Thư Viện Hoa Sen

Suối Nguồn Hạnh Phúc Bài 3: Sáng Trăng | Thích Nữ Triệt Như (Song ngữ Vietnamese-English)

13/02/20253:25 SA(Xem: 1801)
Suối Nguồn Hạnh Phúc Bài 3: Sáng Trăng | Thích Nữ Triệt Như (Song ngữ Vietnamese-English)

SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC

BÀI 3:
SÁNG TRĂNG

Bhikkhuni Thích Nữ Triệt Như
Written at the  Sunyata Monastery, May 28, 2021
English version by Ngọc Huyền

 

Picture2Hôm nay, ngày 28- 5- 2021, khoảng 4 giờ sáng tỉnh giấc, vầng trăng nghiêng nghiêng chếch bóng soi chiếu sáng cả khoảng không gian tĩnh lặng bao la, xuyên qua cửa kính vào tận phòng. Đêm nay trăng vẫn tròn, nhưng dường như hơi nhỏ hơn vầng trăng đêm qua. Đêm qua, chợt mở mắt thấy bên ngoài khung cửa sổ, trời sáng quá, giật mình tưởng ngủ quên, vội xem giờ mới hay mới có 3 giờ sáng. Nhìn kỹ qua khung cửa kính thấy trăng, sáng tròn, một mình treo lơ lửng giữa không gian mờ ảo, nhìn xa xa không thấy cây cảnh, hay nhà cửa, rặng núi xa cũng còn chìm trong màn đêm. Trong một khoảnh khắc lặng ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên, không diễn tả được tâm của mình lúc đó như thế nào. Một cái gì dường như hồn nhiên, mát rượi, cũng dường như choáng ngợp trong cái bao la mênh mông của đất trời còn say ngủ trong màu đen thăm thẳm, chỉ một mình vầng trăng sáng tỉnh thức, âm thầm rải ánh sáng nhu hoà mát mẻ, dịu dàng xuống trần gian còn mù mịt trong đêm dài. Chợt nhớ tới vầng trăng Vesak. Vầng trăng đêm nào. Phải chụp vài tấm ảnh, níu kéo một chút thời gian, ánh trăng Vesak soi vào tận phòng, nhè nhẹ kêu mình thức dậy.

Nhắc tới Vesak, chúng ta đều biết những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật. Ngài xuống trần gian trong một mùa xuân giữa vườn Lumbini, ngài bừng sáng giác ngộ hoàn toàn trong một đêm xuân dưới tàng cây cổ thụ tại khu rừng hoang bên bờ sông Nirañjanā và đêm ngài nhập niết bàn tại Kushinagar, cũng trong mùa xuân. Tất cả đều xảy ra trong tháng Vesak theo lịch cổ của Ấn Độ.

Sau này thế giới Phật giáo qui ước ngày trăng tròn của tháng 5 mỗi năm là ngày kỷ niệm gọi là Vesak. Năm nay, ngày lễ Vesak rơi vào ngày 26 tháng 5.

Đêm nay, ngắm trăng, sáng vằng vặc, một mình, giữa đêm đen, khác nào Đức Phật, sáng vằng vặc, một mình, giữa cõi đời tối tăm này, con người còn mê ngủ. Trăng nhè nhẹ rải ánh sáng, đồng đều, soi đường cho kẻ lữ hành còn lầm lũi trên đường về nhà. Khác nào hình ảnh Đức Phật gieo rắc trí tuệ soi chiếu cho người hữu duyên, bình đẳng, thấy lối mòn của chư vị cổ Phật đã đi qua, sớm tỉnh thức nối gót theo con đường giác ngộ

Ngắm trăng sáng, chúng ta lại nhớ tới ngày xưa, có một lần các vị đại đệ tử của Đức Phật nhân một đêm sáng trăng tại khu rừng Sừng Bò, hương hoa thơm ngát, đã cùng nhau luận bàn về con đường tu: vị tỳ kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng này? Mỗi vị lần lượt trình bày theo chỗ sở trường chứng đắc của mình. Cuối cùng tất cả đến trình với Đức Phật. Đức Phật khen các vị đều trả lời đúng, và riêng Đức Phật, ngài có cái thấy rốt ráo thật đặc sắc, đặc sắc vì quá đơn giản, nhưng quan trọng và thực tiễn nhất cho tất cả chúng ta. Chúng tathể tham khảo trong Trung Bộ kinh, số 32, Đại kinh  Rừng Sừng Bò, (Mahàgosinga sutta).

Mỗi khi trông thấy một hình ảnh, một sự kiện trong đời thường, chúng ta nhớ tới Đức Phật, tới tăng đoàn của Đức Phật ngày xưa. Tức khắc tâm mình bình an trở lại. Đây cũng là phương tiện tu: lúc nào cũng “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.

Thuật ngữ “niệm” có nhiều nghĩa: lặp đi lặp lại nhiều lần danh xưng của các vị Phật và bồ tát, hay tưởng nhớ tới Phật, tới Pháp, những chân lý của thế gianĐức Phật giảng dạy. Hai cách tu này cùng đưa tới một mục tiêu: ngay trong lúc đó, tâm không hiện khởi “pháp ác, bất thiện” mặc dầu vẫn sử dụng cái Biết có lời, lậu hoặc không có, nghiệp xấu cũng không tạo ra. Vậy tâm cũng tạm ổn định, được chuyển hoá từ từ.

Hơn nữa, từ “niệm” còn có ý diễn tả sự sáng suốt của tâm, tức là cái Biết không lời, chỉ Biết thôi, không suy nghĩ gì thêm, không lý luận, xét đoán, không phân biệt, không suy đoán. Cho nên cái Biết không lời có đặc điểm: yên lặng, trung thực, khách quan, trống rỗng, không tranh đua, không mục tiêu, không tham sân si.

Chúng ta nếu quan tâm tới những đặc điểm của cái Biết thì chúng ta sẽ có cách tiến vào cái Biết theo khả năng của mình. Như vậy, nếu mình có mục tiêu nhắm tới, thì cái Biết không còn khách quan, không còn trống rỗng nữa. Nói khác, là có bản ngã chủ quan chen vào, là tâm đã bị ô nhiễm.

Tâm mình thật tế nhị, phải là người có trí huệ mới có thể khảo sát tâm, nhìn thấy rõ tâm để điều chỉnh nó. Công việc duy nhất của chúng taquan sát tâm của chính mình, khi nào nó khởi ý tham, sân hay si, hay hại người, lập tức buông bỏ ý xấu ác đó. Bằng cách nào là tùy nơi mỗi người. Trong các bài kinh “An trú tầm”, hay “Song tầm”, Phật dạy mình hiểu hậu quả của ý xấu ác đó thì dập tắt ngay ý xấu ác. Hay phải khởi ra ý tốt lành ngay để dập tắt nó.

Chúng ta đã biết đặc điểm của tâm là mỗi lúc chỉ có một niệm khởi lên, trụ rồi diệt, tiếp theo mới có một niệm khác khởi lên, trụ rồi diệt. Từ đó chúng ta chủ ý khởi lên niệm thiện lành, hữu ích cho mình và cho người khác thì làm sao có ý ác, bất thiện khởi lên trong tâm mình. Khi ý đã trong sạch thì lời và hành động cũng thiện lành theo.

Như vậy, ngoài những phương thức tu tập thường được đề cao và phổ biến như: Tứ Diệu Đế, như Tứ Niệm Xứ, Văn- Tư- Tu, hay Quán, Chỉ, Định, Huệ, hay Thất Giác Chi v...v...có tính cách “hàn lâm”, dường như dành cho bậc thượng căn, thuần thành giáo lý, còn chúng ta, hàng trung căn, vẫn có thể tu tập theo căn cơ của mình. Hôm nay chúng ta thử ngẫm nghĩ tới phương thức “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”

Như đêm nay, nhìn ngắm ánh sáng trăng, mình tưởng nhớ tới Đức Phật. Ngài đã có chí khí phi thường khi dám rời bỏ cảnh gia đình đang êm ấm, rời bỏ cả tương lai huy hoàng là thừa kế ngôi vua, từ khước cảnh sống nhung lụa đang hưởng. Trong đời có mấy ai có đủ trí tuệquyết tâm đó? Hiểu biết rõ điều này, chúng ta sẽ có thêm nghị lực để bứt tham đắm vào của cải thế gian, bớt lưu luyến với những sợi dây dục ái ràng buộc.

Sống trong đời, có khi bị người rêu rao, chỉ trích, bị sỉ nhục, mình nhớ tới Đức PhậtTăng đoàn của ngài. Đức Phậttăng đoàn ngày xưa, những bậc thánh đệ tử tâm trong sạch, trên đường giáo hóa, chỉ mong giúp con người tỉnh thức, bớt khổ. Vậy mà Đức Phậttăng đoàn của ngài cũng đã hứng chịu biết bao lần gian nan: nào là bị vu oan đã giết người rồi giấu xác trong khu vực Kỳ Viên tinh xá, nào là làm cho một người nữ ngoại đạo mang thai, nào là bị một đám côn đồ  theo sau mắng nhiếc v.v... Khi mình nghĩ tới Đức PhậtTăng đoàn ngày xưa, đức hạnh là vậy, mà còn gặp không biết bao nhiêu điều oan ức, thì sá chi là mình, có bị chê bai, châm biếm cũng là thường. Từ đó mình lại càng hiểu rõ qui luật xung đột, là qui luật của tâm đời. Hễ nơi nào còn tâm đời, thì nơi đó có xung đột, có khổ đau. Chúng ta sẽ chiến thắng được nỗi buồn phiền của mình, và còn khởi được tâm từ bi đối với người đã có ý xấu ác với mình.

Như vậy, khi chúng ta tưởng nhớ tới đời sống Đức Phật, giản dị và kham nhẫn trước mọi tình huống khó khăn, nhớ tới chư vị tỳ kheotỳ kheo ni cũng vui sống hạnh viễn ly, gánh chịu mọi điều thiệt thòi cho phần mình, và dâng hiến trí tuệtâm từ bi trong sáng cho bất cứ ai tiếp nhận, lúc đó là chúng ta không có “pháp ác, pháp bất thiện” trong tâm. Phương thức tu này thật đơn giản. Suốt ngày thực hành thì suốt ngày tâm được trong sạch, lậu hoặc làm sao có dịp khởi lên.

Khi mùa hạ tới, trời nắng chang chang, hay mùa đông về, thêm gió buốt lạnh. Chúng ta nhớ tới Đức Phật, không kể chi tới 6 năm dài khổ hạnh, là ngài chủ ý hành hạ thân tâm mình, về sau khi bôn ba khắp nơi trong 45 năm, Đức Phậttăng đoàn, vẫn là đầu trần, chân đất, dãi nắng dầm mưa lang thang khắp nơi trên những con đường dài, có khi ăn, nghỉ trưa, hay ban đêm vẫn tạm trú nơi rừng hoang, nơi bãi tha ma, hay trong hang núi, hay dưới gốc cây...Khi nghĩ tới cảnh sống đơn giản đó của Đức Phậttăng đoàn của ngài, tức khắc chúng ta chịu đựng được cái nắng chang chang mùa hè hay ngọn gió buốt lạnh mùa đông mà không còn than thở nữa.

Hôm nào, bữa cơm không ngon miệng, mặn hay lạt, nguội lạnh rồi, mình nhớ tới chư vị tỳ kheo khi xưa, phải đi khất thực từng ngày, ai cho gì ăn nấy, bữa no bữa đói, mình sẽ thấy mình còn hưởng thụ quá nhiều, còn mang ơn cuộc đời mà chưa đền đáp. Thì chén cơm trắng này sẽ thơm ngon hơn vì tâm mình an lạc.

Chúng ta cứ tưởng nghĩ tới Đức Phật, tới Tăng Đoàn, tới những chân lý trong cuộc đời, thì tâm mình lần hồi trở nên bình an, chấp nhận tất cả hoàn cảnh, đồng thời mình sẽ khởi phát tâm từ bi, thương được những người tốt và cả những người chưa tốt. Những người thành công, hạnh phúc hơn mình, chúng ta sẽ khởi được tâm hỷ, vui theo mà không còn đố kỵ hay buồn tủi cho mình, và cuối cùng là tâm buông hết, không dính mắc cái gì trên đời, là tâm xả. Như vậy, mình cũng tới nơi. Mà không cần nói tới “rừng ngôn ngữ Phật học “ nữa. Nào là “Tứ niệm xứ, Tứ diệu đế, Thất giác chi, Tứ thần túc, v.v...”

Hôm nay, xin giới thiệu phương thức tu tập đơn giản, không đòi hỏi “Định hay Tuệ”, đó là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng. Ta có thể xem đây là Quán chiếu, dùng tuệ trí hiểu biết cuộc đời của Đức PhậtGiáo đoàn cũng như hiểu biết những chân lý trong cuộc đời. Mỗi ngày mình thường xuyên nhìn lại, soi chiếu lại để điều chỉnh tâm mình cho thích hợp với Phật, Pháp và Tăng. Cuối cùng tâm mình dừng lại trước cảnh đời thay đổi, thì cũng là Định, và Tuệ sẽ phát huy khi chúng ta “đối cảnh vô tâm”.

 

SOURCES OF HAPPINESS

Article 3: THE MOONLIGHT

Today, May 28, 2021, I woke up around 4 a.m. The moon was slanting and  illuminating the vast quiet space and got through the glass window into the room. It was  still the  full moon but it seemed to be a little bit smaller than yesterday. Last night,  suddenly opening my eyes, I saw it so bright outside. Startlingly,   I assumed to be  oversleeping.  A quick look at the clock, it was  3 am.  Through the glass window, I saw the round and radiant moon hanging alone in the dim space that I could not see any trees or houses. From afar, the mountain range was still hidden in the dark night. At the  silent moment of watching the beauty of the nature, I could not express how my mind was then. Something seemed cool and innocent. It seemed I was entirely engufled in the immensity of heaven and earth that was soundly sleeping in the deep darkness. Only the shining moon awoke, quietly spreading gentle and calm light into the mundane world which is murky in the long night. Suddenly I remembered the Vesak moon, the moon at a certain night. I had to take some shots to hold the time. The Vesak moonlight came into the room and slightly woke me up.

Recalling the Vesak, we all know the important events in the Buddha’s life. His Holy came down to the Lumbini garden in a spring on our planet. The Lord was completely enlightened at a spring night under a long-lived tree in the wilderness  on the bank of the Nirañjanā River. And he immersed into the  Nirvana at Kushinagar in the spring as well. All of them happened during the month of Vesak in the ancient Indian calendar.

Later on, the Buddhist communities in the world agreed the full moon day of May every year as the Vesak, the celebration day. This year, the Vesak holiday falls on May 26.

The moon tonight was brilliant and alone amidst the dark night. It is similar to the radiant  Buddha, solely in the thick of the obscure life full of ignorance. The moon tenderly generated its light evenly to steer the lonely travelers on the way back home. It looks like our Lord who  scatters his wisdom and  gives the directions for those who  are equally preconditional  to recognize the trails the ancient Buddhas had passed so that the former could awake in time and follow the latter in the path of enlightening.

Watching the shining moon, we remember the old days. On a moonlit night at the Cow Horn forest fragrant with the  variety of  flowers in full bloom, the Buddha’s great disciples discussed  the way of mind cultivation: which Bhikkhu could brighten up this forest. Each of them took turn addressing their attainment gimmicks. Then, they all came to report it to the Buddha who praised them all for their concise answers. And only our Lord owned the ultimate seeing which is so unique because of its simplicity. But is is very vital and useful for all of us. We can refer to it in the Middle Sutra numbered 32, the Mahàgosinga Sutta.

Whenever looking at an image or seeing an event in daily life, we recollect the Lord and his Sangha in the old time. Our mind immediately calms down again. That is a means of mind training.   At all the time, we continue “contemplating the Buddha, contemplating the Dharma and contemplating the Sangha.”

There are some meanings in the Buddhist term “mindfulness”. It may be the repetitions of the names of the Buddhas or Bodhisattvas. It also means the recollection of the Buddhas, the Dharma or the secular truths  our Lord taught. Those two methods simultaneously bring the same objective: right at that time, our mind does not create “ evil or unwholesome” thoughts even though the know- with-speech is in use. With it, neither dormant taint nor bad karma is generated. Our mind, then, stays stable and is slowly bettered.

Besides, the term “ mindfulness” indicates the lucidity of mind. It is the Know-without-speech.  When we know something, we realize it only without further thinking, reasoning, judging, differentiating or anticipating. Thus, the Know-without-speech is featured with silence, sincerity, objectiveness, emptiness, no competition, no goal, no greed, no anger and no ignorance.

When we concern  the characteristics of the Know, we will definitely get the way to enter it with our own ability. With it, when we have the targets to reach, the Know is no longer empty and objective. In another words, our mind is disturbed because it is interfered by our personalized ego.

Our mind is very delicate. Only those who get wisdom can study, clearly manifest,  and adjust it. Our mere work is to observe our own mind. When it generates avarice, rage, or delusion, we should terminate all those evil thoughts. How can we do it? Depending on each person. In the sutras  “Pacifying mind direction” or “Dual mind directions”, the Buddha taught us when we understand the consequences of those poisonous intentions, stop and end them up right away. Or we can start kind thinking to finish them.

We do know one of mind traits is that at one time only one thought arises, stays shortly, then  fades. Another one continues  and disappears in the same process. From that, if we deliberately create  the kind and useful ideas for us and other people, there is no way for  bad, wicked ones appear.  When our mind is decent, so are our words and actions.

Besides the popular and highly encouraged approaches for mind practice like the Four Noble Truths, the Four Areas of Mindfulness,  Listening-Thinking-Cultivating, or Contemplating, Ceasing, Concentration, Wisdom or The Seven BodhYanga ( the Seven Bodhi Sections)  that all sound “academic” and are seemingly appropriate for the practitioners of mastering the Buddhist doctrines and of advanced-spiritual backgrounds;  but we,  with middle-spiritual level,  are also able to train our mind along with our own foundations. Now, let us consider about “reflex of the Buddha, reflex of the Dharma and reflex of the Sangha.”

For instance, watching the moonlight tonight, I reminisced the Buddha. Our Lord’s spirit was extraordinary when he renounced  his happy family, his glorious future of inheriting the king father’s throne and his royal, luxurious life. How many of us could have such wisdom and vigorous determination? Knowing more of those, we will surely be more strong-minded to cut off the desires in worldly materials and reduce the  attachment of cravings.  

We might be criticized, insulted, or defamed. Let remember the Buddha and his Sangha. On the path of Dharma teachings in the old days, our Lord and the holy disciples of tranquil minds in his Buddhist Congregation merely had the expectation of assisting people to get more awaken and less sorrow. Ironically, our Buddha and the entire Order suffered too many incorrect judgments.  They were blamed of killing people and hiding their corpses in the Jetavana, making a female heresy pregnant. They were often followed and  offended by groups of thugs. The Lord and the entire sangha, who achieved so much virtue, suffered too many  misjudgments. Then thinking of us, lay people, we will see it is not abnormal  when we get plenty of finger-pointing.  But it helps us to understand more about the principles of conflicts that are the ones of mundanity. Wherever they are, struggles, contradictions and distress happen. We will definitely go over our anguishes and initiate our compassion to those who launched cruelty to us.

When recalling the Buddha’s simple life full of patience before all challenges, the Bhikkhus and Bhikkhunis’ peaceful life of staying far away from the world, voluntarily accepting all disadvantages and ready to dedicate their wisdom and explicit empathy to everyone who welcomes them, then, there would be no bad and unwholesome karma starting in our mind.  This approach of mind training is very modest. During a day you practice it, during that day your mind is undisturbed and dormant defilements cannot arise from your subconscious.

The summer came with fiery sunlight. The winter was back with chilly winds. We remember the Buddha who did not mind his six years of asceticism in which he deliberately tortured his body and mentality. Later on, after 45 years of walking everywhere, our Lord and his sangha were still bare-headed and barefooted, kept moving from place to place on long roads under the blazing sun or  the steady rain. They had their meals, took their nap or temporarily sheltered themselves at night in the jungles, at the graveyards, in  mountain caves or under trees.  Such a frugal life helps us instantly endure the summer burning heat or the winter icy wind without any complaining.

Sometimes the meals were not delicious but too cold and either flat or salty, let us think of the Bhikkhus who long time ago had to go alms begging every day. They ate whatever given. Hunger and fullness rotated day after day. With those images, we will find out that we have enjoyed too much and have not repaid life gratitude yet. So, this bowl of cooked rice is better in taste. Just due to   our calm mind.

If we always think of the Buddha, the sangha, the worldly truths, our mind gradually gets  free from agitation; we can accept all situations; our empathy simultaneously develops; we can love both good and not-good-yet people. About those who are happier and more successful than us, we can share their pleasure and satisfaction without jealousy or the feeling of pity for ourselves. Finally, we drop down everything, every attachment. It is the mind of renunciation. Wow! Here we are! We do reach the last destination of the Path without referring to “the forest of Buddhist terms” such as the Four Areas of Mindfulness, the Four Noble Truths, the Seven Bodhi Sections, the Four Sufficiencies and so on.

Today, I would like to introduce a simple practice for mind training without the requests of “Concentration or Wisdom.” It is the “Reflection on the Buddha, Reflection on the Dharma, Reflection on the Sangha.” It can be considered as Contemplation in which we use our insights to know the life of the Buddha and the Sangha, and the secular truths as well. Every day, we review and screen our mind and modify it in accordance with the Buddha, the Dharma and the Sangha. Eventually, our mind will stop moving in front of life changes. It also means that Concentration, Samadhi, and Wisdom surely develop when “we keep our mind intact before  earthly phenomena.”

Bhikkhuni Thích Nữ Triệt Như

Written at the  Sunyata Monastery, May 28, 2021

English version by Ngọc Huyền

 

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 22679)
12/10/2016(Xem: 20657)
26/01/2020(Xem: 13821)
12/04/2018(Xem: 21844)
06/01/2020(Xem: 12293)
24/08/2018(Xem: 10862)
12/01/2023(Xem: 5259)
28/09/2016(Xem: 26345)
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.