sống. Xíu và anh em Xíu mền như thế nhưng một khi tập hợp lại  thì trở nên mạnh mẽ vô cùng, không gì có thể cản lại được, có thể phá cả núi, xẻ đồi, rạch đất…

Đôi mắt vẫn ngủ li bì không hay biết gì trời trăng mây gió, ngay cả chuyện quanh thân cũng không biết nốt. Lúc này bên trong thân chủ của đôi mắt. Giọt Cả gọi:

- Này Xíu, Cưng là hai đứa thông minh nhất, nhạy bén nhất, vậy nên hai cưng phải lên vùng não bộ để duy trì mọi hoạt động, giúp cho tư duy sáng suốt. Ngay cả những kẻ ngu đần nhất vẫn cần có sự giúp đỡ của Xíu. Nếu mà không có Xíu và những giọt nước thì não bộ sẽ hỏng.

Xíu, Cưng vui vẻ lập tức đi thẳng lên não bộ, cung cấp đủ nước để cho não bộ hoạt động trơn tru và nhanh nhạy.

Giọt Cả lại phân công:

- Xinh, Út hai đứa vốn nhạy cảm, tinh tế nhất, hãy vào trái tim để giúp duy trì nhịp tim, giúp thanh tẩy những tế bào chết, mang Oxy đi các nơi. Trái tim với nhiều cảm xúc, nhiều rung động nhiều khi trái tim không nghe lệnh não bộ, nó luôn lạc đường quên lối và loạn nhịp chỉ vì một nụ cười, một ánh mắt, một lời ngọt ngào… từ ai đó. Nó dễ dàng bùng lên giận dữ vì chút bất bình nào đó. Nó rất cần được vỗ về, làm dịu đi những cảm xúc tăng động. Nó cần họ nhà nước của chúng ta. Nó cần Xinh, Út… để sống. Những trái tim hiền thiện, bao la tình cảm, nhân ái thì chẳng có gì để lo lắng. Ngay cả những trái tim vô cảm, độc ác, hung dữ.. cũng cần có Cưng, Xíu, Út… cũng như tất cả anh em nhà giọt nước chúng ta. Trách vụ của chúng ta giúp duy trì sự sống, duy trì nhịp tim mà không phân biệt bỉ – thử, tốt – xấu, bắc – nam, thiện – ác… Việc phân biệt và đối xử như thế nào ấy là việc của loài người, để loài người tự lo lấy.

Sau đó thì những giọt khác được phân chia đi khắp các cơ quan, công việc trôi chảy ổn định. Xíu, Cưng, Điệu, Út… cả họ nhà giọt nước tung tăng chạy khắp nơi. Giọt Xíu bất ngờ gọi Xíu anh, người anh em sinh đôi của Xíu:

- Xíu anh à, có một nhiệm vụ nặng nề, hôi hám mà chẳng ai muốn đề cập đến. Xíu biết việc này không dễ dàng tí nào và dĩ nhiên là chẳng có chút chi lãng mạn nhưng không làm thì không được. Việc này cũng quan trọng không khác chi nhiệm vụ ở não bộ, tim, phổi...Nếu việc này không làm thì mọi việc kia cũng coi như đình trệ và cả thân chủ của đôi mắt cũng sẽ tiêu.

Xíu muốn nói nữa nhưng ngại ngùng nên cứ ấp úng. Xíu anh hiểu ngay:

- Có phải Xíu muốn tui dọn dẹp đường ruột, bao tử, dạ tràng… phải không?

- Trời, Xíu anh thông minh quá! Xíu muốn nói nhưng ngại quá.

- Có gì đâu mà ngại Xíu? họ hàng nhà giọt nước chúng ta có sứ mệnh phục vụ muôn loài. Phục vụđiều kiện, phục vụ vô biên tế, chẳng có sanh tâm cao thấp, chẳng biện biệt sang hèn kia mà.

- Cảm ơn Xíu anh, nhờ Xíu anh cái việc khó và nặng nhọc ấy!

- Không có chi, tui đi đây!

Xíu anh nói xong nhanh nhẹn đi thẳng đến bao tử, qua ruột non, ruột già hòa quyện với các chất dịch vị tiết ra để tiêu hóa thức ăn, đem chất dinh dưỡng thấm qua mao mạch để dẫn đi khắp cơ thể, còn những cặn bã, xơ thì đẩy ra ngoài. Nếu không có Xíu anh và nhóm của Xíu anh thì bụng sẽ chướng lên, các chất thải cũng không ra ngoài được…lúc ấy mới thật là điều tồi tệ nhất cho thân thể. Do gom những chất thải cặn bã nên Xíu anh và bạn bè đều nhiễm mùi hôi thối dơ bẩn không ai dám ngửi. Bọn người né tránh, bịt mũi cười chê. Bọn người đâu có hiểu chất dơ ấy chính bọn họ thải ra. Bọn họ không biết nhờ công sức của Xíu anh, anh em nhà Xíu phải chịu hôi dơ để thân thể khỏe mạnh. Bọn người là loài linh trưởng phát triển cao nhất, có nền văn minh, có trình độ khoa học kỹ thuật, có nền nghệ thuật tuyệt vời… nhưng đôi khi bọn người lại vô minh quên mất bọn Xíu và anh em nhà Xíu, chẳng biết rằng nhờ anh em nhà Xíu mà bọn họ mới tồn tại và phát riển được. Bọn người ăn uống vô độ, nhậu nhẹt lu bù, thứ gì cũng tọng vào họng để rồi sanh bệnh, để rồi làm khổ gấp nhiều lần cho Xíu và anh em nhà Xíu. Cả bọn Xíu lại phải cật lực làm việc để cứu lấy sự sống của đôi mắt, não bộ, nội tạng, làn da… nói chung là cứu lấy cả cái thân thể ấy. Bọn người quả thậtvô minh, tham lam dễ sợ, gì cũng vơ vào mình mà tệ nhất là cái khoản ăn uống. Bọn họ ăn không chừa thứ gì, cái tâm tham ăn uống ngon, bổ, khỏe, cường dương để hưởng thụ, để sanh ra dậm dật… Ngày nay việc ăn uống của bọn người không còn là để duy trì sự sống mà là ăn với cái tâm mê muội. Việc ăn uống như thế khiến muôn loài thống khổ vì bọn họ. Những nhà bếp, những trại chăn nuôi, những nhà máy chế biến thịt… chính là địa ngục trần gian. Bọn họ ăn uống cho đã cái miệng nhưng đâu biết rằng chính cái miệng đã hại cái thân, từ đó sanh ra bao nhiêu thứ bệnh: thống phong, cao mỡ, cao máu, xương khớp, tim mạch, béo phì...Đấy chính là hậu quả của tâm tham. Anh em nhà Xíu dù có hết lòng thanh tẩy cơ thể bọn người nhưng cũng đành bó tay chịu thua, sức lực có hạn khi mà tâm tham và sự vô minh thì vô hạn. Biết làm sao được, tự làm tự chịu thôi! Ngay cả đức Phật vốn từ bi vô hạn, vô tri vô sở bất tri, vô năng vô sở bất năng cũng đành chịu chứ làm sao độ được!

Sau khi phục vụ thân thể người, cật lực đẩy hết cặn bã ra ngoài. Bọn Xíu lại bị đẩy ra cống rảnh, hầm chứa… Những lúc này mới thấy sự hy sinh to lớn của Xíu, Xíu Anh, anh em nhà Xíu, sự hy sinh này khó có thể tả bằng bút mực, xưa nay cũng chẳng có ai tạc tượng hay vẽ tranh để tưởng niệm công lao ấy. Đời của nhóm Xíu anh và những anh em nhà Xíu những tưởng bỏ đi nhưng không, từ sự ô nhiễm hôi thối kinh khủng ấy. Bọn Xíu, Xíu anh, anh em nhà Xíu từng giọt, từng giọt  tự thân vượt qua sự ô nhiễm, Có giọt thì hóa thân bay vào không khí, hòa mình với hư không. Có giọt thẩm thấu sâu vào lòng đất tự lọc lấy mình để trở lại tinh khiết như thuở ban đầu. Có giọt trôi theo dòng nước để chảy vào sông, suối, ao hồ… Dù hóa thân kiểu nào, dù hiển hình dưới dạng nào bọn Xíu và cả họ nhà giọt nước đều trở lại bản nhiên thanh tịnh nguyên sơ.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, sau khi đi qua cái hành trình gian khó nặng nhọc, dơ dáy, lãng quên. Bọn Xíu, anh em Xíu, họ hàng nhà giọt Xíu lại về với đại dương bao la, ngọn nguồn sông suối róc rách tịnh thanh, vui với ao hồ lãng tử hoặc là phiêu lãng với mây trắng trời xanh và có một số không muốn hiện thân nên ẩn mình trong không khí vô hình vô tướng.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (4)

ĐỒNG CẢM

Mấy nay đôi mắt buồn rười rượi, buồn đến nao nao lòng người, cái buồn man mác như thể trong hoàng hôn trông người xa vắng, nỗi buồn chất chứa sầu như mây nước ùn lên. Giọt Xíu nao lòng thương cảm đôi mắt, gặng hỏi mấy lần nhưng chẳng thấy trả lời. Đôi lúc anh em Xíu xúm xít lại càng làm cho đôi mắt buồn thêm ươn ướt long lanh. Dường như cái gì quá cũng sẽ chuyển, sách có câu:”cùng tắc biến, biến sanh thông”, tuy nhiên chuyển tốt hơn hay tệ hơn thì chưa biết.

Hôm qua, nhân lúc anh em nhà Xíu đông đầy, đôi mắt thủ thỉ với Xíu:

- Tớ thương người ấy quá mà không thể đến với người ấy được!

- Tại sao?

- Tớ đã có gia đình

- Vậy thì buông xuống

- Lý là vậy, biết vậy nhưng làm không dễ tí nào. Xíu biết không? Hình bóng người ấy tràn ngập trong tâm tưởng, cái dáng thanh mảnh, đôi mắt long lanh, nụ cười như nắng ban mai của người ấy in sâu trong tạng thức, xuất hiện trong lúc ngủ, đồng hành trong lúc thức…

- Thế người ấy có biết cậu tương tư không?

- Biết

- Người ấy tỏ thái độ ra sao?

- Tớ nhận thấy người ấy chờ sự quyết định của tớ

- Người ấy có biết cậu có gia đình hay không?

- Biết và đang đắn đo, nếu tớ bỏ gia đình thì người ấy sẽ về ngay với tớ.

- Cậu có biết làm vậy thì gây đau khổ cho những người thân trong gia đình, vừa sai trái với đạo lý ở đời vừa phạm giới không?

Chính vì điều ấy mà tớ khổ đau không làm sao giải quyết được. Giá mà còn độc thân thì tớ sẽ đem người ấy về làm bảo bối riêng rồi.

- Chuyện lạc hậu xa xưa vậy mà cậu còn tưởng như thế thì thật hết biết luôn. Cậu quả là tay đa tình, đa mangđa đoan.

Đôi mắt không nói gì nữa, thân chủ của nó mấy nay xuất thần xơ xác vì tương tư. Sau khi biết cơn cớ sự việc như vậy, anh em Xíu càng thấy thương đôi mắt hơn, chăm chút tử tế, vì thế đôi lúc đôi mắt cảm động  nên để rơi những giọt lệ long lanh như sương mai. Xíu thấy vậy trêu:

- Anh em xem kìa, đôi mắt của thân chủ vốn là thân nam nhi mà lại khóc, mắc cười ghê.

Anh em nhà Xíu chia hai phe, bên đồng tình bên phản đối. Giọt Cả bảo:

- Đàn ông hay đàn bà gì cũng là con người, có đôi khi cũng cần phải khóc để giải tỏa bớt sự đau đớn của thân xác hay sự sự bi lụy của tinh thần. Khóc không phải là yếu đuối, khóc làm giải tỏa bớt uẩn uất, làm vơi nhẹ tâm lý căng thẳng.

Bọn giọt Út, giọt Thừa, giọt Điệu… ủng hộ ý ấy, cả đám reo lên nhiệt tình quá cỡ khiến cho đôi mắt đang long lanh lệ cũng phải phì cười và thoáng chút mắc cỡ. Xíu lợi dụng cơ hội, nói:

- Cậu phải buông thôi! Cậu đừng tham lam quá, dẫu biết trái tim thường loạn nhịp, không nghe lời não bộ hay lý trí. Tự thân cậu phải kiềm chế.

Đôi mắt nhìn Xíu và cái đầu của thân chủ đôi mắt khẽ gật nhẹ. Cả Xíu và đôi mắt thầm hiểu sự xao xuyến ấy vốn có nguồn gốc sâu xa, những hình ảnh, thanh âm, sắc tướng, mùi vị, màu sắc từ trong tạng thức khởi lên khi gặp phải đối tượng có tần số giống nhau, hút lấy nhau, sự giao thoa thích hợp với khuôn mẫu từ tiền kiếp. Đôi mắt im lặng. Xíu lại tiếp:

- Đành rằng là nhân quyên không phải một ngày, tất cả có cái gốc rễ sâu xa từ quá khứ. Tuy nhiên cậu phải buông thôi, không thể vì bản thân mà làm khổ đau cho người thân trong nhà, vừa gây thêm cái nhân xấu cho tương lai. Tớ đồng cảm với tâm sự của cậu, hiểu trái tim cậu đang co bóp giằng xé dữ dội nhưng cậu phải giải quyết vấn đề của cậu, không một ai có thể giúp được, dù đó là Phật, Bồ Tát, thánh thần. Tự mình gây ra thì tự mình giải quyết lấy! Tự cột thì tự mở!

Xíu nhẹ nhàng, ân cần chia sẻ với sự rắc rối của đôi mắt thân chủ, thông cảm với trái tim của thân chủ nhưng cũng kiên quyết không chấp nhận sự mê muội của thân chủ đôi mắt. Xíu kêu anh em họ nhà giọt nước lại để rửa cho đôi mắt bớt u buồn, làm cho đôi mắt long lanh và trong sáng hơn. Đôi mắt rơi giọt lệ lụy tình, giọt lệ trong vắt như giọt sương nhưng vẫn còn âm ấm và có chút vị mặn. Giọt lệ rơi là lúc Xíu anh em nhà Xíu đi ra ngoài đã mang theo những phần vật chất, hóa chất thừa và cả phần tâm lý nên khiến cho thân chủ đôi mắt kia trở nên nhẹ nhõm hơn, dễ chịu hơn.

Xưa nay thiên hạ vẫn cứ cho rằng Xíu và anh em nhà Xíu là những giọt nước vô tri, chỉ là vật chất thuần túy. Họ nhà giọt nước có thể phục vụ tận tình để duy trì sự sống, sự sinh sôi phát triển của con người và động thực vật muôn loài. Người ta đâu có biết Xíu và anh em Xíu cũng có thể biết cảm thông, có rung động ở một tần số nhất định nào đó. Có khoa học gia người Nhật đã làm thử nghiệm nhiều lần về tần số rung động của giọt nước bằng cách để những giọt nước rơi trong nhiều trạng thái vật lý khác nhau với những âm thanh và dòng nhạc khác nhau. Ông ấy còn để những chậu nước và dùng âm thanh, âm nhạc khuếch trương để đo cường độ rung động thẩm âm của những giọt nước. Ông ấy kết luận nước và họ nhà giọt nước biết cảm thụ âm thanh, có biểu hiện vui, buồn, hờn, mừng… với sự tác động của âm thanhâm nhạc. Chuyện này phổ biến đã lâu trên các trang mạng toàn cầu. Dĩ nhiên là đôi mắt của thân chủ kia đã đọc qua. Nay đôi mắt càng thêm tin tưởng điều ấy vì đã cảm nhận được sự chăm chút chu đáo của Xíu và anh em Xíu, đặc biệt nhận được sự đồng cảm của Xíu và điều ấy khiến cho đôi mắt bớt buồn xa vắng, chấp nhận buông bỏ phần nào. Có đôi khi đôi mắt của thân chủ không nhận được sự cảm thông hay đồng cảm từ đồng loại mà lại nhận được sự đồng cảm từ Xíu và anh em nhà Xíu, là những gọt nước mà trước giờ đôi mắt và thân chú đôi mắt cho là vô tri vô giác, không phải là loài hữu tình chúng sanh.

Đôi mắt biết mình vốn sanh ra đa mang nỗi buồn từ vô lượng kiếp, thế rồi tháng ngày lần lữa qua đi trong nhiều sự bất như ý nên cái buồn càng thêm kiên cốxa xăm hơn. Từ khi nhận ra hành trình của Xíu và những giọt nước xuyên suốt thân thể mình, hành trình những giọt nước duy trì sự sống và phát triển của muôn loài, hành trình những giọt nước trong ba ngàn thế giới này với những trách vụ cao quý thiêng liêng mà không cần ai hay biết, không cần ai ghi nhớ hay ghi công. Đôi mắt mới thấy sự vĩ đại của vô tướng, từ đó nhận ra nỗi đau tình của mình hay những bất như ý ở đời sao mà vặt vãnh, tủn mủn như thế. Từ đó đôi mắt và thân chủ của đôi mắt đã bớt đi phần nào nét u buồn lưu cửu ấy. Xíu và anh em Xíu đã giúp cho đôi mắt tồn tại trong sự trong sáng, khỏe mạnh nay lại thêm sự chia sẻ với nỗi lòng của thân chủ đôi mắt, cảm thông với tất cả sự yêu thương không bờ bến.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (5)

GIỌT XÍU NGHIÊNG MÌNH

Mấy nay bầu trời xám xịt, mây đen vần vũ, mưa gió sụt sùi...Họ hàng Xíu tụ hội về đông quá xá luôn. Nước chảy tràn đồng, nước ơi là nước, chỗ nào cũng nước, ngập khắp mọi vùng. Tiếng mưa sầm sập như vậy mà cũng không át nổi tiếng oán thán của dân lành. Giọt Xíu nghe được buồn lắm, nghiêng mình xuống muốn chia sẻ nỗi đau của người dân nhưng không sao làm được.

Khi mới đầu họ hàng nhà Xíu tụ về thì vui vô cùng nhưng sau đó thì trở nên quá đáng. Phàm cái gì thái quá cũng đều không tốt. Anh em nhà Xíu đông vô số kể, tụ về một lúc đã gây họa cho thiên hạ. Xíu ra sức kêu gọi anh em nhưng chẳng ăn thua gì, những lời phải quấy, những lời chân tỉnh thiết tha vô tác dụng khi mà cơn cuồng loạn của đám đông lên cực điểm.

Xíu là hiện thân của sự sống. Xíu không thể thiếu trong đời sống của con ngườivạn vật. Tâm Xíu thánh thiện, chỉ muốn đem lại sự an lành, ngọt ngào, mát trong cho con người nhưng bây giờ trong cái đám đông cuồng loạn của anh em mình, dù muốn hay không cũng đã vô tình gây hại cho loài người đang ở dưới khu vực mưa như trút nước này. Cái cộng nghiệp giữa những người anh em Xíu và con người không sao tránh được.

Xíu nghiêng mình lọt qua một mái nhà nho nhỏ trong tiểu trấn. Ngôi nhà cũ kỹ, nghèo nàndĩ nhiên là hở trên nứt dưới nên Xíu mới chui vào được. Anh em nhà Xíu tranh nhau chui qua những khe hở của mái nhà và tường nhà. Gia cảnh trong nhà thật buồn, đồ đạc đơn sơ chẳng có gì. Anh em Xíu nhỏ tí tách khắp nơi. Xíu thấy người vợ nằm trên võng ru con, tiếng ru buồn buồn man mác:

Nhất thời vợ dại trong nhà

Nhì thời mái dột thứ ba nợ đòi

Người chồng ngồi đọc sách gần đấy quay lại âu yếm nhìn vợ:

- Vợ anh không dại, nợ không đòi, chỉ có mái dột thôi!

- Nhà dột cũng là một thứ nợ đời anh ơi, vì nghèo nên nhà mới dột..

- Anh xin lỗi, anh bất tài không tạo lập được cuộc sống giàu sang để cho em phải chịu khổ trong cảnh nghèo như thế này!

- Anh đừng nói vậy, giàu nghèo có số cả. Sống với anh dù ăn mắm em cũng vui và hạnh phúc.

Người chồng buông sách xuống và đến bên võng hôn vợ con, ôm chặt vào lòng. Giọt Xíu chứng kiến cảnh tượng như vậy nên xúc động không kìm được. Xíu rơi giọt lệ long lanh trong trẻo như giọt pha lê. Xíu giật mình khi nghe tiếng người chồng thảng thốt:

- Trời! giờ dột cả chỗ này, làm ướt quyển sách anh đang đọc dở.

Người vợ ngoái nhìn và nói:

- Lấy gì hứng tạm đi anh, nhích bàn tránh chỗ dột một chút, hết mưa mình kêu thợ lợp lại mái nhà anh hén!

- Chắc phải tốn bộn tiền đây!

- Tốn thì tốn chứ biết sao được, mái nhà đã cũ quá, dột không còn có thể hứng nữa.

- Nhưng mình không có tiền

- Giật gấu vá vai chứ biết sao giờ.

Giọt Xíu rưng rưng lệ, cảm thương hoàn cảnh đôi vợ chồng nghèo, cảm phục tình nghĩa của họ, dù hoàn cảnh quá khó khăn mà họ vẫn yêu thương chung thủy hết lòng. Giọt Cả từ trên nhảy xuống kế bên Xíu nói khe khẽ:

-Họ là một đôi dễ thương nhất trên đời này, người chồng vốn đẹp trai, hiền lànhtài hoa nhất tiểu trấn. Người vợ dịu hiền, đảm đang và chung thủy nhất vùng. Anh chồng chỉ mê sách vở thơ văn mà rất vụng về trong việc mưu sinh, đã vậy tánh tình phóng khoáng nên có đồng nào là sạch đồng đó. Người vợ chăm chỉ, tiết kiệm chu đáo mọi bề. Cô ta có nhiều cơ hội để sống một cuộc sống giàu sang nhưng cô ấy khước từ. Cô ta chỉ yêu mỗi người mà cổ đang gọi là chồng. Giữa họ đôi lúc cũng có cãi vã bất đồng, ghen tuông cự cãi tưởng chừng như tan đàn xẻ nghé nhưng rồi lại qua đi, lại yêu thương quấn quít nhau. Không biết duyên nợ tiền kiếp thế nào mà kiếp này họ thương yêu ra rít đến vậy!

Xíu nghe xong, khẽ khàng:

- Thời buổi kim tiền, con người sống xô bồ hỗn độn, văn hóa suy đồi, đạo đức xuống cấp, xã hội đu theo thói trưởng giả… Ấy vậy mà hai vợ chồng này gần như vô nhiễm, họ vẫn giữ được thiên lương quý báu của con người. Họ đúng thật là cặp đôi đẹp và đáng yêu nhất đời.

Xíu và giọt Cả giật mình khi nghe tiếng người vợ:

- Dột gì mà dột quá trời vậy nè! Giờ nhỏ lên đầu võng của em.

Người chồng đi kiếm tấm nylon che tạm phía trên chỗ đầu võng, trong lúc ấy người vợ lại hò ru con:

Ba năm nước lớn đò trôi

Cây khô lá rụng bậu ngồi chờ ai

Bậu ngồi chờ củ chờ khoai

Chờ cam chờ quýt chờ xoài cà lăm

Người chồng đùa nhưng cũng rất thật lòng:

- Vì bậu chờ anh nên đời bậu khổ, phải chi hồi ấy bậu đừng chờ anh mà lấy chồng giàu thì giờ đâu phải chịu cảnh dột như vầy!

Người vợ không trả lời mà hò tiếp:

Ba năm nước lớn trồng cà

Cà non ăn sống cà già bóp dưa

Hò xong người vợ còn giải thích:

- Có sao đâu anh, cà non ăn sống cà già bóp dưa. Em vẫn sung sướng sống bên anh, mưa thì dột, trời tạnh thì hết dột thôi!. Em còn nhớ hồi nhỏ ngoại cũng nằm võng hát ru em:

Ví dầu nhà dột cột xiêu

Con theo hát bội mẹ nhiều con hư

Nhà mình dột, nhà ngoại xưa cũng dột, ông bà mình bao đời nay cũng dột, chỉ mong sao đến con mình sẽ không còn bị dột nữa.

Xíu thì thầm với giọt Cả:

- Người vợ có vẻ mau miệng, ăn nói lanh lợi hơn người chồng.

- Ừ, đúng đấy em! Anh chồng ít nói và nói rất vụng, nhiều khi chẳng tìm ra được từ gì để nói trong khi anh ta có thể viết tràng giang đại hải. Anh ta thích im lặngsuy tưởng, thích viết ra giấy hơn là nói bằng lời. Hôm nay có lẽ anh ta nhiều cảm xúc nên ăn nói ngon làng hơn mọi ngày. Hai vợ chồng này là tiêu biểu cho cái quy luật bù trừ ở đời, có lẽ cũng nhờ sự bù trừ đắp đổi cho nhau mà họ khắng khít nhau. Ông bà mình xưa cũng có nói: “Phàm những cặp vợ chồng gắn bó nhau lâu dài thì nhất định phải có một người mạnh và một người yếu; một kẻ trụ còn người kia thì quấn quýt leo. Còn như cả hai cùng mạnh hoặc cùng yếu thì khó đi chung đường”

Xíu gật đầu rồi cùng với giọt Cả, giọt Giữa, giọt Út, giọt Thừa, giọt Trong, giọt Đục… chảy ra khỏi ngôi nhà của đôi vợ chồng ấy. Trời ơi, ngoài đường nước lên láng, nước chảy xiết như suối mùa lũ, bao nhiêu xe máy, xe hơi chết máy nằm la liệt; bao nhiêu người té ngã, thậm chí có người còn bị nước cuốn xuống cống. Phố xá, tiệm tùng, hiệu buôn, nhà cửa… ngập sâu trong nước. Giọt Út từ trời Tây về, nó thấy cảnh tượng vậy nên rất bất bình:

- Ở Âu - Mỹ người ta thiết kế đô thị rất hiện đại và khoa học, không có chuyện đường biến thành sông. Ở xứ mình phố xá, đô thị, thành phố từ biển lên đến núi rừng đều ngập bởi vì người ta không biết thiết kế chi cả. Họ chỉ vì tự tư tự lợi, vì lợi ích cá nhân và băng nhóm… còn việc chung thì mặc kệ. Họ chỉ phân lô bán nền mà không có lo chuyện xây dựng cơ sở hạ tầng. Họ lấp cả kênh, rạch, ruộng đồng để bán đất cất nhà mà không thiết kế hệ thống thoát nước, Bởi vậy mưa xuống là ngập, mưa to ngập sâu, mưa nhỏ ngập ít, thậm chí không mưa cũng ngập luôn. Quan quyền còn tự sướng to mồm ba hoa khoác lác, nào là: “Phải nghĩ lớn, phải làm cho đô thị xứ ta phải hơn Ba Lê, Venice…”

Xí nghe giọt Út nói xong bèn than thở:

- Tội cho dân xứ mình, vì nghiệp chung mà phải chịu đựng sự cai trị độc tài, ngu dốt. Bọn quyền chức tham lam có thừa, nói dóc có hạng, tuyên truyền quá trời nhưng cái thiếu lớn nhất là lương tâmtrí tuệ. Khổ nỗi lại luôn mồm tự xưng là đỉnh cao trí tuệ ấy mới chết chứ!

Giọt Dư cười nắc nẻ:

- Ừ thì trí tuệ nhưng tại Xíu không biết đấy thôi! Chữ tuệ hổng có chữ u.

Nước trên đường chảy cuồn cuộn như thác lũ, rác rến lềnh phềnh, nước từ mương rãnh và cống, hố gas… trào lên đen xì và hôi thối không sao chịu nổi. Cũng là họ nhà Xíu nhưng Xíu chịu không thấu. Xíu ho sặc sụa, mắt cay xè, nước mắt trào ra. Xíu bị cuốn trôi theo dòng nước hung dữ trên đường phố. Xíu cố nghiêng mình né tránh những vật cản và rác rến trên đường nhưng cũng không xong. Xíu nghiêng mình nhớ lại lúc vừa chui vào mái nhà của đôi vợ chồng trẻ đáng yêu kia. Chỉ trong khoảnh khắc nghiêng mình ấy Xíu quên đi mình đã hòa vào dòng nước đang chảy trên đường.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC  (6)

 GIỌT NƯỚC ĐAU MÌNH

Mấy nay giọt Xíu đau mình lắm, thiên hạ khắp nơi lên án, tẩy chay, thậm chí nguyền rủa anh em nhà Xíu. Người ta nguyền rủa cái tội chính họ gây ra cho Xíu, anh em của Xíu và muôn loài. Cái tai họa họ gây ra cho anh em nhà Xíu và muôn loài dĩ nhiên cũng là cho chính bản thân họ.

Giọt Xíu đã bị nhiễm phóng xạ nguyên tử sau khi làm mát cho lò điện hạt nhân. Bây giờ giọt Xíu mang gương mặt tử thần mặc dù vẫn trong veo đến thánh thiện, chỉ cần uống phải hay dính vào da thịt thì hậu quả thật không sao có thể lường hết được. Giọt Xíu giờ nguy hiểm  và độc hại vô cùng, con người, động vật và cả thực vật nữa, nếu tiếp xúc sẽ bị ung thư, máu trắng, bị biến dạng, sẽ thay đổi ADN, sẽ sinh ra quái thai...Nếu giọt Xíu mà ra ngoài môi trường tự nhiên thì thảm họa cho muôn loài và dài lâu về sau. Nơi nào nhiễm Xíu thì nguồn nước, đất đai, động thực vật đều nhiễm phóng xạ lây.

Loài người thật vô minh, họ chế ra những thứ rất hiện đại, tân tiến để phục vụ cho đời sống và họ cũng chế ra những thứ để giết người hàng loạt, hủy hoại đời sống của chính họ và muôn loài. Nguyên tử – hạt nhân là một trong những thứ vô cùng kinh khủng nhất, những thứ này có thể khiến loài người diệt vong chứ chẳng phải chuyện chơi. Những thảm họa lò hạt nhân Chernobyl, lò hạt nhân Nhật Bản… và còn nhiều vụ khác nữa. Những nơi này người ta xây một nấm mồ khổng lồ bằng xi măng và chì để nhốt chất phóng xạ lại trong ấy, không cho nó phát tán ra môi trường, tuy nhiên những nấm mồ nhân tạo ấy liệu có thể an toàn trước những thảm họa thiên nhiên, hoặc giả có kẻ điên khùng nào đó phá hoại thì hậu quả thật không sao có thể biết hết được.

Loài người đã mượn Xíu và anh em của Xíu đi vàophản ứng hạt nhân để làm mát lò kẻo không sẽ bị nổ tung. Sau khi làm mát lò hạt nhân thì Xíu bị nhiễm phóng xạ. Xíu đau mình đến tận cùng mà không biết phải nói năng ra sao hay phải làm gì. Xíu vốn trong trẻo, mát lành và thánh thiện vậy mà giờ đi đến đâu là gây họa đến đó. Xíu không thể về đại dương,  nếu về thì muôn loài thủy tộc sẽ bị nhiễm độc hết, đời sống biển cả sẽ loạn. Xíu cũng không thể ra sông suối, ao hồ… Hễ ra đấy thì những sinh mạng vô tội nơi ấy sẽ bị nhiễm lây dư chất phóng xạ. Xíu cũng không thể về với đất mẹ, không thể hóa thân hòa vào không khí trong không gian, không thể bay theo mây gió như những ngày xưa. Nếu Xíu cố tình làm vậy thì tai họa kinh khủng cho mẹ thiên nhiênloài người. Xíu không còn lối nào khác, không có cửa nào cho Xíu!

Bọn người điều hành các lò hạt nhân, những chuyên gia về nguyên tử… họ nhốt Xíu và anh em Xíu trong những cái bể đặc dụng vô cùng kiên cố để chờ một ngày nào đó có giải pháp hữu hiệu, cái ngày đó biết đến bao giờ? Xíu phải chờ cho đến khi loài ngườithành tựu mới nào đó để có thể hóa giải chất phóng xạ độc hại vô cùng nguy hiểm này. Phép lạ thì ở đời vốn không có, còn trình độ khoa học của con người cũng chỉ mới chế ra chứ chưa biết cách hóa giải… Xíu chờ đến bao giờ đây?

Thế rồi một ngày kia người xứ Phù Tang đem bọn Xíu xả ra đại dương, lập tức một làn sóng phản đối quyết liệt nổi lên. Loài người lên án bọn Xíu, người ta chống đối bọn Xíu là lẽ thường tình vì ai cũng sợ sự độc hại của những giọt nước bị nhiễm phóng xạ hạt nhân. Các chính khách cãi nhau như mổ bò nhưng cũng không có cách chi giải quyết. Các nhà khoa học nêu lên bao giả thuyết nhưng chẳng có giả thuyết nào thật sự hữu hiệu. Các nhà và các tổ chức tranh đấu cho môi trường phản đối bọn Xíu mạnh mẽ nhất. Họ yêu sự sống, họ yêu mẹ thiên nhiên, họ đấu tranh cho sự sinh tồn của đời sống tự nhiên và của con người.

Xíu đau mình lắm! Xíu cũng là nạn nhân của những thành tựu khoa học của con người, bản thân Xíu vốn trong lành lắm kia mà. Xíu vốn là sự sống của con người và muôn loài kia mà! Xíu nhiễm phóng xạ là tội lỗi của con người. Nằm trong những cái bể chứa kiên cố bít bùng buồn vô hạn, Xíu hiểu sự nguy hiểm và chấp nhận chịu tù đày chứ không muốn ra đại dương để gây hại cho muôn loài. Chính phủ Phù Tang liều lĩnh cho xả bọn Xíu ra biển với luận điệu là đã hóa giải chất phóng xạ. Dĩ nhiên là chẳng ai tin, Xíu cũng không tin, điều ấy thật khó có thể tin! Nước đã nhiễm phóng xạ đâu có thể tẩy sạch dễ dàng như thế! Mặc cho chính phủ Phù Tang nói như thế nhưng không thể nhẹ dạ cả tin được!
Kể từ khi nhiễm phóng xạ, Xíu và anh em của Xíu vẫn trong veo, vẫn đẹp như thường, tuy nhiên cái đẹp ấy có thể giết chết người và vật, cái đẹp vô cùng độc hại. Chỉ cần con người và vật nạp bọn Xíu vào trong thân thể thì máu có thể bị trắng, ung thư, biến dị, thay đổi gene...và muôn vàn sự độc hại không sao lường hết được. Nguyên tử lực – hạt nhân là thành tựu khoa học của loài người nhưng mặt trái của nó thì loài người chưa thể tính đúng hay tính đủ. Có nhiều chuyên gia khoa học đã từng nói rằng: “Nếu lượng vũ khí hạt nhân hiện có trên trái đất mà nổ đồng loạt thì loài người và muôn loài sẽ bị diệt vong”, giả sử mà điều ấy thành hiện thực thì liệu thành tựu khoa học kỹ thuật hay văn minh của loài người còn có ý nghĩa gì? Trong những tháng năm chiến tranh lạnh, cả hai khối Cộng Sản và Tư Bản cùng chạy đua trang bị vũ khí hạt nhân. Có một vị lãnh đạo nào đó đã nói rằng: “Một khi chiến tranh hạt nhân nổ ra thì ai sẽ phân biệt được đâu là đống tro Tư Bản và đâu là đống tro Cộng Sản?”. Ôi chao, loài người mê muội, cuồng si, vô minh đến thế là cùng!

Những tháng ngày nằm trong bể chứa bịt bùng tăm tối. Giọt Xíu nhớ bầu trời xanh thăm thẳm với mây trắng lững lờ và nắng vàng ươm. Giọt Xíu nhớ tuyết sơn vĩnh cửu tinh khiết trắng trong từ thuở khai sơn lập địa đến giờ. Giọt Xíu nhớ âm thanh tí tách của tuyết tan, nhớ lắm đầu nguồn sông suối. Xíu và anh em nhà Xíu mát trong chảy về xuôi nuôi sống con người và muôn loài động vật, cây cỏ… Giọt Xíu là hiện thân của sự sống. Xíu nhớ những tháng ngày vô tận trong đại dương mênh mông, nơi Xíu hòa mình với anh em bốn phương, lưu chuyển qua bao miền đất quanh địa cầu. Xíu nhớ những cơn mưa hạ tíu tít vui với lũ trẻ con tắm và chơi đùa trong mưa, những đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiênnghịch ngợm cùng té nước vào nhau. Bọn chúng hạnh phúc với những giọt nước mát trong rửa đi những dơ dáy bụi bặm, làm hạ bớt cái nóng của mùa hè. Bọn con trẻ với những trò chơi dễ thương mà này nay dân chúng  các thành phố, đô thị đã lãng quên. Xíu nhớ khi bỏ hình tướng, bỏ cái tôi để hòa vào hư không bay bổng khắp mười phương.
Giọt Xíu đau mình lắm! Không muốn khóc mà giọt lệ long lanh rơi tự bao giờ. Loài ngườivạn vật muôn loài sinh tồn được là nhờ giọt Xíu, cứ thử nhìn lên sao Hỏa, sao Kim hay những hành tinh mà không có Xíu và anh em nhà Xíu thì biết, nơi ấy không có sự sống, không có mặt của con ngườidĩ nhiên không có cả động vật hay thực vật. Loài người sống được là nhờ Xíu, thế mà loài người làm cho Xíu bị nhiễm phóng xạ và rồi thì loài người đổ lỗi cho anh em nhà Xíu là những kẻ nguy hiểm, những kẻ mang bộ mặt thần chết! Loài người sao kỳ cục vậy? Chính cái tham vọng của loài người làm hại loài người, chính sự tham lamsân hận của loài người làm hại loài người. Chính sự vô minh của loài người làm hại loài người. Ngoài loài người ra thì không có ai có thể hại loài người, loài người tồn tại hay diệt vong là ở chính họ

Giọt Xíu nhiễm phóng xạ, rồi đây sẽ còn bao nhiêu thứ khác sẽ nhiễm phóng xạ nữa đây? Rồi đây loài người sẽ tiếp tục chế ra những gì để rồi gây họa cho chính họ nữa đây? Cái nhân, cái qủa nó trùng trùng vô tận, đã vậy cái duyên nó thúc đẩy hoặc là tăng trưởng theo hướng thiện, hoặc đi xuống theo chiều ác… tất cả cũng tùy thuộc vào chính cái tâm của con người.

Giọt Xíu đau mình nhưng chẳng thể làm gì hơn được, Xíu chỉ có thể đem lại sự tươi mát trong lành, đem lại sự sống cho loài người và muôn loài. Giọt Xíu không thể thay loài người giải quyết được những vấn đềloài người gây ra. Chẳng có một thế lực siêu nhiên hay một đấng siêu phàm nào đó có thể giải quyết được vấn đề của loài người, chỉ có loài người tự mình thức tỉnh, tự mình giải quyết lấy vấn đề của mình.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (7)

TRỞ MÌNH MẮC NGHẸN

Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa,  đem lại nguồn sống cho loài ngườivạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.

Dòng Mê Kông bắt nguồn từ tuyết sơn Tây Tạng, chảy qua bao nhiêu vùng đất Phật giáo khác nhau, trước khi về với biển nó vờn quanh một vùng châu thổ mà người phương Tây quen gọi là Mê Kông Delta. Bắt đầu từ những giọt nước tan ra từ tuyết sơn, vô số giọt tí tách suốt ngày đêm, bất kể tháng năm. Xíu và anh em xíu cũng từng từ đây  mà ra, từng chu du khắp mười phương và cũng từng bao bận quay về. Những giọt nước tan ra và tích tụ lại để rồi vạch ra những khe, lạch ngoằn nghèo như một mạng lưới khổng lồ. Rồi từ mạng lưới này nhập lại thành dòng Mê Kông. Mê Kông chảy qua những vùng đất với nền văn hóa khác nhau và người xứ ấy lại gọi Mê Kông bằng những tên gọi khác nhau, nào là: Lan Thương, Trác A Khúc, Trác Na Khúc, Tonle Thom, Tonle Sap, Ménam Khong, Tiền Giang, Hậu Giang, Cửu Long...Dòng sông chảy qua những quốc gia Phật giáo, những vùng đất thiêng nên Mê Kông cũng linh thiêng theo. Người ta cho rằng Mê Kông là dòng sông thiêng, sông Phật giáo. Dòng Mê Kông nuôi sống hàng chục triệu cư dân hai bên bờ suốt từ thượng nguồn đến cửa biển. Suốt chiều dài đó, bao nhiêu là thành thị, đô thành, thị trấn, đồng quê, ruộng nương, bãi bồi… Phù sa của sông đã bồi đắp nên, đã đem lại mùa màng tươi tốt sum xuê, đem lại bao nhiêu là thủy sản. Mê Kông không chỉ nuôi người mà còn nuôi những cánh rừng nhiệt đới, nuôi muôn loài động thực vật và thủy tộc trong sông.

Xíu sung sướng bay là là trên mặt nước Mê Kông, ngắm nhìn những ngôi chùa cổ kính, những đền tháp hai bên sông. Cứ như thế bay tới bay lui, bay lên bay xuống vô số lần mà ngắm nhìn không chán. Xíu mê mẩn với những tòa tháp Tây Tạng trên cao nguyên, những chóp chùa Miên, chùa Thái, chùa Lào,. Miến Điện… Bay chán chê Xíu cùng với anh em vẫy vùng trong dòng nước mát, bơi từ thượng nguồn với làn nước lạnh và trong veo về đến tận cửa biển với dòng nước ngầu phù sa. Xíu với giọt Xinh, giọt Thừa, giọt Út, giọt Tròn… vui đùa trong dòng nước, cười nắc nẻ như trẻ thơ, thỉnh thoảng lại bay lên hư không nhảy tùm xuống. Xíu đi về vô số lần kể từ khi tạo thiên lập địa đến giờ, dòng Mê Kông cũng có lúc đổi dòng, nhất là ở những khúc cong, lở bên này, bồi bên kia. Mê Kông có chảy thế nào đi nữa thì Xíu và anh em vẫn quen thuộc như thuở hồng hoang.

Ấy vậy mà lần này về thì lại khác, Xíu thật sự bị sốc, bị mắc nghẹn đến đau mình. Trong vòng hai mươi năm trở lại đây. Người ta đã xây mấy chục cái đập ngăn sông, lấy trộm nước sông để tích chứa vào hồ, ngăn nước sông để làm thủy điện. Những cái đập ngăn dòng đầy ích kỷ, tham lam. Bọn người xây đập mưu cầu cái lợi nhỏ cho quốc gia của họ. Xây đập với sự tự tư tự lợi của những phe nhóm, băng đảng, lợi ích nhóm...Bọn người âm mưu biến Mê Kông thành của riêng. Người Tàu, người Thái, người Lào, người Miên...thi nhau đắp đập ngăn sông, tuy nhiên kẻ đầu têu chủ mưu chính là chính quyền người Tàu. Bọn họ muốn điều khiển sông Mê Kông theo ý đồ bắt chẹt những nước ở hạ nguồn. Bọn chúng xúi dục và bỏ tiền ra gọi là viện trợ xây dựng nhưng đó chính là cái bẫy để gài những con nhạn la đà. Các chính phủ yếu kém kia vay và không trả nổi thế là đem cảng biển, cảnh hàng không, đặc khu cống nộp cho Tàu. Bọn họ đang bức tử dòng Mê Kông. Mê Kông đã thực sự nghẽn dòng.

Những năm này không còn mùa nước lớn tràn đồng, mùa nước lớn đã thế thì mùa khô còn tệ hại hơn, nước sông bị chặn từ phía trên, phía dưới nước biển tràn vào xâm nhâp sâu nội đồng. Thế là vườn cây ăn trái chết, ruộng lúa chết, đất nhiễm mặn coi như cũng chết luôn. Nước không về, nguồn phù sa không còn nữa, mùa màng thất bát, nguồn thủy sản cũng cạn kiệt dần. Hàng chục triệu dân nghèo từ Mê kông Delta lên đến Biển Hồ coi như kiệt quệ. Đời sống đã khổ giờ lại khổ thêm. Các loài thuỷ tộc trong sông cũng bị tận diệt. Xưa nay các loài thủy tộc bơi xuôi người sông theo mùa di cư, sinh sản, kiếm ăn... giờ cũng chịu chết không sao qua được những con đập chết tiệt ấy! Những con đập đã chặn đứng đường xuôi ngược của các loài thủy tộc. Trong số các loài thủy tộc ấy có một loài cá heo nước ngọt qúy hiếm được ghi tên trong sách đỏ và người dân quen gọi là cá nược. Loài này vốn có nguy cơ tuyêt chủng, nay cái nguy cơ ấy còn nguy hiểm hơn. Những con đập ngăn sông gây tác hại khôn lường cho thiên nhiên, môi trường sống của tự nhiên và của con người. Những nhà khoa học, những tổ chức tranh đấu cho môi trường, những người yêu tự dothiên nhiên đã và đang tranh đấu nhưng chẳng ăn thua gì, khi sức mạnh của đồng tiền lên tiếng và khi sự tham lam, vô minh của con người quá lớn.

Những con đập ngăn sông chưa yên, giờ lại thêm một mối nguy hiểm khác. Chính phủ Cao Miên đang chuẩn bị cho đào kên Funam-Techo , đây là tham vọng ngông cuồng của nhà độc tài và chính phủ Hun Sen. Nội cái tên cho thấy sự hoang tưởng của y, y muốn khôi phục lại đế chế Phù Nam xa xưa. Kênh Funam-Techo sau khi làm xong sẽ lấy đi một lượng lớn nước của cả sông Tiền và sông Hậu. Nước đã bị chặn ở phía trên, giờ lại lấy nước để đổ qua Funam – Techo nữa thì còn gì là Mê Kông? rồi đây đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao?  Vựa lúa bao đời nay của người dân sẽ ra sao? Đời sống tự nhiên của các loài thủy tộc và các loài cộng sinh với sông nước sẽ ra sao? Và cả biển Hồ của chính người Miên cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Kênh đào Funam-Techo là ý muốn chủ quan của những nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc Khmer cực đoan. Nó đượcc sự ủng hộ tuyệt đối về kỹ thuật và tiền bạc của Tàu. Thật sự thì Cao Miên làm gì có tiền và khả năng để làm, Tàu làm đấy thôi! Để rồi tàu chiến Tàu có thể chạy thẳng vào nội địa Cao miên. Người Tàu đã đóng quân ở hải cảng Sihanoukville, Xiêm Riệp, Ream. Người tàu đã và đang xâm nhập, điều hành nhiều mặt ở Cao Miên. Hoang tưởng của lãnh đạo Khmer phù hợp ý đồ bành trướng của Bắc Kinh, giờ đây Cao Miên là căn cứ hậu cần, là bãi đáp để Tàu có thể dễ dàng tấn công mọi địa điểm trong khu vực.

Xíu không quan tâm chính trị, không thích chuyện chính trị nhưng vấn đề này nó rõ ràng quá, ai cũng có thể thấy. Xíu nói vì uất ức muốn khóc. Lần này về với Mê Kông nhìn những con đập mà trở mình đau đớn. Trong thoáng chốc Xíu ước mình là bộc phá để nổ tung những con đập ấy để cho dòng Mê Kông được tự do xuôi về biển, để muôn loài lại thong dong xuôi ngược như xưa.

Những con đập ngăn sông là những con quái vật bằng xi măng cốt thép vô cùng xấu xí, xấu cả ngoại hình và cả cái tâm. Xíu bay là là dọc sông, Xíu nói với giọt Xinh:

- Người ta làm hỏng cả dòng sông rồi em ơi! Còn đâu dòng Mê Kông đầy ắp phù sa, rồi đây kênh Funam- Techo làm xong thì Mê Kông Delta sẽ ra sao?

Giọt Xinh đồng cảm với Xíu, cũng mang niềm đau như Xíu, toàn bộ anh em nhà Xíu đều trăn trở về tương lai của dòng sông. Đau mà chẳng biết phải làm sao. Giọt Ròm nhỏ nhẹ:

- Bao năm nay họ xây đập ngăn sông, thời tiết thất thường, không còn mưa thuận gió hòa. Em cũng gầy thêm mấy phần. Anh em nhà mình cũng không còn tụ hội đông đủ để mưa xuống ruộng đồng. Nước mặn từ biển xâm nhập ngày càng sâu, nhiều vườn cây chết đứng, nhiều loài thủy tộc mất tích mất tăm. Người nơi đây lại thêm kiếp nạn nữa rồi.

Giọt Thừa khẳng định chắc nịch:

- Thời đại hôm nay loài người nhiều kiếp nạn, kiếp nạn cũ chưa qua thì kiếp nạn mới lại đến. Kiếp nạn xảy ra dồn dập hơn, nặng nề hơn, khốc liệt hơn.

Giọt Cả ngưng lại, trầm ngâm ra vẻ triết gia:

- Cái nhân ác chín muồi thì cái quả xấu xảy ra, chính từ cái quả xấu lại dễ tạo thêm nhân xấu mới, cứ như thế này thì nhân quả xoay vòng không bao giờ dứt, kiếp nạn vì thế không bao giờ hết được!

Giọt Xíu thì thầm:

- Nhớ ngày xưa khi mình về đây, tụi mình bơi suốt một mạch từ thượng nguồn ra biển, rồi từ biển lại quay về nguồn. Tụi mình tha hồ tung tăng khắp nơi, giờ thì không thể làm được cái điều đơn giản ấy nữa. Đành rằng vô thường thay đổi trong từng phút giây, nhưng sự thay đổi này tác động bởi sự tham lam, ích kỷ của con người. Sự thay đổi này làm tổn hại nặng nền đến mẹ thiên nhiên.

Giọng giọt Xinh thật thiểu não:

- Còn gì là dòng sông thiêng nữa, từ ngàn xưa chảy ra từ miền đất huyền bí ở thượng nguồn, chảy qua bao miền đất Phật với vô số cảnh chùa tháp thân thương, chảy qua những khu rừng già nguyên sinh thâm u trầm mặc, những cánh đồng phù sa bát ngát và trù phú…Muôn loài thủy tộc và bao loài chim muông thú rừng cùng tương tác cộng sinh, dù là mang thân thú, thân súc sanh nhưng cũng thọ nhận được sự sung túc của môi trường tự nhiên. Chúng vui vẻ ngược xuôi theo dòng… Giờ thì mấy chục con đập ngăn sông, chia chẻ ra từng khúc cứ như thể người ta cắt nát thân.

Giọt Cả thật xứng đáng với danh hiệu của mình, lúc nào cũng bao dung đàn em, lại rất thông thái, chuyện gì cũng biết:

- Loài người ở vào trung vị, phước tội cân phân, nhờ vậy mà loài người dễ tiếp nhậntu học Phật pháp. Chư thiên thì phước báo lớn nên chẳng có lòng tu học. Súc sanh và các loài khác thì hoàn toàn chịu nghiệp báo nên không thể tu học Phật pháp. Ngay trong loài người thì tầng lớp trung lưu, tiểu khang mới dễ tu học, tầng lớp trên thì hưởng thụ tháng ngày hoan lạc cũng ít chịu tu học, tầng lớp cùng đinh bên dưới thì quá khổ, quá vất vả mưu sinh nên cũng khó tu học, bởi vậy mà người ta mới nói: “Bần cùng bố thí nan, giàu sang học đạo khó”. Loài người mê đắm trong ngũ dục lục trần, dính chặt vào cái “ta”, “của ta”… mà khôg biết rằng chẳng có cái gì để gọi là “ta”, “của ta”. Loài người tham đắm sắc dục, vật chất, lợi danh… nên mê mờ, cộng với cái “ta” ảo tưởng nên sân hận toàn gây nghiệp bất thiện. Sơn hà đại địa, đất đai… vốn chẳng của riêng ai. Những tộc người hay quốc gia chỉ chiếm hữu một thời gian nào đó chứ không thể sở hữubản thân con người còn chưa làm chủ được thì làm sao làm chủ ngoại vật? Ấy vậy mà con người vô minh tranh giành, chém giết, tru diệt lẫn nhau. Ngay cả đắp những con đập trên sông Mê Kông này cũng là sự tham lam, ngông cuồng, vô minh. Nay đào kênh Funam- Techo nữa thì thảm họa lớn cho thiên nhiên muôn loài và cũng cho chính loài người.

Giọt Xíu, giọt Xinh, giọt Út… lòng buồn rười rượi bay là là nhìn dòng Mê Kông lần nữa trước khi bay qua xứ khác. Từ trên hư không nhìn xuống, Xíu chợt kêu to và chỉ cho những người anh em mình:

- Nhìn kìa, trời ơi dòng Mê Kông như con rồng, phần thân dưới của nó bị người ta chặt ra mấy chục khúc!

 

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (8)

MẤT MÌNH NƠI ĐẤT THÁNH

Xíu nghe người ta nói nhiêu về vùng đất thánh, bao nhiêu dã sử, huyền thoại, chính sử… đều rất ly kỳ và khốc liệt. Xíu rủ anh em mình làm chuyến hành hương về đây để tận mắt nhìn thấy con người, địa lý, văn hóa, phong thổ … nơi ấy như thế nào. Ý kiến vừa nêu thì giọt Sót lập tức phản đối:

- Không, không bao giờ! Tui không đi đến đấy đâu! Ghê lắm, chu du nơi nào cũng được nhưng vùng đất thánh ấy thì không!

Gịot Đủ cũng can gáin:

- Đến đấy mất mình như chơi!

Giọt Giữa cảnh báo:

- Chốn ấy nghe thì hay vậy nhưng không phải là nơi để du  ngoạn.

Xíu lắng nghe và cảm ơn ý kiến của anh em, tuy nhiên Xíu vẫn quyết tâm đi thăm vùng đất thánh. Một số anh em từ chối đi, nhưng cũng có một ít cùng đi với Xíu.

Hành trình đến vùng đất thánh quảvô cùng gian nan, khó không chỉ vì ngoại cảnh mà còn vì chính tự thân. Trên đường đi Xíu đã mất khá nhiều anh em, bản thân Xíu cũng suýt mất mình mấy lần, mất mình với nghĩa trần trụi nhất chứ chẳng phải ẩn dụ hay bóng gió gì. Trời ơi, khí hậu nóng và khô quá, khô rốc, trên trời không một gợn mây, dưới đất toàn đá là đá, đá tai mèo, đá cuội, đá viên, đá tảng… và cát bụi. Anh em nhà Xíu ở nơi này vô cùng thưa thớt, bởi vậy mà chẳng mấy khi hợp đủ lực để mưa xuống. Khi đến Gaza, Xíu nghe kể và nhìn những hình ảnh lưu lại thì Gaza cũng khá xinh nhưng nay thì như bãi tha ma. Quân đội Do thái rải thảm bom hủy diệt tất cả, không còn nhà dân, nhà thương, nhà thờ, nhà đèn, nhà nước, nhà trường… tất cả giờ chỉ là những đống xà bần gạch đá khổng lồ. Gaza giờ đã thành bình địa. Người Paletine xưa nay vốn nghèo khổ giờ thì không còn gì để ăn, không có nước để uống, không nhà cửa, quần áo, thuốc men… tất cả là con số không, duy chết chóc, bệnh tật, khổ đau thì cao ngút trời. Chính phủ Do Thái thật tàn độc, họ muốn giết hết nguời Palestine, muốt trục xuất người Palestine để độc chiếm dải Gaza. Thật khó mà nói hết sự tàn độc của chính phủ Do Thái.

Nhìn thảm cảnh của người Do Thái, Xíu đau mình quá, muốn khóc mà nước mắt khô kiệt tự bao giờ. Xíu muốn rủ anh em mình làm cơn mưa hạ nhiệt, giải khát cho nơi này nhưng ai cũng gầy rộc đến kiệt sức chẳng còn chút hơi nào đủ để làm mưa.

Chẳng biết số phận, nghiệp chướng gì mà người Palestine phải chịu kiếp nạn cực kỳ thống khổ vậy. Sự đau khổ của người Palestine chẳng thể có bút mực nào tả được. Trời ơi, vùng đất thánh mà sao chẳng khác gì địa ngục! Cũng vì cái chữ thánh mà mang họa chăng? Hai ngàn năm nay, người Do Thái, người Ả Rập, người Thiên Chúa giáo tranh giành đất thánh, tàn sát nhau, tru diệt nhau, hận thù ngút trời. Máu xương đổ xuống không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ vẫn tiếp tục đổ và tương lai chắc sẽ còn đổ dài dài. Oán hận chất chồng, oan oan tương báo làm sao mà giải được bây giờ! Chính phủ Do Thái đang tiến hành diệt chủng, tiếng là chống khủng bố nhưng chính họ đang là nhà nước khủng bố. Họ tàn sát không kể người gìa, đàn bà, con nít, thai nhi...Những người yêu hòa bình, yêu tự do, yêu công lý khắp nơi trên thế giới biểu tình đòi ngưng bắn, thông cảm với nỗi đau của người Palestine. Trong khi ấy các chính phủ Âu - Mỹ hoàn toàn im lặng, thậm chí họ viện trợ tiền bạc vũ khí vô điều kiện cho Do Thái.

Thật tình mà nói chính cái hình ảnh những phần tử Hồi giáo cực đoan  khủng bố đã làm hại người Palestine. Thiên hạ kinh sợ những kẻ bịt mặt, trùm đầu ôm bom, cài lựu đạn, quăng thuốc nổ, chặt đầu, đốt sống...Người Ả Rập và đạo Hồi quá khắc nghiệt, những giáo điều sai trái được nhồi sọ bởi những ông đạo thần quyền và thế quyền. Những giáo điều cực đoan đã cản trở sự phát tiển của chính người Hồi, mặc dù họ phát triển trước người Âu Mỹ nhiều thế kỷ.

Giọt Xíu còn nhớ vào thế kỷ mười ba, quân đội Hồi giáo đã xâm lăng Ấn Độ, đốt phá đại học Nalanda, một đại học và thư viện lớn của thế giới vào thời ấy. Quân Hồi giáo đã tàn sát 10.000 tu sĩ Phật giáo ở nơi đây, thật kinh kủng và tàn bạo. Họ đốt thư viện Nalanda cháy suốt mấy tháng trời. Cho đến bây giờ họ vẫn thế, cuồng tín, cực đoan, giáo điều, bảo thủ, tàn bạo… Họ vạt mặt những pho tượng, phá hủy những di sản văn hóa Phật giáo, họ cấm cả âm nhạc, điện ảnh, thể thao, thời trang và bao nhiêu thứ khác. Những người phụ nữ Hồi giáo khi di cư sang Âu - Mỹ sinh sống họ cũng không từ bỏ cái burka, Họ vẫn trùm kín mít từ đầu tới chân, chỉ chừa hai con mắt. Sống ở phương Tây, họ có đủ tự do, dân chủ nhưng họ vẫn tự nhốt mình trong cái giáo điều cứng nhắc của họ. Không ai có thể giải phóng họ khỏi cái “ngục tù” tư tưởng của họ, thượng đế, thánh thần cũng bó tay, chỉ có chính bản thân họ mới có thể tự giải phóng họ thôi! Tuy nhiên cái định kiến, cái tư tưởng của họ quá thâm căn cố đế khó mà thay đổi. Ngạn ngữ có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay” là vậy!

Người Palestine đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang khổ đau, Xíu cũng đau mình nhưng không làm sao giúp được. Bản thân Xíu cũng đang sắp mất mình đây. Xíu phải cố gắng hết mình để giữ mình trên cuộc hành trình này.

Người Palestine đang sống trong cảnh địa ngục trần gian trên vùng đất thánh. Người Do Thái cũng đã trải qua hai ngàn năm lưu lạc khổ đau, ấy vậy mà vừa lập lại nước đã quay qua tàn sát, cướp đất gây khổ đau cho người Palestine. Thế giới Sa Bà này quả thậtthế giới kham nhẫn khổ đau, chịu đựng những điều thật khó chịu. Con người quả thậtrắc rối đáng thương, tháng ngày chất chứa tham lamsân hận, sống đời vô minh mà cứ vỗ ngực tự xưng thông minh.

Xíu đau mình quá, thương người Palestine đang chịu kiếp nạn thống khổ trong sự thờ ơ của thế giới bên ngoài. Trong khoảnh khắc vô thức, Xíu kêu lên:

- Anh em nhà Xíu đâu, Sao không hợp lại giúp đỡ người Palestine?

Tiếng kêu yếu ớt của Xíu tan vào hư không, không có hồi đáp. Ở vùng đất thánh này anh em nhà Xíu thưa thớt lắm, không mấy ai giữ được mình trong cái thời tiết nắng nóng hanh khô, cái khí hậu khắc nghiệt. Họ đã mất mình rồi, khi thân mình còn không giữ được thì làm sao giúp kẻ khác! Giây lát sau Xíu nghe có một thanh âm mỏng tang, nhẹ hơn cả hơi thở của Xíu. Lắng nghe kỹ thì ra giọng của giọt Long Lanh:

- Xíu ơi, làm sao giúp được đây? Đây là kiếp nạn của người Palestine, oan oan tương báo, oán thù chất chồng giữa người Do thái và người Ả Rập mấy ngàn năm nay. Họ gây thù, báo thù, trả thù, hận thù liên miên không bao giờ dứt.

- Biết là vậy, nhưng chí ít anh em mình cũng làm cái gì đi chứ!

- Chẳng thể làm được gì, chẳng qua chúng ta góp chút từ thiện, kêu gọi ngừng bắn, nói lên tiếng nói hòa bình, công lý, yêu thương… để thức tỉnh mọi người. Tuy nhiên chúng ta là những kẻ tiểu tốt vô danh, không thân phận, không vai trò gì, không có năng lực gì… nên tiếng nói của chúng ta chẳng có mấy tác dụng. Chúng ta chỉ có thể làm những gì trong khả năng của mình mà thôi! Xíu đừng có dằn vặt mình như thế! Cảm thông khổ đau của tha nhân nhưng không thể làm gì hơn khi mà cái quả đã chín muồi, cái nghiệp đã hiện tướng. Bản thân chúng ta cũng phải giữ mình chứ không thì mất mình ngay bây giờ, điều kiện ngoại quan quá bất thuận nếu mình lơ là một chút là mất mình ngay!

Bên Xíu giờ chỉ còn một số ít anh em, giọt Gầy đã hóa thân, giọt Xinh đã mất mình, giọt Thừa đã về lại nguồn cội...Xíu và anh em Xíu váng vất vật vờthời tiết khí hậu ở vùng đất thánh, ngoài ra còn phải kể cả của bom đạn thuốc súng, khói lửa từ những đám cháy khắp nơi càng làm cho anh em nhà Xíu mệt thêm. Tên lửa, đạn bom và bao nhiêu vũ khí hạng nặng khác của quân Do thái vẫn ầm ầm tấn công vô tôị vạ vào bất cứ mục tiêu nào, dù đó là thánh đường, bệnh viện, trường học, trại tị nạn, văn phòng đại diện của liên hiệp quốc, trụ sở từ thiện...

Tại bức tường ngăn phân chia người Do Thái và người Palestine, Xíu và anh em phải khó khăn lắm mới vượt qua được, mặc dù cả bọn vẫn vô hình tướng. Chính cái không khí căng thẳng, nghi  kỵ, thù hận ở đây đã làm khó vậy! Bức tường kiên cố này dựng lên để bảo vệ ngừoi Do thái nhưng lại là cái trại tù giam lỏng người Palestine, cô lập người Palestine. Cả một dân tộc bị nhốt trên một rẻo đất hẹp tí teo, trước mặt là biển và sau lưng là bức tường.

Dải Gaza tan tành thành bình địa, dải Gaza giờ là một bãi tha ma, công lý ở đâu? Lương tâm nhân loại ở đâu?  Tình yêun thương nhân ái ở đâu?  Hỡi những chính khách Âu - Mỹ, những nhà chính trị vô đạo, những tướng lãnh diều hâu, những con buôn vũ khí, những ông đạo cuồng tín cực đoan… Có bao giờ, có khoảnh khắc nào các người thấy trái tim mình lay động vì đồng loại khổ đau chăng?

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (9)

BUÔNG MÌNH

Hành trình qua Trung Đông đầy máu lửa đạn bom suýt nữa thì mất mình. Hành trình về Đông Nam Á nhiều hệ lụy đau mình và tiềm ẩn nhiững bất ổn to lớn. Giọt Xíu thấy căng thẳngmệt nhoài. Xíu tự thưởng cho mình những ngày nghỉ ngơi biển Destin, buông mình xuống làm nước xanh như ngọc mát rượi cả thân tâm. Xíu vẫy vùng thõa thích và cảm thấy đời hạnh phúc tột đỉnh cũng đến thế mà thôi. Cái phút giây hiện tại ngay bây giờ là cái phút giây tuyệt diệu, sống với chính mình, sống hết mình, buông mình xuống là niềm hạnh phúc vô bờ bến. Những nỗi nặng lòng, đau mình tạm buông hết để tận hưởng phút giây hiện tại này,. Nỗi đau của đồng loại Xíu đã đồng cảm và chia sẻ, đã làm những gì cần làm trong khả năng của mình. Xíu không thể làm hơn được, cũng chẳng có ai có thể làm hơn được khi mà cái quả đã trổ, cái nhân đã chín muồi. Khổ đau, oán hận tràn ngập khắp thế gian này nhưng không có ai có thể tay đổi được. Ngay cả đức Phật cũng thế. Ngài có tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Ngài là đấng thiên nhân chi đạo sư, vô tri vô sở bất tri, vô năng vô sở bất năng nhưng khi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly tàn sát đức Phật biết trước, đức Phật chứng kiến nhưng cũng đành chịu chứ không thể cứu. Nhân nào quả nấy, nhân quả tương tục lại thêm cái duyên biến thiên khôn cùng. Trong cái thế giới đối đãi, nhị nguyên này thì trùng trùng vô tận nhân duyên quả.

Xíu và giọt Cưng, giọt Điệu, giọt Lớn, giọt Út...và vô số anh em mình vẫy vùng vui bất tận trong làn nước mát trong xanh như ngọc bích. Vui với muôn loài thủy tộc, thần dân của Long Vương. Xíu vốn yêu cái đẹp, mê cái đẹp, những cái đẹp từ thân xác  đến tâm hồn, từ con người đến vạn vật muôn loài. Hễ thấy cái đẹp là tròn xoe mắt nhìn, tâm xao động như sóng biển dạt dào. Trong làn nước có bao nhiêu là trai xinh gái đẹp đang đùa giỡn, trên bờ cát trắng đầy những thân hình nóng bỏng nằm phơi nắng. Dọc lối đi của Seaside là bao nhiêu nhà hàng, quán bar, tiệm rượu, quầy hàng lưu niệm… Cuộc sống của cư dân xứ này thật sung túc, giàu có, tự do, dân chủ. Tự do đến quá trớn đòi được sử dụng Marijuana tự do, tự do ngôn luận bất chấp tin giả, tin xạo, tin thất thiệt, mạ lỵ vu khống người khác… Âu đó cũng là mặt trái của tự do quá trớn. Những cư dân của xứ này hưởng nhiều phước báo có lẽ tiền kiếp đã làm được nhiều việc phước thiện nên kiếp này còn dư phước như thế. Ở xứ này người dân thọ hưởng nền giáo dục nhân bản hữu dụng, văn hóa nghệ thuật khai phóng, khoa học kỹ thuật tân tiến, y tế hiện đại, kinh tế sung mãn, quốc phòng vững mạnh, chính trị minh bạch… Tự dưng Xíu thấy thương cho những người sống ở những xứ lạc hậu, nghèo nàn lại còn bị cai trị bởi những thể chế độc tài tàn bạo.
Tắm biển Destin, Panama, Miami… chán chê, Xíu rủ anh em bay sang biển lạnh chơi, ở xứ lá đỏ rừng phong biển lạnh lắm. Trời ơi biển Georgia, Nanaimo, Victoria… sao mà lạnh thế, giữa mùa hè mà nước như ly trà đá, thò ngón chân xuống chạm nước Xíu vội rút lên, ấy vậy mà khi đã đầm mình trong làn nước lạnh ấy thì lại khoái gì đâu á, không còn muốn ra khỏi làn nước ấy. Xíu cùng với anh em mình bơi lội đã đời rồi bay là là khắp xứ sở xem phong cảnh, đâu cần bay qua Alaska làm gì, ở ngay biển này cũng có thể thấy những con cá voi, loài động vật khổng lồ của thế giới này. To lớn là vậy mà hoàn toàn bất lực khi bị cái đám hàu bám vào thân. Những mảng hàu dày và cứng như đá ăn lở loét thân mình. Những mảng hàu che cả mắt, loài hàu sinh sản cực nhanh, chúng tha hồ bám vào cá voi, rùa biển và hành hạ vật chủ một cách dã man, lạnh lùng. Không biết nghiệp chướng gì mà cá voi khổng lồ phải chịu cái nạn này? Mang thân súc sanh đã là một cái nghiệp, rồi thêm cái nghiệp hàu hành hạ, bị kiếp nạn loài người săn bắt dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng, ngày nay thêm kiếp nạn rác nhựa ngập ngụa trong đại dương. Họ hàng cá voi đã có nhiều kẻ nuốt rác nhựa mà chết đói, chết chậm, chết đau đớn...Chữ nghiệp thật đáng sợ, không có nơi nào có thể trốn tránh được, dù là trên mây, trong núi, dưới đáy biển. không có ai có thể tránh được, chẳng có thượng đế hay thánh thần, thế lực siêu nhiên nào có thể giải được nghiệp. Nghiệp ai làm nấy chịu, chỉ có một cách duy nhất là làm nhiều việc phước thiện để dung hòa cái nghiệp xấu, hóa giải lần lần cái nghiệp bất thiện. Việc này cũng giống như một tô nước muối mặn chát, mỗi ngày ta thêm vào một ít nước tinh khiết, kiên trì như thế thì sẽ đến một ngày tô nước muối kia sẽ bớt mặn, hết mặn.

Xíu trong vắt, tinh khôi, vô tư thánh thiệnhồn nhiên ngây thơ cứ ngỡ là vô tâm lắm, nào ngờ lại là cả nghĩ hay lo, biết đồng cảm với đồng loại, biết đau với nỗi đau của vạn vật muôn loài. Xíu bay là là trên mặt biển lạnh, lúc thì vọt cao lên trên hư không phóng tầm mắt nhìn bốn phương trời thả hồn bay bổng với vũ trụ không ngằn mé. Vũ trụ vô hạn độ đã đành, đại dương, sơn hà đại địa dưới kia cũng mênh mông biết bao, những sa mạc hoang vu, những thảo nguyên bát ngát, những rặng tuyết sơn sừng sững vĩnh cửu dưới trời xanh… Họ hàng anh em nhà Xíu nơi nào cũng có mặt, tuy nhiên chỗ nhiều chỗ ít tùy theo cái nhơn duyên thời tiết. Những ngày bị nhốt torng bể tối Xíu cũng thấy anh em mình đầy nhóc. Nhờ Xíu, nhờ anh em họ hàng nhà Xíu mà loài người và muôn loài mới tồn tại được. Giả sứ một ngày nào đó mà đại dương, sông suối, ao hồ khô cạn, trong không gian không còn Xíu và anh em Xíu thì loài người và muôn loài sẽ tuyệt diệt, sự sống không còn nữa và trái đất sẽ giống như sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, Thủy Vương Tinh, sao Thổ…

Trái đất, hành tinh, vũ trụ lớn lắm. Nhỏ nhiệm thì con người, sinh vật phù du… đều giống nhau ở chỗ ấy là duyên hợp, tất cả vốn vô ngã, không có cái ngã độc lập, không có cái gì để gọi là cái ngã. Tất cả nhờ duyên hợp mà tựu thành, mà sinh ra, rồi một khi hết duyên thì lại tan hoại đi. Đức Phật đã nói khổ, không, vô thường, vô ngãbản chất của thế giới này. Xíu từng nghe đâu đó đem cái nhà ra để ví dụ, khi đủ duyên thì cái nhà hiện tướng, mọi người thấy có cái gọi là “nhà”, khi hết duyên thì mọi thứ tan rã ra từng món: gạch, cát, đá, xi măng, thép, gỗ… và từng món ấy lại tiếp tục tan hoại ra thành từng nguyên tố nữa, bấy giờ thì tìm đâu ra cái gọi là “nhà”

Xíu còn đang suy tưởng mông lung, hồn đong đưa theo mây gió bốn phương, thân hình hòa trong làn nước mát, bất chợt Xíu nghe giọt Xinh hỏi:

- Này Xíu, người Âu – Mỹ phần lớn đâu có biết Phật pháp, chẳng biết gì nhân quả hay giới luật...ấy vậy mà họ có cái quả tốt đẹp như thế này: Cao to, xinh đẹp, thông minh, cuộc sống vật chất sung túc, thọ hưởng bao nhiêu là văn minh tiến bộ của những thành tựu khao học kỹ thuật, sống trong môi trường tự do, dân chủ, nhân quyền...Trong khi ấy nhiều người dân ở Á Đông như Việt, Miên, Lào, Miến Điện… biết Phật pháp, biết nhân quả, giới luật… lại sống trong nghèo khổ, lạc hậu, bất công xã hội…

Xíu nhìn giọt Xinh một cách trìu mến đầy thương yêu. Xíu ôm chặt giọt Xinh một cái rồi nói:

- Đừng nhìn vào cái nhãn hiệu dán ở trán người. Cái nhãn hiệu không thật, thực chất mới là thật. Không cần phải xưng là Phật tử nhưng vẫn không sát, đạo, dâm, vọng, tửu thì kết quả vẫn tốt đẹp như thường. Còn xưng Phật tử cho cố vô nhưng cứ sát, đạo, dâm, vọng, tửu thì vẫn đọa như thường. Cái quả hôm nay là do cái nhân quá khứ, cái quả ngày mai là cái nhân hôm nay. Người Âu – Mỹ hôm nay là người đã gieo cái nhân lành trong quá khứ nên kiếp này còn dư phước. Còn những người nghèo khổ, bệnh tật, bất hạnh hôm nay có thể là người đã gieo cái nhân bất thiện trogn quá khứ. Ngay ở Âu – Mỹ cũng có ăn mày, tù đày, nghèo khổ và ở tại những xứ lạc hậu nghèo nàn lạc hậu như Á Đông, châu Phi vẫn có những kẻ giàu sang sung sướng. Tất cả chỉ là tạm thời, tất cả sẽ thay đổi dịch chuyển liên hồi kỳ trận. Vô thường thường trực torng mỗi sát na. Những người giàu sang mà không tiếp tục gieo trồng nhân lành thì một khi hết số sẽ đọa, còn người bất hạnh mà chịu làm việc phước thiện thì có lúc sẽ trổ quả lành. Những người sanh sống ở Âu -Mỹ kiếp này nhưng kiếp sau chắc gì còn sanh sống ở Âu -Mỹ và cũng tương tự như thế, người sanh sống ở Á Đông, châu Phi, kiếp sau chắc gì ở sanh ra ở đó. Sâu hơn chút nữa thì chắc gì đã được tái sanh lại làm người chứ đừng nói chi Âu - Mỹ hay Á – Phi. Tất cả tùy thuộc vào nhân tạo tác hôm nay và dư hậu của nhân quá khứ, cộng thêm sự gia trọng của cái duyên.

Bơi lội, bay nhảy đã đời trời đất, Xíu và cả bọn rủ nhau về phố cổ chơi, đã từng thăm thú nhiều khu phố đông tây rồi ấy vậy mà khi đến Yaletown và Gastown Xíu thấy phấn khích lạ thường như thể lần đầu thăm phố cổ, trời ơi, những tòa nhà to lớn xây bằng gạch và đá hộc, tuổi đời cả hai trăm năm, những con đường lát đá xanh, những tượng đài đẹp quá, những dãy nhà, hàng quán xinh thật xinh. Điều đặc biệt là phố cổ Gastown có đồng hồ chạy bằng hơi nước, nhìn kiểu thiết kế và hơi nước phun ra như sương khói tự dưng xíu thấy giống hệt cái đồng hồ trong truyện fairytale “Beauty & Beast” và trong mấy phim hoạt hình Walt Disney. Tự dưng Xíu thấy xúc động gì đâu á, Xíu như quay trở lại cái tuổi thơ với những câu chuyện cổ tích, những phim hoạt hình ngay tại khu phố cổ này. Trong thoáng chốc Xíu và cả bọn anh em mình hóa thân nhập vào luồng hơi nước đang tỏa ra trên tháp đồng hồ. Trong cái khoảnh khắc này mừng mừng tủi tủi, Xíu và anh em nhắc chuyện xưa, kể chuyện nay, chuyện đời, chuyện đạo, chuyện nhân tình thế thái, chuyện buồn vui của nhân loại khắp bốn phương trời.

 

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (10)

SẤP MÌNH ĐẢNH LỄ

Cuối tháng bảy Tây, xứ Lá Phong, xứ Cờ Hoa vẫn đang mùa hè nóng bỏng, bấy giờ là lúc thời tiết oi bức nhất trong năm, tuy nhiên không đến nỗi đồng khô cỏ cháy. Người xứ này nhiều phước báo, nóng thì xài máy lạnh thả dàn, chỗ nào cũng mở máy lạnh hết công suất: Nhà ở, văn phòng, chợ búa, shopping center, mall, nơi vui chơi...Bên ngoài nóng đổ lửa nhưng bên trong những chỗ này mát lạnh luôn.

Xíu nói với giọt Cả, giọng đầy hào hứng và tỏ vẻ khâm phục:

- Con người vô minh thật nhưng về thế trí biện thông cũng thông minh lắm. Họ chế ra bao nhiêu thứ máy móc và phương tiện tân tiến. Họ có thể bay lên mặt trăng, lặn xuống long cung. Họ chế  ra máy nóng, máy lạnh nhờ những thứ máy này mà họ tạo ra những cảnh giới nóng – lạnh theo sở thích. Người xứ này chẳng phải chịu đựng sự nóng – lạnh quá khắc nghiệt như tổ tiên của họ ngày xưa. Mùa hè có máy lạnh, mùa đông có máy sưởi, ngồi trên xe chạy ngoài trời bất kể nắng mưa hay nóng lạnh, kể cũng vi diệu đấy chứ!

Giọt Cả gật gù:

- Ừ thì vi diệu thật, thông minh có thừa, chế ra bao nhiêu thứ để phục vụ đời sống nhưng họ cũng chế ra bao nhiêu thứ để tàn sát và hủy diệt lẫn nhau, tàn hại cả động thực vật và môi trường tự nhiên.  Sự thông minh của con người chỉ khác vô minh một lằn ranh tí xíu.

- Anh Hai nói phải đấy! Vô minh dễ sợ luôn, vì dụng cái thông minh không đúng nên đọa là đương nhiên. Kiếp này có thể thành tựu giàu có, danh tiếng nhưng cái hậu quả gây ra cho con người và muôn loài, môi trường thì kiếp nào trả nợ cho xong?

- Xíu giỏi lắm, Xíu nắm vững được giáo lý Phật đà, anh mừng! Cũng vì vậyđịa ngục trường cửu không cửa tự vào, chẳng có ngày ra. Súc sanh tăm tối trầm luân không có đường lên.

- Í, anh Hai, anh nói địa ngục làm em chợt nhớ ra gần tới lễ Vu Lan rồi, cuối tháng Bảy Tây các chùa đã rục rịch chuẩn bị cho mùa hiếu hội. Mà này anh Hai, chỉ các chùa Bắc tông chứ chùa Nam tông không có làm lễ này.

- Ừ thì hai dòng truyền thừa Bắc – Nam có những khác biệt. Giáo lý Phật đà truyền đến đâu kết hợp với yếu tố văn hóa địa phương ở đấy. Các tổ sư lại châm chế để dẫn dụ làm phương tiện độ sanh.

- Anh Hai, loài người, súc sanh và muôn loài đều cần có họ nhà giọt nước của chúng ta, còn địa ngục hình như khônghọ hàng nhà giọt nước phải không?

- Anh không biết, cảnh giới ấy khác quá mà mình đâu có thần thông. Tuy nhiên đọc kinh Địa Tạng, kinh Vu Lan… thì thấy có nước. Ví như khi nước đến miệng tội nhân thì biến thành đồng lỏng, sắt chảy. Kinh còn mô tả nước biển nghiệp sôi sùng sục…

- Nước ấy là thực nghĩa hay ẩn dụ?

- Anh không biết vì anh chưa vào thăm địa ngục nhưng anh nghĩ cả hai, vì kinh Phật thì lý sự viên dung.

Bấy giờ giọt Út chả chớt:

- Trời, Xíu hỏi gì kỳ vậy? Giọt Cả tuy là anh lớn nhưng ảnh đâu phải A La Hán mà biết việc trong địa ngục. Ảnh cũng có vô địa ngục bao giờ đâu mà biết.

Anh em nhà giọt nước cười nắc nẻ, cười lung lay cả thân như thể sắp rơi xuống làm mưa. Giọt Sót ngập ngừng, giọng còn phảng phất chút niềm đau:

- Những ngày anh em ta bị nhiễm phóng xạ và bị nhốt trong bể kín tối tăm, Cái chốn ấy chính là địa ngục chứ còn đâu nữa. Địa ngục đâu chỉ trong lòng đất, địa ngục ngay ở nhân gian này. Những vùng nhiễm phóng xạ hạt nhân chính là địa ngục. Những vùng chiến sự là địa ngục. Những vùng môi trường sống bị ô nhiễm, bị tàn phá đến không thể sống ấy chính là địa ngục. Địa ngục ngay tâm của con người. Địa ngục chiêu cảm từ chính ba nghiệp sai trái tà vạy của con người.

Không khí chùng xuống, cả bọn im lặng dường như mỗi giọt nước đều đang đeo đuổi theo tâm sự riêng của mình. Thiên hạ nhìn anh em nhà Xíu không tài nào phân biệt được đâu là giọt Cả, đâu là giọt Xinh, giọt Xíu, giọt Điệu...Vì những giọt nước đều lung linh như nhau, giọt nào cũng mọng như nhau và quan trọng là giọt nào cũng đem lại sự sống như nhau. Chỉ có Xíu và anh em nhà Xíu mới có thể nhìn nhận ra sực khác biệt của nhau. Giọt Cả thì tri túc, thông thái, bao dung. Giọt Xíu thông minh, lém lỉnh. Giọt Xinh duyên dáng. Giọt Út dễ thương và khờ khạo ngây thơ. Giọt Thừa ham chơi, đôi khi gây ra sự thái quá. Giọt Gầy chểnh mảng cũng gây ra sự thái quá ngược lại với giọt Thừa. Giọt Điệu õng ẹo:

- Mùa hè nóng thấy mồ, hở tí ra là mồ hôi nhễ nhại. Em hổng thích mùa hè!

Xíu khịa:

- Vậy mà hè nào cũng ra biển dầm mình trong nước, phơi mình trên cát, bay là là ngắm gái đẹp trai xinh.

Giọt Điệu bị bắt Giò nên bẽn lẽn:

- Ừ, thì ai cũng vậy chứ có phải mình Điệu đâu!

Giọt Xinh vẫn không tha:

- Vậy thì đừng nói không thích mùa hè hén!

Giọt Thừa nhảy vô bênh Điệu:

- Thôi đi Xíu, Giọt Điệu nói vậy thôi chứ hổng phải vậy đâu. Điệu thích Hè, thích Thu, Đông, Xuân, thích cả bốn mùa, cứ nhìn hành trạng là biết ngay. Hè nào cũng diện bikini ra biển, mùa Thu chơi đồ vintage thướt tha lãng mạn. Mùa Đông khoác áo choàng trông sang trọng quý phái. Mùa Xuân thì càng không phải nói nữa, muôn sắc gấm hoa luôn.

Điệu e thẹn, mắt long lanh, mặt sáng ngời. Anh em nhà Xíu vây quanh Điệu, bấy giờ ánh dương từ đâu chiếu xuyên qua Điệu và anh em nhà giọt nước. Lúc ấy trên mặt đất bao nhiêu người ngước nhìn lên không trung, họ chỉ trỏ đầy vẻ thích thú, nhiều tiếng reo:

- Ô kìa, cầu vồng bảy sắc vắt ngàng bầu trời! Ô, đẹp quá!

Xíu nghe có giọng trẻ con trong trẻo thánh thót:

- Cầu vồng kìa tụi bay ơi, cầu vồng xuất là để người tốt vô thiên đàng.

Xíu nhìn xuống thì nhận ra đó là thằng Tí con cô Hai bán tạp hóa trong thị trấn. Thằng nhỏ trắng trẻo dễ thương gì đâu á, mặt mày đẹp như hoa, mắt long lanh tròn xoe như viên bi. Thằng Tí học giỏi và ngoan nổi tiếng trong trấn. Người nào thấy thằng Tí cũng đều nói: “Có được đứa con như thằng Tí thì dù có khổ cũng mát lòng mát dạ”. Cả nhà thằng Tí là Phật tử thuần thành, cô Hai bận mua bán nên ít lên chùa, cổ chỉ đi vào ngày rằm hay mùng một, còn thằng Tí với ba nó thì tuần nào cũng ghé lên chùa. Thằng Tí còn ăn chay theo ba nó, biết niệm Phậttụng kinh nữa đấy! Nghe thằng Tí nói vậy, thằng Tèo hỏi lại:

- Sao mầy biết?

- Tao nghe người lớn nói vậy

Thằng Tèo không chịu, nó lý sự:

- Đừng có mê tín dị đoan, cầu vồng chẳng qua là hiện tượng quang học, ánh nắng mặt trời chiếu qua làn hơi nước nên sanh ra vậy. Thầy Thanh dạy vật lý đã giảng thế!

- Ừ thì là vậy, nhưng mình tin cầu vồng để nâng bước người tốt cũng được chứ có sao đâu.

Xíu và anh em nhà Xíu nghe hai thằng nhóc lý sự mà bật cười khanh khách, cười bò lăn, trong phút chốc quên mình nên rơi thẳng xuống. Thằng Tí, thằng Tèo và những người đang ngắm cầu vồng vội vàng tìm chỗ ẩn nấp vừa la lên í oái:

- Trời mưa, trời mưa, vừa nắng vừa mưa, cầu vồng đẹp quá!

Thế rồi giữa hư không xuất hiện luồng khí lạnh thổi tới. Xíu và anh em lập tức ngưng lại, hiện nguyên tướng và chính luồng hơi lạnh và gió đã đưa Xíu với anh em tới vùng đất xa tít tắp ngoài kia. Xíu, Xinh, Điệu, Út, Cả, Thừa… rơi ràn rạt xuống chứ không còn lác đác mưa bóng mây như lúc ở trên không phận khu vực thị trấn nhà thằng Tí. Mưa nặng hạt dần, bọn người táo tác chạy tìm chỗ tránh mưa, tiếng huyên náo ồn ào chìm lẫn trong tiếng mưa rơi. Chợt Xíu giật mình, hình như Xíu rớt trên vạt áo hoại sắc của một vị tỳ kheo. Anh em nhà Xíu vừa chạm vạt áo ấy cũng kịp nhận ra điều ấy. Giọt Cả cảnh báo:

- Chúng ta vừa gặp một vị tỳ kheo hành hạnh đầu đà

Xíu ngập ngừng chứ không dám khẳng định:

- Hình như đây là vị tỳ kheo mà mấy tháng nay khiến dân tình xao động?

Giọt Tròn khẳng định:

- Đúng đấy Xíu! Sự xuất hiện của vị tỳ kheo này đã thổi một luồng gió mới vào cái hiện trạng cũ kỹ, sáo mòn đầy sự giải đãi, thụ hưởng của giới tu sĩ xứ này.

Giọt Cả khuyên:

- Em đừng nói vậy, chỉ một số tu sĩ nặng danh văn lợi dưỡng chứ không phải tất cả. Những năm gần đây có nhiều ông thầy thiếu chánh kiến, thiếu tư duy, không phẩm hạnh, thiếu tu học đăng đàn nói xàm làm bậy. Một số tu sĩ thân chính, tham chính, phò chính nói lời tà pháp… đã khiến dân tình bất bình. Bọn Face Bookers, You Tubers thừa nước đục thả câu, cắt ghép, lồng, ép, tạo clip giả… ra sức bêu xấu Phật giáo khiến cho những kẻ nhẹ dạ cả tin hùa theo. Bọn họ đang tạo nghiệp bất thiện một cách hết sức vô minh. Mạng xã hội và những người lướt mạng là cả một đám cuồng loạn, lộng ngôn, nói xàm, chửi bậy, hung hãn, hồ đồ… Hàng Phật tử sơ cơ thiếu hiểu biết giáo lý, thiếu chánh kiến bị lung lay niềm tin, bất mãn với Phật giáo. Cái thời buổi nối mạng toàn cầu cho nên chỉ một cái tin hay một hình ảnh cũng khiến cả thế giới biết. Nhà thiền cũng nói đến hiệu ứng cánh bướm, một cái vỗ của cánh bướm bên này có thể khiến địa cầu bên kia dậy sóng là vậy. Tuy nhiên trách người thì cũng phải tự xét mình. Chính những tà sư, hồng tăng tham chính, thân chính, phò chính kết bè cánh, lũng đoạn Phật giáo, lợi dụng Phật giáo để phục vụ mục đích chính trị của thế tục. Chính điều ấy đã khiến dân chúng bất bình, bất mãn và sanh chán ghét. Rồi khi vị tỳ kheo hành hạnh đầu đà ấy xuất hiện đã khiến dân chúng mến mộ, kính yêu. Điều này làm cho các vị tà sư, hồng tăng sanh đố kỵbuông lời mạ lị: “Ông ấy không phải tu sỹ”, “thằng ba trợn”...Chính sự đố kỵ ấy càng làm cho dân chúng thêm  chán ghét tà sư, hồng tăng và ngưỡng mộ vị tỳ kheo kia hơn nữa. Cũng có một số người vì quá yêu mến mà thổi phồng lên quá trớn, phong thánh bừa cho vị tỳ kheo kia. Phải công nhận vị tỳ kheo ấy là đã thật sự buông cả thân tâm xuống. Ông ấy luôn mỉm cười, khiêm cung, hạ mục. Ông ấy chúc phúc lành cho cả những người mắng nhiếc, phỉ báng hay đánh đập ông ấy. Rõ ràng cái tâm này là tâm Bồ Tát chứ không phải tân phàm phu, phàm phu không thể làm nổi việc này.

Giọt Cả dứt lời thì cơn mưa cũng tạnh. Xíu, Xinh, Điệu, Út, Thừa, Sót… sấp mình xuống đảnh lễ vị tỳ kheo hành hạnh đầu đà lần nữa rồi mới chia hai, một số chảy theo dòng nước và một nửa bay lên hư không.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (11)

NHÂN DUYÊN PHÓ HỘI

Xíu với anh em mình kéo về Ba Lê phó hội, người ta nói vui như hội quả là không sai tí nào. Ba Lê vốn là kinh thành ánh sáng, là trung tâm văn hóa – thời trang của thế giới. Ba Lê vốn nhộn nhịp hào hoa giờ lại càng thêm tưng bừng náo nhiệt, những ngày lễ càng thêm rực rỡ vàng son. Người Ba lê có danh hiệu riêng Parisian cứ như thể là một hạng dân riêng biệt vậy, cái thương hiệu Parisian thật đúng với phong cách hào hoa, phong nhã, thanh lịch, trình độ văn hóa và cái gu thẩm mỹ đều rất cao.

Một trăm năm trước người Pháp đã tổ chức đại hội thể thao Olympic, bây giờ lại tiếp tục việc này. Người Pháp đã có công khôi phục lại một đại hội thể thao lẫy lừng của người Hy Lạp xưa và cũng là của nhân loại. Olympic tổ chức để những lực sĩ khỏe, trẻ, đẹp, mã thượng… tranh tài. Nền văn minh Hy Lạp đã cống hiến cho nhân loại những giá trị to lớn: thể thao, mỹ thuật, văn hóa, tạc tượng, tinh thần tự do, dân chủ…

Những vận động viên thời ấy khi tham gia thi đấu đều phải khỏa thân, các phái đoàn từ các thành bang về Athen để thi đấu đều không được mang theo vũ khí. Đại hội thể thao đề cao sự thống nhất, hòa bình, mặc dù người nữ thời ấy không được tham gia thi đấu nhưng không hoàn toàn cấm ngặt, vẫn có một số ít được tham gia, tiêu biểu như Kyniska con gái của vua Archidamus xứ Sparta đã chiến thắng môn đua ngựa.

Thế vận hội là cuộc tranh tài thể thao lớn nhất hành tinh, hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tham dự. Hơn 200 nước kéo quân về Ba Lê phó hội nhưng thật sự thì Thế Vận Hội vẫn là cuộc chơi của mấy ông lớn: Mỹ, Hoa, Anh, Pháp, Úc, Ý, Nhật, Hàn...Nam Hàn là một hiện tượng đặc biệt, là biểu tượng của sự trỗi dậy mạnh mẽ, một sự phát triển thần kỳ. Nghĩ cũng lạ đời, số phận nghiệt ngã làm sao? Cùng một dân tộc, một quốc gia nhưng nửa phía Nam thì phát triển như vũ bão về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục, thể thao… nói chung là tất cả mọi mặt. Phát triển mạnh đến nỗi cạnh tranh khiến các ông lớn phải nể. Còn nửa phía Bắc thì đói nghèo, lạc hậu, tối tăm, chậm lụt nhưng lại vô cùng hung hăn và hiếu chiến… tất cả cũng chỉ vì giới đầu lãnh phía Bắc đi theo cái chủ thuyết hoang tưởng, độc tài và tàn bạo.

Xíu với anh em mình, giọt Xinh, giọt Điệu, giọt Út… tung tăng trẩy hội, bay qua khải hoàn môn, bơi lội trên sông Sein, đi qua những khu phố cổ kính, những cây cầu đầy tính mỹ thuật. Xíu reo lên:

- Trời ơi, đã đến từ bao đời rồi mà sao lần nào ghé thăm cũng thấy mới lạ, hào hứng vô cùng.

Xíu ngắm nghía những lâu đài, dinh thự, bồn hoa, đài tưởng niệm...mê mệt. Xíu thích thú với khí hậu và con người Ba Lê. Ba Lê là biểu tượng chung của xứ sở này, cái quốc gia  giàu có, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, gió thuận mưa hòa… Nghĩ đến đây Xíu không khỏi tự hào, cái khí hậu và sự thuận hòa mưa gió cũng nhờ công lao của Xíu và anh em Xíu. Giữa mùa hè Ba Lê tuy có nóng nhưng không đến nỗi như những xứ nhiệt đới hay là Texas bên xứ cao bồi. Chính phủ Pháp, chính quyền Ba Lê đã có những quyết định sáng suốt, hợp với đất trời thiên nhiên, đó là việc không xài máy lạnh. Tất cả vì môi trường thiên thiên, vì khí hậu. Hiện nay khí hậu biến đổi, trái đất nóng lên, băng tan, biển dâng...Việc sống sanh, sống vì môi trường là một điều đáng quý. Không chỉ Pháp, nhiều nước Âu châu đều có những chính sách cứu vãn mội trường, phục hồi thiên nhiên. Người dân các xứ này cũng ý thức và hành động vì môi trường. Trong khi ấy ở Mỹ việc bảo vệ môi trường chẳng được mấy ai chú ý, chính phủ thì chỉ lo tăng trưởng kinh tế, người dân thì sống hưởng thụ tối đa, sống ích kỷ chỉ biết có bản thân mình. Nhiều nước Nam Mỹ, Á châu, Phi châu… cũng chỉ chăm chăm vào tăng trưởng kinh tế mà hy sinh môi trường tự nhiên. Xíu ước gì các chính phủ và dân các nước khác cũng ý thức như người Ba Lê thì môi trường tự nhiên sẽ được cứu vãn. Việc Xíu và họ nhà Xíu ưu ái Ba Lê hay những vùng đất đai phì nhiêu, phong điều vũ thuận là việc làm tự nhiên, hoàn toàn không có tâm thị phi nhân ngã, không sanh tâm phân biệt yêu – ghét. Đó là sự chiêu cảm của nhân lành qủa thiện từ con người xứ ấy. Thiên hạ nhiều người không hiểu hoặc hiểu sai lầm cho là Xíu bênh chỗ này bỏ chỗ kia, tham phú phụ bần, yêu -ghét không công bằng. Họ trách móc đủ điều: “Sao Xíu và anh em Xíu hổng đến những vùng khô hạn, sa mạc để cân bằng mưa nắng?”, “ Sao Xíu và anh em Xíu chỉ tập trung một chỗ rồi gây lụt lội hại người hại vật?”… thật oan cho Xíu và nhà Xíu. Những người ấy họ đâu có biết là Xíu và họ nhà Xíu vốn có mặt khắp mười phương chứ đâu chỉ có chỗ này mà không có chỗ kia. Tuy nhiên cái sự có mặt nó phụ thuộc vào nhân duyên, khi Xíu và anh em Xíu đến những vùng khô hạn thì lập tức mất mình ngay. Họ nhà Xíu kéo đến đây thì bị nghiệp lực ở đấy ngăn chặn không thể nào tụ hội đủ để mưa xuống. Còn những vùng ngập lụt thì sự chiêu cảm nghiệp lực của con ngườivạn vật ở vùng đấy, là sự vận hành tự nhiên của đất trời, vũ trụ. Điều này nằm ngoài ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào, muốn cũng không được mà không muốn cũng không xong.

Ba Lê đẹp quá, sông Sein đẹp và thơ mộng vô cùng, dọc hai bờ sông là bao nhiêu cầu cống, dinh thự, đền đài, công trình kiến trúc… mang đậm dấu ấn kiến trúc thời phục hưng, đẹp đến khiến người ngẩn ngơ. Đô thành Ba Lê lớn và đông như vậy nhưng họ giữ được môi trường trong sạch, ít ô nhiễm. Buổi khai mạc vô cùng hào hứng sôi nổi, hiệu ứng của âm thanh, ánh sáng, cảnh quan, nghệ thuật biểu diễn… của người Pháp quá tuyệt vời, đậm tình nhân văn, khai phóng, dung hòa, mã thượng...tuy nhiên những thành phần bảo thủ, giáo điều vạch lá tìm sâu chỉ trích đủ điều, bọn ấy cho là phỉ báng tôn giáo! Biết làm sao được? nhân tâm muôn mặt, người đời đa diện và nhất là trong thế giới hôm nay mọi sự việc đều bị thổi phồng  lên nhanh chóng bởi các mạng xã hội và hiệu ứng của nó lan nhanh, lan rộng một cách kinh khủng. Đám đông ở đời hay trên mạng đều cuồng lên, hồ đồ và loạn động.

Vận động viên của Thế Vận Hội nói riêng của thể thao thế giới nói chung mà Xíu hâm mộ nhất đó là tay bơi Micheal Phelp. Trời ơi, người đâu mà tài giỏi đến thế! Phải nói anh ấy là một kình nhân chứ hổng phải kình ngư. Anh ta thống lĩnh đường đua xanh, trùm của mọi đường bơi. Một mình anh ta chiếm đến 28 huy chương các giải của Olympic, trong đó có 23 huy chương vàng Olympic. Michael Phelps phá vỡ kỷ lục 12 huy chương vàng cá nhân Olympic của Leonidas, một kỷ lục tồn tại suốt 2168 năm. Nếu tính luôn các giải bơi lội khác của thế giới thì Michael Phelps có đến 66 huy chương các loại. Michael Phelp là một hiện tượng vĩ đại của Thế Vận Hội cổ đại cho đến Thế Vận Hội hôm nay. Kỷ lục của anh ta sẽ còn kéo dài không biết đến khi nào mới có thể có người đuổi kịp. Michael Phelp là một vận động viên vĩ đãi nhất của mọi thời đại. Thế giới trong nghề ngoài nghệ đều khâm phục Michael Phelp, nhiều nhà khoa học, huấn luyện viên, chuyên gia...tìm hiểu, phỏng đoán đưa ra nhiều giả thuyết nhưng không làm sao giải đáp đượcc cái khả năng kiệt xuất của anh ấy.

Xíu hâm mộ Michael Phelp, hãnh diện vì anh ta gần gũi với họ nhà Xíu. Từ thuở tượng hình anh ta đã nằm trong bọc nước ối, sống trong môi trường nước. Anh ta, loài người và hầu hết loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh cũng đều cần nước cả! Không có nước thì không có sự sống. Michael Phelp giống mọi người nhưng cũng khác mọi người. Sanh ra đã thích nước, thích bơi lội, suốt quãng đường tuổi thơđiều kiện sống thoải mái, thõa thích bơi trong nước, lớn lên càng bơi nhiều, ngày tập 8 tiếng, bơi từ khi tượng hình cho đến khi thành công. Michael Phelp dầm mình trong nước, sống nhờ nước, trong người củaPhelp phần lớn cũng là nước. Michael Phelp thành công, đạt danh vọng, nhờ nước từ nước mà ra. Họ nhà Xíu với Michael Phelp quả là có duyên sâu xa với nhau. Xíu biết sự thành công danh vọng, tiền bạc của Phelp hôm nay là nhờ cái dư phước từ nhiều kiếp qúa khứ. Cái quả lành tốt đẹp hôm nay là nhờ cái nhân lành trong quá khứ, tuy nhiên cụ thể thế nào thì Xíu không biết và cũng chẳng có ai có thể biết, chỉ những vị nào chứng quả A La Hán thì mới biết mà thôi. Những giả thuyết về sự thành công của Phelp do các nhà khoa học đưa ra chỉ nói được phần ngọn của vấn đề chứ họ không thấy được cái căn bản gốc. Họ chỉ thấy Phelp khỏe, tập luyện nhiều, thầy giỏi, cấu tạo tay chân dài...nói chung chỉ là những điều hoa lá cành chứ không phải cái cốt lõi của vấn đề. Qua trường hợp của Michael Phelp, Xíu càng thấy nhân là thế, quả là thế và cái duyên quan trọng thế nào, nhờ thuận duyên mà cái quả lành đơm hoa kết trái. Nhân – duyên – quả là một sự vận hành vi diệu, không ai có thể biết hay can thiệp vào và cũng không ai có thể tránh được! Nhân – duyên – quả là quy luật vận hành tự nhiên, không ai đặt ra và dĩ nhiên cũng chẳng cần ai bảo trì hay vận hành. Ấy vậy mà không có một ai có thể ở ngoài vòng quay của nó. Chúng ta tạm dùng ngôn ngữ để gọi là luật nhân quả thế thôi! Nếu không dùng ngôn ngữ để gọi thì làm sao loài người nhận biết hay chỉ bảo nhau? Không chỉ là luật nhân quả, ngay cả với các pháp Tánh Không, Bát Nhã, Vô Ngã… cũng phải tạm dùng ngôn ngữ để giải bày. Mặc dù ngôn ngữ rất hạn chế nhưng không dùng ngôn ngữ thì làm sao loài người có thể nhận biết được!

Ngay cả bản thân Xíu, anh em nhà giọt nước… cũng chỉ là tạm dùng ngôn ngữ võ đoán mà gọi thế, nếu không dùng ngôn ngữ thì làm sao loài người nhận biết được đây?

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (12)
HỢP TAN LÀ LẼ

Vùng đất phương Nam của xứ Cờ Hoa này quả là thật phong nhiêu, gió thuận mưa hòa, đất đai trù phú, sản vật sung túc… ấy là cái phước của người ở đây, trong đó cũng có phần công sức không nhỏ của Xíu và anh em nhà Xíu.

Tuy nhiên mấy năm nay thời tiết cũng thất thường, có lẽ cái nghiệp chung của cả loài người, trái đất nóng lên, khí hậu thay đổi, băng tan biển dâng… Hai tuần qua mưa quá trời luôn, sáng mưa, trưa mưa, chiều mưa, được cái mưa nhiều vậy mà bầu trời vẫn trong xanh. Anh em nhà Xíu bị lôi kéo về một cách bất thường, muốn không được mà không muốn cũng không xong! Nghiệp chung của loài ngườivạn vật muôn loài, không một ai có thể ở trên hay ở ngoài cái quy luật vô thường. Những chiều mưa buồn quá, buồn muốn khóc, nhìn noài trời cây lá xanh mướt nhưng khi buồn thì thấy đắng cả mắt. Những chiều mưa viễn xứ dễ khiến cho con người ta thêm thương nhớ người thân ở phương trời cũ.

Cơn gió hắt nhẹ làm Xíu, Xinh, Sót, Út… tấp vào khung cửa kiếng của ngôi nhà nhỏ trong tiểu trấn Hoa Mộc Lan. Giọt Sót ngạc nhiên kêu lện:

- Ô kìa, cậu chủ Hoàng Hoa trang, sao trông cậu ta buồn thế? Đàn ông con trai gì mà đôi mắt buồn muốn rớt cả bầu trời!
Xíu bảo:

- Mấy em không biết đâu, cậu chủ sanh ra vốn đã có đôi mắt buồn rười rượi như thế rồi. Đời sống có nhiều điều bất như ý nên càng buồn thêm. Hai tuần nay thì cái buồn như đông đặc lại. Số là con gái rượu của cậu ta đã đủ trưởng thành và cô ấy muốn dọn ra ngoài. Mấy em có biết không? Cha con nhà cậu ta quấn quýt bên nhau suốt bao nhiêu năm, yêu thương ra rít là vậy. Cô con gái xinh lắm, mà cậu chủ lại yêu hoa nên mới lấy tên trang trại đặt cho con gái. Cô con gái ngoan, hiền giờ vướng vào tình yêu dị chủng và đã làm nhiều việc không còn ngoan hiền nữa. Việc con cái khôn lớn rời nhà ra đi là chuyện thường tình, hợp tan là lẽ tự nhiên, tuy nhiên ở đây cô con gái rượu còn ngây thơ và khờ lắm, cố ấy chưa đủ sức tự nuôi bản thân, ấy là chưa nói đến chuyện lớn mua nhà, mua xe...Cậu chủ thương con nhưng không biết nói làm sao. Cậu ta lo cho cô con gái chưa đủ sức tự lập mà ra riêng thì e có nhiều điều không lành. Cậu chủ vốn đã buồn giờ càng thêm buồn, sự ly tán đã bắt đầu, lý hợp tan đã khởi. Dẫu biết thế gian vô thường, mọi sự, mọi việc, mọi người… luôn luôn thay đổi. Bao lâu nay biết lý thuyết, giờ thì sự thật nếm trải.

Giọt Xinh khịa:

- Anh ta là một Phật tử thuần thành, lý thuyết thuộc làu, vậy mà giờ không áp dụng hay thực hành được sao? hóa ra lâu nay chỉ ba hoa khoác lác.

Xíu nói:

- Em thấy cậu ta thuộc loại ba hoa khoác lác ư? Không phải đâu! Thậm chí ngược lại là khác. Cậu ta là người ít lời ăn tiếng nói, rất kiệm lời, chẳng mấy khi mở miệng. Cũng không phải là cậu ta không thực hành, tuy nhiên giữa lý thuyết với thực hànhvẫn có một khoảng cách nhất định. Ở vào trường hợp của cậu ta thì em mới thấy hết nỗi lòng. Cậu ta vốn nặng tình, vị tình, lụy tình. Cậu ta thương cô con gái rượu hơn hết mọi thứ trên đời, phần nữa cậu ta ở xứ này không có thân nhân, cha mẹ, anh em cách xa, bạn bè quê hương ly biệt… âu đó cũng là ái biệt ly vậy! Những chiều mưa xa xứ, nhớ mẹ cha. Nhớ quê hương quốc thổ, nhớ anh em bạn bè… ai mà không buồn cơ chứ! Giờ thì con gái rượu, chỗ gắn bó gần gũi và sâu sắc nhất cũng sắp rời đi.

Sót giọng buồn buồn:

- Ừ khổ thật! Buồn thật! Thế giới này tụ tán vô kỳ, hợp tan bất định, đời sống trong trăm năm nhưng biết bao nhiêu chia ly sum họp. Người may mắn lắm thì cũng sum vầy một thời gian ngắn với người thân yêu rồi cũng phải tạm biệt hoặc vĩnh biệt. Sự tạm biệt hay vĩnh biệt nó có mặt ngay từ khi mới sanh ra, nó hiện diện trong từng phút giây trong đời. Thế gian này buồn thật, những cuộc chia ly ngắn – dài, lớn -  nhỏ nào cũng đều đượm màu bi ai, làm người ở thế gian này không làm sao tránh được sự khổ đau ái biệt ly, oán tắng hội khổ. Ngày xưa đức bổn sư cũng từng đau buồn giã biệt vợ con, cha mẹ, anh em để ra đi tìm đường giải thoát. Ngài dõng mãnh thà một lần đau để rồi vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau, vĩnh viễn không còn sanh tử luân hồi, không còn hợp tan theo lẽ thường. Ngài đã một lần đau từ thân, cắt ái ly gia, đoạn dục… để rồi chứng đắc Niết Bàn, tìm ra con đường sáng cho nhân loại. Ngài khai phá ra con đường giải thoát, phương pháp giải thoát hết mọi khổ đau ràng buộc của kiếp nhân sinh. Ngài đã vạch ra cho con người thấy thế nào là khổ, nguyên nhân khổ, cách thoát khổ, con đường đi đến hết khổ. Ngài đề ra bát chánh đạo và nhiều phương cách để đưa con người đi đến hết khổ, chứng đắc tịch tịnh Niết Bàn. Thuốc đã có, cửa đã mở, con đường đã khai phá… chỉ tiếc là mọi người quá yếu kém không đủ dõng mãnh để dấn thân vượt qua bể khổ.

Giọt Út lý sự:

- Nếu ai cũng tu giải thoát, ai cũng chứng đắc hết thì thế gian này trống không à? Và nếu ai cũng được giải thoát hết khổ thì lấy đâu để nhận biết khổ và không còn khổ?

Giọt Cả cười khanh khách:

- Xíu à! Út nói phải đấy! Cái lý của Út cũng đã có  nhiều người nói chứ không phải không có, tuy nhiên điều ấy không thể có được! Không thể có chuyện tất cả mọi người hết khổ, tất cả chứng đắc. Đừng nói là tu chứng, ngay ở đời này,  không phải ai đi học cũng đều thành thầy giáo hay bác sỹ, kỹ sư... chỉ có một số rất ít thôi! Út mắc cười ghê vậy đó, khéo lo chuyện người ta chứng đắc hết khổ thì lấy đâu ra khổ để so sánh. Giả sửchứng đắc hết thì một khi chứng đắc thì tự biết, còn trầm luân sanh tử luân hồi thì không cần đối chiếu làm gì, đau khổ  dàn trời kia mà! Người thế gian xưa nay phần lớn đều nói, nghĩ, làm bất thiện nhiều hơn là nói, nghĩ, làm thiện lành, bởi vậy sự chiêu cảm khổ đau tràn ngập khắp thế gian!

Giọt Xinh ngờ nghệch hỏi:

- Anh Hai, em có chỗ thấy khó hiểu. Nhà Phật thường nói con người là do danh sắc hợp thành, thân này là tứ đại duyên hợp chứ không có cái ngã độc lập, nó không là ta, không phải của ta. Con người cũng không có cái gọi là linh hồn vĩnh viễn, vậy thì “ai” ở đây thọ lạc, thọ khổ? “ai” ở đây thăng – đọa? “ai” ở đây chứng đắc hay đi vào tam đồ lục đạo?

Giọt Cả giật mình:

- Đây là một câu hỏi lớn, một câu hỏi cực kỳ khó mà nhiều người đã từng hỏi. Anh thật sự không biết giải thích, anh bí! Tuy nhiên đọc sách thì thấy nói chỉ có sự khổ chứ không có “ai” chịu khổ, thực tế thì mình và mọi người vẫn than khổ quá trời. Ai cũng từng kêu ca: “Sao tui khổ như thế này?” Làm sao mình có thể thấy mình không chịu khổ, không có “ai”chịu khổ trong khi mình không có cái năng lực đó! Chỉ có Phật, Bồ Tát, A La Hán, chư lịch đại tổ sư đã chứng minhvô ngã, không có “ai” chịu khổ cả, tuy nhiên cái thấy của chúng mình kém quá, cái năng lực không có nên không sao “thấy” được hay “chấp nhận” được! Còn cái “ai” thăng hay đọa  sau khi thân hoại mạng chung anh càng mù tịt, may ra chỉ có thể nói là do cái nghiệp lực thiện – ác nó kết hợp với một thân xác tương ưng hay nhập vào một cảnh giới tương ưng. Anh đọc sách và đoán mò vậy thôi, càng nói càng lộ thêm cái dốt, nói nữa e nói bậy người ta cười mà mình mang vạ miệng như chơi.

Xíu ôm lấy Xinh, bẹo má, véo cằm, nhìn vào mắt mà cười:

- Xinh à, hôm nay hỏi một câu làm ai cũng giật mình, hỏi gì mà khó hơn cả triết học siêu hình.

Xinh cười lỏn lẻn dễ thương gì đâu á:

- Ờ thì em đọc xong mấy cuốn sách nói về khổ, không, vô thường vô ngã và bất chợt nảy ra cái câu hỏi này.

Giọt Cả khen:

- Em tư duy rất khá nên mới hỏi điều này. Anh cũng đọc sách Phật học nhưng đâu nảy sinh ra câu hỏi này. Anh em mình biết chút chút về Phật pháp căn bản, thực hành những điều tương đối thiết thực với đời sống của một Phật tử sơ cơ. Còn những vấn đề tánh không, bát nhã, duy thức học, trung quán luận… cao xa thâm sâu quá, kham không nổi!

Xíu xía vào:

- Những điều căn bản của một Phật tử còn làm hổng xong thì nói gì đến điều cao xa thâm sâu. Mấy bộ kinh Pháp Hoa, Bát Nhã, Lăng Nghiêm… to lớn quá, mật nghĩa thâm sâu, uyên áo làm sao kham nổi và càng khó thực hành. Nội bản kinh ngắn như Kinh Phước Đức dễ thuộc, dễ nhớ, gần gũi và thực tiễn nhưng thực hành trọn vẹn cũng không hề dễ chút nào. Nếu mà làm được thì “Chung đụng trong nhân gian/ tâm không hề ô nhiễm/ phiền  não hết, an nhiên/ sống tinh cần, tỉnh thức/ học chân lý nhiệm mầu/ thực chứng được niết bàn...” rồi còn gì!

Giọt Cả ôn tồn:

- Toàn bộ Phật pháp không ngoài việc tránh các điều ác, làm các điều lành, thanh tịnh tâm ý, một khi tâm thanh tịnh thì mọi thứ tự nhiên thành.

Anh em nhà Xíu mãi nói chuyện mà quên cả thời giankhông gian. Mưa vẫn ràn rạt bên ngoài, nhìn vào bên trong căn nhà thấy thật ấm cúng, trên tường treo những bức chân dung đức bổn sư, trên bàn và trên tủ có nhiều pho tượng PhậtBồ Tát. Cả bọn cứ ngắm nghía mãi không thôi, bất chợt một cơn gió tạt mạnh làm cho những anh em họ của Xíu từ ngoài hư không tấp vào đầy đặc trên cửa kiếng, cả bọn hợp lại và chảy thành những lằn chi chít. Xíu ngoảnh mặt cố nhìn vào bên trong căn nhà lần nữa thì thấy cậu chủ đang hí hoáy viết, vừa lúc Xíu chảy ngang qua tầm mắt thì cậu ta buông viết xuống và chống cằm tư lự nhìn trời mưa bên ngoài. Xíu, Xinh, Sót, Út… vẫy tay chào, reo lên ríu rít. Cảnh giới  khác nhau nhưng dường như cậu chủ nghe thấy hay sao ấy. Cậu ta lấy ngón tay vẽ quẹt quẹt gì đấy trên lớp kiếng bị mờ bởi hơi nước.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (13)

THANH BÌNH

Những ngày biển yên sóng lặng, nắng mới từ trời xanh lung linh tưởng chừng như có thể chạm được. Xíu cảm thấy tâm hồn lâng lâng, cõi lòng mang mang thương nhớ đến vô biên. Xíu thấy thương người, thương đời; nhiều lúc cảm xúc dâng lên rung động mãnh liệt muốn nói gì đó mà không biết nói gì. Xíu dang tay giữa trời đất thinh không múa may quay cuồng trong vũ điệu không tên. Những lúc như thế dường như quên hẳn cái khái niệm vô thường, chẳng còn thấy khổ đau và dĩ nhiên không còn thấy hơn thiệt gì trong cuộc đời này. Xíu muốn hóa thân ngay lập tức vào mây trắng trời xanh, nhìn đám mây lững lờ nhởn nhơ trôi mà tự dưng cái cảm giác “vô quái ngại” từ Tâm Kinh hiện tướng.

Thật ra thì Xíu đang ở ngay trong đám mây trắng đó. Xíu nằm trong xanh thẳm của bầu trời. Xíu có mặt trong làn gió kia, có nơi nào mà không có Xíu, chỉ trừ những hành tinh xa xôi mà các phi hành gia và các khoa học gia chưa tìm thấy dấu hiệu của sự sống.

Xíu bay qua cõi nhân gian. Xíu theo hơi thở vào ra mà xâm nhập vào tận từng tế bào của cơ thể con người cũng như muôn loài. Xíu nghe tất cả tâm tư thầm kín nhất trong tâm hồn của con người. Có một điều là những tâm tư thiện lành thì ít và yếu ớt trong khi ấy nhưng tâm tư bất thiện thì nhiều vô cùng và rất mạnh bạo. Hầu hết mọi người đều nghĩ đến sắc dục, thao thức vì sắc dục và khổ đau vì sắc dục. Con người khó mà thõa mãn được tham muốn sắc dục nên khổ đau, cái ham muốn thì đầy dẫy, cái cần thì không có cái không cần thì cứ vây quanh; già trẻ, lớn bé, nam nữ, tây ta… đều như thế cả!

Một ngày kia Xíu bay qua vùng đất cũ nằm bên bờ biển Đông, nơi cuối dòng của hai con sông Hồng Hà và Cửu Long chảy qua. Mảnh đất này ngàn đời nay gắn bó với Phật giáo, là nơi Phật giáo được truyền đến trước cả Trung Hoa, có đủ các trường phái truyền thừa tông môn. Phật giáo ở đây cũng như nhiều nơi khác trên thế gian này, lúc thịnh lúc suy, lúc sáng lúc tối, có những giai đoạn trải qua pháp nạn tàn khốc và đau thương. Hiện nay nhìn bề ngoài thì Phật giáo xứ ấy có vẻ thịnh nhưng thực chất chỉ là cái vẻ sơn phết màu mè. Phật giáo xứ ấy đang khủng hoảng, những thế lực chính trị đang thao túnglũng đoạn. Chính trị thế tục cài cắm nhiều tu sĩ giả, chiêu dụ những kẻ phá giới hoại đạo bại pháp… để sai xử. Nhiều tu sĩ nặng danh văn lợi dưỡng, thân chính, tham chính, phò chính, mượn đạo tạo đời, ngày ngày đăng đàn nói xàm làm bậy, thuyết pháp sai trái… điều này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Những Phật tử sơ cơ thối thất tâm bồ đề. Quần chúng nhẹ dạ cả tin quay lưng với Phật giáo. Người dân đâm ra hoang mang nghi ngờ Phật giáo. Mạng xã hội và người ở đời có một luồng dư luận ngông cuồng, loạn động, phỉ báng và mạ lỵ, tấn công Phật giáo một cách ngu muội vô minh. Trong hoàn cảnh ấy đột nhiên xuất hiện một vị tu sĩ trẻ, đầu trần chân đất, mặc y phấn tảo, ôm bình bát du phương, ngày ăn một bữa, đêm ngồi ngủ gốc cây. Vị ấy buông xả một cách rốt ráo từ vật chất đến tinh thần, thân tâm buông xả rốt ráo. Vị ấy khiêm cung hạ mục với tất cả mọi người, thậm chí luôn cười và chúc phúc lành cho cả kẻ tấn công, mạ lỵ, đánh dập mình. Hiện tượng vị tu sĩ trẻ tu hạnh đầu đà đã thổi một luồng gió mới vào trong cái không khí nặng hình thức, trì trệ và bê bối của Phật giáo xứ sở này. Tất nhiên những ông tăng danh văn lợi dưỡng lập tức sân hận, đố kỵ nên không tiếc lời tấn công mạ lỵ vị tu sĩ hành hạnh đầu đà ấy.

Xíu bay qua xứ sở cũ của một thuở ngày xưa và thấy nhiều chuyện cười ra nước mắt, thời tiết nhân duyên nó thế, không thể làm gì khác được, chỉ ngậm ngùi với cái quả đã trổ. Sau khi thăm viếng khắp các chùa chiền, đền miếu và gặp các vị tu sĩ nghe những chuyện không vui… Xíu thấy nặng lòng nhưng quyết buông xuống vì biết có giữ trong lòng cũng chẳng được gì, chỉ thêm mệt thân tâm. Chuyện đâu còn có đó, nhân nào thì quả nấy, quả này bởi tại nhân và duyên kia. Đã quyết buông xuống nên ý trống lòng không tình cũng phiêu bồng với gió mây. Xíu cùng với anh em vân du suốt dải non sông này, bà mẹ thiên nhiên thật kỳ diệu, ban cho con người bao nhiêu là đặc ân, đâu chỉ sự sống mà còn bao nhiêu thứ để nuôi sự sống ấy; không chỉ về phần vật chất cho thân mà còn ban cho bao nhiêu cái đẹp để nuôi dưỡng tâm hồn: Núi rừng hùng vĩ, non nước hữu tình, sáng sớm chiều sương, đời xanh cây lá, thắm sắc thơm hương… Xíu vốn mê cái đẹp, nơi đâu đẹp là tìm đến. Bắc – Nam – Trung đâu đâu cũng đẹp, mỗi nơi có sắc thái riêng. Non nước này cũng là duyên hợp, thuở ban đầu chỉ là một vùng trung du Bắc bộ, thế rồi xuống đồng bằng, rồi những cuộc Nam tiến mở cõi tiếnvề: Châu Hoan, Châu Ái, Ma Linh, Bố Chính, Đồng Dương, Đồ Bàn...cuối cùng vào tận mũi Cà Mau. Non nước này vốn là duyên hợp của Đại Việt, Chân Lạp, Phù Nam, Champa...Lịch sử xứ này trải qua bao đau thương, lắm máu lệ tuôn trào, thăng trầm liên miên. Những cuộc xâm lăng của người Hoa gây ra bao tang tóc điêu linh. Trách người thì cũng nhìn lại mình, suy xét cho đúng sự thật cho dù sự thậtđau lòng, thà rằng nhìn nhận sự thật để mà học lấy bài học còn hơn là lấp liếm để rồi cứ mờ mịt khổ đau. Đại Việt cũng gây tang thương cho to lớn cho người Champa, đành rằng hai bên đánh qua đánh lại nhưng mình đã diệt cả một quốc gia, diệt cả một dân tộc, dẫu tổ tiên anh hùng nhưng cũng phải thừa nhận cái ác của mình. Nổi tiếng hiền như vua Lý Thánh Tông vậy mà cũng đã từng đem quân đến Đồ Bàn, trong một buổi sáng quân binh đã chém 30.000 thủ cấp. Đến 1471 vua Lê Thánh Tông lại đem quân vào Đồ Bàn, Đại Việt đã chém 60.000 thủ cấp và san phẳng Đồ Bàn thành bình địa. Sự thật không thể lấp che hay chối cãi. Quân Đại Việt ta cũng say máu và tàn ác quá. Vua Champa là Trà Toàn đã nhiều lần xin hàng, xin tha nhưng Đại Việt vẫn quyết tâm diệt quốc. Đến thời vua Minh Mạng thì quyết tâm tiêu diệt Champa còn tàn bạo hơn, hàng loạt ngôi làng biến mất trong một đêm, bao nhiêu dân cư bị giết sạch… và Champa hòan toàn bị xóa tên. Có lẽ vì cái nghiệp sát mà dân xứ này cứ chịu bao nhiêu là chiến tranh tang tóc kéo dài tới thời hiện đại. Những cuộc nội chiến kinh hoàng giết chết hàng triệu người và rồi thì chịu sự cai trị của các thể chế gia đình trị, độc tài toàn trị… kiếp nạn cứ dài mãi, lúc bùng phát, lúc âm ỉ. Xíu nhớ có lần ngài đệ tứ tăng thống Thích Huyền Quang  kêu gọi nhà cầm quyền hãy mở lòng, mở ý, mở tâm để chúc sinh cho người sống, chúc siêu cho người chết, chúc an cho dân nước...nhưng xem ra những tâm hồn mù mờ mê muội, những cái đầu đông đặc, cái ý chí sắt đá máu lửa không sao chấp nhận được lời kêu gọi tha thiết, chí tìnhsáng suốt của ngài. Xíu ước mơ một ngày nào đó người dân và quốc gia xứ này có được cái ngày như thế, ngày chúc sinh, chúc siêu và chúc hòa cho cả dân tộc này. 

Những cuộc chiến tranh vô cùng thảm khốc, những cuộc chiến tranh xưa nay, bên Đông bên Tây cũng đều để lại vô vàn thống khổ đau thương. Con người đánh nhau vì đất, vì danh, vì vật chất, vì đức tin tôn giáo, vì ý thức hệ, vì sự hoang tưởng mưu đồ… có bao nhiêu lý do dù hữu lý hay vô lý để đánh nhau. Trong khi ấy có bao nhiêu lý do thiết thựccần thiết đểu yêu thương nhau, thông cảm nhau, chia sẻ nhau thì con người chẳng chịu lắng nghe, chẳng chịu hành. Những lý do đánh nhau của con người thật vô minh, giá mà con người hiểu rõ thế giới này là sự kết hợp của duyên và rồi sẽ tan hoại vì duyên, nó đã thành thì nó sẽ hoại. Cái thân người cũng là duyên hợp của tứ đại và thức đại rồi nó sẽ tan rã khi hết duyên, ngay cái thân này còn không phải là ta, không phải của ta, chẳng phải tự ngã ta, vậy thì đất đai, ranh giới, của cải, danh vọng của ta được sao? Ấy vậy mà con người lao vào chém giết nhau, truy sát nhau, tru diệt nhau. Lịch sử con người từ mông muội xa xưa đến giờ là lịch sử của những trận đánh nhau, hiện giờ vẫn đánh nhau và ắt sẽ còn đành dài đánh mãi ở ngày sau.

Xíu và anh em tạm dừng bước phiêu du trên đầm Thị Nại, tha hồ chèo kayak, tắm biển, ngắm chim trời… cảnh quan đầm này sao giống hệt miền Tây, phong cảnh hữu tìnhthanh bình chi lạ. Vậy mà thiên hạ có biết đâu nơi này từng xảy ra những trận thủy chiến kinh hồn trong lịch sử, những trận thủy chiến giữa Đại Việt và Champa, giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Vẫy vùng trong làn nước mát trong mà Xíu mường tượng máu lửa đầy ngập trên mặt đầm, tiếng thét xung trận, tiếng cà nông đùng đùng, gươm đao loạn chém, khói lửa ngút trời… Bất chợt Xíu nghe giọt Tròn hỏi cắc cớ:

- Thân tứ đại này không phải ta, không là ta, chẳng phải tự ngã của ta. Nhà Phật cũng bảo không có cái gọi là linh hồn, vậy thì một mai thân xác tắt hơi thở thì “ai” đi tái sanh? “ai” chứng tứ thánh quả? “ai” đọa tam đồ lục đạo?

Xíu và cả bọn ngừng bơi, chưng hửng đến ngớ cả người ra, lâu nay chưa từng biết việc này nên cũng chẳng ai trả lời được. Giọt Điệu õng ẹo:

- Trời, hỏi gì khó vậy ai biết mà trả lời?

Giọt Cả vốn là anh lớn, tuổi đời nhiều, đi nhiều, nghe thấy nhiều… nhưng cũng dè dặt:

- Đây là vấn đề lớn trong Phật giáo, trả lời được không dễ chút nào, cần có tư duy khá cao và sâu mới hỏi được câu này. Khó mà dùng ngôn ngữ để giải thích, nhiều thầy trò xưa nay thầm hiểu, thầm thẩm truyền ấn chứng sự giác ngộ chứ không thể giải bày. Câu hỏi này có thể xem như một công án.

Giọt Cả nói xong thì Xíu cũng dè dặt tiếp theo:

- Thân người vốn là duyên hợp của tứ đại, không đại và thức đại. Nó vốn không phải là một thực thể độc lập, thế giới này không có một cái gì để gọi là cái ngã tồn tại độc lập. Tuy nhiên con người từ vô thủy đến giờ lại chấp vào cái ngã, vì cái ngã này mà có khổ đau – hạnh phúc, cực lạcđịa ngục, thăng – đọa… và cũng vì thế mà có sanh tử luân hồi, có chết và tái sanh. Một khi phá sạch không còn chấp ngã nữa thì bấy giờ cũng chẳng có hạnh phúc hay khổ đau, thăng hay đọa, địa ngục hay cực lạc… cứ nhìn xem các vị Bồ Tát thì biết, các vị ấy phá hết ngã chấp, pháp chấp, không còn cái “tôi” nên chẳng còn nhân ngã thị phi, chúng sanh thọ giả cho nên một chiếc lá cũng là thế giớithế giới cũng là chiếc lá và dĩ nhiên chẳng có sanh tử luân hồi, thế giới nhất như thì lấy đâu ra cực lạc với địa ngục. Xíu chỉ nói những gì mà mình biết dù nó vốn cợn cợt non kém, hổng biết đúng sai thế nào. Xíu cần tham vấn thêm từ các sư, các thiện tri thức để hiểu thêm về vấn đế này.

Xíu dứt lời nhưng cả bọn cũng im lặng không ai nói tiếng nào, dường như cũng chẳng có lời nào để nói, vì vấn đề này không phải là vấn đề dễ nói. Lát sau thì gọt Út khẽ khàng:

- Khó hiểu quá, Út thấy chưa cần thiết để biết chuyện này, gì mà sanh tử luân hồi, gì mà cái ngã với vô ngã, rồi thăng đọa… mệt mình quá, Út đi nhảy sóng đây!

Cả bọn lập tức hưởng ứng lời Út tung tăng nhảy vào cơn sóng vừa lăn tăn kéo vào bờ.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (14)

SUY TƯ XÉT MÌNH

Cuộc vui nào cũng tàn, cuộc hợp nào cũng tan, đến để rồi đi, thế giới này là thế, mọi người, mọi vật, mọi việc… biến thiên chuyển đổi không ngừng, di dịch trong từng sát na. Thế giới đã vậy, thân tâm con người cũng vậy, vạn vật muôn loài cũng thế thì Xíu và anh em Xíu làm sao khác được!

Chu du khắp nơi rồi lại quay về, phi trường YVC sao mà đông nghẹt, người ơi là người. Những nhân viên phi trường làm việc chu đáo,  nhanh nhẹn, tử tế, lịch thiệp...khác hẳn với phi trường Sài Gòn. Trời ơi, những nhân viên ở đấy sao mà kinh khủng quá, mặt mày lầm lì dường như căm ghét loài người, những bộ mặt nặng hình sự nhìn đâu cũng thấy thù địch, làm việc thì uể oải chậm hơn ốc sên bò, mắt thì dáo dác tăm tia tìm con mồi. Với khách ngoại quốc còn đỡ một chút, gặp dân An Nam Mít thì hạnh họe đủ điều, chăm chăm xem có kẹp tiền trong sổ thông hành hay không. Người ta bảo hải quan là bộ mặt, nơi khách tiếp xúc đầu tiên khi đến một quốc gia, ấy vậy mà những nhân viên hải quan của xứ quỡn thật đáng sợ! Xíu từng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ và nhận thấy khách nước ngoài họ ngao ngán như thế nào! Xíu thấy nóng bừng lên, toan to tiếng nhưng phải dằn xuống. Anh em Xíu thấy thế bèn dúi cho Xíu chút nước tinh khiết để hạ nhiệt. Giọt Điệu õng ẹo:

- Trời ơi, họ chém đẹp luôn! Chai nước ở đây ba đô, với giá này ngoài chợ thì mua cả mấy chục chai.

Giọt Cả phì cười:

- Phải rồi em, ở phi trường mọi thứ đều mắc mỏ vì tiền mặt bằng và nhiều chi phí khác. Nước uống, thức ăn hay bất cứ thứ gì ở phi trường cũng đều mắc hơn ở bên ngoài. Điều này thì xứ nào cũng vậy thôi! Duy chỉ có đồ miễn thuế ở các tiệm thì có vẻ rẻ.

Xíu càm ràm:

- Làm gì có rẻ, Em đã khảo sát giá rồi, cũng xêm xêm thôi!

Trong lúc chờ máy bay, cả bọn tung tăng khắp sảnh đường, bay là là khắp nơi ngắm nghía du khách. Xíu thấy mắc cười vì cảnh tượng kẻ thì hớt hải chạy tìm cổng ra máy bay vì sắp hết giờ, người thì nhởn nhơ uống cà phê chờ đến lượt bay. Xíu bay một lượt quanh các cửa tiệm rồi quay về, miệng thì thào:

- Chai nước ở phi trường ba đô, ở các khách sạn cũng cỡ này, còn những chỗ sang trọng hơn nữa thì còn mắc hơn. Cũng là nước nhưng ở ngoài chợ chỉ vài chục xu, còn các vòi nước công cộng thì hoàn toàn miễn phí. Nước nào cũng là nước, giọt nào cũng từ 2 nguyên tử hydro và 1 nguyên tử Oxy. Nước đóng chai có thể từ suối, sông, mạch ngầm… nhưng được qua tinh lọc, khử trùng nên có an toàn hơn. Thực tình mà nói thì chất lượng nước đóng chai với nước ở vòi công cộng cũng chẳng khác nhau vì tất cả đều được FDA kiểm tra một cách kỹ lưỡng, đủ an toàn mới cho sử dụng. Sở dĩ cái giá khác nhau là vì giọt nước ở nơi công xưởng, công viên hay ở phi trường, khách sạn mà thôi! Cái thực chất, cái thể như nhau nhưng vì khác cái tướng trạng nơi bày ra mà giá trị cao thấp khác nhau. Cái bản thể như nhau nhưng cái vị trí hiện thân khác nhau nên sanh ra cao thấp, sang hèn bất đồng.

Anh em nhà Xíu gật gù tán thưởng và đồng ý với lời Xíu. Giọt Xinh đưa đẩy thêm:

- Ngay tình mà nói thì nước đóng chai tiện lợi cho người sử dụng, dễ dàng mang đi mọi nơi nhưng mặt trái của nó lại vô cùng tai hại. Lượng vỏ chai PP, PE, foam sau khi sử dụng là một nguồn rác khổng lồ, khó phân hủy, khó giải quyết. Nguồn rác này là một yếu tố lớn gây ô nhiễm môi trường đất, nước. Hiện nay trong các biển, sông, hồ, đầm… trên thế giới ngập ngụa rác. Người ta tuồn hết ra ngoài môi trường thiên nhiên. Rác thải nhựa, xốp, bao bì… làm hại đất, nước và đời sống của tự nhiên.

Giọt Xinh nói đúng, đây là vấn đề hóc búa của con người và môi trường hiện nay, thật nan giải vì con người vô tâm, con người ích kỷ, con người chỉ biết thụ hưởng mà bất chấp môi trường tự nhiên, không nghĩ đến tương lai sau này. Nhiều tổ chức bảo vệ môi trường, bảo vệ tự nhiên đang cố gắng hết sức nhưng xem ra chẳng đánh động được lương tâm của con người. Đừng nói là những nước nghèo, lạc hậu mới tuồn rác thải độc ra tự nhiên. Ngày cả xứ Cờ Hoa cũng là một xứ có nguồn rác thải kinh khủng lắm. Người xứ này giàu có nên tiêu xài vô tội vạ, vì tiêu xài vậy, vì sống hưởng thụ ích kỷ… nên  chẳng kể gì đến môi trường tự nhiên. Xíu thấy thế và đã nhiều lần nói với anb em mình. Xíu có cố gắng kêu gọi anh em nhà Xíu thôi chứ với thiên hạ thì đành bó tay vì Xíu vốn vô danh tiểu tốt chẳng có vai trò gì để kêu gọi, chẳng có giá trị gì để nói với người ta. Xíu tự xét mình, tự soi lại mình theo cái kiểu mà các thiền sư thường gọi là “phản quan tự kỷ”. Xíu thấy mình ở mọi hình tướng mà mỗi tướng lại có cái dụng khác nhau, tuy nhiên về bản chất, về cái thể thì vẫn thế, hoàn toàn không có gì khác nhau. Thế gian này nhiều người vì chỉ thấy cái tướng mà chẳng thấy cái thể, thấy cái dụng không biết cái thể. Cái tướng thiên sai vạn biệt nên cái dụng cũng khác nhau, duy cái thể thì nhất như.

Con người vì chấp vào cái tướng, có mỗi cái tướng ấy nên không thể nào diệu dụng như Xíu được. Xíu có thể hiện ra với mọi tướng trạng khác nhau. Giống như Bồ Tát hiện ra vô vàn tướng vì Bồ Tát không còn chấp tướng. Con người vì chấp một cái tướng ấy nên bị giới hạn trong cái khuôn khổ vô cùng hẹp hòi, nhỏ bé, tủn mủn, vụn vặt… không sao khởi được đại dụng, diệu dụng như Bồ Tát. Giả sử một khi con người không còn chấp tướng, buông bỏ cái ngã thì sự diệu dụng không sao nói hết được. Khi không còn bám víu cái ngã thì chẳng còn tướng nhân ngã thị phi, tham sân, si mạn...chẳng còn tướng chúng sanh, thọ giả… thì lúc ấy làm gì còn sướng khổ nữa. Khi không còn chấp tướng thì tham, sân, si cũng không còn. Sa Bà này cũng là giả hợp của vô vàn nguyên tố vật chất, cực lạc hay địa ngục cũng là duyên từ tâm sanh ra, khi không còn tướng, không còn ngã thì bấy giờ các tướng nhân ngã, địa ngục, cực lạc, thăng đọa cũng chẳng còn, tam đồ lục đạo tứ thánh cũng không khác nhau. Khi không còn chấp ngã, chấp tướng thì chẳng còn trăn trở sanh từ đâu đến, chết đi về đâu; chẳng còn bận tâm sanh tử luân hồi thì lập tức bất sanh bất diệt. Chỉ nghĩ đến đây thôi, Xíu thấy một niềm hạnh phúc an lạc vô biên, luồng sóng sảng khoái lan tỏa khắp cả bề mặt và lan sâu vào trong tận thâm sâu của giọt nước. Xíu bay bổng lâng lâng, bề mặt lung linh lóng lánh, muôn vạn ánh sáng vũ trụ tụ vào rồi lại lan tỏa ra. Giọt Cả, giọt Út, giọt Xinh, giọt Điệu, giọt Tròn, giọt Thừa… kinh ngạc tròn xoe mắt không hiểu chuyện gì xảy ra với Xíu, một cảnh tượng chưa từng thấy ở ai và ở đâu bao giờ. Cả bọn còn ngơ ngác thì nghe Xíu reo:

- Ô kìa! Không chỉ Xíu, giọt Cả, giọt út và toàn thể anh em Xíu cũng đều bừng lên long lanh kia.

Họ nhà giọt nước giật mình nhìn nhau rồi nhìn lại chính mình, tất cả đều lấp lánh như nhau, vô vàn làn sóng ánh sáng của tự nhiên cùng chiếu vào họ nhà giọt nước. Ánh sáng huyền diệu từ Xíu chiếu vào cả bọn, chiếu vào từng thành viên và ánh sáng từ mỗi thành viên lại chiếu lẫn vào nhau tạo thành một vùng ánh sáng trùng trùng vô tận như thể lưới châu, như thể kim dung khi đức Thế Tôn phóng quang. Một cảnh giới quang minh vi diệu từ hồi nào giờ chưa từng thấy! Một cảnh tượng không sao tả được dù đó là cây cọ tài ba nhất, ngòi bút xuất sắc nhất thiên hạ.

Ánh sáng vi diệu từ anh em nhà Xíu bừng lên khắp vũ trụ, át cả ánh sáng trời trăng, long lanh rực rỡnhu nhuyến diệu êm, trong lành, mát mẻ… Lúc bấy giờ loài người trên mặt đất ngạc nhiên họ đổ xô ra ngoài nhìn ngắm bầu trời. Các nhà thiên văn học, khoa học gia hướng ống kính thiên văn và những dụng cụ khoa học tối tân nhất để quan sát bầu trời. Các tay nhiếp ảnh, quay phim cả chuyên nghiệp lẫn tài tử đều tận dụng mọi công cụ để ghi lại cái thời khắc ánh sáng vi diệu này. Xíu nghe tiếng xì xào của loài người. Các nhà thiên văn học bảo:

- Hiện tượng cực quang của thiên niên kỷ

Các nhà khoa học thì nói:

- Hiện tượng quang học kỳ thú chưa từng thấy trước đây!

Một số tu sĩcư sĩ Phật giáo thì tỏ vẻ hoan hỷ:

- Phật quang xuất hiện

Các cha, bà sơ và tín đồ Thiên Chúa thì mừng rỡ:

- Nước chúa trời mở cửa thiên đàng.

Bọn chính trị gia thì tung tin:

- Hiện tướng điềm lành, quốc thái dân an

Xíu và anh em Xíu cười nắc nẻ:

- Bọn người mắc cười ghê, có nhiêu đó mà suy diễn tùm lum, tin tưởng rất ngây thơ.

Giọt Cả nói:

- Bọn người là vậy, chín người mười ý, luôn bất đồng với nhau vì bọn họ chấp tướng, thấy cái tướng mà không thấy được bản thể.

Giọt Thừa ra vẻ rành rẽ:

- Thì Xíu đã nói rồi, mỗi tướng khác nhau thì cái dụng khác nhau. Bọn người nhìn thấy ánh sáng ấy ra nhiều tướng trạng khác nhau nên cái nghĩ của họ khác nhau. Bọn họ chỉ thấy cái tướng chứ chưa thấy cái thể.

Sự kiện xuất hiện ánh sáng lạ làm xôn xao xã hội loài người, các mạng xã hội: Face Book, YouTube, Tweeter, X... đăng loạn xạ ảnh chụp, clip, video, reel và những lời bình luận thì như thể một đống xà bần, toàn những lời xàm và nhảm kinh khủng. Các chính phủ và các nhà khoa học ra sức giải thích, trấn an dư luận. Một nhà vật lý học danh tiếng của thế giới nói rằng:

- Hiện tượng quang học vô cùng kỳ thú và đặc biệt hiếm này, trước đây chưa từng thấy. Đây là một sự kết hợp của ánh sáng và nước với điều kiện thời tiết đặc biệt đã tạo ra hiệu ứng vi diệu như thế.

Xíu cười nói với anh em:

- Ông ấy nói gì thế? Ông ấy thấy bọn ta chăng?

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (15)

VÔ SỰ

Có những ngày Xíu thấy bình an vô sự, lòng thanh thản vô cùng. Ở cái thế giới hữu sự, đa sự, nhiễu sự này mà sống được những phút giây vô sự quả là không dễ tí nào; khó thì khó thật đấy nhưng vẫn có thể có được. Điều này nó phụ thuộc vào phước báo của bản thân và cái thuận duyên của môi trường sống; quan trọng vẫn là ở cái nhận thức, suy nghĩ và hành động. Nói gọn hơn, bao quát hơn chút là ngay tại cái tâm mình.

Xíu vẫn thỉnh thoảng nếm trải sự khoan khoái hoan lạc của phút giây bình an vô sự, phải nói là cái khoảnh khắc thần tiên, cực lạc, niết bàn… Lòng không, tâm trống, chẳng vướng bận bất cứ thứ gì; không thị phi nhân ngã, không cả cái cảm giác ngũ dục lục trần, không bận bịu quá khứ hay tương lai. Chỉ có mỗi khoảnh khắc này và cứ như thế Xíu lãng du qua khắp mười phương. Xíu ở ngay giữa chợ đời chẳng thấy chợ thấy đời, quanh Xíu toàn là gió mây bất tận, hoan hỷ vô biên. Xíu còn chẳng thấy Xíu, không biết mây gió là Xíu hay Xíu là gió mây. Thật tình mà nói thì Xíu và gió mây không hai mà cũng chẳng một. Bản thân Xíu cũng chẳng phải Xíu, chẳng là Xíu, càng không phải của Xíu. Xíu là do duyên hợp của 2 nguyên tử Hydro và 1 nguyên tử Oxy, đơn giản thế thôi! Anh em nhà Xíu đều vậy cả: Giọt Cả, giọt Xinh, giọt Điệu, giọt Thừa, giọt Sót, giọt Út...đều không là gì cả, chỉ là duyên hợp như Xíu thôi! Ngay cả khi Xíu và anh em nhà Xíu hóa thân thành thể rắn như băng tuyết, thể khí như hơi nước, thể lỏng nước hay bất cứ dạng nào đi nữa thì cái bản thể vẫn thế chứ không hề thay đổi, không thể khác được!

Đừng nói là Xíu và anh em nhà Xíu, ngay cả con người, động, thực vật muôn loài cũng thế. Chẳng có cái chi để gọi là ta, của ta, bản ngã ta. Tất cả chỉ là duyên hợp của tứ đại mà thành, nói theo ngôn ngữ của khoa học ngày nay thì đó chỉ là điều kiện cần và đủ nên hiện tướng thế thôi! Riêng con người thì ngoài tứ đại còn có thêm thức đại, đó là cái thần thức, nhờ cái thần thức mà cái thân mới hữu dụng và cũng chính cái thần thức ấy lại lôi dẫn con người ta thăng hay đọa. Cái thân chỉ là công cụ, là kẻ thừa hành. Cái thần thức là kẻ chủ tể. Cái thần thức thật khó để mà dùng ngôn ngữ giải thích. Âm Hán Việt là tâm, tiếng Anh là mind, spirit, soul...các tôn giáo khác thì cho là linh hồn bất biến, vĩnh viễn tồn tạiphụ thuộc vào sự thưởng phạt của thượng đế.  thật ra thì không phải vậy, thần thức bất định, thay đổi bất kỳ, nó có thể thăng hay đọa, một khi thân xác vật chất chết thì nó lại kết hợp với một cái thân tương ưng tùy theo hạnh nghiệp đã tạo tác. Cái thần thức kết hợp với nguyên tố vật chất mà hình thành sáu căn và thân xác mới. Chuyện này dài dòng và rắc rối lắm, Xíu chỉ biết nhiêu đó thôi, nói nữa e lòi cái dốt, lộ cái chỗ hỏng và quan trọng hơn nữa là cứ nói bừa cái mình không biết e vạ miệng họa thân.

Sở dĩ cái thế giới này là thế giới đa sự, hữu sự, nhiễu sự, loạn sự… bởi vì cái tâm người như thế, cái nghiệp người như thế nên chiêu cảm ra thế giới như thế! Thế giới Tây Phương, Cảnh giới Cực Lạc, cảnh giới A La hán… thì tịch tịnh niết bàn là bởi cái tâm của chư vị Bồ Tát, A La Hán vốn tịch tĩnh nên thế giới mới như thế. Cũng bởi thế mà kinh sách nhà Phật mới bảo: “Thế giới duy tâm tạo” hay “Nhất thiết duy tâm tạo” là thế! Mười cảnh giới không ngoài một niệm tâm.

Ở cái thế giới hữu sự, đa sự, nhiễu sự, loạn sự nhưng Xíu có được khoảnh khắc vô sự vì là Xíu không thấy mình là Xíu, không có cái chi để gọi là của Xíu, không là bản ngã Xíu. Xíu chỉ biết đó là duyên hợp nên tạm gọi là Xíu, chỉ thế thôi!

Xíu bay qua thế giới mười phương. Xíu thấy cũng có những con người vô sự trong cái thế giới hữu sự này. Kinh sách cổ kim có rất nhiều tấm gương vô sự của chư tổ, hiền thánh tăng… Gần đây nhất, thời sự nóng bỏng nhất ấy là vị sư hành hạnh đầu đà ở xứ Việt thuộc phương Nam của cõi Sa Bà. Vị ấy hoàn toàn vô sự giữa một thế giới nhiễu sự, loạn sự, đa sự. Vị ấy ngày ăn một bữa, mặc y phấn tảo, đêm ngủ dưới gốc cây. Vị ấy chẳng màng chuyện thiên hạ khen ngợi hay huỷ báng, thậm chí bị đồng đạo pháp lữ tị hiềm chửi mắng, những kẻ vô minh đánh đuổi...vị ấy vẫn cười tươi và chúc cho kẻ bức hại mình sớm thành Phật. Vĩ đại hơn nữa là các vị Lạt Ma Tây Tạng bị Trung Cộng cầm tù, tra tấn, bách hại. Quốc gia bị xâm lăng, dân tộc bị bách hại, văn hóa truyền thống bị phá hoại, chùa chiền bị huỷ hoại, bản thân các ngài mấp mé ngưỡng cái chết… ấy vậy mà các ngài vẫn giữ chánh niệm, giữ tâm từ bi. Các ngài sợ trong khoảnh khắc thất niệm sẽ khởi lòng sân hận với kẻ bách hại mình. Với cái tâm như thế thì thế giới này dù có đa sự, nhiễu sự, loạn sự đến mức nào đi nữa thì các ngài vẫn vô sự.

Xíu thấy lịch đại tổ sư cũng có nhiều vị đạt đến vô sự trước mọi biến thiên, hoàn cảnh của đạo phápxã hội; vô sự trước bạo lực; vô sự cả sanh tử luân hồi. Phật sử, quốc sử của xứ Việt thời hiện đại cũng có một vị trưởng lão vô sự. Nội chiến tàn, dòng người tranh nhau di tản nhưng ngài vẫn trụ lại vì thương tứ chúng bơ vơ. Những tháng năm, ngày đen tối đêm đỏ lửa, đạo pháp gần như phế phong, ngài đơn thân duy trì, khơi ngòi, dựng lập dòng Phật Việt. Ngục tù đày đọa, bản án tử hình tròng vào cổ, ngài an nhiên trong ngục thất gõ ngón tay lên tường rêu xem thế sự thịnh suy. Ngài vô sự trước ngũ dục lục trần. Thân thể ngài cũng bằng da thịt, cũng biết đau, biết khổ nhưng ngài vô sự vì biết nó không là ta, không phải của ta, không tự ngã ta. Ngài vô sự trước mọi đe dọa hay cám dỗ của danh văn lợi dưỡng, suốt một đời hy hiến cho đạo pháp và dân tộc, cho đến những phút giây cuối đời, nằm trên giường bệnh vẫn miệt mài đọc sách, dịch kinh, chuyết văn...Ngài là bậc đại sĩ vô sự trước những đa sự, nhiễu sự, loạn sự của thế gian này! Ngài là bậc pháp khí trong Phật Việt vô sự:

Một chút tương chao duy trì mạng sống hằng truyền Phật pháp

Bao la  tim hồng phụng hiến thân tâm phổ độ nhân sanh
Xíu đã hiện diệnthế giới này từ khi tạo thiên lập địa. Xíu đã bay từ Đông sang Tây, từ Bắc vô Nam. Xíu có mặt khắp mọi miền từ tuyết sơn vĩnh cửu cho đến đại dương bao la, từ đồng bằng cho đến những vùng thảo nguyên mênh mông hay những đô thành quốc ấp nhộn nhịp nhưng chật chội từ túng, những làng quê yên ả hay xóm làng chen chúc... nhờ vậy mà Xíu chứng kiến những tấm gương vô sự từ các bậc du già cho đến đức Bổn sư, chư lịch đại tổ sư… Có lẽ sự kiện đêm trước thành đạo của bổn sư Thích Ca mâu Ni  là một sự kiện vô sự vi diệu nhất ở thế giới loài người. Lúc ấy ngài ngồi thiền định, ma vương không muốn ngài thành đạo, muốn phá hoại không cho ngài thiền định...Bởi vậy ma vương cùng với vô số quỷ dữ, ma nữ kéo đến quấy phá, hăm dọa hoặc dùng dục lạc để lung lạc. Bọn chúng hiện ra với tất cả sự hung dữ ghê rợn nhất để làm ngài hoảng sợ. Bọn chúng hiện ra với tất cả sự quyến rũ nhục dục để cám dỗ ngài. Tuy nhiên tất cả những thứ ấy chẳng thể lung lạc được ngài. Ngài hoàn toàn vô sự, vô sự thật sự, vô sự tuyệt đối, vô sự vi diệu không thể nghĩ bàn, vô sự thần thánhlịch sử loài người ghi nhận. Hai chữ vô sự nhỏ bé và đơn sơ ấy nhưng để đạt được là một việc vô cùng khó, vô vùng công phu.

Đức Bổn sư sanh ra ở thế giới này, ngài với thân phận thái tử quả là một đại sự chứ chẳng phải chuyện chơi. Ngoài ra ngài còn cộng thêm những thứ đa sự như vợ đẹp con xinh, tài sản của cải, quyền lực… toàn là những thứ nhiễu sự của thế gian mà người đời hằng mong cầu mơ ước, từ vô thủy đến giờ luôn loạn sự vì những thứ ấy. Ngài có đủ, có hơn tất cả những thứ hữu sự của người thế gian nhưng rồi ngài buông bỏ hết để đi tìm con đường giải thoát, đường vô sự, đường đi đến tịch tịnh niết bàn. Một sự dấn thân quả cảm hy hữu, một sự tinh tấn vô cùng phi thường để đạt đến sự vô sự. Ngài đã vô sự trước cám dỗ ngũ dục lục trần, vô sự trước thất tình lục dục, bát phong và cũng vô sự luôn với sanh tử luân hồi.

Vô sự, vô sự

Bậc vô sư trí

Thế gian, xuất thế gian căn bản đạo sư

Ngài đã đến cõi người đa sự

Bao nhiêu hạng mãi sanh tử luân hồi bất tận

Sắc dục ái ân

Những mối ràng buộc tình thân

Vô số phiền lụyvật chất lẫn tinh thần

Quyền lực thế gian

Danh dự hão và bao thứ khác

Cõi nhân gian đầy tham, sân, si

Những con người vô tri

Ba cõi hừng hực như nhà lửa

Đa đoan nhiễu sự

Ngài đã thấy nguyên nhân trầm luân thống khổ

Thấy vô ngã, vô thường

Dõng mãnh lên đường

Muôn sự từ đây thôi bỏ lại

Vượt vô vàn gian khó chông gai

Loạn sự buông

Chứng đắc tam thân tứ trí ngũ nhãn lục thông

Ngài thành bậc Như Lai Chánh Giác

Đêm thành đạo ngồi yên vô sự

Trí huệ bừng lên sao mai

Vô sự

Vô sự

Từ đây vô sự.

 

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (16)

NGỦ MÊ

Ngày lặng lẽ qua âm thầm, đêm đêm vô tình buông xuống tịch liêu. Người vẫn quay cuồng trong cuộc sống bận bịu mưu sinh, nào ai rảnh rỗi để ngồi đó mà nhìn ngày ngày đến đi, đêm đêm lần lữa.

Đêm trăng hạ huyền đẹp lạ, bầu trời không một gợn mây, trong xanh thăm thẳm. Ánh trăng lúc này không còn óng ả tơ vàng mà dường như ngả màu bạc. Ánh trăng bàng bạc phủ khắp sơn hà đại địa cho chí thành đô… Giờ này mọi người đang nồng say trong giấc ngủ, kể cả những người hay thức khuya hoặc dân chơi về đêm. Trăng tháng Bảy, trăng Vu Lan, trăng của mẹ… vì tháng này vào mùa hiếu hội. Thiên hạ vẫn bảo rằng trăng Trung Thu tháng Tám đẹp nhất nhưng với những người con hiếu thì trăng tháng Bảy đẹp hơn. Thật tình mà nói thì tháng Bảy Vu Lan, tiết trời cũng đã gần vào thu, nửa đêm về sáng lành lạnh đủ để mơn man da thịt. Trăng đẹp thế kia mà nằm trong chăn thì uổng phí quá! Cái đẹp thiên nhiên là của kho vô tận, có hưởng thế nào cũng không hết nhưng không hưởng thì hóa ra cô phụ mà mình cũng trở thành gỗ đá vô tri hay xác thân vô cảm.

Trăng dù có đẹp thế nào đi nữa thì mọi người vẫn phải ngủ, ngủ để lấy lại sức để ngày mai tiếp tục việc mưu sinh.

Con người ta tốn hơn nửa thời gian đời mình cho việc ngủ, khổ nỗi mấy ai có được giấc ngủ ngon lành, ngủ đẹp, ngủ yên. Người lao động chân tay vất vả, nông phu, công nhân… sau ngày làm việc nặng nhọc thì lăn ra ngủ như chết, xác thân nghỉ ngơi, thần trí mờ mịt. Người trí thức hay kẻ làm việc trí óc thì xem ra giấc ngủ khó khăn hơn, ngắn hơn, chập chờn nông cạn, thân xác dường như chẳng được thả lỏng như anh nông phu vì tâm thức vẫn bất an, vì nhiều vấn đề chưa giải quyết xong hoặc là chẳng thể giải quyết được. Còn kẻ ăn nhậu chơi bời thì ngủ li bì như thể loài heo sau ki đã phủ phê thõa mãn bao tử cũng như những nhu cầu thân xác khác. Có không ít người ngủ chỉ là thân xác nhưng tâm chẳng hề ngủ, mộng mị cả đêm trường. Ngủ mê, ngủ mơ, ngủ mớ, ngủ mộng, ngủ say, ngủ chập chờn, ngủ sâu, ngủ ngắn, ngủ bất an, ngủ thoải mái… Dù có ngủ thế nào đi nữa cũng chỉ là cái sự nghỉ ngơi của thể xác vật lý, còn phần thần thức, cái tâm thì chẳng ngủ bao giờ. Nó vẫn hoạt động, có điều với người này thì loạn động, với kẻ khác thì dịu êm. Nó chưa bao giờ ngủ hay tạm dừng. Nó biến hiện không ngừng nghỉ. Cái tâm thức vô hình, vô tướng, không thể sờ hay nắm bắt nhưng nó lại chế ra muôn hình vạn trạng. Nó có thể làm cho cái thân này lên bờ xuống ruộng, ban  ngày nó âm thầm xui khiến con người ta nghĩ ngợi, nói năng, hành động. Ban đêm nó biến hiện ra những cơn mơ mà thân xác không hề hay biết, không thể điều khiển.
Con người ta ngủ là cái thân xác ngủ, tâm thức không ngủ bao giờ. Nó vẫn âm thầm họat động, những hạt giống thiện – ác vẫm âm thầm nảy nởtăng trưởng. Có điều hạt giống ác thì quá nhiều và quá mạnh, biến hiện và sanh sôi không sao tưởng nổi. Còn hạt giống thiện thì ít ỏi và yếu ớt, bởi vậy mà thế gian này cái thiện ít và mong manh trong khi ấy thì cái ác bạo liệt và đầy dẫy.

Con người ta ngày thức đêm ngủ là lẽ thường tình, cũng con người ta nhưng có không ít kẻ đêm ngủ ngày cũng ngủ, ngủ suốt cuộc đời, thậm chí ngủ từ đời này qua đời khác, ngủ từ thân người chuyển sang thân súc sanh hay những loại phi nhân. Đó là những kẻ ngủ mê trong quyền lực, trong sự tham lam, trong sự mê muội sân si; ngủ trong hoang tưởng… Nếu nói một cách nhẹ nhàng nhưng chính xác ấy là ngủ trong vô minh. Có những người thiện nhưng cũng ngủ, ngủ quên trong sự do dự, trồi sụt, tiến lui, ngủ trong sự yếu ớt, ngủ trong lười biếng, ngủ trong im lặng...Kể cũng như đồng lõa với sự ngủ của kẻ ác.

Thiên hạ quá nhiều kẻ ngủ quên trong ác tư, ác kiến, ngủ trong sự tham lam, sân hận, si mê… nên gây cho đời bao nhiêu thống khổ, gây hại cho đồng loại, tàn haị muôn loài. Vì ngủ mê, ngủ vô minh mà những kẻ này gây ra khổ đau cho đồng loạivạn vật tức cũng tự gây khổ đau cho chính bản thân. Những kẻ ấy tâm đang cháy trong lửa sân hận, tham lam nhưng không hay biết, rồi mai kia khi hết số thì hậu quả sẽ khổ khôn lường.

Thế gian này người ngủ mê, ngủ vô minh triền miên nên những cuộc chiến cứ bùng phát, cuộc chiến cũ chưa dứt thì cuộc chiến mới bắt đầu. Con người ta đánh nhau liên miên từ thuở hồng hoang nguyên thủy cho đến tận bây giờ và ắt sẽ còn đánh dài dài trong tương lai. Nay bên Đông mai bên Tây, bây giờ phương Bắc lát nữa hướng Nam… Những cuộc chiến dù lớn hay nhỏ đều tàn khốc vô cùng, gây ra bao nhiêu thảm họa cho con ngườithiên nhiên. Người bị thương, người chết, kẻ tàn phế, trẻ con mồ côi, gia đình ly tán, nhà cửa sụp đổ, mùa màng hư hoại, thiên nhiên bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm… Cuộc chiến xâm lăng do Nga tiến hành chưa dứt thì cuộc chiến Do thái bách hại người Palestine xảy ra. Cuộc nội chiến tàn sát người thiểu số Rohingya ở Miến Điện, những cuộc chiến thanh trừng sắc tộc ở châu Phi…  Biển Đông giờ cũng như thùng thuốc súng chưa biết khi nào bùng nổ. Trung Cộng như con quái vật tham ăn và tàn độc đang là mối đe dọa hòa bình, đang lăm le xâm lược Đài Loan, đang xâm phạm các nước láng giềng. Những kẻ lãnh đạo ngủ mê trong cơn say quyền lực. Bọn tướng lãnh diều hâu ngủ mê trong công danh nên cực kỳ hung hăng hiếu chiến. Những thủ lãnh ngủ mê trong giấc mộng dân tộc chủ nghĩa và cả một bộ phận dân chúng cũng ngủ mê trong sự tham lamủng hộ cái thuyết dân tộc hẹp hòi, cực đoan, ích kỷ…

Thế gian này là thế giới của những cuộc chiến. Lịch sử loài ngườilịch sử của chiến tranh. Con người ta đánh nhau vì đủ thứ lý do: Đất đai, biên giới, nguồn nước, gái đẹp, sắc tộc, danh dự, đức tin, ý thức hệ...thậm chí có những cuộc chiến tranh chẳng có lý do gì như cuộc chiến do Putin gây ra.

Con người ta cũng biết đau khổ, đã từng khóc không biết bao nhiêu lần, chữ nghĩa sách vở ghi nhận vô cùng nhiều nhưng rồi lắng xuống thì lại quên, lại tiếp tục ngủ mê. Ôi những cơn ngủ mê của con ngườithế gian này!

Thế gian trường huyết hận

Bỉnh bát lệ vô ngôn

(Tuệ Sỹ)

Bậc thượng sỹ dâng bát cơm cúng dường, thương thế nhân ngủ mê trong sự thống khổ. Thế gian đầy máu lửa, đâu chỉ con người mới khổ đau, con vật còn khổ đau hơn gấp nhiều lần, khổ đau vì mang thân súc sanh, khổ đau vì lớn nuốt bé, mạnh đè yếu, bị con người ăn săn bắt, chém giết, đập đầu, cắt cổ, nấu nướng, thiêu đốt… cái thống khổ ấy làm sao tả bằng bút mực? làm sao nói bằng lời? Thế gian đầy máu lửa, đầy oán hận đã dài lâu, đã dày sâu. Thế gian này chính là địa ngục vậy! Địa ngục ngay trong tâm mình, địa ngục ngay trong giấc ngủ mê này!

Con người đôi khi cũng tỉnh ra, cũng có thương nhau nhưng cái thương có điều kiện. Cái thương hạn hẹp, nhỏ bé theo ý muốn chủ quan, theo cảm tính thông thường nó khác với cái thương không bờ mé, cái thương vô điều kiện, cái thương thấu tỏ nguồn cơn gốc rễ của nhân quả. Đó là cái thương của bậc đại sỹ, cái thương của thượng  nhân, cái thương không lời nhưng tất cả ngôn lời của thế gian không sao nói được. Cái thương không lời nhưng bao trùm trời đất, lay động lòng người.

Bỉnh bát lệ vô ngôn. Bát của bậc đại sỹ ắt rất đơn sơ và ít ỏi. Bát của bậc du sỹ ắt thanh tịnh như thân tâm của ngài. Người thế gian có gom hết châu báu cúng dường cũng không sao bằng bát cơm này!

Giọt lệ ngài nhỏ xuống không hình tướng nhưng thấm đẫm thế gian. Ấy không phải là giọt lệ vật lý mà là giọt lệ của tâm đại bi, của lòng từ không bờ mé, của tình thương tỉnh thức. Bát cơm dâng lên, giọt lệ rơi xuống trong vô ngôn mà bao hàm tất cả ngôn lời của thế gian, của chư thiên và phi nhân…

Trăng hạ huyền tháng Bảy sáng vằng vặc giữa trời. Ánh sáng bàng bạc phủ khắp núi đồi, đồng quê, phố thị… Mọi người đang ngủ say dù cơn ngủ vật lý hay cơn ngủ mê tâm ý cũng đều không hay biết rằng những hạt giống thiện – ác vẫn âm thầm nảy nở sanh sôi. Những cơn mê dù ác mộng hay mộng đẹp cũng đều từ tâm thức, từ cái kho chứa trong tâm lưu xuất và biến hiện ra. Dường như chỉ có bậc đại sỹ là người tỉnh thức trong thế gian đầy người ngủ mê.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (17)

THÌ THẦM TRONG TRỜI ĐẤT

Sáng mùa Thu, Xíu và anh em mình bay về thành Ất Lăng, vùng đất mệnh danh là Đào bang. Sở dĩ có cái tên thi vị này là vì ở đây người ta chọn trái đào làm biểu tượng. Quả thật vậy, đào ở đây nhiều vô kể, đâu đâu cũng thấy hoa và trái đào, đào có từ trang trại đến sân vườn, đồng quê, phố thị...Mùa xuân hoa đào nở hồng cả đất trời. Mùa thu lá vàng rơi kín cả thảm cỏ.
Đào bang vừa chớm Thu, chẳng mấy chốc rồi đây muôn sắc sẽ bừng lên khi lá cây đồng loạt đổi màu. Mùa Thu đẹp lắm, bao nhiêu sắc màu: Vàng, đỏ, hồng, cam, tím, tía, nâu… và những màu pha lẫn nhau cùng rực rỡ dưới vòm trời xanh. Lá cây đang độ cháy hết mình để hiến dâng nét đẹp diễm lệ cho đời. Xíu và anh em mình còn ngẩn ngơ trước sắc màu Thu, chợt trong đất trời có lời thì thầm. Xíu khẽ hỏi:

- Anh em có nghe thanh âm thì thầm của Tâm kinh chăng?

Bọn Xinh, Điệu, Út, Sót, Thừa… gật đầu xác nhận. Cả bọn lắng lòng quán xét lời thì thầm thật kỹ để xem thử nguồn thanh âm ấy phát ra từ đâu. Thanh âm Tâm kinh lan tỏa như sóng ngập trong trời đất, nơi nào cũng phát ra và nơi nào cũng là nơi vọng lại, thật không sao xác định được từ đâu. Nơi phát sóng âm cũng là nơi nhận sóng âm, nơi nhận sóng âm lại là nơi phát sóng âm, cứ như thế đất trời ngập trong sóng âm.

Bọn Xíu bay qua Hoàng Hoa trang thì thấy cậu chủ đang ngồi tụng kinh A Di Đà. Giọt Xinh ngạc nhiên:

- Cái gã này mà cũng biết tụng kinh à?

Giọt Điệu chêm thêm:

- Ngỡ gã ta là tay chơi nào ngờ cũng ngoan ra phết!

Giọt Út thì bảo:

- Anh ta vẫn ham chơi, có máu chơi sao lại tụng kinh?

Giọt Thừa khịa:

- Trời ơi, nhiều lúc thấy anh ta ngồi niệm Phật mà đầu óc nghĩ miên man toàn chuyện thị phi, có khi giật mình thì quay lại câu Phật hiệu. Cũng có lúc anh ta ngồi tịnh tâm mà tui thấy tâm ảnh y như con ngựa hoang chạy lung tung và hình như ảnh có tỉnh ra nên sửa mình ngồi ngay ngắn lại. Tui nhớ có lần ảnh nói với mấy người quen biết là khi niệm Phật phải chú tâm thấy dòng chữ Phật hiệu chạy trước mắt như thể hát karaoke vậy, hổng biết anh ta có làm nổi không ta?

Xíu nghe vậy, cười:

- Ừ thì là vậy, có thể anh ta đang ở giữa con đường, nửa muốn làm dân chơi, nửa muốn làm xuất sĩ. Dù gì đi nữa anh ta chịu học Phật, tụng kinh là tốt rồi.

Giọt Cả nhẹ nhàng:

- Mấy em đừng có xét nét quá, đừng nhìn hình tướng bên ngoài mà đánh giá người ta, cũng đừng nghe người ta nói mà nhận định này nọ, hãy xem người ta làm cái gì kia kìa! Ờ, mà các em đã nghe qua kinh A Di Đà chưa?

Cả bọn đồng thanh bảo đã thuộc lòng từ khuya. Giọt Cả lại hỏi:

- Nhưng có hiểu rõ nội dung ý nghĩa không?

Cả bọn lại thú nhận tụng thuộc lòng như cháo chảy nhưng nghĩa lý thì không hiểu mấy. Cứ ngỡ Phật A Di Đà như một vị thần có năng lực vô biên tạo ra cõi Cực Lạc và rước người ngoan hiền về Cực Lạc. Giọt Cả nhận thấy lúc này là cơ hội để nói cho các em mình biết, bởi vậy giọt Cả ôn tồn nói với cả bọn mà như thể tình tự với chính bản thân:

- Kinh A Di Đàbản kinh ngắn gọn, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hành Phật tử Việt, Hoa, Hàn , Nhật đều yêu chuộng và thường đọc tụng mỗi ngày. Phải nói là kinh A Di Đà phổ biến rộng khắp, thâm nhập sâu vào mọi tầng lớp Phật tử Bắc truyền. Công đầu của việc dịnh và phổ biến kinh A Di Đà chính nhờ ngài Cưu Ma La Thập. Ngài từ nước Quy Từ (Kuchar – ngày nay thuộc khu vực Pakistan, Afghanistan) sang Trung Hoa truyền pháp. Ngài đã dịch kinh từ Phạn ngữ sang Hán ngữ.  Kinh A Di Đà là một trong những số kinh sách được ngài dịch. Ngài đã hiến mình cho việc phiên dịch, chuyết văn hoàn chỉnh hệ thống kinh luật luận Trung Hoa, đặc biệtTrung Quán Luận.

Kinh A Di Đà tưởng đơn sơ nhưng ý nghĩa uyên áo lắm, Thất trùng hàng thọ, thất trùng la võng… là giới đấy. Người học Phật, tu Phật phải lấy giới làm thầy. Có giới mới sanh định và có định mới có tuệ. Ao bảy báu, đáy có bốn báu là ngầm ngụ ý bốn đức: Thường – lạc – ngã – tịnh của Niết Bàn. Nước tám công đứcbiểu thị công đức viên mãn của sự tu học. Tám công đức không thể nghĩ bàn, không thể dùng lý luận chữ nghĩa để hiểu. Cõi Cực Lạc là môi trường tu học lý tưởng, ở đây người tu học chỉ có một đường thẳng đến giác ngộ niết bàn chứ không còn trồi sụt như ở cõi Sa Bà.

Kinh A Di Đà tóm tắt lại là sáu phương, mở rộng ra thì mười phương. Phương Đông có A Súc bệ Phật, có nghĩa là pháp thân thường trú bất động, giao cảm với trí tánh sẵn có của chúng sanh. Phật Tu Di Tướng mang ý nghĩa biểu trưng trí tuệ sáng rỡ, thấu suốt, diệu cao như núi Tu Di. Phật Diệu Âmý nghĩa biểu trưng của âm thanh vi diệu để nói pháp. Phật Nhật Nguyệt Đăng mang ý nghĩa nhất thiết chủng trí, Phật Danh Văn Quang vì danh xưng Phật rộng khắp các pháp giới. Phật Đại Diệm Kiên hàm ý Phật gánh vác việc hoằng pháp độ sanh. Phật vốn phóng quang từ mỗi lỗ chân lông, mắt, tai, mũi, lưỡi… đều phóng quang; toàn thân phóng quang; hai vai (kiên) phóng quang vi diệu biểu hiện cho đại huệ… Cứ như thế lần lượt tên các vị Phật của sáu phương được liệt kê vài vị đại diện. Sáu phương cũng chính là mười phương, mười phương không ngoài sáu phương. Tên các vị Phật ở sáu phương cũng chính là Phật khắp mười phương. Tên các vị Phật vừa là tên cụ thể của từng vị mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Tên các vị Phật hàm chứa ẩn ý về trí huệ và đức tướng của chư Phật.

Cả bọn nghe giọt Cả nói vậy thì ồ lên lộ vẻ ngạc nhiên, quả thật cả bọn xưa nay chưa từng nghe hay nghĩ thế, giờ mới biết được ý nghĩa này. Điều này khiến bọn họ thông suốt nhiều điều. Những giọt nước vốn trong suốt, long lanh, giờ lại càng long lanh hơn. Cái sự long lanh càng thêm vi diệu. Giọt này soi giọt kia, giọt kia lại soi giọt này và những giọt khác, cứ như thế tất cả các giọt nước, vô lượng giọt nước soi chiếu lẫn nhau, trùng trùng vô tận cảnh tượng giống hệt lưới la tràng của đại Phạm Thiên Vương. Những giọt nước long lanh làm cho đất trời vi diệu không sao kể xiết. Những giọt nước long lanh dưới bầu trời xanh biêng biếc, không gian Thu vàng đang rực rỡ muôn sắc gấm hoa. Tiếng lá rơi phát tán và làm khuếch vọng lời Tâm kinh trong đất trời. Lời Tâm kinh thông suốt sáu phương và cũng là mười phương. Bất chợt giọt Thừa hỏi:

- Những người khác đức tin họ có nghe được lời Tâm kinh chăng?

Giọt Sót nhanh nhảu:

- Khéo lo bò trắng răng, hơi đâu lo việc người khác hả Thừa?

Xíu bảo:

- Giọt Thừa hỏi cũng có lý, có thể họ cũng nghe nhưng qua lăng kính đức tin của họ và vì vậy mà họ hiểu và diễn dịch theo quan điểm của họ. Họ nghe và nhìn nhận theo cái tầm mức của họ. Họ cũng nhận ra thọ, tưởng, hành, thức nhưng không theo như lời chú giải. Họ cũng có vô úy, có sự “vô hữu khủng bố” nhưng “vô trí diệc vô đắc” thì họ chịu chết, không sao hiểu và cảm nhận được! Bọn họ chấp thường  (thường kiến) cho là người vĩnh viễn là người, vật vĩnh viễn là vật, không có luân hồi xuống lên trong lục đạo tam đồ. Linh hồn được rửa tội, cứu rỗi thì vĩnh viễnthiên đàng, còn giả như bị trừng phạt thì sẽ vĩng viễn ở trong hỏa ngục. Vì thế cho nên bọn họ có nghe được được sóng âm của Tâm kinh trong trời đất thì bọn họ cũng không chấp nhận và không sao ngộ được sự vi diệu của Tâm kinh. Bọn họ có nghe cũng như không, tốt hơn hết là đừng nói chuyện người khác làm gì, mình nói chuyện mình thôi. Xíu đây cũng chẳng hiểu Tâm kinh là mấy, hiểu biết trên mặt chữ nghĩa văn tự thôi, chưa đủ khả năng thẩm thấu chứng ngộ. Tuy nhiên nghe lời thì thầm của Tâm kinh trong trời đất vẫn thấy khoan khoái và bay bổng vô cùng. Trong khoảnh khắc này tâm lặng tình không ý trống, bao nhiêu bụi bặm trần lao, phiền não đều lắng. Giá mà cái khoảnh khắc này giữ được trọn vẹn dài lâu thì hay biết mấy.

Tâm kinh là tiếng lòng của chư Phật, chư Bồ Tát ba đời mười phương. Tâm kinh là sóng âm vang vọng  vĩnh viễn trong đất trời bất tận. Mình dù có luân hồi bao nhiêu kiếp đi nữa  thì lời thì thầm của Tâm kinh vẫn vô tận trong trời đất.

 

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (18)

ĐÃ TỪNG KINH QUA

Xíu và anh em mình đã từng kinh qua vô số trận bão lụt, cuồng phong, đất chuồi, núi lở…Có thể nói là từ thuở tạo thiên lập địa đến giờ thiên tai luôn hiện hữu và chưa từng ngưng lại bao giờ. Cũng vì cộng nghiệp mà Xíu và anh em Xíu vừa là nạn nhân mà cũng là một phần tử của nguyên nhân.

Cơn bão Yagi này chỉ là một trong vô vàn trận thiên tai trên thê giới, ấy vậy mà khi nhìn thấy thảm cảnh của nó khiến Xíu không sao kìm được giọt lệ rơi. Lòng Xíu đau đớn trước cảnh cảnh bất lực của con người, con người quá nhỏ bé trước thiên nhiên. Cơn bão qua đi để lại bao nhiêu là nhà cửa hư hỏng, phố xá hoang tàn, cầu cống sụp đổ, mùa màng thất bát, hàng trăm người chết và hàng nghìn người bị thương, tổn thất người và của thật nặng nề. Những tổn thấtthể tính bằng tiền nhưng nỗi đau của nạn nhân làm sao mà cân đo đong đếm được đây?

Con người vừa là nạn nhân nhưng con người cũng vừa là tác nhân tạo thêm tai họa cho chính mình. Họ cạo sạch núi rừng, tàn phá hủy hoại thiên nhiên một cách ghê gớm để rồi khi gió nổi lên, mưa trút xuống chẳng còn gì chống đỡ hay trì giữ. Rừng đã biến thành biệt phủ, dinh và những món sập, ngai, kệ... trong những biệt phủ đó. Rừng đã biến thành những con số trong tài khoản ngân hàng của các quan và nhóm lợi ích. Rừng và cư dân rừng trở thành những món ăn uống trên bàn tiệc máu của những kẻ có chức quyền và những kẻ có tiền của. Người nghèo cũng không vô can, họ cũng góp phần vào phá rừng, săn bắt mua bán thú rừng. Những nhóm lợi ích và những kẻ có trách nhiệm chỉ biết tiền, chúng xây hồ vô tội vạ, nắng thì tích nước, khi mưa thì xả hồ đồng loạt… thử hỏi sao không gây tai họa? Bọn người quản lýy có chức quyền chỉ quan tâm tiền, chỉ có lương lậu mà không có lương tâm.

Thảm họa xảy ra thì bọn họ cũng không thể vô can, những biệt phủ, dinh thự, xe sang, đồ mắc tiền… cũng ngập hết ráo. Bọn họ có tiền nhưng chung quanh là cả một môi trường kinh khủng như thế thì cái biệt phủ ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bọn họ chui rúc trong ấy cũng như thú rúc trong hang.

Cuồng phong, lũ lụt tàn hại cả một vùng rộng lớn. Người phương Nam lại góp công góp của, góp sức để cứu trợ đồng bào. Có nhiều người nhiệt tâm nhiệt huyết nhưng làm tự phát nên rất lộn xộn hiệu quả kém hẳn đi, chỗ thì dồn dập hai, ba đoàn cứu trợ, nơi thì không có. Đồ đạc thì có khi trùng lắp một món và thiếu những món cần thiết, phần nhiều là mì gói…

Thiên tai xảy ra, những người có trách nhiệm thì thiếu trách nhiệm, không có kỹ năng tổ chức cứu trợ, thậm chí xảy ra xà xẻo, ăn chặn, làm khó những đoàn cứu trợ tự phát. Những kẻ có trách nhiệm thích làm màu để chụp ảnh quay phim khoe khoang. Thực tế nhiều người dân không tin những cơ quan cứu trợ, họ chỉ đóng góp cho những cá nhân hay những đoàn cứu trợ tự phát, quả là nghịch lý của xứ này, khổ chồng khổ, vì cộng nghiệp mà đồng bào chịu khổ thiên tai lẫn khổ vì con người.

Thiên tai địch họa gây thống khổ cho đồng bào, lẽ ra những lúc này mọi người nên dốc lòng giúp đỡ đồng bào thay vì lý luận chủ nghĩa nọ kia, phân biệt vùng miền. Trên mạng xã hội có không ít những ý kiến thiển cận, ích kỷ chống lại việc trợ giúp đồng bào. Họ không phân biệt được hay cố tình không phân biệt được giữa dân tộc và thể chế chính trị, giữa quốc gia và hình thái nhà nước. Họ cứ nghĩ giúp dân là giúp thể chế chính trị, thật ngu xuẩn! Dân tộc và quốc gia là dài lâu, thể chế chính trị và hình thái nhà nước chỉ một giai đoạn. Dân gian cũng có câu: “Quan nhất thời dân vạn đại” kia mà!

Cũng trên mạng xã hội có không ít những lời ngu xuẩn, cuồng cộng của lũ bò đỏ, chúng xúc phạm người phương Nam, tấn công một cách điên cuồng đến những người có lòng giúp đỡ đồng bào. Chúng phun ra những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu nhất mà chúng có thể nghĩ ra. Biết làm sao được khi mà thời thế nó thế, vận nước mệnh người như thế! Mấy chục năm sống với sự nhồi sọ, tẩy não, sống giả, ăn theo nói leo đã thành nết rồi!

Xíu, Xinh, Sót, Út, Điệu...bay là là qua vùng thiên tai mà tan nát cõi lòng, nước lũ, bùn non phủ khắp nơi, núi lở từng mảng, đất chuồi loang lổ cứ như những vết thương trên thân thể mẹ thiên nhiên. Người chết đã chết, người sống lại tiếp tục cuộc hành trình làm lại từ đầu với vô vàn khó khăn vất vả. Nhiều người lại bắt đầu từ hai bàn tay trắng, nước lũ đã cuốn đi tất cả, chỉ còn lại nỗi khổ đau chất ngất. Cả bọn chúng kiến nỗi khổ đau của đồng bào nhưng bất lực không thể làm gì được hơn. Cả bọn cũng có chút an ủi là vì đồng bào ở miền Nam và những nơi an toàn đang dốc lòng cứu giúp dân, quốc tế cũng ra tay ủng hộ tiền của vật chất để khắc phục nỗi đau này. Riêng ông bạn láng giềng to lớn nhưng tham lam và tàn độc kia thì chẳng thấy động tịnh gì. Ông ấy cũng chính là một trong những kẻ góp phần vào việc ngăn sông, xả hồ, đắp đập, lấn đất, cướp biển... để gây thêm tai họa. Vì cộng nghiệp mà bao đời nay người mình chịu sự xâm lăng, cai trị, đồng hóa, kiềm tỏa… của ông ấy. Khi Tây qua là một cơ duyên thoát khỏi cái ách này, nhưng rồi thời gian biến thiên, cơ duyên chuyển biến… Sau này những kẻ có trách nhiệm lại lôi đầu dân tộc vào tròng ông ấy lần nữa, quả thật là nghiệp chướng!

Xíu, Xinh, Sót, Út, Thừa, Mập… kiểm thảo lại và nhận thấy cả bọn cũng có trách nhiệm trong thảm họa này, mặc dù cả bọn chỉ là những phân tử nhỏ bé nhất nhưng vì cái nhân duyên nào đó mà phải theo mưa, bị lôi vào cơn mưa khiến cho đồng bào dưới kia phải thốt lên: “Trời, sao mà mưa mãi thế này!”, “ Trời đất ơi, mưa như thể trút nước”, “ Tội nghiệp chi mà mưa lắm thế?”…Cả bọn muốn tách ra khỏi cơn mưa, muốn bay ra khỏi làn mưa, muốn đến những vùng khô hạn nhưng không thể nào tách ra được, khí hậu thời tiết nó thế, nghiệp lựctrói buộc như vậy! Bọn Xíu, Xinh, Điệu, Sót, Thừa… và cả anh em họ hàng cứ bốc hơi lên là lập tực ngưng tụ thành giọt ngay và cứ thế mà mưa. Cả bọn cố gắng đến kiệt sức nhưng không tài nào thoát khỏi cơn mưa này. Xíu biết đó là cộng nghiệp, cái nghiệp chung của tất cả người và vật ở vùng này.

Kiếp người khổ thật, vui thì ít buồn nhiều, sướng không bao nhiêu mà mà khổ vô cùng và khổ dài lâu: ba khổ, tám khổ, trăm lẻ tám khổ, tám vạn bốn ngàn khổ, vô lượng khổ… và cái khổ lớn nhất chính là sanh tử luân hồi.

Xíu hâm mộ những vị A La hán quá chừng luôn, các vị ấy dứt bặt mọi tham, sân, si trong tâm ý; lửa đã tắt, củi đã hết. Các vị ấy sanh tử đã tận, thiện thệ đã đủ, các ác đã tận… cứ thế mà an trú trong tịch tịnh niết bàn. Các vị Phật, Bồ Tát thì hóa thân, xả thân, dấn thân… vào sanh tử để cứu độ chúng sanh, giáo hóa dẫn dắt người mê. Vì cứu độ mà chịu bao nhiêu phiền não do chính kẻ được cứu độ gây ra. Dĩ nhiên là các vị Phật, Bồ Tát chẳng thấy mình có khổ, chẳng thấy có phiền não vì các vị ấy đã là bậc vô tướng, vô nhân, vô ngã kia mà!

Xíu nhớ có một truyện ngắn của một tay văn sĩ trẻ viết về chuyện đàn cừu. Con cừu đầu đàn muốn dẫn đàn cừu đi về thảo nguyên mênh mông bao latự do, thoát khỏi chuồng trại và lũ chó săn… Ấy vậy mà đàn cừu ngu muội thờ ơ, thậm chí còn quay lại tấn công con cừu đầu đàn khiến nó phải trả giá bằng cả sinh mạng mình. Xíu thấy câu ngạn ngữ của loài người thế mà hay và đúng với những trường hợp như con cừu đầu đàn này: “Thà làm tớ người khôn hơn là làm thầy kẻ dại”.

Xíu mơ được nhập vào cảnh giới niết bàn tịch tịnh, có như vậy trái tim đa cảm, đa tình, đa đoan mới có thể biển yên sóng lặng, không còn sướng – khổ, buồn – vui theo làn sóng loạn động của con người. Xíu mơ sanh tử luân hồi tận để rồi miên viễn với mây trắng trời xanh.

Mấy ngày sau bay theo gió, Xíu và anh em về phương Nam nắng ấm. Vùng này tương đối an toàn, ít thiên tai, đời sống dễ dàng hơn, có lẽ con ngườivạn vật ở đây có phước báo nhiều hơn. Tuy nhiên Xíu nhận thấy khí hậu và môi trường tự nhiên bây giờ cũng đã khác xưa nhiều lắm. Vô thường là vậy, vô thường thay đổi không một phút giây ngưng lại, vô thường chính là thường. Phương Nam tương đối yên ổn hơn nhưng không có nghĩa là không bị vô thường, thiên tai bão, lũ, cháy, loạn… Vô thường chẳng phân biệt ranh giới như con người vạch ra. Vô thường hiện tướng trong từng phút giây, không có một vùng nào hay một dân tộc nào không bị chi phối của vô thường, không có bất cứ thứ gì không bị vô thường chi phối. Sự tương đối an ổn hay bất an ổn là phụ thuộc vào phước báo, biệt nghiệp và cộng nghiệp của con người. Con người không chỉ bị thiên tai mà còn bị nhân tai, thảm họa do con người gây ra đôi khi còn khủng khiếp hơn cả thiên tai. Những thể chế độc tài toàn trị, những nhà lãnh đạo hung hăng hiếu chiến, những học thuyết chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi… đều góp phần vô thường vào xã hội, vào sự thống khổ của con người. Vì ngán ngẩm vô thường dù là tự nhiên hay nhân tạo nên Xíu mơ cảnh giới niết bàn nhưng biết rằng điều đó khó lắm. Xíu biết mình còn ham muốn này nọ, yêu – ghét linh tinh, còn thọ, tưởng, hành, thức đầy vô minh thì không thể nào tịch tĩnh được! Vì vậy cái hành trình của Xíu còn dài theo với hành trình sanh tử của con người và muôn loài.

Xíu vẫn cứ là Xíu dù chưa chạm được cảnh giới tịch tĩnh. Xíu vẫn cứ phải luân hồi sanh tử, vẫn phải luân chuyển thân từ thể này sang thể khác: Hơi, rắn, lỏng… Xíu còn bay trong không gian bao la dưới nắng vàng trời xanh. Hành trình của Xíu còn dài bất tận theo sông suối, ao hồ, biển khơi và vô số nguồn mạch ngầm trong lòng đất.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (19)

HỒN CỐT XỨ SỞ

Những ngày cuối hạ không khí hầm hập oi bức, thỉnh thoảng lại chợt mát dịu, tiết trời sắp chuyển mùa. Cái thời điểm giao mùa thường làm cho con người ta bâng khuâng.

Cuối Hạ sắp vào Thu, một vài loài cây cảm nhận sớm nhất như: Đào, cherry… lá bắt đầu nhuộm sắc vàng, đó đây lốm đốm sắc vàng giữa ngàn xanh. Xíu và anh em bay về đồng quê du lãng. Trời, cái xứ sở này rộng mênh mông bát ngát. Những xa lộ chạy tới tận chân trời, những con đường kết nối nhau đưa người ta đi khắp bốn phương. Dọc xa lộ là những cánh rừng, đồng cỏ, trang trại… nối nhau xanh mướt mắt. Người nông dân xứ này nhiều phước báo, sống sung túc, đất đai bao la, máy móc nông cụ đủ loại nên con người không phải vất vả như nông dân những xứ nghèo nàn, lạc hậu. Máy móc nông cụ từ làm đất cho đến tưới tiêu, thu hoạch sản phẩm, vừa năng suất cao, vừa đỡ tốn công sức con người. Ở đây có những trang trại vài chục mẫu, vài trăm mẫu hay vài ngàn mẫu đất là chuyện thường. Những ngôi nhà giữa đồng quê sao mà yên ả thanh bình.

Xíu thả hồn lãng du, mặc tình để gió đưa đi đâu thì đi, đi không cần biết đích đến. Xíu ghé vào những tiểu trấn giữa đồng quê như: Ellijay, Chattanooga, Cherokee, Oconee… những cái tên mang đậm màu sắc và âm hưởng ngôn ngữ, văn hóa của thổ dân bản địa xa xưa. Những tiểu trấn nho nhỏ xinh xinh mơ màng trong nắng sớm chiều sương như chưa ra khỏi giấc mơ, mặc cho thời gian cứ trôi qua như tên bay. Những tiểu trấn giữa đồng quê có những đặc điểm chung như thế này: Một tòa thị chính nho nhỏ với kiến trúc thời thuộc địa, một ngôi giáo đường trắng tinh khôi với tháp chuông xinh xinh, những tiệm bánh kẹo và đồ thủ công mỹ nghệ, những tiệm quà lưu niệm, tiệm đồ cổ, những con đường nho nhỏ với quán sá sát mép đường y hệt như những phố cổ phương Đông.

Xíu loanh quanh thơ thẩn khắp các tiểu trấn nhìn ngắm, sờ mó mà cảm nhận cái hồn của xứ sở, dường như hơi thở của người xưa còn quanh quất đâu đây. Người xưa đến đây lập quốc, mở đất. Người xưa đã đi rồi, thời gian đã qua nhưng những tiểu trấn hãy còn đây! Cái hồn cốt của xứ này ở đồng quê, ở những tiểu trấn chứ không phải ở những đô thành to lớn. Sức mạnh của Mỹ ở Pentagon, White House, NASA, Apple, Microsoft, Coca Cola, Mc Donald, Walmart, NFC, Ford...Những thương hiệu này là biểu tượng sức mạnh Mỹ, văn hóa Mỹ nó ảnh hưởng đến toàn thế giới. Những biểu tượng của thời thượng là uống Coca Cola, ăn Big Mc, xem bóng chày, nghe nhạc Rock & Roll… Tuy nhiên cái hồn cốt của Cờ Hoa lại là những đồng quê, những tiểu trấn, nơi ấy đang lưu giữ cái hoài niệm của một thời mở đất lập quốc chưa xa.

Xíu yêu lắm, thích lắm khung cảnh thanh bình của đồng quê, nhìn những đàn bò, ngựa nhởn nhơ gặm cỏ, những bành cỏ to lớn cuộn lại chờ người đến chở đi. Xíu thăm thú những gian hàng nông sản đổ đống ở đấy, người mua tự lấy và tự bỏ tiền vào cái lon chứ chẳng cần người bán có mặt. Tự dưng Xíu liên tưởng đến tích xưa của người phương Đông thường nói: “Đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ, của rơi ngoài đường không ai nhặt”. Những vùng quê của xứ sở này, nông sản để đấy, người mua tự lấy và tự bỏ tiền vào lon, điều này không thể có ở những nơi đô thị hay những vùng sầm uất phát triển. Chính nơi đồng quê này cái văn hóa của người da trắng, văn hóa của thổ dân bản địa chưa bị mai một như ở thành phố. Người ta bảo xứ sở này là cái lẩu thập cẩm (hot pot), có đủ mọi sắc dân và đủ mọi sắc thái văn hóa khác nhau trên thế giới, điều ấy chỉ đúng với các thành phố hay thị trấn chứ còn ở nông thôn thì người da trắng vẫn là tuyệt đối.

Xíu bất chợt nảy ra ý  ghĩ sao ở đây không có ngôi chùa Phật giáo nào cả, bèn đem ý ấy hỏi mấy anh em mình. Giọt Cả bảo:

- Chưa thể được, thời tiết nhân duyên chưa có, đồng quê là lãnh địa của người da trắng, của đạo Tin Lành, Mormon. Đồng quê không có người Á châu, vì vậy chưa có sắc thái văn hóa Á châu và dĩ nhiên là chưa thể có một ngôi chùa Phật giáo. Người đồng quê hầu như chưa có ai biết đến đạo Phật, giả sứ có nghe đến thì họ cũng chưa dễ dàng chấp nhận vì người đồng quê rất bảo thủ.

Xíu tài lanh:

- Sao ta không tạo ra điều kiện, sao không có một Bồ Tát nào thị hiện ở đây để mở chùa, truyền bá Phật pháp?

Cả bọn giọt Xinh, Điệu, Út, Sót… đều hưởng ứng lời Xíu. Giọt Cả bác đi:

- Sao em biết không có Bồ Tát thị hiện ở đây? Bồ Tát vốn vô tướng kia mà, có thể hiện bất cứ tướng trạng nào, bất cứ nơi đâu. Có thể là một chiếc lá cung cấp dưỡng khí, có thể là một giọt nước trong lành như Xíu, có thể là một con người vị tha làm việc vì cộng đồng, có thể là một anh lính cứu hỏa sẵn sàng hy sinh thân mình để cứu người và vật, có thể là bất cứ hành động nào mà mang lại lợi ích cho người và vật. Bồ Tát không nhất thiết phải mang hình tướng Sa Môn, chùa chiền hay màu sắc Phật giáo. Việc lập chùa ở đây cũng không thể cưỡng cầu, nhân duyên nó thế, thời thế nó thế, nếu cưỡng cầu, chủ quan duy ý chí thì chẳng được gì, chẳng những không có lợi mà còn có thể có hại.

Giọt Út khẽ khàng:

- Anh Hai, em thấy khái niệm Bồ Tát chỉ có ở Phật giáo Bắc truyền chứ Phật Giáo Nam truyền không có. Với Phật giáo Nam truyền thì chỉ có A La Hán và bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.

- Ừ, thì giữa hai dòng truyền thừa có sự khác biệt trong nhận thức, lý giải, đó cũng là lẽ thường tình.

Giọt Xinh cũng thắc mắc:

- Em đọc sách, nghe giảng thấy nhiều vị tỳ kheo bên Nam truyền bác và không chấp nhận Bồ Tát, họ cho đó là sáng tạo, hư cấu của Phật giáo Bắc truyền.

-Ừ, thì đúng là có chuyện này nhưng tốt hơn hết không nên so sánh làm gì, việc này để các học giả uyên bác, các vị sa môn xuất chúng luận. Mình cứ giữ đức tin với sự cung kính của mình. Có một điều là các em cũng cần phải biết là có những tên gọi các vị Phật hay Bồ Tát chỉ là mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu trưng chứ không nhất thiết đó phải là một vị Phật hay Bồ Tát. Tỷ như khi niệm Nam mô công đức lâm Bồ Tát, ý nghĩa danh hiệu này nói công đức nhiều như cây trong rừng, công đức nhiều nhưng cũng dễ cháy thiêu hủy mất, bởi vậy làm công đức phải nhớ giữ gìn công đức. Vì vậy danh hiệu này là ý nghĩa biểu trưng chứ không nhất thiết là tên riêng của một vị Bồ Tát. Cũng như thế khi niệm Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát, không nhất thiết là có vị Bồ Tát Thanh Tịnh Đại Hảiý nghĩa ở đây là chúng có tâm thanh tịnh như biển. Các em thấy đấy, nước trong đại dương trong sạchtinh khiết biết bao, có gì thanh tịnh hơn nước biển trùng khơi.

Cả bọn Xíu, Xinh, Điệu, Sót, Út…. Ngớ người ra, đồng thanh reo lên:

- Vậy mà hồi nào giờ tụi em đâu có biết!

Giọt Cả giải thích thêm:

- Không chỉ tên gọi Bồ Tát mang tính ẩn dụ mà ngay cả tên các vị Phật cũng hàm ý nghĩa sâu xa, mang tính biểu trưng và ẩn dụ rất sâu sắc. Tỷ như trong kinh A Di Đà nói về danh hiệu Phật ở sáu phương: Phương Đông có Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật có thể hiểu là tên riêng của vị Phật, lại cũng có thể hiểu là núi Tu Di diệu cao, sáng rỡ, thấu suốt, ánh sáng và âm thanh vi diệu là những biểu trưng của Phật. Vô Lượng Tướng Phật là biểu đạt Phật vốn vô tướng, tùy chúng sanhhiện tướng. Đại Diệm Kiên Phật, ẩn ý ánh sáng đẹp từ vai Phật tỏa ra ba ngàn thế giới. Đôi vai gánh vác việc khai ngộ độ sanh. Phật quang vốn phát từ ra từ đầu đến chân, từ mỗi lỗ chân lông, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân… đều phóng quang. Quang từ đôi vai càng thêm vi diệu, là ý nghĩa biểu trưng vậy. Lần lượt tên các vị Phật ở các phương khác cũng như thế, vừa lý vừa sự, lý sự viên dung.

Xíu và mấy em nghe giọt Cả nói mà ngẩn người ra, xưa nay chưa từng biết điều này. Xíu nói:

- Cảm ơn anh Hai, nhờ anh mà tụi em vỡ lẽ ra, biết thêm những ý nghĩa trong tên các vị Phật, mở mang thêm chút kiến thức Phật học. Có một điều là anh hai xài nhiều từ Hán – Việt làm tụi em thấy khó hiểu.

Giọt Cả cười khanh khách:

- Ừ, thì từ Hán – Việt khó hiểu thật nhưng những chỗ không thay được nên phải xài, vả lại những từ Hán – Việt cô đọng, ý nghĩa sâu, đa nghĩa nếu chuyển qua từ thuần Việt thì diễn giải thêm dài dòng, rắc rối. Trong tiếng Việt, số lượng từ Hán – Việt rất lớn, thật khó có thể bỏ hay không xài từ Hán – Việt. Mấy em muốn học Phật thì cũng cố gắng học hỏi, tra  từ điển để biết nghĩa của từ Hán – Việt. Kinh sách Phật phần nhiều dịch từ chữ Hán, tuy nhiên cũng có một số dịch thẳng từ tiếng Phạn, Pàli.

Xíu lại hỏi:

- Em thấy kinh điển Nam truyền và Bắc truyền khác nhau quá từ văn phong bút pháp, nội dung...bởi vậy có nhiều vị cho là kinh điển Phật giáo Bắc truyền do các tổ sư Tàu chế ra, còn kinh Phật giáo Nam truyền là nguyên thủy.

- Vấn đề này có từ xưa, nay vẫn cứ bàn cãimai kia ắt cũng tiếp tục bàn cãi. Thật ra chữ nguyên thủy cũng không thậtnguyên thủy vì sau khi Phật diệt độ đến mấy trăm năm chúng đệ tử mới bắt đầu kết tập lại. Còn như bảo Pàli ngôn ngữ thời đức Phật, được chấp nhận để chép kinh, điều này cũng không đúng. Các nhà Phật học đã nghiên cứuchứng minh rồi, kinh Phật từ hai nguồn Pàli và Sanskrit. Kinh Phật Bắc truyền cũng từ Ấn Độ chứ chẳng phải từ Trung Hoa. Pháp sư Cưu Ma La Thập người nước Quy Từ (Kurchar, một tiểu quốc xưa, nay thuộc Kashmir) đã mang kinh tiếng Phạn đến Trung Hoa và đích thân dịch sang tiếng Hán. Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh sách Pàli, Sanskrit mang về Trung Hoa rồi mới dịch sang Hán ngữ. Kinh điển và hai dòng truyền thừa vốn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa bản địa, việc này chúng ta chẳng cần lo, đã có các nhà Phật học uyên thâm, các cao tăng thạc đức lo.

Giọt Xinh xí xọn, giọng nũng nịu:

- Không dưng đang lãng du mà cứ nói chuyện Phật, kinh sách nghe thấy khô khan quá.

Cả bọn nghe thế cười hinh hích. Giọt cả bảo:

- Tụi em chưa thấy được ý nghĩa và sức hấp dẫn của Phật học nên cho là khô khan, một khi “ngộ” được cái ý thâm sâu thì tự nhiên sung sướng lâng lâng ngay. Xưa nay các vị sư phụđồ đệ khi thầm khai ngộấn chứng thì họ tự biết như mình thường nói uống nước nóng hay lạnh thì tự biết. Ờ, mà thôi, hôm nay nhiêu đó đủ rồi hén! Giờ chúng ta phó hội hén!

Lập tức cả bọn tung tẩy bay lên thật cao, một làn gió nhè nhẹ đưa cả bọn về gần thành Ất Lăng hơn, nơi có hòn Stone Mountain là khối đá khổng lồ nổi lên giữa vùng bình nguyên mênh mông, nơi này phong cảnh hữu tình, bình an, yên ả. Nơi này đang diễn ra lễ hội hoa cúc vàng, mở màn cho hàng loạt lễ hội mùa Thu khác của tiểu bang này.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (20)

CÓ HAY KHÔNG CÓ

Xíu chỉ là giọt nước bé tí teo, một giọt nước trong vô số giọt nước của mười phương Ta Bà thế giới. Hành trình của Xíu vốn vô tận, không khởi đầu chẳng kết thúc, tuy nhiên khi Xíu “thấy” và “lý luận” cái sự vô sự của Bồ Tát thì Xíu nghĩ nên tạm dừng ở đây. Xíu không phải là Bồ Tát nhưng cái khái niệm vô sự của Bồ Tát đã tác động mạnh đến Xíu. Xíu có chút chi đó như thể vô sự khi nhìn thấy cuộc đời này, thế gian này chẳng còn có gì có thể làm khó Xíu. Từ đó Xíu mới hiểu rằng cảnh giới vô sự của Bồ Tát quả thật không thể nghĩ bàn, không thể dùng ngôn ngữ hay bất cứ phương tiện gì để diễn tả được.

Người vô sự thì họ tự thân họ biết thôi, người ngoài không sao cảm nhận được, tuy nhiên người ngoài có thể cảm được chút gì đó an lạc từ kẻ vô sự kia toát ra thông qua hành vi, nói năng, úng xử và cách sống ở đời. Cảm nhận chút gì đó thôi chứ tuyệt nhiên không sao biết được cái trạng thái vô sự đó như thế nào. Một con người đạt đến vô sự thì với họ thế gian này chẳng còn sự gì đáng để khổ tâm. Tỷ như khi đọc hay tiếp xúc với những gì liên quan đến bậc hiền sĩ Nguyên Chứng thì Xíu và mọi người đều cảm nhận được rõ ràng cái sự vô sự của ngài. Thế gian này, quốc độ này còn nhiều khổ đau, bất hạnh. Ngài đã dấn thân một đời, chịu khổ đau, chịu bất hạnh với chúng sanh nhưng ngài vẫn vô sự.

Xíu chưa vô sự, vẫn còn hữu sự, đa sự nên lòng thấy buồn vì những hiện tượng quái gở đang diễn ra trong ngôi nhà Phật giáo của nhân loại. Nhiều sư Hàn, sư Nhật, sư Tàu, sư Việt… đi bar, hát nhạc Rap, quẩy, xõa (tiếng lóng dân chơi chỉ việc nhảy nhót ăn chơi ở vũ trường). Những điều này gây tác động tiêu cực nặng nề đến hàng Phật tử sơ cơ. Vô số người lên mạng xã hội chửi bới thô lỗ, ăn nói cộc cằn, tục tiễu, chụp mũ lên cả những vị sư chân chính, vơ đũa cả nắm. Người ngoại đạo cũng lợi dụng cơ hội lấy đó làm trò cười, bôi bác, chế nhạo, công kích Phật giáo. Có lúc Xíu cứ hy vọng rằng đó là Bồ Tát hóa thân nhập đời độ chúng, tuy nhiên cái khả năng đây là sự suy đồi, biến thái thì đúng hơn.

Hiện trạng Phật giáo xứ Việt hiện nay cũng rất đa sự, loạn sự, nhiễu sự. Chùa chiền mọc lên như nấm, cái nào cũng to lớn, lộng lẫy vàng son như cung vua phủ chúa. Những pho tượng đồ sộ đạt kỷ lục này nọ. Những hình thức khoa trương rềnh rang, đầy màu mè nhưng không thực chất… Tất cả những sự ấy chỉ là cái áo hào nhoáng, lòe loẹt che đậy sự rệu rã, trống trải bên trong. Đấy chỉ là nước sơn tô vẽ để thế lực chính trị thế tục mượn đó xưng danh. Những nhóm kinh tế thân hữu, nhóm lợi ích kết hợp với hồng tăng tà sư hợp đồng xây chùa giả làm khu du lịch, kinh doanh đức tin, tha hồ phá hoại môi trường sinh thái tự nhiên. Bọn họ tha hồ hốt bạc từ nhóm con nhang mê muội, những đoàn du khách mê muội hám danh, thích hưởng phước mà không chịu học hỏi hay tu tập gieo trồng.

Xíu thừa hiểu Phật pháp không ở những ngôi chùa to lớn, vàng son lộng lẫy kia. Phật pháp không ngụ ở những pho tượng khổng lồ đạt kỷ lục này nọ. Phật pháp càng không ở những bộ cà sa diêm dúa, lòe loẹt hoa văn và màu sắc. Phật pháp càng xa lạ với những tấm hình chụp chung với quan gia, đại gia được lộng kiếng khoe khoang khắp nơi. Phật pháp không ở những lời đao to búa lớn, khẩu hiệu sắc mùi vô minh, lộng ngôn sáo ngữ. Phật pháp vốn rất chân thật, đơn giản, lặng lẽthanh tịnh. Lịch sử cho thấy Phật giáo càng dựa dẫm chính trị bao nhiêu, càng tích lũy bao nhiêu thì suy thoái biến chất bấy nhiêu.

Phật giáo xứ Việt giờ có quá nhiều những tà sư hồng tăng tham chính, thân chính, phò chính. Ngày ngày đăng đàn nói xàm làm bậy, gây hậu quả xấu vô cùng, thật đáng tiếc lắm thay!

Trong lúc rong ruổi với anh em, Xíu vô thức buộc miệng thì thầm lời nói của giáo sư triết học Phương Đông Mỹ, người Đài Loan: “Học Phật là sự hưởng thụ tối cao của đời người”. Nghe thế giọt Điệu õng ẹo:

- Trời, học Phật mệt thấy mồ, có gì đâu mà hưởng thụ?

Giọt Út hùa theo:

- Học Phật mệt lắm, toàn nói khổ, không, vô thường, vô ngã; cái gì cũng gây nghiệp, tạo nghiệp hết trơn!

Xíu chưa kịp nói gì thì giọt Cả cả cười, nói:

- Ừ, hai đứa nói cũng không sai nhưng cũng không đúng. Dĩ nhiên là học Phật mệt hơn đi chơi rồi! Đi du hí, đi ăn uống, đi ca nhạc nhảy múa...dĩ nhiên là sướng hơn là ngồi thiền, tụng kinh, đọc giáo lý. Tuy nhiên có học Phật mới biết được chơn tướng sự thật của mọi vật, mọi việc ở đời. Có học Phật mới biết đường nào nên đi đường nào nên tránh. Có học Phật mới biết giữ mình, biết cách thanh tịnh tâm… Cái sự hưởng thụ của việc học Phật vi diệu lắm, người không học Phật không sao biết được. Việc này giống như người đi giữa sa mạc mà uống được hớp nước đá lạnh, hớp nước ấy giải cơn khát, mát tận tâm can và chỉ có người uống mới biết, người bên cạnh không uống thì cũng không sao biết được. Phật pháp nói khổ, nói nghiệp đó chỉ mới một nửa của vấn đề, còn nửa kia là chỉ ra nguyên nhân khổ, lý do khổ, phương pháp thoát khổ, con đường đi đến hết khổ, đây mới chính là chủ đích của Phật pháp. Phật pháp giúp con người nhận ra chơn tướng của sự việc ở thế gian này là khổ, ba khổ, tám khổ, trăm lẻ tám khổ, tám vạn bốn ngàn khổ, vô lượng khổ. Mọi vật, mọi việcthế gian này là vô thường, biến hoại thay đổi liên lỉ trong từng sát na, sanh diệt trong từng khoảnh khắc khảy móng tay. Phật pháp cho ta biết quốc độ này không có cái gì tồn tại độc lập, chẳng có cái gì để gọi là ta, của ta, tự ngã ta… Tất cả chỉ là duyên hợp và cũng vì duyên mà sẽ tan hoại. Khi đủ duyên hiện tướng, khi hết duyên thì tan lìa. Cái chữ nghiệp cũng thế, chẳng phải hù dọa mà là sự thật nó thế! Làm cái gì, nghĩ gì, nói gì cũng có hậu quả của nó. Nếu làm việc tốt thì có quả lành, làm việc xấu thì có quả xấu. Hai em thử nhìn xem cái người gõ chuông kìa, hễ gõ nhẹ thì tiếng chuông nhỏ, gõ mạnh thì tiếng chuông to. Gõ chuông là tạo tác, tiếng chuông là nghiệp vậy! Khi con người còn thân tướng thì còn tạo nghiệp, một khi chứng đắc A La Hán thì mới có thể nghiệp hết tình không. Khi mình còn tạo nghiệp, nếu mình có học Phật thì mình biết tạo nghiệp thiện, nghiệp lành, tránh tạo nghiệp ác! Khi mình học Phật, mình đọc Phật sử của cha ông thì gặp những chư tổ sư, hiền thánh tăng vô sự, vô cầu du hóa bốn phương nên lòng lâng lâng cảm giác hạnh phúc vô biên ấy chính là sự hưởng thụ vậy! Học Phật để biết sự nào nên làm, sự nào không nên làm ấy cũng là hưởng thụ vậy!

Giọt Điệu và giọt Út cười nắc nẻ:

- Anh Hai nói như thiền sư thuyết pháp!

Giọt Cả cũng cười theo:

- Ừ, thì anh biết gì nói  nấy, đâu dám nói gì hơn cái biết của mình. Cũng tại hai em thắv mắc nên anh mới nói, cái này gọi là tương tức tương sinh ấy. Vì hai em nêu nghi vấn nên anh mới giải thích, nếu hai em không có vấn đề thì anh cũng đâu nói những lời này, rộng hơn chút nữa thì vì có chúng sanh khổ nên mới có Phật thị hiện đản sanh để đem giáo pháp độ chúng. Nếu chúng sanh diệt, khổ tận thì Phật pháp cũng chẳng còn lý do để tồn tại. Cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt.

Xíu với anh em mình nằm thảnh thơi với bọt nước giữa trùng khơi, có lúc lại bay lên với mây trắng trời xanh. Xíu nhìn thấy đời sao có lúc cũng tuyệt vời đến thế. Những khoảnh khắc này tưởng chừng như vô sự nhưng cái cảm giác vô sự này cũng không thậtbản thân Xíu không thật có. Xíu chỉ là duyên hợp khi thời tiết nhân duyên thuận nên mới có cái gọi là giọt Xíu, khi hết duyên thì 2 nguyên tử Hydro và 1 nguyên tử Oxy phân ly thì bấy giờ chẳng thấy đâu là Xíu nữa. Bởi vì bản thân Xíu không thật thì cái cảm giác cũng không thật, thế gian không thật, khổ thọ, lạc thọ, vô ký thọ cũng không thật. Thật tướng chính là không, không này không phải không có, trống rỗng như hư vô chủ nghĩa mà là không thật có, có nhưng là giả tướng mà có! Có thế giới, có con người, có vạn vật muôn loài, có sướng, có khổ, có thăng , có đọa… Nghĩ tới đây Xíu bật cười và nói một mình: “Sắc tức thị không không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệt phục như thị”. Âm của Xíu dù nhẹ hơn cả hơi thở nhưng cũng khiến cho sóng nước rập rờn, bọt nước lay động khiến anh em Xíu ngạc nhiên. Giọt Cả khen:

- Giỏi lắm, đúng là “diệt phục như thị”, “Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị dụng…. Phật pháp có hay không có thì thế gian này cứ là một thế giới khổ, không, vô thường, vô ngã. Phật pháp có hay không có thì nhân – duyên – qủa vẫn cứ như thế, không thể nào khác được! Phật pháp không chế ra khổ, không vô thường, vô ngã; càng không thể chế ra nhân – duyên – quả. Phật pháp chỉ đơn thuần chỉ cho mọi người thấy cái sự thật hiển nhiên như thế và Phật pháp chỉ bày cho con người cái phương pháp tránh quả xấu bằng cách tạo tác nghiệp thiện, tránh quả ác bằng cách trồng nhân lành. Khổ, không, vô thường, vô ngã nó vốn “như thị” chứ Phật pháp không tạo ra. Phật pháp chỉ cho ta cái sự thật như thị, cứ như thị mà hành thì sẽ đắc như thị! Bao nhiêu chơn tướngcủa sự vật, sự việc, con ngườithế gian này vốn như thị là thế. Phật pháp chỉ nói những điều như thị chứ không chế ra hay can thiệp vào được vì nó vốn như thị. Phật phápcon đường để con người đi ra khỏi biển khổ sanh tử luân hồi, con đường đi đến hết khổ. Phật pháp là một con đường đi đến giác ngộ, chỉ đơn giản thế thôi, tất cả vốn rõ ràng như thị.

Nhờ Phật pháp mà Xíu mới nhận ra chơn tướng thật sự của chính bản thân Xíu, biết rõ sự thật cái gọi là “ta”, “ngã” của con người và mọi sự vật, sự việc ở thế giann này

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (21)

NHỮNG VÒNG TRÒN ĐỒNG TÂM

Thế là hành trình trong một năm của Xíu đã gần kết thúc, một năm trôi qua nhanh quá, bởi vậy người xưa mới nói thời gian qua nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Câu là con ngựa non trẻ, khỏe, chạy nhanh. Ngựa chạy ngang qua cửa sổ thì nhanh biết dường nào.

Mới ngày nào chớm xuân, muôn hương hoa khoe sắc, hưởng chưa được mấy thì Hạ sang xanh biếc lá cây đời, nóng bỏng những tấm thân trần trên bãi biển. Kế Thu về rực rỡ muôn sắc gấm hoa, không gian bừng lên như thể một cõi địa đàng. Rồi đây nay mai Đông lạnh giá bao phủ. Hành trình một năm nhanh như thế, hành trình một tháng còn nhanh hơn nữa, hành trình một tuần, một ngày, một giờ, một sát na càng không sao lường được mức độ vút qua của thời gian. Những hành trình này lồng vào nhau như những vòng tròn đồng tâm. Vòng nhỏ nhất là một sát na và vòng tròn lớn là hành trình một đời người, cho đến những hành trình cực đại là kiếp số, cho đến hành trình không sao tính toán nổi là tiểu kiếp, trung kiếpđại kiếp. Ngôn từ loài người không thể diễn tả nổi thời gian kiếp số, có giải thích thế nào cũng không sao mường tượng được.

Hành trình của Xíu và anh em Xíu, hành trình của những giọt nước vốn vô thủy vô chung, miên viễn trong trời đất. Nó như những vòn tròn sinh tử của con người và muôn loài. Căn cứ vào thập nhị nhân duyên thì khởi đầu từ vô minhkết thúc là sanh lão bệnh tử. Cái vòng tròn khép kín, hành hành trình sanh – tử luân hồi bất tận. Mỗi cái khâu móc vào nhau, nhiều người bảo phá được vô minh thì chặt đứt cái dòng sanh tử, sẽ chấm dứt hành trình sinh tử. Thế nhưng vô minh từ đâu ra? Mười hai cái khuyên nối thành vòng tròn làm sao biết cái khuyên nào là cái khuyên đầu và cái nào là khuyên cuối? Thât sự chẳng có cái nào đầu và cái nào cuối cả. Thế gian này có mấy ai phá đượv vô minh? Bởi vậy cái hành trình sinh tử e rằng vĩnh viễn cho đến khi nào kiếp số chung cuộc của muôn loài đến lúc tận. Thế gian này chỉ có những vị nào dõng mãnh, tinh tấn, phạm hạnh như đức Thế Tôn thì mới có thể phá được vô minh, ra khỏi cái vòng quay sanh tử luân hồi.

Xíu và anh em Xíu vốn vô tri vô giác, hình tướng bất địnhdĩ nhiên là nghiệp trống tình không nên không can hệ chi với hành trình sanh tử của loài người. Xíu và anh em Xíu chỉ chịu sự chi phối của vòng tuần hoàn tự nhiên nên khi thì là nước, lúc là hơi, là thể rắn. Cái hành trình của những giọt nước cũng vốn không có bắt đầu và không có kết thúc, vốn vô cùng vô tận. Nếu một mai hành trình của giọt nước kết thúc thì nhân loại và muôn loài tận diệt, lúc bấy giờ trái đất sẽ như những hành tinh chết, không có sự sống. Cái ngày ấy có nhưng thời gian kiếp số vô cùng tận. Cái quy luật thành trụ hoại không đâu có ưu ái hay chừa ra bất kỳ ai. Trái đất cũng chỉ là một hành tinh torng vô số hành tinh khác của vũ trụ. Những hành tinh cũng hình thành, phát triển và hoại diệt như tất cả mọi vậthình tướng. Nó phụ thuộc vào cái duyên tụ hay duyên tán. Các nhà thiên văn học vẫn thường cho chúng ta biết có những ngôi sao sinh ra và có những ngôi sao chết đi đấy!

Hành trình của Xíu và anh em Xíu đến đây kể như đã kết thúc một năm, một năm đầy những buồn vui, thương ghét, mừng giận, được mất của thời cuộc, của thế sự. Bao nhiêu thiên tai, địch họa gây khổ đau cho loài người. Bão Yagi, Helene, Milton, đất chuồi, núi lở, cuồng phong, lũ lụt… Rồi còn có tai họa do con người gây ra: Chiến tranh Nga – Ukraine, Do Thái – Palestine, thùng thuốc súng biển Đông… Đồng thời đó cũng là một năm của những thành tựu về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật… Điều đáng nói nhất đó là trí tuệ nhân tạo (AI). AI giờ xâm nhập sâu vào mọi mặt của đời sống con người, tác động mạnh vào đời sống của con người từ việc làm, sáng tạo, kinh tế, chiến tranh… AI có thể viết sách, viết văn, luận án, làm thơ, vẽ, nhiếp ảnh...AI làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội, thay đổi cả hành vithói quen của con người. Các nhà khao học, các chính trị gia, học giả, mô phạm… lo lắng không biết tương lai sẽ như thế nào? Liệu AI có vượt quyền kiểm soát của con người? Duy có một điều AI không sao làm được, đó là quá trình sinh lão bệnh tử! Chắc chắn là AI không giải quyết được! Sanh tử như thế nào thì vẫn phải sanh tử như thế ấy! Luân hồi xuống lên ba cõi sáu đường thì AI chịu bó tay chứ chẳng giúp được! Con ngườithông minh cỡ nào thì cũng cứ theo nghiệp thiện - ác của mình mà đi! Đừng nói là qáu trình sanh – tử, ngay cả cái hành trình tuần hoàn của giọt nước AI cũng không có khả năng làm ra hay chấm dứt nó được! Nếu AI làm được thì thế gian này chẳng còn lũ lụt, bão tố, hạn hán hay những thiên tai khác! Đây là điều chắc chắn mà chẳng cần phải tranh cãi hay bàn tán! Chẳng cần phải thông minh xuất chúng cũng có thể nhìn nhận được vấn đề này!

Hành trình một năm của Xíu và anh em Xíu đã gần kết thúc. Những ngày tháng cuối năm ở xứ sở này giống hệt vùng Vễn Đông xa xôi. Ở đây có bao nhiêu hội hè đình đám, bao nhiêu con người dồn hết tâm lực cho mùa lễ cuối năm. Ở xứ này khi vào Thu là đã có vô số những lễ hội, nào là: Peach festival, Mimosa Festival, Yellow Daisy festival, Pumpkin Patch Festival… và đến Halloween Festival là chính thức mở màn cho những cao trào cuối năm, kế đến là Thanksgiving, Christmas, New Year. Có một điều khá giống nhau của hai thế giới Tây – Đông là tất cả cùng rộn ràng bao nhiêu lễ dồn hết vào những tháng cuối năm, đây là thời gian bận rộn nhất, rộn ràng nhất, tưng bừng náo nhiệt nhất của hành trình trong một năm.

Tháng 12 Tây lịch, với tín đồ Phật giáo còn có ngày lễ rất quan trọng đó là ngày thành đạo của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Theo Phật sử thì ngài Cồ Đàm sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh, ngài đã đến bờ sông Ni Liên Thiền ngồi dưới cội cây vô kết để thiền định. Ngài phát nguyện không khai ngộ thì không đứng dậy. Ngài miên mật nhập – xuất định trong suốt 49 ngày. Ngài trải qua các tầng thiên tột cùng như: Phi tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ...Ngài vững chải trước sự cám dỗ của ma nữ, sự khủng bố của ma vương cho đến khi bầu trời đêm lấp lánh ánh sao mai thì đắc thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài chứng tam thân tứ trí ngũ nhãn lục thông. Ngài khai phá con đường trung đạo, mở ra con đường giải thoát cho loài người. Ngài đã vượt thoát hành trình sanh tử luân hồi. Ngài vạch ra phương pháp và cách thức để vượt thoát hành trình sanh tử luân hồi. Bằng vào Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, 37 phẩm trợ đạo để phá vỡ cái khoen vô mình trong thập nhị nhân duyên, thoát ra khỏi hành trình sanh tử luân hồi. Ai muốn thoát thì cứ y vào pháp ngài đã chỉ dạy mà hành thì ắt sẽ thành. Ngài đã từng tuyên bố: Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành!

Thông thường Phật tử và các chùa chú trọng vào lễ Phật đản, lễ Vu Lan (Bắc tông), lễ đầu năm… mà ít chú ý đến lễ thành đạo trong khi ấy lễ thành đạo lại có tầm quan trọng không kém, nếu không muốn nói là còn sâu sắc hơn.

Nghĩ đến đức Thế Tôn, lòng Xíu thấy xúc động vô cùng, một sự cảm phục tôn kính không sao diễn tả nổi. Ngài từ thân phận ông hoàng nơi lầu son gác tía, có tất cả những thứ mà con người mong ước, tranh đoạt: Của cải, quyền lực, danh tiếng, sắc dục… thế mà ngài buông bỏ như dép rách, buông bỏ rốt ráo để dấn thân làm sa môn. Sau sáu năm khổ hạnh với nhiều vị thầy nhưng rồi lại một lần nữa buông bỏ tất cả để thực hành trung đạo. Ngày sanh, ngài chào đời ngoài trời, dưới cội cây Ưu Đàm. Ngày xuất gia, ngài bỏ cung vàng điện ngọc để ngồi dưới những cội cây trong rừng. Ngày thành đạo, ngài ngồi dưới cội cây vô kết mà thành chánh Đẳng Chánh Giác. Cây vô kết nhờ vậy mà được loài người xưng tụngcây bồ đề. Ngày nhập diệt, ngài nằm dưới hàng cây Ta La. Những sự kiện lớn, những cái mốc quan trọng trong cuộc đời ngài đều diễn ra ngoài trời, dưới ánh quang minh, dưới cội cây. Điều này cho thấy đạo Phật vốn rõ ràng, sáng suốt như ánh mặt trời. Giáo lý Phật phápcông năng như ánh sáng xua tan tăm tối vô minh. Hành trạng của ngài, công hạnh của ngài rõ ràng minh bạch chẳng có gì che khuất hay che chắn được. Công hạnh, phạm hạnh, trí huệ, từ tâm, năng lực… của ngài như ánh quang minh. Những sự kiện quan trọng ấy đều diễn ra ngoài trời còn có thể hiểu là sự buông bỏ rốt ráo tuyệt đối. Hành trình buông bỏ rốt ráo nhất, hành trình tinh tấn dõng lược nhất cũng chính là hành trình vượt thoát sanh tử luân hồi. Đây là hành trình vi diệu nhất của loài người, một hành trình vô tiền khoáng hậu trong hành trình lịch sử của nhân loạithế gian này.

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (22)

CŨNG CHẲNG CÓ HÀNH TRÌNH CHI

 

Những tưởng dừng lại để tận hưởng những phút giây an lạc ngắn ngủi trong đời, cứ ngỡ những khoảnh khắc lặng xuống lắng trầm để tâm hồn thư thái. Nào ngờ chưa kịp nghỉ thì lòng Xíu lại bận tâm vì bao nhiêu chuyện lớn, nào là Bão tố cuồng phong dồn dập, bao nhiêu nhà cửa, phố xá mùa màng tiêu tan. Ngay cả sa mạc Sahara cũng ngập lụt, đây là một hiện tượng quái lạ hàng ngàn năm nay chưa từng thấy. Trái đất nóng lên, băng hai cực tan, khí hậu thay đổi… Cộng nghiệp của nhân loại và muôn loài, vận hạn của trái đất đến hồi suy.

Ấy là mặt tự nhiên, mặt xã hội cũng quái đản không thể tưởng. Những chính phủ dân túy, cực đoan, ích kẻ, hẹp hòi gây ra bao tai họa cho những sắc dân thiểu số. Chủ nghĩa cực đoan, dân túy đang gây sự chia rẽ trầm trọng giữa các tầng lớp dân trong xã hội, mối nguy hiểm cho những nước nhỏ và nghèo.

Ngay tại xứ Cờ Hoa này, những tưởng là vùng đất tự do, đất mơ (dreamland, Freedomland) nhưng giờ cũng đang loạn động, chia rẽ, thù hận trầm trọng. Cờ Hoa là xứ tự do nhưng chữ tự do bị biến dạng kinh khủng. Nhân danh tự do, những kẻ xấu, những thế lực ác tự do tung tin thất thiệt, tự do tung thuyết âm mưu, tự do phỉ báng, mắng chửi, nhục mạ người; tự do chụp mũ, kết tội người lương thiện. Tự do cho mình cái quyền ngồi xổm trên pháp luật, tự do phá hoại dân chủ, pháp quyền; tự do kỳ thị, tự do bài ngoại, tự do gian trá…

Xíu vốn không liên can gì đến chính trị, không thích chuyện chính trị vì đụng đến rất dễ bị chụp mũ. Bản tánh Xíu vốn thanh tịnh, hiền hòa chỉ đem lại sự sống cho người và muôn loài, chỉ muốn chế tác cái đẹp, thụ hưởng cái đẹp, chỉ muốn ngao du khắp đất trời mười phương … ấy vậy mà giờ tình hình này khiến cho Xíu và anh em Xíu cũng phải vướng víu vào. Ngày trước đức tăng thống Thích Quảng Độ đã từng dạy: “Mình không làm chính trị nhưng mình có chánh kiến của mình”. Vì chánh kiến mà Xíu không chịu hùa theo cái ác, cái xấu, không theo đám đông phò thịnh nên bị những kẻ cực đoan cuồng ý tấn công, nhục mạ, xỉ vả, đòi bịt miệng… Nhưng không hề gì, Xíu ẫn giữ lấy chánh kiến của mình! Xíu không hề muốn dính vào chuyện thế sự nhưng sự tham lam, si mêngu muội của con người tác động xấu vào môi trường tự nhiên, gây loạn động xã hội nên Xíu mới phải nói lên chánh kiến.

Xíu vô cùng ngạc nhiên khi thấy một số lượng lớn những người tự xưng mình là Phật tử thuần thành, con chiên ngoan đạo nhưng họ lại cuồn cuộn ủng hộ cái xấu, người xấu. Họ ủng hộ kẻ gian trá, xảo quyệt, nói dối, tham lam, ích kỷ, kỳ thị, hằn học, chửi mắng và nhục mạ người khác. Họ toàn tâm ý ủng hộ kẻ cả một đời chưa từng nói lấy một lời ngay thật, chưa từng làm một việc tử tế. Họ tung hô kẻ suốt đời lươn lẹo, lường gạt, chà đạp nhân phẩm con người. Họ rần rật chạy theo kẻ hủy hoại mội trường, phá vỡ mọi mối quan hệ thân hữu tốt đẹp xưa nay… Xíu và anh em nhà Xíu suy nghĩ nhiều lắm nhưng không sao hiểu nổi tâm lý của những con người này. Đức Phật, chúa Jesus, thượng đế, thánh thần… đều không hề dạy hay chấp nhận sự gian xảo, nói láo, tham lam, sân hận, si mê, hại người, hại vật… Bọn họ tự nhận mình là Phật tử, con chiên nhưng xem ra họ đang báng bổ Phật, chúa, thánh thần bằng việc ủng hộ cái ác, phò kẻ ác! Xíu nghĩ có lẽ dùng câu ngạn ngữ của loài người để nói trường hợp này, đó là câu: “Ngưu tầm ngư mã tầm mã”vậy! Hay nói một cách văn vẻ hơn thì là những kẻ có cùng tần số, có cùng bản tánh giống nhau sẽ quy tụ lại với nhau.

Chính phủ dân túy, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sự tư lợi ích kỷ của cái chính phủ thượng đẳng da trắng rút ra khỏi những tổ chức WHO, HUMAN RIGHT, hiệp ước phòng thủ NATO, Hiệp ước chống biến đổi khí hậu, UNESCO… Quả là một tai họa lớn cho tự nhiên môi trường, xã hội, văn hóa, dân chủ, nhân quyền… Thấy tình thế như thế, giọt Út thì thào với tâm trạng đầy lo lắng:

- Không lẽ trái đất gần hủy diệt rồi chăng?

Giọt Điệu cũng sợ sệt:

- Eo ơi ghê quá, em không muốn chết theo số phận trái đất, không muốn mất mình trong cơn loạn động của xã hội của loài người!

Giọt Thừa lanh lẹ:

- Không đâu, chúng ta không thể chết. Chúng ta chưa bao giờ chết vì có sanh bao giờ!Chúng ta chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Chúng ta có khả năng vi diệu hơn muôn loài, khi kiếp nạn xảy ra thì chúng ta sẽ hóa làn hơi bay trong trời đất mặc cho núi lở non mòn, mặc cho xã hội loài người loạn động. Chúng ta không hề hấn gì, chẳng qua là vì lòng trắc ẩn, vì tình thươngchúng ta mới khổ với cái khổ của con người và muôn loài.

Giọt Cả vỗ tay khen:

- Khá lắm, giọt Thừa có chánh kiến! Giọt Thừa nói đúng đấy, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Cộng nghiệp của con người và muôn loài dù có xấu cỡ nào đi nữa thì biệt nghiệp của họ hàng nhà giọt nước chúng ta vẫn ung dung tự tại trong hành trình của mình. Vận hạn của trái đất có hết thì hành trình của chúng ta vẫn tiếp tục. Kiếp nạn của con người và muôn loài ở thế gian này có tận thì chúng ta vẫn là chúng ta, hành trình của chúng ta vĩnh viễnvô cùng tận. Một khi thế giới này hư hoại thì chúng ta sẽ đến thế giới khác, thế giới khác hư hoại thì đến thế giới khác nữa, cứ như thế cho đến khi thế giới này hình thành trở lại thì chúng ta lại quay về thế giới này. Hành trình vô tận, nghiệp lực cũng vô cùng vô tận. Các em đừng lo lắng làm gì cho mệt, chữ kiếp số trong nhà Phật dài kinh khủng lắm, dù có năng lực tài giỏi cỡ nào cũng không sao tính toán hay hình dung được. Kinh sách ví dụ rằng: Có tảng đá vuông vức mỗi bề một dặm, mỗi một 100 năm sẽ có một vị phán quan đến và dùng cái khăn lụa phất sơ qua một lần, cứ như thế cho đến khi tảng đá mòn hết thì là một kiếp. Rồi cứ mỗi 1000 tiểu kiếp mới thành một trung kiếp, rồi 1000 trung kiếp mới là một đại kiếp. Cứ như thế thì thời gian vô tận, không đầu không cuối, kiếp số hằng sa không thể nào biết được, không bắt đầu cũng không kết thúc. Không gian thì vô hạn độ, vô cùng vô tận không ngằn mé, không giới tuyến, không bến bờ. Căn cứ vào đây thì chúng ta biết hành trình của chúng ta cũng vô cùng vô tận theo thời gian.

Xíu nghe thế lắc đầu lè lưỡi:

- Những giọt nước chúng ta thật chẳng là gì cả, chẳng nghĩa lý gì trong dòng thời gian miên viễn, chẳng là gì trong cuộc chơi sanh tử bất tận.  Ấy vậy mà chúng ta đem lại sự sống cho con người và muôn loài. Chúng tahình tướng hay không hình tướng cũng tác động đến tiến trình sanh trụ dị diệt của con người và muôn loài. Thật đúng là cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt. Chúng tahình tướng ở thể rắn băng đá, thể lỏng nước, thể hơi, khí trong gió mây y hệt như câu Tâm Kinh: “sắc tức thị không không tức thị sắc”. Hành trình của giọt nước trong mười phương trời đất tưởng chừng như không ấy vậy mà lại có. Có nước, có băng tuyết, có sương móc, có hơi ẩm trong gió mây nhưng ấy lại là không. Chúng ta tạm mượn ngôn ngữ của loài người để mà gọi là hành trình chứ thật ra cũng chẳng có hành trình chi.

 

HÀNH TRÌNH CỦA GIỌT NƯỚC (23)

BỤI NƯỚC MƯỜI PHƯƠNG

Biển lặng trời trong trăng thanh gió mát, thiên hạ thái bình… những khoảnh khắc tuyệt vời giữa thế gian loạn động, thế giới vô thường luôn biến dịch. Xíu khoan khoái cùng bụi nước mười phương như thể về nguồn. Xíu không biết cảnh giới niết bàn là gì nhưng trong khoảnh khắc này cũng thể như niết bàn vậy. Cùng bụi nước mười phương bay qua ruộng đồng sông suối, núi rừng, thành đô, quốc ấp… một cách thong dong, tự tại; không một chút ràng buộc; không vết tích gì của tham, sân, si; không cả nhân ngã thị phi; chẳng chút dính dáng đến ngũ dục lục trần; càng không có thất tình lục dục. Ngay cả bản thân Xíu, anh em họ hàng nhà Xíu cũng chẳng có cái gì để gọi là ta, của ta, tự ngã ta.

Trời ơi, làm sao mà diễn tả được cái cảnh giới như thế này!

Ngày xưa Xíu xem qua sử sách biết có thiền sư Không Lộ lên núi cao hú một tiếng dài động cả càn khôn, lạnh cả bầu thái hư. Phải chăng ngài cũng trải qua cái khoảnh khác như thế này chăng? Xíu may mắn được tiếp xúc với Phật pháp, học Phật với cái tâm con trẻ đầy tin tưởng nhưng cũng không kém phần khờ khạo. Phật pháp qua 26 thế kỷ truyền thừa, qua nhiều quốc độ với nhiều sắc thái văn hóa khác nhau nên đã có những biến dị, thay đổi, thêm bớt để phù hợp với nền tảng văn hóa của mỗi xứ. Các pháp sư đã kết hợp giáo lý Phật đàvăn hóa địa phương để cho ra những nhánh Phật giáo phù hợp với tập quán và căn cơ của người bản địa. Ban đầu Xíu cũng như mọi Phật tử khác không thấy không biết điều ấy, nhưng về sau thì Xíu nhận ra được. Giờ đây Xíu có thể khẳng định rằng: Phong thủy, xin xăm, bói toán, coi ngày giờ, cúng đám, hô thần nhập tượng, trục vong, giải hạn, cúng sao, cúng đám… đều không phải Phật pháp, giáo lý Phật pháp không có những thứ ấy, đó là tín ngưỡng địa phương, đức tin dân gian. Việc này khiến Xíu liên tưởng đến một câu chuyện của anh chàng văn sĩ xứ nọ viết: “Có người kia sinh ra với thân thể khỏe mạnh, ngũ quan cân đối xinh đẹp, lục căn trong sáng, đầy đủ chức năng vốn có. Thế nhưng người ấy đi qua nhiều địa phương rồi chịu ảnh hưởng những tập tục, văn hóa, thẩm mỹ... của người địa phương. Anh ta bèn xăm trổ khắp người, lại còn xỏ tai đeo khuyên, xỏ lưỡi, mũi, chân mày đeo đủ thử khuyên, chân tay mang nhiều loại lắc, kiềng...Càng làm như thế thì anh ta tự tin cho là đẹp và người địa phương cũng thích thú lắm. Tuy nhiên khi anh ta trở về nhà thì người nhà nhìn anh đầy vẻ kinh ngạc, thậm chí có người không còn nhận ra anh ta là anh chàng đẹp trai khỏe mạnh trước kia. Nhiều người lên án anh ta cho là  ghê quá, tàn phá cái tấm thân vốn khỏe đẹp trước kia”. Đại khái câu chuyện là thế, Xíu đọc qua và giờ thấy câu chuyện anh chàng đó giống hệt tình trạng Phật giáo ngày nay. Phật pháp bây giờ bị gắn ép, gán đủ thứ linh tinh. Xíu chỉ mong sao mọi người hãy nhìn nhận sáng suốt, tuy có bị gán ép đủ thứ, làm biến dạng như thế nhưng người học Phật cứ theo căn bản giáo lý: Tứ diệu đế, bát chánh đạo, 37 phẩm trợ đạo mà hành thì như pháp, như lý.

Xíu biết rằng tu học Phật pháp dù là theo truyền thống nào, tông môn pháp phái nào, dòng truyền thừa nào… cũng phải giữ lấy căn bản giáo pháp, lìa căn bản thì hỏng. Giáo pháp căn bản như nền móng của ngôi nhà. Xây nhà mà chỉ ham to lớn, hoa văn vằn vện, màu sắc lòe loẹt mà thiếu móng thì dù ngôi nhà có to lớn thế nào đi nữa cũng sẽ sụp đổ, càng đồ sộ mà thiếu móng thì càng hoại nhanh hơn.

Xíu trong bụi nước mười phương, bay qua các thế giới, nhờ thế mới biết thến gian này có Phật pháp, còn nhiều thế giới khác không có Phật pháp. Thế giới Sa Bà thuộc về Nam Thiệm Bộ Châu. Sa Bà nghiã là kham nhẫn, chịu đựng điề khó chịu, khổ… Vì khổ nên mới có Phật thị hiện ra đời đem đến giáo pháp dạy người thoát khổ. Vì khổ nên mới có người nghe, người tin và tu học Phật pháp. Còn xứ Bắc Câu Lô Châu, Tây Ngưu Hóa Châu… không có phật pháp vì ở đấy không có khổ, đời sống tự nhiên, ăn mặc tự nhiên, tuổi thọ dài lâu. Phật có nói pháp cũng không ai nghe, không ai tin và dĩ nhiên không ai chịu tu học. Từ cái chuyện này làm Xíu nhớ đến cái lý duyên sanh, lý tương tức. Vì Sa Bà khổ nên mới có Phật thị hiện ra đời và có Phật Pháp. Nếu không có khổ thì cũng không có Phật pháp. Nếu một mai Sa Bà hết khổ thì Phật pháp cũng diệt theo. Các xứ khác vì không có khổ nên cũng không có Phật pháp. Hễ cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt.

Những ngày tháng cuối năm phố phường nhộn nhịp, người người bận rộn, trong ngoài quốc độ ai ai cũng tấp nập làm việc, mua sắm chuẩn bị cho lễ lạc. Xíu theo bụi nước mười phương bay khắp đó đây rong chơi du lãng mà thấy thương cho con người. Không biết con người vì ai mà phải khổ như thế. Tháng ngày bận rộn, cả cuộc đời bận rộn, đời nối đời bận rộn. Con người chẳng có được phút giây thanh thản, an lạc, tự do, tự tại. Bận rộn suốt một đời rồi khi nằm xuống thì mọi thứ cũng bỏ lại hết mà đi vào cảnh giới mờ mịt, đại đa số thì lành ít dữ nhiều. Phải chi bọn người biết Phật pháp, dành thời gian cho Phật pháp, tạo chút ít tư lương thì khi ra đi không đến nỗi nào. Biết sao được bây giờ? Bởi vì vậyđức Thế Tôn mới ví:” Được thân người ít như đất dính trong kẽ móng tay, mất thân người như đất ở đại địa”.

Xíu bay qau thế giới loài người thấy Phật pháp ngày nay có mặt khắp năm châu, tuy nhiên Phật pháp vẫn chỉ thịnh ở vài nước Đông Nam châu Á chứ các nước Âu – Mỹ – Phi thì vẫn chỉ một số ít người biết thôi! Tuy ít là vậy nhưng những người Âu - Mỹ một khi đã tu học Phật pháp thì họ cực kỳ tinh tấn, dốc hết tâm lực vào việc tu học. Từ thế kỷ 19 đã có bà Alexandra David Neel một phụ nữ da trắng người Pháp đã bỏ kinh thành ánh sáng Paris để lên Tây Tạng du hành và sau đó tu học Phật pháp mười  năm ròng. Bà ngồi trong hang núithiền định. Bà không chỉ là một ni sư tinh tấn mà còn là một văn sĩ và từng nhận giải thưởng cao quý Gold Medal of the Geographical Society of France. Cũng trong thế kỷ 19 có nhiều học giả châu Âu đã dịch kinh sách Phật giáo sang tiếng Anh, họ truyền bá Phật giáo ở châu Âu, tỷ như: F. Max Muller ( người Anh), George Turnour (người Anh), Eugene Burnouf (người Pháp), Christian Lassen (người Đức)… Thời hiện đại có một ni sư người Anh là   Jetsunma Tenzin Palmo bà đã bỏ ra 12 năm tu hành trên xứ Tây Tạng, trong thời gian đó dành nhiều năm liền nhập thất ngồi trong động đá với lượng thực phẩm tối thiểu mà dân làng đem cúng dường mỗi hai tuần một lần. Ni sư vô cùng tinh tấn, sáng suốt, tu học Phật pháp, ngôn ngữ Tạng, dịch kinh,viết sách và ni sư từng phát thệ nguyện:” Nguyện đạt được giác ngộ trong thân tướng nữ cho dù phải trải qua bao nhiêu kiếp số”. Đọc những gương sáng tu hành như thế khiến Xíu khâm phục không sao nói nên lời, chỉ có thể năm vóc gieo sát đấtđảnh lễ.

Những ngày tháng cuối năm, lịch sửPhật sử xứ Việt lại có thêm một sự kiện lớn đó là kỷ niệm ngày nhập diệt của đức trưởng lão, bậc thượng nhân, tòng lâm thạch trụ, đệ lục tăng thống Thích Tuệ Sĩ. Dù có dùng ngôn từ nào tán thán cũng không sao nói hết công hạnh, phạm hạnh của ngài. Một bậc tài hoa xuất chúng. Một nghệ sĩ vượt trội người thường. Một đạo sư dõng mãnh, tinh tấn, uyên bác trong thiền lâm. Một học giảthiền sư vĩ đại, vô úy trong dòng chảy của Phật sử xứ Việt. Người như ngài dễ phải mấy trăm năm mới có một. Nhân lễ tiểu tường của ngài, Xíu nương theo bụi nướcc mười phương bay về xứ ấy thấy tứ chúng trang nghiêm cử hành lễ tưởng niệm. Điện Phật linh thiêngấm cúng vô cùng. Xíu phủ phục trước bài vị giác linh của ngài, vì Xíu vô tướng nên không một ai biết. Xíu  rung rung đảnh lễ ngài mà lòng dâng lên bao cảm xúc khôn tả. Sau đó Xíu bay vòng quanh khắp ngôi chùa mà cuối đời ôn về đây tịnh dưỡng. Duy có một điều Xíu không sao hiểu nổi là ôn kỳ vĩ như thế, tầm vóc vĩ đại như thế, cả thế gian đều biết và ngưỡng mộ ngài, ấy vậy mà ngay tại xứ sở của ngài lại có một số lớn tăng tục không biết đến ngài, đa số đồng đạo cùng thờ Phật nhưng không một ai nhắc đến ngài. Không thể đổ lỗi cho là bị thế quyền trấn áp, bao che, bưng bít, phong tỏa, cấm bế… Rồng trên mây thì có thứ gì của người thế quyền che chắn được? Tiếng trống pháp thì có quyền lực nào bưng bít được? Ánh sáng đuốc tuệ có sức mạnh nào bao phủ được? Biết hay không biết đến ấy là tại tự thân. Những người thuộc hàng tăng tục ấy có sự ngăn cách, chẻ chia, tự giới hạn lấy, tự bịt mắt, bưng tai mình, tự may miệng mình.

Xíu trong bụi nước mười phương vân du từ thuở quá khứ đến giờ, thông qua cả cổ kim hiện đại, xuyên suốt trong ngoài lẫn đông tây. Bay từ sáng sớm chiều sương cho đến trăng khuya tàn canh hay cả những đêm đen mịt mùng. Có đôi khi Xíu ngỡ mình như tay du thủ lãng quên đời, quên người, quên thế giới, quên cả thân tâm. Xíu phì cười khanh khách làm văng những giọt nước trong như pha lê xuống dưới đất kia. Sở dĩ Xíu cười là vì thấy bóng dáng mình trong câu thơ:

Từng đi bụi nước mười phương

Quên một người vẫn yêu thương một người –  (thơ Phạm Thiên Thư)

Cũng ông thi sĩ này, cũng trong thi tập Động Hoa Vàng, ông ấy lại viết:

Nửa đời mây nước du phương

Thiền sư ngắt cỏ cúng dường Phật thân.

Câu này khiến nhiều kẻ nghi ngờ:”Cúng dường gì chỉ một cộng cỏ?”. Thiên hạ tăng tục quá nhiều người mê lầm cứ ngỡ cúng dường phải là chùa to Phật lớn, lễ lạc rình rang, âm thanh ồn ào, sắc màu lòe loẹt, lễ vật ê hề… Ấy chỉ là hình thức, hình tướng phù diễn mà thôi! Một khi mê thì cúng dường cỡ nào cũng là mê. Một khi giác thì cộng cỏ, đóa hoa cũng là lễ vật cúng dường đủ biến mãn mười phương. Lễ vật cúng dường không phải ở khối lượng vật chất hay hình thức giả tướng. Lễ vật cúng dường quý giá nhất, cao quý nhất ấy chính là lòng thành, là tâm thanh tịnh. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế có bà lão ăn mày cúng dường một cây đèn với ít dầu ấy vậy mà cây đèn của bà lão sáng hơn tất cả đèn của bọn vương tôn công tử, Cây đèn của bà lão cũng không sao tắt khi các vị tỳ kheo vận dụng cả thần thông để tắt đèn. Không thể nào làm tắt được, đó là tâm đăng, đó là lễ vật cúng dường từ tâm thanh tịnh. Thiền sư ngắt cộng cỏ cúng dường ấy là một hình ảnh đẹp đến nao lòng, cũng là một lời nhắc nhở cho người mê. Từ tâm thanh tịnh, từ một lễ vật thanh tịnh có thể biến hiện khắp mười phương, vô cùng vô tận. Từ một tâm mà ra mười pháp giới, từ tâm này mà có Phật, có ma và cũng từ một tâm mà bát ngát bụi nước mười phương.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Vancouver, 07/24 – Atlanta, 12/25

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 22540)
12/10/2016(Xem: 20497)
26/01/2020(Xem: 13544)
12/04/2018(Xem: 21602)
06/01/2020(Xem: 12169)
24/08/2018(Xem: 10744)
12/01/2023(Xem: 5092)
28/09/2016(Xem: 26176)
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.