Phần 1. Krishnamurti Thời Trẻ Tuổi 1895-1946

12/05/201112:00 SA(Xem: 10958)
Phần 1. Krishnamurti Thời Trẻ Tuổi 1895-1946

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
[www.thuvienhoasen.org]
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
[www.scribd.com/.../Pupul-Jayakar-Krishnamurti-A-Biography ]
Lời dịch: Ông Không
Tập I/II - Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

 

CHƯƠNG 1

 “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

 

Bị nung nóng bởi mặt trời, những tảng đá như chạm trổ, trong số những tảng đá cổ xưa nhất trong thế giới, nâng niu ngôi làng Mandanapalle ở vùng Chittoor của Andhra Pradesh, Nam Ấn độ. Từ vùng đất thiêng liêng Tirupati qua Rishi Valley đến Anantpur, những quả đồi trải dài có đỉnh được chụp lên bởi những tảng đá láng bóng, nằm rải rác những thung lũng nhỏ. Lượng mưa rất ít, dân số thưa thớt. Những cây me và gul mohar cho những bóng mát và màu sắc sặc sỡ. Nó là mảnh đất thiêng liêng, punysasthal, nơi những huyền bí và những thánh nhân đã sống và đã giảng dạy hàng thế kỷ, thân thể của họ được mai táng ở đó để thánh hóa đất đai. Ở đây, vào ngày 12 tháng 5, 1895, sau nửa đêm ba mươi phút, một người con trai được sinh ra bởi Sanjeevamma, người vợ của Jiddu Narianiah, một công chức trung bình.

 Tổ tiên của Jiddu Krishnamurti, một Brahmin của tầng lớp thấp, có nguồn gốc từ Giddu hay Jiddu, một ngôi làng nằm giữa những cánh đồng lúa phì nhiêu của bờ biển Andhra. Ông nội của Krishnamurti, Gurumurti, cũng là một công chức trung bình; nhưng ông của ông ấy, Ramakrishna, nổi tiếnghọc thức uyên bác của ông, sự hiểu biết của ông về Phạn ngữ và kinh Vedas, có một vị trí quan trọng trong ngành luật pháp của The British East India Company.

 Nhà của Narianiah ở Madanapalle, một trong những vùng bị hạn hán nhiều nhất của Nam Ấn, rất nhỏ; ngột ngạt và có hai tầng, mặt trước nhà chật hẹp hướng về một con đường, chảy dọc theo nó là một đường mương rút nước. Tất cả nước dùng cho nhà của Narianiah được sử dụng từ cái giếng gần bên và được đem về bởi những dụng cụ chuyển nước để trữ trong những vại bằng đồng được đánh bóng hay những thùng bằng đất cất ở trong nhà.

 Krishnamurti được sinh ra bởi Sanjeevamma trong căn phòng puja của nhà bà. Ý nghĩa của điều này đã bị bỏ sót bởi những người viết tiểu sử về Krishnamurti. Đối với một truyền thống của Ấn giáo, sống trong những dãy núi Himalayas có đỉnh phủ tuyết hay trong Kanyakumari ở sâu phía Nam, trong nơi trú ngụ thuộc thành phố hay những ngôi nhà vùng quê, phòng puja là nơi thiêng liêng, trung tâm của ngôi nhà, nơi griha devatas, những vị thần giữ nhà, được thờ phụng; nó là một căn phòng được làm để báo điềm tốt lành cho tương lai với những bông hoa và hương trầm và ngâm nga những câu thần chú thiêng liêng. Căn phòng dành cho những vị thần này chỉ có thể được đi vào sau một nghi thức tắm và mặc những bộ quần áo sạch sẽ. Sinh đẻ, chết chóc, và chu kỳ kinh nguyệt được coi như là sự ô uế của nghi thức. Khi có sinh đẻ và chết chóc, người chủ nhà và gia đình của anh ấy cùng chia sẻ sự ô uế và bị cấm không được thực hiện nghi thức puja hàng ngày; thay vì vậy một Brahmin từ ngôi đền địa phương được mời đến để thực hiện nghi lễ hàng ngày. Điều mà một đứa trẻ nên được sinh ra ở đó là không thể tưởng tượng được.

 Người vợ và cũng là người em họ của Narianiah, Sanjeevamma là một người đàn bà nhân từ và sùng đạo. Bà được cho là có nhãn quan tâm linh, kinh nghiệm, và có thể thấy màu sắc trong những hào quang của con người. Giống như đôi tai của một nhạc sĩ hòa hợp hoàn hảo cùng một nhạc cụ đàn dây, vì vậy như một người mẹ đôi tai của bà hoà hợp cùng những nhịp tim của em bé mà đã chờ đợi trong lò nung của thân thể bà, chẳng mấy chốc sẽ khởi sự con đường của nó qua những cánh cổng đồ sộ của sự sống. Những điềm báo về sự lạ thường của sinh nở này chắc chắn đã trao cho bà cái nhìn tiên tri và sự khuyến khích, nếu không bà không thể thách thức những vị thần như thế.

 Vào đầu buổi tối ngày 11 tháng 5, Sanjeevamma cảm thấy những điềm báo về sự sắp sửa sinh nở đứa trẻ. Đứa trẻ này sẽ là đứa con thứ tám, và bà ý thức rõ ràng những chuẩn bị theo thói quen cần thiết cho sự sinh nở. Thế là bà chuẩn bị căn phòng, hát những bài hát Telugu[1] cho người chồng của bà trong giọng du dương của bà, và nghỉ trên một tấm thảm trong tầng trên của ngôi nhà. Gần về nửa đêm những cơn đau bắt đầu. Bà đánh thức Narianiah, đi đến căn phòng nơi bà đã chuẩn bị, và nằm xuống trên một tấm thảm chờ sinh đứa con. Một người đàn bà địa phương, một người họ hàng thành thạo cho công việc đỡ đẻ, đến giúp đỡ trong khi người chồng chờ bên ngoài. Sanjeevamma không đau đớn nhiều. Suốt giai đoạn đó những từ ngữ duy nhất mà bà bật ra là,“Rama, Rama

 Anjaneya,” một cái tên khác dành cho Hanuman.[2] Vào lúc 12:30, sáng sớm ngày 12 tháng 5, người đỡ đẻ mở cửa và nói với Narianiah, “Sirsodayam, cái đầu nhìn thấy rồi.” Theo truyền thống, đó là khoảnh khắc chính xác của sinh ra đời.

 Trong căn phòng nhỏ xíu được thắp sáng bởi những cây đèn dầu, trong sự hiện diện của ishta devata, thần giữ nhà, Krishnamurti có hơi thở đầu tiên của ông. Từ những không gian được bảo vệ của tử cung, đứa bé đi vào những không gian của thế giới.

 “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

 Sáng hôm sau lá số tử vi của đứa trẻ được tiên đoán bởi Kumara Shrowthulu, một người chiêm tinh nổi tiếng của vùng đó. Ông ấy bảo cho Narianiah rằng đứa trẻ này sẽ là một con người rất vĩ đại. Lá số tử vi rất phức tạp; đứa trẻ sẽ gặp phải nhiều trở ngại trước khi đứa trẻ lớn lên để trở thành một người thầy vĩ đại.

 Suốt mười một ngày của thời kỳ được quy định, đứa trẻ nghỉ ngơi trong một bầu không khí được tái tạo trong môi trường của tử cung. Đứa trẻ nằm trong bóng tối lờ mờ, được ru nhe nhẹ trong một cái nôi vải đặt kế cận người mẹ của đứa trẻ. Giống như tất cả những sinh sản truyền thống của Ấn độ, đường vào ánh sáng chói lòa của mặt trờithế giới của Krishanmurti phải xảy ra dần dần.

 Vào ngày thứ sáu sau khi sinh ra, nghi thức đặt tên được tổ chức. Trong gia đình bị trói buộc bởi truyền thống, chắc chắn đứa con trai thứ tám phải được đặt tên là Krishnamurti, biểu tượng của Krishna, vị thần của người chăn bò mà là đứa trẻ thứ tám.

 Ba năm sau, năm 1898, một cậu trai khác được sinh ra bởi Sanjeevamma. Cậu được đặt tên là Nityanada, “hạnh phúc vĩnh cửu.”

 Khi Krishna được sáu tuổi upanayanama được thực hiện. Đây là một nghi lễ của sự khởi sự vào brahmacharya, thời kỳ của sự kỷ luật trong trắng mà là chặng đầu tiên trong sống của một Brahmin. Nghi lễ xảy ra tại Kadiri, nơi Narianiah đã được thâu nhận trước kia.

 Sợi chỉ xe lại thiêng liêng được choàng quanh hai vai của Krishna và câu thần chú gayatri huyền bí, sự cầu khẩn mặt trời, được thì thầm vào tai của Krishna bởi người cha của cậu. Ông ấy được dạy để lặp lại câu thần chú bằng ngữ điệu, nhấn giọng, và cử chỉ đúng. Chắc chắn ông ấy đã học để lặp lại câu thần chú gayatri với mặt trời vào lúc bình minh và thực hiện những nghi lễ Sandhi vào hoàng hôn, tắm theo nghi lễ, và không bị bất kỳ hình thức nào của sự ô uế. Ông ấy cũng phải được dạy để lặp lại kinh Vedas.

 Theo sự diễn tả của Narianiah, “Nó là một nghi lễ mà những cậu trai Brahmin phải trải qua khi đến thời điểm đưa họ vào thế giới giáo dục. Nó xảy ra giữa tuổi năm hay bảy, tùy theo sức khỏe và khả năng của đứa trẻ. Vì vậy khi Krishna đã đến tuổi đó, một ngày phải được dành ra cho nghi lễ này. Đó là phong tục của chúng tôi phải tổ chức nó thành một lễ hội gia đình, và bạn bè lẫn thân quyến đều được mời dự bữa tối.”

 Khi tất cả mọi người tụ họp, Krishna được tắm và được mặc vào bộ quần áo mới. Sau đó cậu bé được mang vào và đặt trên hai đầu gối của người cha, trong khi bàn tay vươn dài của Narianiah đỡ một cái khay bạc rắc đầy hạt gạo. Mẹ của cậu, đang ngồi bên cạnh Narianiah, kế tiếp cầm ngón trỏ bàn tay phải của cậu, và vẽ ngón tay đó trên gạo từ ngữ thiêng liêng AUM, mà trong bản dịch tiếng Phạn của nó chỉ gồm có một chữ duy nhất – chữ đầu tiên trong mẫu tự chữ cái trong tiếng Phạn và trong tất cả những ngôn ngữ bản xứ.

 “Tiếp theo,” Narianiah nói, “nhẫn của tôi được tháo ra khỏi ngón tay, và được đặt giữa ngón đó và ngón cái của cậu bé; và người vợ của tôi, đang cầm bàn tay nhỏ, lại vẽ từ ngữ thiêng liêng trong ký tự Telugu bằng chiếc nhẫn. Tiếp theo, không dùng nhẫn, chữ đó lại được vẽ ba lần. Sau việc này, những câu thần chú được lặp lại bởi người giáo sĩ chủ lễ để cầu nguyện cho cậu trai được ban tặng trí thông minhtinh thần. Sau đó, dắt theo Krishna, vợ tôi và tôi lái xe đến ngôi đền Narasimhaswami để bày tỏ sự sùng kínhcầu nguyện cho sự thành công trong tương lai của cậu con trai. Từ đó chúng tôi lái xe đến ngôi trường gần nhất, nơi Krishna được giao cho thầy giáo, mà thực hiện, trong cát, cùng nghi lễ vẽ từ ngữ thiêng liêng. Trong khi đó, nhiều em học sinh tụ tập trong lớp học, và chúng tôi phát cho các em những đồ vật đẹp để thết đãi các em. Thế là chúng tôi đã bắt đầu công việc học hành của cậu con trai, theo phong tục của chúng tôi. Sau đó chúng tôi lái xe về nhà và cùng ăn uống với họ hàng và bạn bè của chúng tôi.”

 Krishna và người em trai của cậu Nitya rất gần gũi nhau, nhưng theo bản chất họ hoàn toàn khác biệt. Nitya thông minh lạ thường. Thậm chí “trước thời gian cậu ấy biết nói, khi cậu thấy những bé trai khác đi học, cậu ấy sẽ lấy một cái bảng đá và cây bút chì và đi theo chúng.” Krishnamurti là một đứa trẻ yếu ớt và phải chịu đựng những cơn sốt rét nghiêm trọng. Có một khoảng thời gian cậu bị những cơn co giật, và trong nguyên một năm không được đến trường bởi vì bị chảy máu ở mũi và miệng.

 Krishnamurti không hứng thú mấy trong trường học và công việc học vấn, nhưng lại ưa thích trải qua nhiều tiếng đồng hồ nhìn ngắm những đám mây, những con ong, những con kiến và những con côn trùng, và nhìn vào những khoảng không mênh mông. Cậu được mọi người miêu tảbệnh hoạntinh thần không phát triển. Trạng thái mơ màng của cậu, chẳng nói bao nhiêu lời, không quan tâm những công việc của thế gian, và mắt nhìn chằm chằm vào thế giới phía bên ngoài cửa sổ, thấy xa xa khỏi những đường chân trời, bị nhận định sai lầm là chậm phát triển về trí óc bởi người thầy giáo.

 Krishnamurti trẻ tuổi, bất kể trạng thái có vẻ mơ màng của cậu, rất thích thú tất cả những dụng cụ thuộc máy móc. Có một ngày Krishna trốn học. Đi tìm cậu, người mẹ phát giác cậu ở một mình trong phòng, đang mê mải tháo tung cái đồng hồ. Cậu sẽ không rời khỏi phòng, và không ăn uống gì cả cho đến lúc cậu đã tháo rời mọi bộ phận của cái đồng hồ, sau khi đã hiểu rõvận hành ra sao, đặt máy móc trở lại vị trí cũ của nó.

 Cậu trai Krishna quyến luyến người mẹ nhiều, người dường như nhận biết được bản chất độc đáo của con trai bà. Sanjeevamma chết năm 1905, và cái chết của bà khiến cho cậu bị rối loạn và lơ đãng. Nhiều năm sau, mùa hè năm 1913, Krishnamurti quyết định viết tự truyện của ông, khi ông ở Paris. Ông đặt cho nó tựa đề “Năm mươi năm cuộc đời của tôi,” dự tính khi những năm qua đi sẽ “thêm vào những việc mới xảy ra, và đến năm 1975 tôi sẽ sắp xếp lại tựa đề.” Tiếc thay, câu chuyện phải hủy bỏ sau vài trang đầu tiên. Tuy nhiên, bản thảo ngắn tiết lộ nhiều hiểu biết lý thú về những cảm giác và cuộc sống lúc ban đầu cùng người mẹ của cậu. Lúc mười tám tuổi những kỷ niệm về thời niên thiếu của cậu vẫn còn rõ ràng, và có một thương tâm khi cậu diễn tả lại những ảo tưởng về người mẹ sau cái chết của bà:

 

Những kỷ niệm hạnh phúc nhất về thời niên thiếu của tôi vây quanh người mẹ yêu quý, người trao cho chúng tôi tất cả sự chăm sóc thương yêutiêu biểu nơi những người mẹ Ấn độ. Tôi không thể nói rằng tôi thực sự hạnh phúc nơi trường học, bởi vì những thầy giáo không tử tế lắm và bắt tôi làm những bài học quá khó đối với tôi. Tôi thích những trò chơi miễn là chúng không quá mạnh mẽ, bởi vì sức khoẻ tôi yếu lắm. Cái chết của mẹ tôi khiến cho anh em tôi mất đi người thương yêu và chăm sóc cho chúng tôi nhiều nhất, và cha tôi quá bận rộn bởi công việc của ông nên không lưu ý đến chúng tôi nhiều được. Tôi sống một sống thông thường như mọi đứa trẻ bình thường khác của Ấn độ cho đến khi tôi đến Adyar năm 1908 [thật ra nó là tháng giêng năm 1909].

 Đối với tôi, Adyar có một quan tâm đặc biệt bởi vì cha tôi thường tham dự những hội nghị của Tổ chức Thông thái ở đó. Cha cũng tổ chức những gặp gỡ trong nhà của chúng tôi ở Mandanapalle cho việc học hành của Theosophy và tôi hiểu về Adyar từ cha mẹ. Mẹ tôi có một căn phòng puja nơi mẹ đều đặn thờ cúng, trong căn phòng là những bức tranh của những vị thần Ấn độ và cũng có cả một bức ảnh của Mrs. Besant trong trang phục Ấn độ đang ngồi bắt chéo chân trên một chowki hay cái đệm nhỏ phủ da hổ.

Tôi thường ở nhà trong khi anh em của tôi đi học bởi vì tôi bị sốt nhiều lắm – thật ra hầu như mỗi ngày, và tôi thường đi vào căn phòng puja khoảng buổi trưa khi mẹ thực hiện những nghi lễ hàng ngày. Lúc đó mẹ sẽ kể cho tôi về Mrs. Besant và về Nghiệp và Luân hồi và cũng đọc cho tôi từ quyển kinh Mahabharata Ramayana và từ những quyển kinh Ấn độ khác. Tôi chỉ vào khoảng bảy hay tám tuổi, vì vậy tôi không thể hiểu nhiều lắm, nhưng tôi nghĩ tôi đã cảm thấy rất nhiều rằng thật ra tôi không thể hiểu được.

Viết về mẹ tôi nhắc tôi nhớ lại vài chuyện xảy ra mà có lẽ đáng được đề cập. Trong chừng mực nào đó, chắc chắn mẹ tôi sống tâm linh nhiều, và thường thấy người chị của tôi đã chết cách đây khoảng hai hay ba năm. Họ nói chuyện với nhau và có một nơi đặc biệt trong vườn nơi chị tôi thường đến. Mẹ tôi luôn luôn biết khi nào chị tôi ở đó và thỉnh thoảng dắt tôi đến nơi đó và sẽ hỏi tôi liệu tôi cũng thấy người chị chứ. Thoạt đầu tôi cười khi nghe như thế nhưng mẹ bảo tôi nhìn kỹ lại và sau đó thỉnh thoảng tôi đã thấy chị tôi. Và từ lúc đó trở đi tôi luôn luôn có thể thấy chị tôi. Tôi phải thú nhận rằng tôi sợ lắm, bởi vì tôi đã thấy chị khi chết và thân thể của chị khi hỏa thiêu. Tôi thường chạy ào về phía mẹ tôi và mẹ bảo với tôi rằng không có lý do gì phải sợ hãi. Tôi là thành viên duy nhất trong gia đình, ngoại trừ mẹ tôi, thấy những cảnh này, mặc dù tất cả đều tin chúng. Mẹ tôi cũng có thể thấy những hào quang của con người, và thỉnh thoảng tôi cũng thấy chúng. Tôi không nghĩ mẹ biết ý nghĩa của những màu sắc đó. Có nhiều việc xảy ra khác nữa cũng cùng bản chất nhưng lúc này tôi không nhớ rõ. Chúng tôi thường kể chuyện về Sri Krishna mà tôi cảm thấy cuốn hút một cách đặc biệtmột lần tôi hỏi mẹ tại sao ông ấy luôn luôn được tượng trưng trong màu sắc là màu xanh. Mẹ bảo cho tôi rằng hào quang của Ngài là màu xanh nhưng tôi không hiểu làm thế nào mẹ biết điều đó.

Mẹ tôi rất nhân từ. Mẹ tử tế với những cậu trai nghèo và đều đặn cung cấp lương thực cho những người thuộc tầng lớp riêng của bà. Mỗi cậu trai đến nhà chúng tôi vào một ngày đặc biệt trong tuần, và đi tới những nhà khác vào những ngày khác. Hàng ngày chúng tôi có những người ăn xin thường đến nhà từ rất xa để nhận gạo, dal thỉnh thoảng quần áo.

Trước khi đến Adyar, anh em tôi theo học tại nhiều trường, trường học thú vị nhất là ngôi trường ở Madanapalle. Đầu tiên tôi học trường này khi tôi là một đứa bé, bởi vì tôi được sinh ra ở Mandanapalle. Cha tôi là một viên chức chính phủ, ông liên tục được chuyển đi từ nơi này sang nơi khác, và vì vậy sự giáo dục của chúng tôi bị gián đoạn nhiều.

Sau cái chết của mẹ tôi, những vấn đề càng tồi tệ thêm, bởi vì thực sự không còn ai chăm sóc chúng tôi. Liên quan đến cái chết của mẹ, tôi được phép đề cập rằng tôi thấy mẹ thường xuyên sau khi mẹ chết, tôi nhớ có một lần đi theo hình bóng của mẹ tôi khi nó đi lên lầu. Tôi vươn tay ra và dường như nắm được áo của mẹ, nhưng mẹ biến mất ngay khi chúng tôi đến đầu cầu thang. Chỉ mới cách đây một thời gian ngắn, tôi thường thấy mẹ theo sau khi tôi đi học. Tôi đặc biệt nhớ điều này bởi vì tôi nghe âm thanh của những cái vòng mà những người đàn bà Ấn độ thường đeo nơi cổ tay. Thoạt đầu tôi thường quay đầu nhìn lại hơi hơi sợ hãi và tôi thấy hình dáng mờ mờ của cái áo mẹ hay mặc và một phần của khuôn mặt. Điều này xảy ra thường xuyên khi tôi đi khỏi nhà.

 

 

CHƯƠNG 2

 Tổ chức Thông thái và Thứ bậc Huyền bí

 

M

adame Helen Petrovna Blavatsky (1831-1891), thường được gọi là H. P. B, là một người đàn bà lạ thường theo những thông tin thâu thập được. Cùng tầm nhìn tâm linh và đôi mắt thôi miên xuyên thấu, và cùng một nhân cách khích động sự tranh luận, bà đã xuất hiện trên vùng đất Ấn độ năm 1879. Một người Nga chính gốc, bà khẳng định đã sống ở Tây tạng nhiều năm và tiếp xúc trực tiếp với những Manhatman[3] hay những Bậc Thầy của Huynh đệ huyền bí. Chính nơi đó, bà đã học hành từ vị đạo sư của bà, người thầy của bà, những học thuyết được giữ gìn tốt của những hiền nhân Tây tạng. Trong khi bà ở Châu âu năm 1873, những Bậc Thầy của bà yêu cầutìm kiếm Đại tá Henry Steele Olcott, một người bạn nghiên cứu tâm linh ở Mỹ. Vâng lời, bà đến đó, gặp Đại tá Olcott, và đến năm 1875 Theosophical Society Tổ chức Thông thái đã được hình thành. Chẳng mấy chốc họ đi cùng nhau – trước hết đến Bombay và sau đó đến Ceylon, nơi họ nhận được sự khai tâm của Phật giáo, và sau đó đến Madras. Năm 1882 Bộ Chỉ huy của Tổ chức Thông thái đã được thành lập tại Adyar, Madras.

 Tổ chức Thông thái được đặt nền tảng trên những nguyên lý cơ bản của một tình huynh đệ toàn cầu của nhân loại, mà tìm kiếm để học hành sự thông thái cổ xưa và tìm hiểu những bí mật che giấu của thiên nhiên và những khả năng tiềm tàng của con người. Nó thiết lập một thứ bậc huyền bí được rút ra từ những truyền thống của Phật giáo và Ấn giáo, đặc biệt những kinh điển thuộc Tây tạng.

 Đứng đầu của thứ bậc là Sanat Kumar, được đề cập trong kinh Tantras, trong Bhagvat, và trong những lời kinh về sự thay đổi đầu tiên, vì đang ở tuổi mười sáu tràn trề sức sống, mãi mãi tươi trẻ, tự do khỏi tất cả thời gian, như quá khứ, hiện tại, và tương lai; trong thứ bậc huyền bí ông được coi như Chúa của Thế giới. Dưới Kumar là Buddha. Và dưới Buddha là ba người đứng đầu biểu trưng của hệ mặt trời: Bồ tát Maitreya, Buddha tương lai; Mahachohan, một hình thể không tìm được trong bất kỳ quyển kinh cổ nào của Phật giáo hay Ấn giáo; và Manu, một trong những người cha của nhân loại, theo kinh Rig Veda. Liên quan lẫn nhau, họ tượng trưng quả tim như từ bi, cái đầu như trí tuệ, và hai bàn tay như kỹ năng trong hành động. Dưới họ là những Manhatman hay những Bậc Thầy, mà trong nhiều năm kế tiếp chính họ sẽ tiến hóa để là những bồ tát và những Mahachohan. Thầy Koot Hoomi (hay Thầy K. H., như ông được biết đến) có thân thể của một Kashmiri Brahmin, trong khi Thầy Morya (Thầy M.) có thân thể của một thái tử Rajput. Hai Bậc Thầy này đã hướng dẫn công việc của Tổ chức Thông thái và những môn đồ mà đã trải qua những khai tâm khác nhau dưới sự hướng dẫn nhân từ của họ.

 Vào cuối thế kỷ mười chín những tin đồn về Đấng Cứu thế hay Thầy Thế giới sắp đến đã loan truyền trong những cộng đồng huyền bí. H. P. B. đã viết trước khi bà chết năm 1891 rằng mục đích thực sự của Tổ chức Thông thái là chuẩn bị cho sự giáng sinh của Thầy Thế giới.

 Năm 1889 Annie Besant (1847-1933) tình cờ đọc quyển Học thuyết bí mật của Blavatsky, và sau đó gặp người sáng lập của Tổ chức Thông thái. Besant, hay A. B., là một người chống đối, một người suy nghĩ tự do, một người đấu tranh mạnh mẽ cho những nguyên nhân mà bà nghĩ rằng đúng đắn. Hùng biện và tận tụy, bà có một khả năng tổ chức thuộc trật tự rất cao. Bà là một người vận động nhiệt thành cho sự tự do suy nghĩ, quyền lợi của nữ giới, đoàn kết thương mại, chủ nghĩa xã hội thay đổi từ từ, và kiểm soát sanh đẻ. Nhưng quyển sách của Blavatsky đã thay đổi bà hoàn toàn. Bà chuyển những năng lượng vô hạn của bà khỏi chủ nghĩa vật chấtchủ nghĩa vô thần để hướng về sự theo đuổi huyền bí và thiêng liêng. Những bạn bè và những người khâm phục bà – trong số họ là Bernard Shaw, Sidney và Beatrice Webb và Charles Bradlaugh – bị sững sốt khi bà gia nhập Tổ chức Thông thái. Chia tay những người bạn cũ, và nhận biết được sự hoài nghi về công việc mới của bà sẽ khuấy động nơi những người đã khâm phục bà, bà viết:

 Nhưng lúc này, cũng như tại những thời điểm khác, trong cuộc đời của tôi, tôi không đủ can đảm để mua hòa bình bằng một dối gạt. Một nhu cầu cấp bách thúc đẩy tôi phải nói sự thật, bởi vì tôi thấy nó, dù lời nói có làm hài lòng hay gây thất vọng, dù nó mang lại ngợi khen hay chê bai. Sự trung thành tuyệt đối đến Sự thật đó khiến tôi phải giữ gìn sự trong sạch, dù tình bạn bè có thể nứt rạn hay những ràng buộc của con người có thể bị cắt đứt. Bà có lẽ dẫn tôi vào sa mạc, tuy nhiên tôi phải theo sau bà; bà có lẽ tước đoạt tất cả thương yêu, tuy nhiên tôi phải đeo đuổi bà, mặc dù bà giết chết tôi, tuy nhiên tôi sẽ tin cậy bà, và tôi không yêu cầu bất kỳ lời nào ghi trên bia mộ của tôi ngoại trừ

 “Bà đã cố gắng theo đuổi Sự Thật.”

Khi bà đến Ấn độ vào năm 1893, lúc bốn mươi sáu tuổi, sự quan tâm và những nói chuyện nhiệt thành về Ấn độ suốt cuộc đời của bà đã bắt đầu.

 Bà hiểu rõ Ấn độ không quan tâm nhiều lắm về điều gì bà cảm thấynhiệm vụ thực sự của nó trong thế giớiđặc tính thiên tài về những tôn giáohiểu biết thuộc tinh thần của quốc gia này. Bà đưa ra mấu chốt này tại một trong những giảng thuyết đầu tiên của bà:

Nếu tôn giáo không còn ở đây, nó sẽ không còn ở bất kỳ nơi nào nữa và trong tay của Ấn độ được ủy thác trách nhiệm thiêng liêng phải thắp sáng ngọn đuốc của tinh thần trong những lớp sương mù và những cơn bão của chủ nghĩa vật chất đang gia tăng. Nếu ngọn đuốc đó rơi khỏi bàn tay của Ấn độ, lửa của nó sẽ bị dập tắt bởi bàn chân của vô số con người hối hả, hăm hở sục sạo những món hàng trần tục; và nếu Ấn độ, bị mất đi Tinh thần, sẽ không còn tương lai, nhưng sẽ chuyển vào sự tối tăm, như Hy lạp và La mã đã trải qua.

Annie Besant tìm hiểu những quyển sách thiêng liêng của Ấn độ, học tiếng Phạn, tổ chức những bàn luận cùng những người lãnh đạo tôn giáo của quốc gia. Bị cuốn hút bởi những đam mê của những từ ngữ bà trình bày, nhiều người trí thức và những người khao khát trẻ tuổi lũ lượt kéo đến gặp bà và gia nhập Tổ chức Thông thái. Lắng nghe bằng sự chú ý say mê và được nung nóng bởi sự hùng biện của bà là một cậu trai trẻ, Jawaharlal Nehru mười hai tuổi. Cậu đã đến nghe Mrs. Besant dưới ảnh hưởng của giáo viên người Ireland gốc Bỉ của cậu, Ferdnand T. Brooks, một người nhiệt thành của tổ chức.

 Bị cuốn hút bởi học thuyết và tài hùng biện của Besant, cậu đã đến gặp người cha, Motilal Nehru (người theo chủ nghĩa quốc gia và là một luật sư nổi tiếng mà sau đó thành lập đảng Congress), và xin phép được gia nhập Tổ chức Thông thái. Motilal cười. Ông cũng đã là một thành viên của Tổ chức Thông thái trong những ngày của Madame Blavatsky. Sự xin phép được chấp thuận, và mười ba tuổi Jawaharlal Nehru đã trở thành một thành viên và được khai tâm bởi chính Mrs. Besant. Cậu tham dự một hội nghị ở Varanasi và thấy Đại tá Olcott với bộ râu quai nón bạc. Khi Nehru trẻ tuổi rời đó để đến Harrow, Tổ chức Thông thái chẳng mấy chốc phai lạt trong ý thức của cậu. Nhưng ba năm tiếp xúc với nó sẽ để lại một ấn tượng cho cậu và nhân cách của cậu, mà sau đó cậu đã công nhận sự ngưỡng mộ Annie Besant của cậu.

 Với cái chết của Đại tá Olcott năm 1907, Annie Besant trở thành chủ tịch của Tổ chức Thông thái và một phân chia dữ dội của những phe phái bên trong Tổ chức Thông thái đã xảy ra từ trước biến cố này. Ngay sau khi Mrs. Besant nắm quyền, bà tiếp xúc gần gũi với Charles Webster Leadbeater hay C. W. L. (1847-1934), một mục sư theo giáo phái Anh có những quyền năng tiên tri nổi tiếng. Vài năm trước, những chuyện xảy ra liên quan đến sự đồng tính luyến ái giữa ông ấy và những cậu trai trẻ đã dẫn đến việc trục xuất ông khỏi Tổ chức; nhưng Mrs. Besant nhận biết được những khả năng tâm linh của ông và từ chối chấp nhận những hình phạt về ông ấy, đã chấp thuận cho ông ấy trở lại Tổ chức ngay khi bà làm chủ tịch. Mau lẹ, Leadbeater ở thứ bậc cao trong Thứ bậc Huyền bí của Tổ chức Thông thái.

 Narianiah về hưu không còn phục vụ trong chính phủ vào năm 1908. Với đồng lương ít ỏi 125 rupees một tháng, ông thấy không thể duy trì gia đình đông người của ông – ngoài các cậu con, ông cũng có trách nhiệm phải cấp dưỡng cho người chị và các cháu trai. Ông đã tham gia Tổ chức Thông thái năm 1882, và bây giờ ông viết cho Mrs. Besant để xin một công việc ở Adyar. Thoạt đầu bà từ chối, vì nhận biết rằng những rắc rối của một gia đình đông người sẽ ảnh hưởng đến sự an bình và yên tĩnh trong khuôn viên của Tổ chức. Nhưng Narianiah kiên trì, và chẳng mấy chốc ông ở Adyar, làm việc như người thư ký phụ tá cho Esoteric Section (E. S.). Ông nhận một ngôi nhà nhỏ xíu phía ngoài Tổ chức; người chị của ông trông nom những công việc trong nhà.

 Hàng ngày Krishna và người em Nitya phải đi bộ đến trường tại Mylapore, nơi tánh lơ đãng của Krishna bị trừng phạt nghiêm khắc. Cậu vẫn mơ màng và không hứng thú học hành; thầy giáo đánh giá cậu hơi hơi loạn trí. Nhưng người cô của Krishnamurti lại rất ưa thích cậu Krishna trẻ, không quyến luyến thế gian và có đôi mắt mơ màng, và nhận biết được sự thông minh chớm nở của cậu, đặt tên cậu là Dronachari, giống như Drona, đạo sư của Pandavas và Kauravas trong thiên sử thi Mahabharata.

 Các cậu trai của Narianiah thường đi tắm trên bãi biển Adyar, nơi Leadbeater thấy họ. Năm 1899 chủ đề bài giảng của Mrs. Besant tại Adyar là “Avatars” “Giáng thế.” Năm 1908, suốt chuyến đi giảng thuyết tốc hành ở Mỹ, bà nói liên tục về Thầy Thế giới sắp đến. Suốt nhiều ngày Leadbeater, quan sát Krishnamurti, mỗi lúc càng ý thức được sự hiện diện của cậu trai trẻ và hào quang lạ thường không bị ô uế bởi tánh vị kỷ.

 Vào một buổi chiều Mr. Leadbeater, khi trở về căn phòng sau buổi đi bơi thường lệ, kể cho Ernest Wood, một thanh niên trẻ đang giúp đỡ Leadbeater trong những tìm hiểu huyền bí của ông, rằng một trong những cậu trai có một hào quang lạ thường; đó là Krishnamurti. Wood biểu lộ sự ngạc nhiên – anh biết những cậu trai, và chắc chắn Krishnamurti không là một trong những người sáng láng. Nhưng Leadbeater quả quyết rằng ngày nào đó chính Krishnamurti sẽ trở thành một người thầy tinh thần và một người giảng thuyết vĩ đại. Wood hỏi, “Vĩ đại như thế nào? Vĩ đại bằng Mrs. Besant?” Leadbeater được người ta kể lại đã trả lời rằng, “Vĩ đại hơn nhiều.”

 Krishnamurti diễn tả sự gặp gỡ Leadbeater của cậu – mà hoàn toàn có thể là người Châu âu đầu tiên cậu đã gặp – trong tự truyện của cậu:

 

 Đầu tiên khi chúng tôi đến Adyar, chúng tôi sống trong một cái nhà gần khu in ấn mới. Hàng ngày chúng tôi đi học tại trường Mylapore. Vào những buổi sáng sớm và tối chúng tôi chuẩn bị những bài học ở nhà. Sau một thời gian chúng tôi bắt đầu bơi lội ngoài biển cùng những cậu trai khác sống gần đó. Vào một trong những dịp này, năm 1909, lần đầu tiên chúng tôi gặp người bạn thân mến và người anh lớn tuổi của tôi, C. W. Leadbeater. Sự gặp gỡ khá ngẫu nhiên.

 Như tôi có thể nhớ lại, anh ấy (Leadbeater) đang đi xuống biển cùng Mr. Van Manen và những người khác để bơi. Tôi không nhớ bất kỳ nói chuyện đáng kể nào, đặc biệt vì tôi không biết tiếng Anh giỏi lắm. Sau gặp gỡ này chúng tôi gặp nhau rất thường xuyênthỉnh thoảng anh mời chúng tôi đến nhà của anh hay nói khác hơn một bungalow. Anh ấy đang sống trong một bungalow kiểu xây dựng ở sông tại thời điểm khi tôi viết những hàng này.

 Lần đầu tiên khi đến phòng của anh ấy tôi sợ hãi lắm, bởi vì hầu hết những cậu trai Ấn độ đều sợ hãi những người Châu âu. Tôi không hiểu tại sao sự sợ hãi này lại được sinh ra; nhưng một trong những nguyên nhân, khi tôi là một cậu trai, có nhiều khích động thuộc chính trị và những tưởng tượng của chúng tôi bị khích động bởi những bàn tán quanh chúng tôi. Tôi cũng phải thú nhận rằng thông thường những người Châu âu ở Ấn độ chẳng tử tế gì mấy đối với chúng tôi, và tôi thường thấy nhiều hành động tàn nhẫn của họ mà khiến chúng tôi càng cay đắng thêm. Tôi ước ao những người Anh ở Ấn độ có thể hiểu rõ rằng những cậu trai Ấn độ cũng thương yêu tổ quốc của họ nhiều như những người Anh thương yêu tổ quốc của họ và cũng cảm thấy bất kỳ sự sỉ nhục nào đều sâu đậm, dù là không cố ý.

 Vì vậy, chúng tôi ngạc nhiên vô cùng khi phát giác một người Anh mà cũng là một người thuộc Tổ chức Thông thái khác biệt đến chừng nào. Chúng tôi mau chóng rất thân thiện với Mr. Leadbeater, và đều đặn anh ấy giúp đỡ chúng tôi những bài học. Thời gian sau Mr. R. B. Clarke, một kỹ sư trẻ, đến Adyar và họ sắp xếp cùng cha tôi rằng người em Nitya của tôi và tôi nên nghỉ học để được giáo dục tại Adyar bởi Mr. Leadbeater và Mr. Clarke. Thật mau lẹ chúng tôi tiến bộ hơn lúc trước rất nhiều. Sống trở thành rất đều đặn. Chúng tôi đến bungalow của Leadbeater từ sáng sớm, học cho đến thời gian được gọi là điểm tâm, mà chúng tôi ăn ở nhà, và sau đó quay lại học tiếp với anh ấy. Buổi chiều chúng tôi chơi quần vợt hay đi ra biển học bơi. Cha tôi rất vui mừng khi thấy sự tiến bộ của chúng tôicuối cùng, ngày 14 tháng tám họ quyết định rằng chúng tôi không cần đi đến trường nữa.

 

 Krishnamurti đã nhận được sự lưu ý bởi Leadbeater tại thời điểm khi người Anh này đang đảm trách một thâm nhập thuộc tâm linh vào những sống đời trước của những người gần gũi ông. Chẳng mấy chốc ông bắt đầu dò dẫm vào những sống đời trước của Krishnamurti. Những đột phá vào quá khứ huyền bí của Krishna sau đó được xuất bản như “những sống của Alcyone.” Tên Alcyone được rút ra từ “halcyon,” vì sao sáng nhất trong chòm Pleiades. Những thâm nhập tiết lộ một danh sách rõ ràng về những lần ra đời quá khứ khi Krishna đã là một môn đệ của Buddha, và những lần ra đời khác khi sự từ bithông minh của cậu đã phát triển và tỏa sáng.

 Tại thời điểm những cậu trai được phát hiện, phần đầu phía trước của các em được cạo láng (đó là phong tục của Nam Ấn độ); Krishnamurti có mái tóc dài đến đầu gối. Cậu gầy còm và suy dinh dưỡng. Chẳng mấy chốc, Krishnamurti và người em Nitya bắt đầu công việc học hành ở Adyar. Thoạt đầu những luật lệ nghiêm ngặt của giai cấp Brahmin về thực phẩm được duy trì, nhưng những luật lệ đó được thả lỏng khi Leadbeater từ từ mất kiên nhẫn và ông bắt đầu tách rời hai cậu ra khỏi sự ảnh hưởng của người cha. Thế là Narianiah bắt đầu tạo ra những khó khăn. Ngay lập tức, Leadbeater viết cho Mrs. Besant rằng người đàn ông đã mất đi sự sáng suốt và rơi vào sự ảnh hưởng của “Những thế lực đen tối.” Tiếp theo, những chỉ thị được “thâu nhận” bởi Leadbeater từ Master Koot Hoomi. Thông điệp như thế này:

Họ đã sống lâu đời trong địa ngục; cố gắng chỉ cho họ cái gì đó của thiên đàng. Ta muốn họ nhận được mọi thứ đối nghịch với những điều kiện trước của họ. Thay vì thù hận, kinh tởm, đau khổ, tồi tàn, không điều độ, không được chăm sóc và dơ bẩn, ta muốn họ được vây quanh bởi một bầu không khí của thương yêuhạnh phúc, tự tin, điều độ, sự sạch sẽ thân thể và sự thuần khiết tinh thần hoàn hảo … Tách rời họ càng xa bao nhiêu càng tốt để ở trong hào quang của bạn và của Annie để cho họ có thể được bảo vệ khỏi những xấu xa và những suy nghĩ xác thịt … Ta muốn bạn tập cho họ sống văn minh; dạy họ dùng muỗng và nĩa, cắt móng tay và đánh răng, ngồi thoải mái trên những cái ghế thay vì chồm hỗm trên mặt đất, ngủ đúng cách trên giường, không phải trong một góc giống như một con chó.

Không thể hình dung được rằng một Bậc Thầy của sự thông minh – mà cũng là một Brahmin Kashmiri – có thể đã viết lá thư này, được chứa đầy những gợi ý của thuộc địa và thành kiến rõ ràng của thời Victoria. Sự khinh miệt của những người Anh ở Ấn độ liên quan đến văn hóa và những thói quen sinh hoạt của Ấn độ đều thể hiện trong lá thư này. Nó được viết ra tại thời gian khi những người đàn ông, đàn bà, và trẻ em, giàu có hay nghèo khổ, ở Nam Ấn độ ngồi và ngủ trên một tấm thảm trên nền nhà, và nơi gia đình sum họp đã cung cấp sự ấm áp và một ý thức của phụ thuộc lẫn nhau hiếm khi nào thể hiện ở phương Tây.

Cũng khó khăn để tin tưởng rằng những anh em của cậu lại bẩn thỉu trong những thói quen của họ; là những người Brahmin, chắc chắn họ phải tắm nhiều lần một ngày. Tắm theo nghi lễ diễn ra trước một lần tắm bằng dầu là một kỷ luật được tuân thủ nghiêm ngặt. Răng phải đều đặn được chải sạch bởi một cọng cây sầu đâu, có lẽ là chất tẩy uế tốt nhất còn tồn tại; chắc chắn giặt giũ quần áo hàng ngày cũng là nhiệm vụ đều đặn của một gia đình.

Vào nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi, những người Ấn độ được đánh giá bởi những người Anh đang cai trị Ấn độ như một bộ phận tất yếu của lãnh thổ quốc gia – phải được duy trì tại một khoảng cách vừa đủ, phải được khoan dung nhất; nhưng dù ở bất kỳ tình huống nào một người Ấn độ không được khuyến khích để thân thiết, và một thái độ hạ thấp mình xuống lan tỏa trong hầu hết mọi sự liên hệ. Do bởi trong môi trường này mà cậu bé Krishna, được sinh ra là một Brahmin nhưng trong một gia đình rất thấp kém trong thứ bậc viên chức, bỗng nhiên được công nhận bởi một người Anh huyền bí lập dị, trong một lóe sáng của sự thấu triệt tâm linh, và sau đó được công nhận như phương tiện của sự hiện thân của Bồ tát Maitreya.

Krishna và Nitya được cứu khỏi những kiềm tỏa thuộc ngôi nhà bé tí của họ để vào trong sự hoành tráng của những tòa nhà thuộc bộ Chỉ huy Tổ chức Thông thái và những vùng đất vô hạn của nó. Hai cậu trai được đảm trách bởi C. W. L., một người đàn ông da trắng được kính trọng có bộ râu quai nón dài mà nói một ngôn ngữ bí truyền của những Bậc Thầy tỏa sáng và những người khai tâm, những sống thuộc quá khứ và những hóa thân rực rỡ. Hệ thần kinh nhạy cảm lạ thường và những nhận biết của Krishna, được hướng đến ăn khớp với một tình trạng mong chờ, có thể đã tiếp xúc với kho báu của tầng ý thức phía bên trong thuộc chủng tộc. Nền quá khứ Brahmin và sự mô tả bằng hình tượng của nó cung cấp những sợi chỉ dọc cho sợi chỉ ngang trên khung cửi của hình tượng thuộc Tổ chức Thông thái. Những hình dạng do suy nghĩ và những hình ảnh nhìn bằng mắt đang truyền bá trong bầu không khí của Adyar, được phủ kín bởi những sự thật và những ảo tưởng huyền bí, được làm cho rõ ràng đối với người mới khai tâm trẻ tuổi. Khi còn là cậu bé, Krishna đã thấy những ảo ảnh của đứa trẻ Krishna thiêng liêng trong ngôi nhà mộ đạo của mẹ cậu, vì vậy lúc này cậu thấy những Bậc Thầy, Buddha, và Sanat Kumar – người thanh niên đang mỉm cười đầy ánh nắng mặt trời mà là người đứng đầu của thứ bậc Tổ chức Thông thái. Những lực lượng bí truyền, nếu họ tồn tại, và chắc chắn Leadbeater, đòi hỏi phương tiện của họ là một thân thể Brahmin, cùng di sản của nhạy cảm, ăn chay, và sạch sẽ, cùng một bộ não mà qua hàng thế kỷ đã quan tâm đến cái khác lạ, cùng sự tinh tế, sức mạnhnhận biết cần thiết để bám chặt vào phía bên trong của cái trí và vật chất, cùng khả năng thâu nhận những khối lượng vô hạn của năng lượng mà nó sẽ được mời mọc để chứa đựng.

Trớ trêu thay, ngay khi họ đã được chấp thuận vào vòng tay của Tổ chức Thông thái, mọi việc có thể thực hiện được đều được vận dụng để thấy rằng Krishna và Nitya được lột sạch tất cả chất lượng của Ấn độ. Hầu như chắc chắn rằng những người thầy thông thái của Krishnamurti đã quyết định cậu trai và người em của cậu bắt buộc chỉ nói tiếng Anh, vì vậy ngôn ngữ Telugu du dương dần dần bị quên lãng; kinh Vedas và những bài thánh ca được học thời niên thiếu đều bị xóa sạch. Tóc của họ được cắt và chải tách ra ở trung tâm. Họ được dạy học bằng tiếng Anh; họ học cách ăn bằng một cái muỗng và cái nĩa và để hai khủy tay của họ sát vào thân thể khi họ đưa nĩa lên miệng; mặc quần áo phương Tây một cách thoải mái; thấy rằng những nếp gấp của quần được ủi và đánh bóng giầy của họ đến khi chúng sáng bóng. Họ được dạy cách tắm theo kiểu của người Anh. “Những cậu trai phải trở thành quý ngài người Anh bởi vì trong lược đồ tiến hóa của Leadbeater, quý ngài người Anh trở thành đỉnh chót vót của sự phát triển con người.”

Rủi thay, cái vỏ bọc và sự giáo dục phía bên ngoài không để lại dấu vết nào trên cái trí đang ngủ im lìm, không tiếp xúc được. Có lẽ, đúng sự thật rằng cậu trai, được dành riêng để là một Người Thầy sẽ dẫn dắt thế giới, phải được tự do khỏi mọi quy định của sự sinh đẻ và quốc gia. Để thành tựu số mạng của cậu, không biên giới nào có thể giam giữ hay kiềm chế cậu.

Theo C. Jinarajadasa, sau đó là chủ tịch của Tổ chức Thông thái, sự đào tạo được nghiêm ngặt đưa vào khuôn phép. Những bữa ăn, học hành, và những trò chơi đều theo một thời khóa biểu tuyệt đối với mục đích tập cho những cậu trai sự tỉnh táo với thời gian và những hoàn cảnh. Đạp xe đạp không phải để vui chơi, nhưng để tập luyện cho có sự tự tin vào chính mình và chịu đựng được sự gian khổ. Có một trường hợp họ bị bắt buộc đạp xe đến Chingelpet và quay lại, tổng cộng là sáu mươi tư dặm. Để loại bỏ sự sợ hãi, Leadbeater đọc cho họ nghe những truyện ma kinh hoàng.

Bảy mươi lăm năm sau khi kể cho chúng tôi về thời kỳ này thuộc sống của ông, Krishna nói về cậu trai Krishna và sự liên hệ của cậu với Leadbeater. “Cậu trai đã luôn luôn nói, ‘Em sẽ làm bất kỳ việc gì anh muốn.’ Có một yếu tố của khúm núm, vâng lời. Cậu trai luôn mơ màng, dễ thay đổi, bối rối; dường như cậu không thèm biết đến việc gì đang xảy ra. Cậu giống như một cái thùng, có một cái lỗ to trong nó, bất kỳ thứ gì đổ vào, đều chảy qua, không thứ gì được giữ lại.” Họ gọi cậu là phương tiện, cậu chấp nhận điều đó mà không có bất kỳ thắc mắc nào. Không chống đối trong cậu, không ngờ vực và cũng không hỏi han. Krishnamurti cũng kể về những khả năng tâm linh của cậu. Cậu có thể đọc điều gì được viết trong một lá thư chưa mở, đọc những suy nghĩ của con người, thấy những bà tiên nhỏ nhắn. Nhưng có vẻ cậu không hoàn toàn hiểu rõ được ý nghĩa của những khả năng siêu nhiên này; đối với cậu chúng chẳng quan trọng gì cả.

Những Bậc Thầy đã chỉ thị cho Mrs. Besant và Leabeater phải bảo vệ thân thể của Krishnamurti suốt hai năm và vì vậy chuẩn bị nó cho sự kiện hóa thân. Mọi thứ được thực hiện để bảo đảm việc này; sau đó Krishnamurti thường kể lại rằng mặc dù Leadbeater và những người khác quyết định những điều kiện mà sống bên ngoài của Krishnamurti sẽ phát triển theo chúng, không nỗ lực nào được thực hiện để can thiệp vào tinh thần của cậu hay đúc khuôn bộ não của cậu, bởi vì họ nói, “Thượng đế đang chuẩn bị nó.”

Thường xuyên, Leadbeater không kiên nhẫn với Krishna – sự mơ màng của cậu chọc giận ông, đặc biệtthói quen đứng há hốc miệng. Có một lần ông đánh vào cằm Krishna rất mạnh để bắt buộc cậu phải ngậm miệng lại. Sau đó Krishna nói rằng hành động bạo lực này phá vỡ tất cả sự liên hệ giữa Krishna và Leadbeater.

Ngay trước khi Mrs. Besant quay lại Ấn, Krishna được thử thách bởi những Bậc Thầy. Khi Mrs. Besant đến Madras tháng mười một năm 1909, bà thấy cùng với Leadbeater một “cậu trai mắt to háo hức” bước đến một cách nhút nhát để đặt một vòng hoa quanh cổ của bà. Giọng của Leadbeater cất lên, ‘Đây là Krishna của chúng ta.”

Do sự xuất hiện của bà, từ từ một bức tường bảo vệ được dựng lên quanh cậu. Một nhóm các cậu trai đặc biệt được tuyển chọn để chơi đùa cùng cậu; không người nào được phép ngồi trên ghế của cậu hay sử dụng cây vợt tennis của cậu. Mọi việc cậu làm đều được theo dõi chặt chẽ.

Để bảo đảm rằng Narianiah sẽ không cản trở sự đào tạo, chốc lát sau một thông điệp được gửi tới từ những Bậc Thầy rằng các cậu trai phải đi về nhà người cha của các cậu càng ít bao nhiêu càng tốt. Mrs. Besant thuyết phục người cha giao quyền bảo hộ hai cậu trai cho bà. Chẳng mấy chốc tất cả những viếng thăm của hai cậu đến nhà của Narianiah chấm dứt.

Trong thời gian Mrs. Besant ở Adyar, bà gặp Krishna hàng ngày. Chính là suốt thời kỳ này mà những hạt giống của sự liên hệ với cậu, được đặt nền tảng trên tình yêu và sự tin tưởng vô hạn, được gieo hạt. Trong những tháng trước khi Mrs. Besant quay lại Ấn độ, Leadbeater khẳng định rằng mỗi đêm đã đưa Krishna lên trên thế giới tâm linh để được dạy dỗ bởi những Bậc Thầy. Cậu trai đã được tiếp xúc với sống bí truyền của Tổ chức khi được quan sát bởi Leadbeater và tiếp xúc với ngôn ngữ quanh những sự việc huyền bí. Những chân dung của những Bậc Thầy và những Mahatma được treo trong điện thờ, nhà tham thiền của Khu Bí truyền; những khuôn mặt và những cái tên được thấm nhuần bởi Krishna để tăng trưởng và hòa tan thành một cùng sống thực tế hàng ngày của cậu. Mrs. Besant gặp Krishna lần đầu tiên ngày 27 tháng mười một năm 1909, và ngày 5 tháng mười hai cậu đã được chấp thuận vào Khu Bí truyền của Tổ chức Thông thái.

Bà sẽ rời Adyar để đi Varanasi những ngày sau đó.

 

CHƯƠNG 3

Giấc mộng: “Đó là Ngài, Chúa của con?” 

 

C

ông việc gì đã đưa Mrs. Besant tới Varanasi tại thời điểm đó, khoảnh khắc quan trọng nhất trong sống của bà? Tại sao bà không ở lại Adyar tại thời điểm của sự khai tâm thứ nhất? Liệu dưới sự hướng dẫn của những huyền bí và những thánh nhân, chính bà cũng đang tìm kiếm một bảo đảm về Krishnamurti từ Thứ bậc Huyền bí? Liệu bà phải trải qua những khai tâm yoga để bảo vệ cậu trai mà sẽ là Thầy Thế giới?

 Hơn bảy mươi năm sau, khi nói chuyện với những học giả uyên bác và những người tinh thông về Brahmin của Varanasi, tôi thu thập được sự hiểu biết rằng trong những năm đầu tiên ở Varanasi, Mrs. Besant đã tiếp xúc với Swami Vishudhanand và môn đồ của ông ấy, Gopinath Kaviraj. Swami Vishudhanand là một vị thánh nổi tiếng, với nhiều siddhis hay những quyền năng huyền bí. Ông cũng khẳng định những liên kết trực tiếp đến một hệ thống thờ cúng huyền bí và học thuyết của Tây tạng; khởi nguồn ở Ấn độ, học thuyết này đã tồn tại trong hình thức ban sơ của nó trong một trung tâmtrách nhiệm nặng nề thuộc tâm linh ở mãi tận Manasarovar Lake, Tây tạng. Tại trung tâm này người ta nói nhiều bồ tátthánh nhân vĩ đại đã tụ họp lại, không phải trong dạng vật chất của họ, nhưng có lẽ trong dạng như những trung tâm của năng lượng. Một trong những học thuyết được bảo vệ nhiều nhất của họ là một học thuyết được bí mật truyền khẩu, liên quan đến chu kỳ vĩnh viễn của thời gian – cùng những luyện tập yoga và khai huyệt và sự di chuyển của ý thức. Yoga này, vô cùng nguy hiểm, đã khởi nguồn ở Ấn độ trước Buddha và sự giảng thuyết của Ngài rất lâu. Sau đó nó biến mất ở Ấn độ, nhưng đã sống sót được trong những người thông thái nơi trung tâm bí mật đó ở Tây tạng.

 Liệu có thể rằng, qua Swami Vishudhanand, Mrs. Besant đã nhận biết được học thuyết “quay lại” hay sự di chuyển của ý thức và những liên kết gần gũi của nó với yoga khai huyệt. Học giả Jagannath Upadhyaya của Varanasi, người đã tìm thấy một bản sao của nguyên bản quyển Kala Chakra Tantra, và là người đang đảm trách sự nghiên cứu về nó, giải thích cho Krishnaji rằng học giả Gopinath Kaviraj xác nhận Tổ chức Thông thái rút ra đa phần trong số những lời giảng huyền bí của nó từ học thuyết huyền bí này. Ông tiếp tục nói rằng Swami Vishudhanand và Gopinath Kaviraj, trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi, đã nói chuyện với Mrs. Besant về sự Giáng thế sắp xảy ra của Bồ tát Maitreya và sự hóa thân của Ngài trong một thân thể con người, theo Swami, thân thể được chọn là thân thể của Krishnamurti. Trả lời của Krishnaji rất mau lẹ. “Maitreya không thể hóa thân, nó sẽ giống như bầu trời đang hóa thân. Chính là lời giảng mà hóa thân.” Một ngày khác, khi đang nói về cùng chủ đề, như thể qua một xé toang của thời gian, bỗng nhiên Krishnaji thấy một hình ảnh. Ông nói, “Amma [A. B.] đang cỡi một con ngựa viếng thăm Kaviraj.”

 Khi tôi nghe điều này, tôi bị kích thích sự tò mò. Hình ảnh của Mrs. Besant đang cỡi một con ngựa chiến màu trắng trong đầu thế kỷ thứ hai mươi qua những con đường nhỏ xíu của Varanasi để viếng thăm sadhus, những người tu khổ hạnh ăn xin, hoàn toànma thuật; tôi đã tìm hiểu thêm nữa và phát giác rằng Mrs. Besant rất thích cỡi ngựa và có thể rằng bà có cỡi ngựa đến những gặp gỡ của bà với những đạo sư của Varanasi. Toàn bộ sự tìm hiểu này hé lộ ánh sáng mới mẻ vào phương cách trong đó nhiều học thuyếtthấu triệt huyền bí đã thâm nhập vào Khu Bí truyền của Tổ chức Thông thái. Có lẽ sự trung thành tuyệt đối của Mrs. Besant rằng Bồ tát Maitreya sẽ hóa thân qua thân thể của Krishnamurti là do bởi những tiếp xúc đầu tiên này với những đạo sư Varanasi và những liên kết của họ với thứ bậc huyền bí. Leadbeater, cùng những tài năng tâm linh rõ ràng của ông, bị trĩu nặng bởi nghệ thuật diễn đạt bằng tượng trưng của phương Tây về những huyền bí; những cái nguồn cung cấp dòng chảy của Ấn độ vào thế giới huyền bí của Tổ chức Thông thái chỉ có thể đã đến từ những cái nguồn bị chìm ngập trong truyền thống của Tây tạngẤn độ.

 Trong khoảng ba tuần lễ sau khi Krishna gia nhập Khu Bí truyền, Leadbeater đã điện tín cho Mrs. Besant rằng cậu trai đã được chấp nhận bởi Thầy Koot Hoomi như môn đồ của Ngài. Việc đó xảy ra chỉ sau năm tháng từ khi Krishna được phát hiện bởi Leadbeater.

 Khi viết cho Mrs. Besant trong chữ viết tay thật đẹp, có lẽ do kết quả của sự luyện tập kiên nhẫn bằng cách chép sách, Krishna diễn tả nghi lễ chấp thuận vào ngày 3 tháng giêng, 1930:

 Mẹ yêu quý của con,

 Vui lắm mẹ ơi! Khi chúng con đến nhà của Thầy chúng con, chúng con thấy Thầy và Thầy Morya và Thầy Djwal Kul tất cả đang đứng nói chuyện, và họ nói chuyện rất hòa nhã. Tất cả chúng con đều phủ phục mình xuống, và Thầy bế con lên ngồi trên đầu gối của Thầy, và hỏi con liệu rằng con sẽ quên trọn vẹn chính bản thân con và không bao giờ có một suy nghĩ ích kỷ, nhưng chỉ suy nghĩ làm thế nào để giúp đỡ thế giới và con trả lời chắc chắn con sẽ thực hiện được, và con chỉ muốn giống như Thầy một ngày nào đó. Kế tiếp Thầy hôn con và dơ tay phủ qua đầu con, và dường như trong chừng mực nào đó con là bộ phận của Thầy, và con cảm thấy hoàn toàn khác hẳn và rất rất hạnh phúc, và con đã trải qua cảm giác đó kể từ lúc đó trở đi. Kế tiếp tất cả ba người ban phước lành cho con và chúng con đi khỏi. Nhưng sáng hôm sau trong Điện Thờ khi con cám ơn Thầy lần nữa, con lại cảm thấy bàn tay của Thầy ấn thật mạnh trên đầu con giống như vào buổi tối.

 Bây giờ con đã đi 254 dặm, và con thích những chuyến đi này nhiều lắm. Mẹ sẽ trở về với chúng con mau không? Con gửi cho mẹ rất nhiều thương yêu mỗi ngày nhiều lần lắm.

 Người con trai thương yêu của mẹ,

 Krishna

Thời gian thử thách rất ngắn, và chẳng mấy chốc những biến cố lạ lùng theo sau. Một người chiêm tinh nổi tiếng, G. E. Sutcliff, đã nhìn thấy một vị trí rất lạ lùng của những hành tinh cho ngày 11 tháng giêng. Những điện tín được trao đổi giữa Leadbeater và Mrs. Besant, và cuối cùng bà được thông tin rằng sự khai tâm đầu tiên của Krishna sẽ xảy ra vào tối ngày 11 sang ngày 12 tháng giêng. Mrs. Besant không thể có mặt, nhưng bà đưa ra những chỉ thị rằng những cái cửa Điện thờ của Khu Bí truyền và hành lang dẫn qua phòng của bà sẽ được đóng lại, cả Krishna và Leadbeater sẽ sử dụng phòng của bà trong suốt thời gian xảy ra sự kiện quan trọng này.

 Sau đó người ta kể lại rằng Krishnamurti và Leadbeater đã thoát khỏi những thân thể của họ trong suốt hai đêm và một ngày, thỉnh thoảng quay lại vào chúng để nhận thêm chất nuôi dưỡng nào đó. Krishna nằm trên giường của Mrs. Besant, Leadbeater trên nền nhà. Vào ngày 12 tháng giêng, họ ra khỏi phòng và gặp một số những người thâm niên của Tổ chức đang đợi họ.

 Trong số họ là người cha của Krishna, Narianiah, và người em, Nitya. Krishna viết cho Mrs. Besant ngay sau đó, diễn tả những điều huyền bí xảy ra:

 

 Đêm đầu tiên khi con rời thân thể của con, ngay lập tức con đến nhà của Thầy và con thấy Thầy đứng đó cùng với Thầy Morya và Thầy Djwal Kul. Thầy nói chuyện với con lâu lắm và rất tử tế, và dạy bảo cho con tất cả mọi việc về sự khai tâm, và con nên phải làm gì. Sau đó, tất cả chúng con cùng đi đến nhà của Chúa Maitreya, nơi trước kia con đã đến đó một lần, và ở đó chúng con gặp nhiều Thầy – Thầy Venetian, Thầy Jesus, Thầy Count, Thầy Serapis, Thầy Hilarion, và hai Thầy Morya và K. H. Chúa Maitreya ngồi chính giữa và những Thầy khác đứng quanh Chúa theo một hình bán nguyệt. [Ở đây Krishna vẽ một lược đồ để xếp những vị trí của Huynh đệ tập họp được rõ ràng.] Sau đó Thầy cầm bàn tay phải của con và Thầy Djwal Kul cầm bàn tay trái của con, và họ dắt con đến trước mặt Chúa Maitreya, mẹ [Mrs. Besant] và chú [Leadbeater] đang đứng gần đằng sau con. Chúa nhìn con mỉm cười, nhưng Chúa hỏi Thầy: “Đây là ai mà ngươi cho gặp ta?” Và Thầy trả lời: “Đây là một ứng viên để được xin phép vào Huynh đệ Vĩ đại Great Brotherhood.”

 

[Những Thầy hiện diện ở đó chấp thuận sự xin phép của Thầy để cho con gia nhập Huynh đệ vĩ đại.]

 Sau đó Chúa quay về phía con và gọi về hướng Shamballa: “Làm cho Ta việc này, Ô Chúa của Sự Sống và Ánh sáng, trong Danh Ngài và vì Ngài?” Và ngay lập tức Vì Sao Bạc lóe lên trên đầu của Ngài và trên mỗi phía của nó trong không gian một hình bóng đứng ở đó – một là Chúa Gautama Buddha và người còn lại là Mahachohan. Và Chúa Maitreya quay lại và gọi con bằng tên thực sự của Cái Tôi của con, và đặt tay của Ngài trên đầu của con và nói: “Trong danh của Một Người Khởi đầu, các vì sao của người chiếu sáng trên chúng ta, Ta nhận ngươi vào Huynh đệ của Sự Sống Vĩnh Hằng.” [Đêm kế tiếp họ được dẫn đến thăm Sanat Kumar.]

 … bởi vì Ngài là một cậu trai không lớn hơn con bao nhiêu, nhưng người đẹp trai nhất mà con đã từng thấy, tất cả đang chiếu sáng và rực rỡ, và khi Ngài mỉm cười nó giống như ánh mặt trời. Ngài mạnh mẽ giống như biển cả, để cho không có gì chống lại Ngài trong một khoảnh khắc, và tuy nhiên Ngài không là gì ngoại trừ tình yêu, đến độ con có thể tuyệt đối không sợ Ngài.

 

Thư trả lời Krishna của Mrs. Besant không có sẵn để trích dẫn, nhưng bà viết cho Leadbeater trong những từ ngữ sôi nổi, khẳng định sự kiện đó. Thư từ giữa Mrs. Besant và Krishna bộc lộ tình yêu và sự quan tâm vô hạn của bà với cậu trai. Những từ ngữ của bà bộc lộ sự quan tâm đến cậu rất nhiều:

Ngày 31 tháng ba năm 1910

 Krishna yêu quý, cậu trai bé tí thiêng liêng của mẹ, mẹ không hiểu liệu con có nhìn thấy hay cảm thấy mẹ trong thiền định buổi sáng nơi mẹ đến với con, con làm trong thế giới tâm linh của con, nhưng con có làm trong bộ não của con ở đây? Và rất thường xuyên trong ngày mẹ gửi một hình dạng-suy nghĩ để tỏa hai cánh của nó bao bọc con.

 Có một gặp gỡ thật đông người ở Calcutta về chủ đề thú vật và mẹ kể cho mọi người về Con Chim cổ đỏ đã cố gắng rút cái đinh ra khỏi bàn tay của Christ trên Thánh giá. Đó không là một câu chuyện của một sự kiện nhưng của một sự thật thực tế, giống như câu chuyện của Shri Rama đang vỗ về những con sóc có những đường vằn xinh xinh [đúng nguyên văn]. Có một lần tại Sarnath nơi Buddha giảng bài pháp đầu tiên của ngài, mẹ nhìn lại để thấy nó; và một con nai nhỏ xuất hiện và cạ mũi vào bàn tay của ngài. Chúa là tất cả tình yêu, vì vậy những thú vật không sợ hãi Ngài. Bảo với Nitya yêu quý rằng mẹ hôn cậu ấy trên cái đầu bé tí dễ thương của cậu ấy mỗi sáng, và cũng gửi cho cậu ấy một hình dạng-suy nghĩ nữa. Con biết rằng mẹ thương yêu con rất nhiều Krhisna của mẹ, và mãi mãi

Người mẹ yêu quý của con.

Krishna trả lời lại ngày 5 tháng tư, năm 1910:

 Dĩ nhiên, bộ não vật chất của con nhớ mãi lúc mẹ ôm con vào lòng, bởi vì con đang cố gắng khiến cho ý thức của con luôn luôn giống hệt, nhưng vẫn vậy con luôn luôn không chắc chắn lắm về nó. Con luôn luôn đang làm việc cho điều gì được cần đến cho bước thứ hai, nhưng sẽ phải mất một thời gian. Con nghĩ, con không có nhiều ngờ vực hay mê tín, nhưng thật khó khăn lắm khi loại bỏ ảo tưởng của cái tôi, nhưng con sẽ thực hiện nó. Con vẫn hoàn toàn không biết phải làm thế nào, nhưng dẫu vậy nó sẽ được thực hiện.

 Con vừa đọc xong “Những Đứa con của Đất Mẹ” và trong khoảng ba ngày kế tiếp, chúng con sẽ đọc xong “Câu chuyện về Cuộc Chiến tranh Vĩ đại.” Con đã đọc những truyện về “Chim Cổ đỏ và Con Sóc,” nhưng con vẫn chưa nhìn thấy một con chim cổ đỏ. Đã được 1250 năm kể từ lần cuối con ở tại Sanarth, nhưng con hy vọng cũng đi đến đó trong sống này. Có một cái cột to màu xám ở đó và một con sư tử trên nó và những cái cột nhỏ hơn quanh nó trong nửa vòng tròn. Mẹ sẽ quay lại với chúng con mau không? Con gửi cho mẹ rất nhiều thương yêu mỗi ngày. 

 Đứa con trai yêu quý của mẹ, Krishna.

 

 Một bức ảnh được chụp ngay sau sự khai tâm đầu tiên của Krishna, năm tháng sau khi cậu đã được “phát hiện” bởi Leadbeater, phơi bày một brahmacharin trẻ, một cậu trai tinh khiết trong suy nghĩ, từ ngữhành vi, được choàng trong một angavastram, một miếng vải mặc trong lễ hội. Đó là một khuôn mặt mỏng manh cùng những gợi ý của sức mạnh vô biên. Trong chân dung, tóc xõa ngay trên hai vai của cậu; đôi mắt của cậu phản chiếu akash, không gianâm thanh vô tận. Miệng hơi hé mở, không mỉm cười, cũng không nghiêm nghị; một nụ xoài non nớt không có ý muốn của cái tôi, nhưng chỉ có năng lượng của sự sống, một khuôn mặt hồn nhiên, hoàn toàn không gợn chút gian trá: “Giọt nước đầu tiên của biển cả, cũng vậy, nhựa non của cây cối trong rừng.”

 Nhiều người viết tiểu sử về Krishna, diễn tả ông tại thời điểm sự phát hiện bởi Leadbeater, nói về ông như chậm hiểu, thậm chí khờ dại, nhem nhuốc, cẩu thả, chỉ có đôi mắt to nổi bật khuôn mặt của cậu. Ngạc nhiên thay, không có bình phẩm gì về vẻ đẹp lạ thường của ông.

 Tháng chín năm 1910 Mrs. Besant đang ở Adyar, đưa hai anh em đến Varanasi. Chính ở đây Krishna đã yêu cầu được nhận lại những ghi lại mà người ta nói cậu đã viết ở Adyar, và chúng sẽ hình thành tư liệu cho quyển sách đầu tay của cậu, At the Feet of the Master Tại Chân Thầy.

 Sự xuất hiện của quyển sách khuấy động một tranh luận quan trọng. Được đặc biệt gói lại bằng da thuộc màu xanh và được ký tên bởi Krishna, một bản sao được dành tặng cho Thầy Koot Hoomi và được đặt dưới gối của Krishna bị biến mất trước buổi sáng. Vô số những bản sao của quyển sách được bán ra. Tại thời điểm đó tiếng Anh của Krishna còn yếu, và nhiều người phê bình khẳng định rằng quyển sách đã được viết bởi Leadbeater. Quyển sách rất dễ hiểu, kết hợp lời giảng của Tổ chức Thông tháigiáo lý cơ bản rõ ràng của Ấn giáo.

 Chắc chắn rằng, thậm chí nếu những ghi chú này thực sự được viết bởi Krishna dưới sự hướng dẫn của Thầy K. H., văn phong mang một dấu ấn rõ ràng của Leadbeater. Người ta kể rằng khi bị hỏi vặn bởi người cha của cậu, Krishna phủ nhận đã viết quyển sách này.

 Khoảng năm mươi năm sau, người vật lý George Sudarshan hỏi Krishna về nguồn gốc tác giả của Tại Chân Thầy. Krishna trả lời, “Cái người viết quyển sách đó đã biến mất rồi.” Ông từ chối nói thêm bất kỳ điều gì về nó.

 Năm 1911, Mrs. Besant đến nước Anh cùng hai đứa trẻ. Bạn bè và những người ngưỡng mộ cũ của bà ở Ấn độ đã rất chỉ trích về việc gì họ nói đến như toàn “công việc kinh doanh Đấng Cứu thế,” và bà đã bị công kích gay gắt bởi tờ The Hindu, một tờ báo hàng ngày có nhiều ảnh hưởng được xuất bản ở Madras. Chẳng mấy chốc nhiều thành viên của Tổ chức Thông thái từ khắp Ấn độ, một số người là bạn bè thân của bà, đều phản đối công khai về sự tôn sùng của bà: “một cậu trai bé tí người Ấn mà bà gọi là Alcyone.” Bất kể sự phản đối công khai, giễu cợt, và sự từ bỏ Tổ chức của một số thành viên nổi tiếng của nó, Mrs. Besant đứng vững như một tảng đá, sự trung thành của bà không bị lay chuyển, bám chặt vào những chỉ thị của những Bậc Thầy rằng Krishna sẽ là phương tiện cho Buddha Maitreya.

 Trước khi rời đó để đến nước Anh, Mrs. Besant đã nhờ một người thợ may giỏi nhất Bombay may cho hai cậu trai rất nhiều quần áo đúng mốt phương Tây. Khi họ đến nhà ga Charing Cross, họ được ngênh đón bởi những người thuộc Tổ chức Thông thái, Krishna mặc một quần tây và một áo vét tông kiểu Norfolk.

 Mrs. Besant đưa hai cậu đến ở tại nhà người bạn Miss Bright. Trong quyển sách của cô, Old Memories and Letters of Annie Besant Những Kỷ niệm Xa xưa và Những Lá thư của Annie Besant, Esther Bright diễn tả hai cậu trai được bảo trợ của Mrs. Besant:

 Chính là ngôi nhà này mà A. B. đưa hai cậu trai bảo trợ trẻ tuổi người Ấn đến, hai anh em Krishnamurti và Nityanandam. Họ ở đây cùng chúng tôi. Thật lý thú khi nhìn ngắm những phản ứng của họ với lối sống phương Tây – rất nhút nhát và dè dặt – nhưng hăng hái hiểu rõ việc gì đang xảy ra trong thế giới phương Tây đặc biệt của chúng tôi, và thường xuyên, không nghi ngờ, rất phê bình chúng tôi! Đặc biệt về chủ đề Gạo! Có một lần Nitya đã nói rất nghiêm túc “Con không nghĩ Miss Bright hiểu lắm, chúng con thích cơm biết chừng nào.” Cậu là một người nhỏ nhắn xinh đẹp, một khuôn mặt nghiêm trang và đôi mắt tò mò, thân thiện, háo hức; một bản chất tế nhị, cao thượng trong thân thể người Ấn nhỏ nhắn. A. B. dành hết cuộc đời cho hai cậu trai này và trao cho hai cậu tất cả sự thương yêu đằm thắm và tử tế có thể được. Thật vui khi thấy ba người vui vẻ cùng nhau …

Chia tay Krishna được một lúc, Mrs. Besant viết vào ngày 29 tháng mười một:

 Mẹ đang gửi cho con những cơn sóng thương yêu dồn dập, giống như những đợt sóng đang đổ xô nhào lộn qua khoảng trống của một cồn cát ngầm; chúng không xô đẩy con lung tung, nhưng chỉ bao bọc và bảo vệ thân thể quý báu mà Chúa sẽ khoác vào.

 Mẹ thương Krishna yêu quý riêng của mẹ, cái tôi mà mẹ đã thương yêu quá nhiều năm; Bao nhiêu năm? Mẹ không biết. Từ khi chúng ta đã là những con thú tung tăng, và đã bảo vệ túp lều con con của Thầy chúng ta? Có lẽ vẫn còn lâu hơn; có lẽ khi chúng ta là cây cối, chúng ta sản xuất ra những cái tua mảnh khảnh quấn quít vào nhau trong ánh mặt trời và cơn bão. Và có lẽ chúng ta là những khoáng sản – Ô, cách đây lâu lắm rồi – Mẹ là chút chút tinh thể và con là chút chút vàng non trong mẹ.

 Krishna và Nitya quay lại Ấn độ cùng Mrs. Besant trong thời gian ngắn vào tháng mười hai năm 1911. Những công kích chống lại Mrs. Besant đang tiếp tục. Hai anh em theo cùng Mrs. Besant đến Varanasi. Theo Mrs. Besant và Leadbeater, chính là nơi này mà sự mau lẹ đầu tiên của tinh thần sẽ xảy ra, sau đó Mrs. Besant công bố rằng không còn nghi ngờ gì cả Krishnamurti đã được chọn lựa bởi Bồ tát Maitreya như phương tiện của Ngài.

 Năm 1912, Mrs. Besant và hai cậu trai quay lại Châu âu. Narianiah miễn cưỡng cho phép hai người con trai của ông rời xa, khi hiểu rõ rằng hai đứa trẻ sẽ được tách khỏi mọi liên hệ với Leadbeater. Tại thời gian đó, tin tức về những xu hướng tình dục của Leadbeater đang được nói tự do trong cộng đồng của người Anh ở Madras, và tự nhiên người cha phải không bằng lòng nếu có bất kỳ sự tiếp xúc nào của hai cậu con với ông ấy. Khi Mrs. Besant sắp sửa rời Ấn độ với hai cậu trai bảo trợ, những sợ hãi của Narianiah lại được đánh thức và ông đe dọa nộp hồ sơ kiện để đòi lại hai cậu con. Nhưng bà thuyết phục người cha cho phép hai cậu theo bà và chuẩn bị thi vào học tại Oxford. Tuy nhiên, bởi vì nghe nói rằng khi đến Châu âu Mrs. Besant đã đưa hai cậu này đến Taormina ở Ý, nơi Leadbeater đang chờ đợi để giúp đỡ Krishna trải qua sự khai trí lần thứ hai của cậu, cuối cùng Narianiah đã nộp hồ sơ đòi lại quyền trông nom hai cậu con của ông ấy. Mrs. Besant quay lại Ấn độ và đấu tranh với vụ kiện bằng sức mạnh ý chí, sự sốt sắng, và năng lượng vô hạn của bà; bà xuất hiện một mình trong những phiên tòa và bằng sự khôn khéo lạ thường đã tranh luận với vài chuyên gia về luật giỏi nhất của quốc gia. Bà thua vụ kiện cả trong tòa Sơ thẩm và tòa Tối cao của Madras; nhưng cuối cùng bà thắng vụ kiện trong sự kháng án của bà lên Privy Council Hội đồng Cố vấn Hoàng gia.

 Krishna và Nitya không ở Ấn độ từ 1912 đến 1922.

 Sự liên hệ giữa Mrs. Besant và Krishna chỉ có thể được duy trì qua thư từ. Krishna viết cho bà mỗi tuần trình bày sự học hành của cậu, những giấc mơ của cậu, những vấn đề của cậu. Cậu bắt đầu quyên góp tiền cho công việc của Mrs. Besant ở Ấn độ và hứa đóng góp 2s 6d một tuần từ tiền riêng của cậu. Trong suốt chuyến viếng thăm một nha sĩ vào tuần cuối cùng của tháng tám năm 1912, một chút cocain nhẹ cho vào răng khôn của cậu dẫn đến một giấc mơ lạ thường đêm đó về Chúa Maitreya. Cậu diễn tả giấc mơ trong một lá thư gởi tới Mrs. Besant – chữ viết nguệch ngoạc khắp trang giấy, những từ ngữ bị cắt bớt, những hàng chữ leo lên xuống:

Con nhớ đã ở trong một căn phòng trên một căn phòng E. S. [Esoteric Section Khu Bí truyền] cùng Clarke.[4] Có một gặp gỡ E. S. mà Mẹ tổ chức. Gặp gỡ chấm dứt và Clark và con lên lầu vào phòng của con. Cửa sổ của con nhìn vào căn phòng E. S. Tình cờ con đi đến cửa sổ và thấy một người trong phòng E. S. Thoạt đầu con hơi giật mình, bởi vì con thấy mọi người đều ra khỏi phòng sau khi gặp gỡ và chính con đã khóa cửa lại. Con cảm thấy khá lo lắng về nó và hơi sợ hãi nhưng, con tự nhủ mình “có gì ở đó mà phải sợ hãi?” Thế là, con gọi Clarke và đi xuống. Con đi xuống khá nhanh và khi con ở dưới chân cầu thang, con ngước lên nhìn Clarke, nhưng anh không hiện diện ở đó. Con nghe một loại ồn ào nào đó và con thấy như dưới đây: Một hình dáng dường như đi ra từ bức tranh của Chúa Maitreya và những hình dáng khác từ những bức tranh của những Bậc Thầy. Con thấy hai chân của một người đàn ông và chỉ thấy đến cổ của ông ấy, bởi vì con không thể thấy đó là khuôn mặt của người nào vì nó được phủ bằng một loại vải bằng vàng. Con biết người đó là ai vì Ngài có mái tóc dài và bộ râu quai nón nhọn phía dưới và con muốn chắc chắn nên con hỏi rất khiêm tốn & những từ ngữ rất rõ ràng. Con hỏi “Có phải đó là Ngài, Chúa của con?”…Ngài gỡ miếng vải che khỏi khuôn mặt của Ngài và chắc chắn con biết, đó là Chúa Maitreya. Sau đó, con phủ phục xuống và Ngài vươn bàn tay của Ngài trên con để ban phước lành. Sau đó Ngài ngồi xuống trên nền nhà hai chân bắt chéo lại và con cũng ngồi xuống trên nền nhà hai chân bắt chéo lại. Sau đó Ngài bắt đầu nói chuyện với con và bảo cho những sự việc mà con không nhớ được. Sau đó con phủ phục xuống và Ngài rời khỏi đó.

Vài tiếng đồng hồ sau, con và một bạn trai nguời Ấn độ đang dạo bộ trên một con đường và cả hai bên đều có những hòn núi và những con sông và con trông thấy một người đàn ông đang tiến về phía chúng con, ông cao ráo và vóc dáng rất đẹp. Khi hình dáng đó đến gần chúng con, con biết đó là ai và bảo người bạn của con đi khỏi đi. Người bạn của con trả lời anh ấy muốn thấy người đó là ai. Đến thời điểm đó, hình dáng đã rất gần chúng con và con sắp sửa phủ phục xuống thì Ngài dơ tay lên không cho làm như thế. Người bạn của con ở đằng sau con. Chúa quay về hướng người bạn của con và nói với anh ấy “Ngươi muốn gì ở đây?” Người bạn của con không trả lời Ngài. Sau đó Chúa lại nói với anh ấy “nếu ngươi không muốn bất kỳ điều gì, ngươi nên đi khỏi đây.” Người bạn của con vẫn còn đứng ở đó không trả lời. Sau đó Chúa nhấc bàn tay của Ngài lên và chỉ nó về hướng người bạn của con và bởi vì con gần bàn tay của Ngài, con nghe thấy một loại tiếng ồn ầm ầm như thể một chiếc xe lửa đã chạy qua. Con quay về phía người bạn của con và thấy anh ấy từ từ ngã xuống. Người bạn của con không cử động như thể anh ấy bị chết rồi. Sau đó con phủ phục xuống, và Chúa Maitreya nói “Người bạn của con đó khá tò mò” và con không thể trả lời Ngài và con rất ân hận vì con đã mang người bạn của con theo cùng.

 

RIÊNG TƯ 

Chúa nói, con nghĩ đây là điều gì Ngài nói – “Raja [C. Jinarajadasa] sẽ đi đến Mỹ sau khi George [Arundale, thầy giáo riêng của Krishna ở nước Anh giữa 1912 và 1914] đến năm sau và Clarke sẽ ở lại.” Ngài bảo với con rằng con sẽ tiến bộ nhanh và điều gì nữa mà con không nhớ. Con nhớ Chúa rất rõ ràng. Khuôn mặt của Ngài giống như một miếng dát kính được phủ bằng một lớp vàng mỏng; nói cách khác, như Mẹ đã nói, giống như bắp chín. Khuôn mặt của Ngài rực rỡ và tỏa sáng.

Ngài rất tử tế với con. Một hay hai lần Ngài đặt bàn tay của Ngài trên vai con. Ngài nói về Mẹ và George. Chúng con nói chuyện rất lâu. Cuối cùng, con hỏi Ngài “Có bất kỳ mệnh lệnh nào không Chúa của con?” và Ngài đáp lại, “ngươi không cần quá trang trọng.” Sau đó con phủ phục xuống một lần nữa. Ngài nói, “Chúng ta sẽ gặp nhau thường xuyên.”

Con cảm thấy như thể con có thể nói chuyện cùng Ngài mãi mãi và con thấy hình dáng của Chúa Maitreya biến mất. Sau đó con thức giấc và đó là năm giờ rưỡi. Sau đó cũng vậy, con viết ra điều này…Krishna.

 

Qua những năm xa nhau Mrs. Besant tiếp tục viết đều đặn cho Krishna, diễn tả sống của bà, dạy cậu viết đúng chính tả, và vân vân. Những lá thư của bà phản ảnh sự quan tâm đến cậu trai của bà và những phẩm chất lạ thường của bà như một người thầy. Vào ngày 9 tháng 10 năm 1912, bà nhận thấy khả năng viết chính tả rất kém của cậu và viết:

 

Mẹ rất vui khi con đang học đều đặn những bài học. Làm ơn chú ý vào chúng khi con đang học, và giữ cho cái trí của con bền bỉ và suy nghĩ, như con học với mẹ. Rất quan trọng khi con phải quán triệt những sự việc thông thường này, và hãy thực hiện cho chúng ta tất cả giáo trình được tín nhiệm tại Oxford. Mẹ muốn những từ ngữ parallel bars better mà không có hai chữ R; con viết hai chữ ll đúng; từ ngữ unparalleled là một trong những từ ngữ rắc rối thường được ra khi viết chính tả. Mẹ không nghĩ có bất kỳ quy tắc nào về chữ “r” là một chữ hay hai chữ bởi vì chúng ta viết từ ngữ harass với một chữ, và từ ngữ embarras [nguyên văn] với hai chữ. Trong khi đọc sách, chúng ta học để biết một từ ngữ trông như thế nào, và nếu nó bị viết sai chính tả, nó giống như một người khập khiễng.

Mẹ rời đây để đi đến Adyar vào lúc nửa đêm ngày 20, và sẽ có một đón tiếp được dành cho mẹ bởi những người ở Madras, để thể hiện rằng họ không thông cảm với những người Ấn giáo.

 Trao rất nhiều thương yêu đến con và Nitya yêu quý,

 Người mẹ yêu quý riêng của con.

Một năm sau, để trả lời cho một phê bình về việc viết không đúng quy tắc của cậu, Krishna viết cho Mrs. Besant, “Con rất ân hận rằng Chúa Maitreya phải nhắc ba lần về chữ viết của con.”

Mrs. Besant, đang đấu tranh cho vụ kiện quyền bảo trợ hai cậu, và bị kẹt trong vũng xoáy của đời sống chính trị ở Ấn độ, giao Krishna và Nitya dưới sự chăm sóc của C. Jinarajadasa và sau đó George Arundale. Bị thay đổi liên tục vì họ phải đi từ nơi này sang nơi khác, thầy dạy kèm này sang thầy dạy kèm khác, có vẻ chẳng có bao nhiêu bàn luậngiáo dục về tinh thần đã xảy ra trong suốt thời gian đó. Một thời điểm hai anh em được gửi đến một trường học gần Rochester. Sống của họ bị làm cho đau khổ bởi những cậu trai khác, mà nói những chuyện đùa bẩn thỉu và gọi hai anh em là “những con quỷ đen.”

Khi Krishna ở Ấn độ, trong những năm đầu tiên, cậu có một tiếp xúc sinh động cùng những Bậc Thầy: nhưng ở nước Anh, chẳng mấy chốc cậu bắt đầu nghi ngờ và không hứng thú lắm trong bất kỳ hoạt động huyền bí nào. Cậu kể với một người bạn rằng có một lần khi Thầy K. H. đang đứng trước cậu, đang nói với cậu, cậu đã đi thẳng đến Thầy và đi xuyên qua Thầy. Những Bậc Thầy, theo Krishna, sẽ không bao giờ hiện ra lại với cậu.

Vào ngày 15 tháng tư năm 1913, quan tòa Blackwell của Tòa án cấp cao Madras ra phán quyết về vụ kiện được thưa bởi Narianiah rằng ông được nhận lại quyền bảo trợ hai người con trai, Krishna và Nitya.

Quan tòa danh giá kết luận rằng mặc dù chứng cớ của Narianiah, người cha, không được tin cậy, nguyên đơn không hiểu rõ khi ông ký tên vào giấy đồng ý quyền bảo trợ rằng con trai của ông sẽ được nuôi như một “phương tiện của những quyền năng siêu nhiên” và, vì vậy, có một quyền lợi để thay đổi quyết định của ông khi ông ấy hiểu ra như thế.

Quan tòa của ông từ chối thông qua quyền bảo trợ, bởi vì những cậu trai là cư dân của Ấn độ thuộc Anh và chỉ là cư dân tạm trú của nước Anh. Vì vậy, quan tòa công bố hai cậu dưới sự bảo trợ của tòa án và ra lệnh hai cậu phải được giao cho người cha của họ vào ngày hoặc khoảng chừng ngày 26 tháng 5 năm 1913.

Tuy nhiên, một lệnh hoãn thi hành án cho phép Mrs. Besant, người quyết định kháng án lên Hội đồng Cố vấn Anh. Bà đã điện tín cho Krishna và đã nhận được một điện tín trả lời từ Raja, Nitya, và Krishna, bày tỏ sự tin tưởng hoàn toàn nơi bà.

Bà viết cho Krishna vào ngày 17 tháng tư:

Con trai yêu quý của mẹ,

Bức điện tín thương yêu của con, được ký bởi con, Raja, Nitya, cho mẹ nhiều hài lòng. Con và Nitya được an toàn tuyệt đối. Không người nào có thể chạm đến hai con. “Mẹ bảo vệ.” Và Vì sao của Vị Vua Vĩ đại chiếu sáng trên tất cả chúng ta, và bàn tay của Chúa Maitreya bảo vệ các con. Không phải chính Ngài đã ra lệnh mẹ bảo vệ các con hay sao? Đó là niềm tự hào và đặc ân của mẹ khi làm như thế, cậu trai được ban phước của mẹ.

Mẹ đang vui lắm và đang nhớ lại bằng cách nào con, [và] mẹ phi ngựa dọc theo thung lũng của dãy núi Himalayas khi chúng ta đi xuống để vào Ấn độ.

 Người mẹ thương yêu riêng của con.

 Con nghĩ từ ngữ galloped hay gallopped trông đúng hơn? Người ta viết nó trong cả hai cách. Mẹ nghĩ hai chữ pp trông giống những cú nhảy của một con ngựa nhiều hơn.

 Cùng sự bùng nổ của chiến tranh năm 1914, thầy giáo dạy kèm của Krishna, đã tình nguyện gia nhập Red Cross và tìm được một chức vụ cao trong bệnh viện King George. Krishna và Nitya, háo hức làm việc, cũng cống hiến sự phục vụ của họ, nhưng không có kết quả. Bất kể sự kiện rằng nhiều binh lính Ấn độ đang chiến đấu vì nước Anh, thành kiến chủng tộc vẫn còn ở đỉnh điểm. Sự hiện diện của những người Ấn độ có nước da sẫm trong một bệnh viện của người da trắng bị phản đối bởi những người có thẩm quyền. Sau áp lực to tát từ những nguồn có ảnh hưởng, Krishna tìm được công việc trong một bệnh viện gần Tổ chức Thông thái, nhưng chỉ được cho phép cọ rửa nền nhà. Cậu viết cho Mrs. Besant ngày 1 tháng 7 năm 1915:

Mẹ yêu quý nhất của con.

 Cám ơn mẹ rất nhiều về lá thư của mẹ. Dĩ nhiên, con sẽ thực hiện điều gì mẹ mong muốn và con sẽ không đụng đến thịt hoặc bất kỳ loại nào như thế. Lúc này chúng con đang làm việc trong một bệnh viện gần Tổ chức Thông thái với Dr. Guest. Con thích làm việc ở đó và con bận rộn từ sáng sớm đến gần 7 giờ tối. Con nghĩ George cũng thích công việc của anh ấy và con nghĩ anh ấy hạnh phúc lắm. Dĩ nhiên chúng con đang làm việc dưới quyền của Dr. Guest và con thích nó nhiều lắm.

Con nghĩ mọi thứ sẽ tiến triển tốt đẹp.

 Con trai hết lòng riêng của mẹ.

 Krishna.

Nhưng ngày 15 tháng bảy, họ đã bị yêu cầu rời bỏ công việc. Trong một lá thư khác gởi cho Mrs. Besant, được viết từ Greenwood Gate, Withyham, Sussex, Krishna nói:

…con đã làm việc cật lực cho một thay đổi tại bệnh viện bởi vì có nhiều người của Tổ chức và con là một người Ấn độ không được yêu cầu của Uỷ ban. Họ cũng không cần bất kỳ người làm việc không được trả tiền nào. Tất cả họ đều rất ganh tị và rất nhỏ nhen. Lady Williamson, người vợ của Chủ tịch, Sir Archibald Williamson, muốn làm bà chủ với tất cả mọi nguời kể cả Dr. Guest và ông ấy được bổ nhiệm như người đứng đầu của bệnh viện bởi War Office Văn phòng Chiến tranh. Lúc này Dr. Guest là Major Guest và ông ấy khá mê say tất cả việc này. Uỷ bạn yêu cầu con và những người khác rời khỏi và vì vậy con đã không làm việc ở đó từ ngày hôm qua. Con buồn lắm bởi vì con thích công việc rất nhiều và chính xác là con đang mê say nó. Bây giờ con sẽ phải tìm việc gì đó mà sẽ làm con bận rộn và nghĩ về những người khác và thoát khỏi chính con. Con sẽ làm điều gì mẹ bảo con và sẽ hữu ích …

Hai anh em cố gắng hết sức để tìm việc làm nhưng đều bị từ chối. Krishna viết vào ngày 18 tháng 8 năm 1915:

… Con đã cố gắng rất nhiều để tìm việc làm tại bất kỳ nơi nào thuộc bất kỳ loại nào nhưng rất khó khăn. Trước hết, con là một người Ấn độ và có vẻ không người nào ưa thích họ…con có muốn làm việc, trong như [nguyên văn] mẹ bảo con quên cái tôi đi, con nghĩ đó là cách duy nhất, làm việc. Con hy vọng điều đó sẽ tốt.

Sự kiện rằng cậu là một người Ấn độ và, vì thế, không thể chấp nhận được, trở thành một điệp khúc lặp đi lặp lại trong những lá thư của cậu gởi tới Mrs. Besant.

Những thư trả lời của Mrs. Besant không có sẵn để trích dẫn, nhưng những người phụ nữ già cứng đầu chung quanh Krishna cảm thấy cậu quá lông bông và chắc chắn đã phàn nàn với Mrs. Besant. Krishna viết cho Mrs. Besant vào ngày 7 tháng mười:

Con biết, từ trước đến nay con đã không coi trọng sống của con một cách nghiêm túc và con sẽ sửa đổi nó từ ngay lúc này. Từ thứ hai tới con sẽ bắt đầu công việc học hành của con. Con đã thu xếp để học hành sau lá thư mẹ đã viết cho Lady De la Warr. Con sẽ học tiếng Phạn, tiếng Anh, toán, lịch sử và tiếng Pháp. Con đang có những bài học cho mỗi môn và con có ý định vào trường Oxford ngay khi có thể được. Con sẽ học hết sức mình và sau Oxford, có công việc của con được xếp đặt cho con bởi những Bậc Thầy và chính mẹ. Rất thành thật con có ý thực hiện việc này và con hứa làm việc này bằng bất kỳ giá nào.

Bất kể những lá thư này, hai anh em cảm thấy rất cô độc, bất hạnh, và cảm thấy hoàn toàn bị bỏ đi. Mất hết ảo tưởng, có vẻ họ không còn hứng thú gì đến những giảng dạy của Tổ chức. Krishna viết cho Leadbeater về Nitya:

Em cảm thấy rất cô độc, giống như hầu hết chúng tôi, và không có ai mà em đặc biệt ưa thích hay thương yêu và gắng hết sức mình. Em rất cay đắng, khó chịu và lạnh lùng. Em chịu đựng đau khổ nhiều. Tôi nghĩ như thế. Tôi không thể giúp đỡ em nhiều lắm. Em cần người nào đó thương yêu em trước hết và nhiều nhất và người nào đó mà em có thể trút ra tất cả những phiền muộn. Em cần một người mẹ để thương yêu như tôi có với Lady Emily.

Người bạn duy nhất của Krishna ở Anh là Lady Emily Lutyens, vợ của Edwin Lutyens, kiến trúc sư giàu sức tưởng tượng đã thiết kế New Delhi. Ba mươi sáu tuổi khi lần đầu tiên cô gặp Krishna, cô có mặt, cùng với một đám đông lớn tại sân ga Charing Cross Road, để tiếp đón Mrs. Besant và cậu trai trẻ tuổi huyền bí Alcyone. Khi cô thấy cậu trai trẻ mắt to tóc dài người Ấn độ, người mà lúc đó mới mười sáu tuổi, cô cảm thấy rất xúc động. Lady Emily trở nên rất thân thiện với Krishna, bị bối rốicô độc khi bị vây quanh bởi những lạ lẫm. Thoạt đầu người chồng của cô, Edwin Lutyens vui mừng lắm. Sau đó ông trở nên khó chịu, vì ông cảm thấy Lady Emily đang bỏ bê ông và con cái. Mrs. Besant rất buồn bực, bởi vì bà cảm thấy rằng bất kỳ bầu không khí tình cảm nào quanh Krishna đều phá hoại nhiệm vụ mà cậu được trù liệu. Tuy nhiên, trong những lá thư Krishna tiếp tục viết cho Mrs. Besant, cậu giải thích về Lady như người tốt lành hơn, nghiêm túc hơn, và cố gắng rất nhiều.

Tên của hai anh em được đăng ký cho kỳ thi nhập học Balliol College tại Oxford. Nhưng hiệu trưởng của Balliol, lo ngại về những tranh cãi đã nảy sinh quanh Krishna, từ chối cậu với lý do “nguyên tắc chung rằng trường của ông không muốn có bất kỳ điều gì liên quan đến một Đấng Cứu thế da nâu.”

Mọi nỗ lực của Mrs. Besant để thu xếp cho sự nhập học của họ vào bất kỳ trường đại học nào khác ở Oxford hay Cambridge đều cũng thất bại. Krishna cũng không thể đậu bất kỳ kỳ thi nhập học nào vào London University. Cậu thường học hàng ngày nhưng, khi đối diện với một kỳ thi, sẽ rời khỏi và để lại một tờ giấy trắng.

Hai anh em đang sống với Miss Dodge ở Wimbledon. Miss Dodge là một phụ nữ người Mỹ rất giàu cónhân từ. Bị tàn tật bởi bệnh viêm khớp, cô đã tài trợ cho nhiều hoạt động của Tổ chức Thông thái. Cô là một người bạn của Lady Emily Lutyens, người đã giới thiệu cô với Mrs. Besant và Tổ chức. Krishna và Nitya đi lại mỗi ngày đến London, nơi họ đang học, cùng sự khó khăn cực kỳ, để đậu những kỳ thi nhập học của London University. “Chính tại thời gian này mà họ đã học mặc quần áo phù hợp, và cảm thấy thoải mái trong một gia đình quý tộc.” Họ đã bắt đầu đi đến những tiệm may đắt tiền và viếng rạp hát. Krishna đang chẳng thể hiện bao nhiêu dấu hiệu của thực hiện sự hứa hẹn được tiên đoán cho cậu bởi Leadbeater và Mrs. Besant. Khi Krishna lớn hơn Mrs. Besant sẽ hỏi cậu, “Con yêu quý của mẹ, điều gì sẽ xảy ra cho con?” Bà thấy rằng Krishna chỉ quan tâm đến quần áo và xe cộ. Nhưng sự tin tưởng của bà trong vai trò của Krishna mà những Bậc Thầy đã tiên đoán vẫn không bị lay chuyển.

Trong khi đó, tại hội nghị của Thông thái được tổ chức tại Varanasi tháng mười hai năm 1913, C. W. Leadbeater đã phát hiện một thanh niên Brahmin mười ba tuổi từ Madras có tên là D. Rajagopal. Bị cuốn hút bởi hào quang của cậu, C. W. L. tiên đoán một tương lai rực rỡ cho cậu – thậm chí đến mức độ nói rằng trong một cuộc đời tương lai cậu sẽ là Phật kế tiếp trên sao Thủy. Được nhận nuôi bởi Leadbeater, Rajagopal được gởi đến nước Anh cùng C. Jinarajadasa năm 1920. Chẳng mấy chốc cậu đã vào học ở Cambridge, nơi cậu đã học ngành luật và đậu kỳ thi hạng xuất sắc.

Khi Krishna và Rajagopal gặp nhau lần đầu tiên, có một thái độ xa cách, và bạn bè của Krishna đối xử với Rajagopal bằng sự khiếm nhã và xem thường. Rajagopal, bị tổn thương nhiều bởi thái độ của họ, gắng sức che đậy những cảm giác của cậu. Tuy nhiên, đến năm 1922, sự liên hệ giữa Krishna, Nitya, và Rajagopal đã cải thiện đáng kể.

Sau chiến tranh, khi đã thất bại trong mọi nỗ lực của vào đại học của cậu, Krishna đến Paris và ở cùng những người bạn gia đình Manziarly. Họ là một gia đình đông người, ấm cúng, và giới thiệu cậu với Paris. Krishna gặp gỡ những vũ công, những người viết văn, những họa sĩ, những nhạc sĩ. Cậu đang hiểu rõ một thế giới sáng tạo mới. Nó là sự say mê. Trong một thời gian ngắn trách nhiệm về vai trò của Đấng Cứu thế hơi bị lãng quên.

Một buổi tối, Krishna dự một tiếp tân khoản đãi cậu. Trong số nhiều cá nhân hiện diện là vài tướng lãnh trong bộ quân phục hội hè; nhiều người đã tụ họp vì tò mò để thấy cậu trai trẻ đẹp này được giao sứ mệnh là đấng cứu thế. Một số ngờ vực, những người khác lại đầy ngưỡng mộ.

“Nhiều người chờ đợi đấng cứu thế mới xuất hiện như một con người thuộc phương Đông” với “giọng nói của Elijah.” “Đấng cứu thế” tỏ ra là “một thanh niên trẻ thanh lịch trong cái quần dài vải flannel.” Cử chỉ của anh ấy thờ ơ và thậm chí hơi nhàm chán. Khi được chất vấn về gánh nặng quá sức khi được gọi là một hóa thân của một Thần thánh, anh cười lớn tiếng. “Tôi phải nói nó là một gánh nặng. Ngay lúc này điều tôi quan tâm nhất là liệu Suzanne Lenglen sẽ có thể không thua Helen Wills [tại Wimbledon].”

Tháng mười hai năm 1921, sau khi vắng mặt chín năm. Krishnamurti và người em Nitya trở lại Ấn độ. Krishnamurti đang thấy Ấn độ mới mẻ lại; suốt lần viếng thăm này cậu sẽ kết bạn, quan sát môi trường sống quanh cậu, và thiết lập lại một giao tiếp với những Bậc Thầy.

Hai anh em quyết định thăm người cha của họ, Narianiah, mà đã không tiếp xúc hay nhận tin tức của họ được mười năm. Người chị dâu của anh G. Sharada, người đã lấy anh kề của Krishna khi chị ấy mười lăm tuổi, đã bị xúc động nhiều và tràn trề nước mắt khi chị kể với tôi những năm sau đó vào năm 1984 về những bản tin đã được lưu hành của sự gặp gỡ giữa Narianiah và hai cậu con trai của ông. Không thể thăm Tổ chức Thông thái, ông đã tìm kiếm tin tức của gia đình từ phía bên ngoài Tổ chức. Qua nhiều năm không một ai trong hai cậu trai đã viết thư cho ông, và khi ông nhận được điện tín báo rằng họ sẽ viếng thăm ông, ông đã sụt sùi khóc. Theo lệnh của ông, người chị dâu đã bỏ ra hai ngày chuẩn bị những thức ăn đặc biệt mà ông biết hai cậu con trai của ông trước kia ưa thích lắm.

Đó là một chiều tối khi hai anh em đến. G. Sharada nói, chị rất nhút nhát, và chờ phía bên ngoài trên hàng hiên khi Krishnamurti và Nitya đến thăm. Khi diễn tả về Krishnamurti, chị nói, “Cậu ấy trông vượt khỏi sự diễn tả, rất rực rỡ – đầy ánh sáng. Cậu có một bước đi mau lẹ lạ lùng, và cao hơn những người khác nhiều.” Chị cúi đầu khi chị thấy cậu. Để chọc chị, cậu đặt hai bàn tay che mặt lại, như thể cậu đã không thấy chị. Nitya khiển trách cậu và nói, “Tại sao anh làm như thế? Chị ấy nhút nhát tự nhiên, giống như một cô gái Ấn độ.”

Narianiah nghẹn ngào khi ông thấy hai cậu trai, và đứng dậy chào đón họ. Krishnamurti và Nitya phủ phục mình trước ông và đặt trán của họ chạm vào bàn chân của ông. Narianiah ôm họ và bắt đầu khóc lóc. Krishnamurti ngồi xuống cùng ông và, theo lời G. Sharada, “an ủi ông.” Sau đó họ nói về Mrs. Besant. Người cha và hai cậu con của ông không nói tiếng Telugu, nhưng tiếng Anh. Kẹo và thức ăn thơm ngon được làm đặc biệt đưa ra mời hai anh em. Hai cậu e thẹn và bối rối, và hoang mang không biết phải cư xử như thế nào. Cuối cùng, họ ăn rất ít. Krishnamurti không ăn, nhưng Nitya ăn một quả cam.

Narianiah đang bị bệnh tiểu đường và có vấn đề về thận. Sự kích động tình cảm khi gặp hai cậu con của ông khiến ông phải đi vào phòng rửa mặt; và như được yêu cầu bởi nghi lễ, ông rửa hai bàn chân của ông. Sau đó việc này được giải thích có nghĩa rằng Narianiah đã rửa hai bàn chân của ông bởi vì chúng đã bị sờ vào bởi hai cậu con của ông, người mà ông coi như những người hạ đẳng.

Hai anh em chỉ ở lại nửa tiếng đồng hồ trong chuyến thăm đầu tiên của họ. Theo lời G. Sharada, họ đến thăm ba ngày liên tiếp, sau đó không còn thăm nữa.[5] Narianiah muốn đến Tổ chức Thông thái để gặp hai cậu con trước khi họ rời Ấn độ, nhưng bị ngăn cản bởi người con cả của ông. Narianiah chết năm 1924. Ông không gặp lại hai cậu con kể từ lúc đó.

 

 

CHƯƠNG 4 

“Mẹ ơi! Làm ơn sờ mặt con.

 Nó vẫn còn ở đó?”

 

V

ào đầu năm 1922, Krishnaji và Nitya đi tầu từ Colombo đến Sydney, Úc, để tham dự một hội nghị của Tổ chức Thông thái được tổ chức ở đó. Krishnamurti và C. W. L. sẽ gặp lại nhau sau mười một năm, và có vẻ cậu hạnh phúc khi gặp lại người anh thông thái cũ của cậu. Những buộc tội đồng tính luyến ái chống lại Leadbeater ở Úc được khơi dậy, và tình trạng bất hòa bùng nổ trong số những người Thông thái nghiêm túc, mà Krishna cố gắng hết sức để xoa dịu đi.

 Cũng ở Sydney mà Krishna gặp James Wedgewood. Trước lúc đó, Wedgewood đã được phong chức một giám mục của Liberal Catholic Church.[6] Năm 1916 tiếp tục ông đã phong chức C. W. L. Giám mục của Liberal Catholic Church cho Úc. C. W. L. hài lòng, bởi vì việc này liên quan đến không chỉ những nghi lễ và những chiếc áo choàng lộng lẫy gắn bó với Giáo hội, nhưng còn cả một nghi lễ mới bằng tiếng Anh.

 Vì Nitya vẫn còn chưa khoẻ, sau khi hội nghị chấm dứt hai anh em quyết định quay lại Châu âu qua đường San Francisco và nước Mỹ. A. P. Warrington, Tổng Thư ký của Tổ chức Thông thái ở Mỹ, cũng có mặt ở Sydney cho cuộc hội nghị. Ông mời Krishna và Nitya dành ra chút ít thời gian ở Ojai, California, một vùng cổ thuộc người bản xứ của Mỹ gần Santa Barbara, có khí hậu khô ráo, rất tốt để chữa bệnh lao phổi. Khi thời gian rời Sydney của họ đến gần, C. W. L. nhận được một thông điệp từ Thầy K. H. cho Krishna, mà gây xúc động Krishna nhiều lắm.

 Một chuyến đi thật dài, và Nitya trở bệnh nặng trên tầu. Nhưng cuối cùng cậu bình phục, và họ đến California. Đó là chuyến thăm đầu tiên của họ, và Krishna bị mê đắm bởi vẻ đẹp của vùng quê. Sau một chuyến đi đến một cánh rừng gỗ đỏ, cậu nhận xét sự uy nghi của cây cối và sự tương đồng của chúng với những thánh đường nguy nga.

 Cuối cùng, Krishna và Nitya đến Ojai, nơi họ sống trong một ngôi nhà được vây quanh bởi sáu mẫu đất. Sau đó tài sản này được mua cho hai anh em bởi Annie Besant, và được đặt tên lại là Arya Vihara, tu viện của những con người cao cả.

 Krishnamurti đã bắt đầu tham thiền đều đặn mỗi sáng sớm, và bị kinh ngạc bởi sự thanh thản mà cái trí phản ứng. Cậu phát giác rằng cậu có thể duy trì hình ảnh của Maitreya trong ý thức nguyên một ngày. Cậu, như cậu nói, “đang bình thản hơn và yên lặng hơn.” Toàn quan điểm về sống của cậu đang thay đổi. Những cánh cửa đang mở toang phía bên trong. Từ Ojai, Krishnamurti viết cho Leadbeater:

 

Như anh biết rõ, em đã không là điều gì được gọi là “hạnh phúc” trong nhiều năm; mọi thứ em tiếp xúc đều tạo cho em sự bất mãn; điều kiện tinh thần của em như anh biết, người anh yêu quý nhất của em, đã rất tồi tệ…em đã thay đổi nhiều từ điều gì em là ở Úc. Tự nhiên em đã suy nghĩ liên tụccân nhắc kỹ lưỡng về thông điệp mà Thầy K. H. trao cho em khi ở Úc.

Tháng tám năm 1922 Krishnamurti sẽ chìm đắm vào trạng thái thức giấc mãnh liệt thuộc tinh thần mà đã thay đổi nguồn sống của cậu. Trong truyền thống của Ấn độ, yogi mà chìm đắm trong mê cung phức tạp của ý thức thức dậy những năng lượng kundalini[7] bùng nổ và những lãnh vực hoàn toàn mới mẻ của những hiện tượng thuộc tinh thần, đang thâm nhập vào những vùng đất không biết được của cái trí. Một yogi tiếp xúc những năng lượng cơ bản này và trải qua sự khai trí huyền bí được công nhận là rất nhạy cảm với những nguy hiểm cực kỳ; thân thể và cái trí đối diện với những nguy hiểm có thể dẫn đến điên khùng hay chết.

Yogi học hành những giáo điều huyền bí và trải nghiệm sự thức dậy của năng lượng ngủ yên im lìm dưới sự hướng dẫn của vị đạo sư. Ngay khi yogi trở thành một người tinh thông, những thay đổi này của ý thức trên vùng đất của ý thức được bộc lộ trong một loạt những sự kiện huyền bí. Thân thể và cái trí phải trải qua một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Người tinh thông được vây quanh và được bảo vệ bởi những học trò của ông ấy; sự huyền bí và sự yên lặng che chở lan tỏa bầu không khí.

Ở Ojai, Nitya và Rosalind Williams, một người Mỹ trẻ của Tổ chức, hiện diện khi Krishnamurti trải nghiệm đa số trong những sự kiện. Cả Krishnamurti và Nitya đều gởi cho Annie Besant những tường thuật về những sự kiện. Những tường thuật của Nitya diễn tả rất sinh động sự khốn khổ của người anh cậu. Krishna bị đau đớn, ngất xỉu, gọi mẹ của cậu bằng tiếng Telugu, đòi hỏi được dắt ra những cánh rừng ở Ấn độ, phàn nàn về sự bẩn thỉu, yêu cầu Nitya và Rosalind không chạm vào cậu. Krishna nói về sự hiện diện của những Con người vĩ đại; một trống không của ý thức-Krishna là rõ ràng, và cùng nó thỉnh thoảng có một cảm thấy của sự hiện diện vĩ đại. Cuối cùng, Krishna ra khỏi nhà và ngồi dưới một cây tiêu. Sự diễn tả của Nitya, mặc dù bị quy định bởi thuật ngữ Thông thái, tiết lộ sự bối rối và sự lo lắng và sự quan tâm rất nhiều cho người anh kề của cậu. Krishnamurti cũng viết một câu chuyện về những chuyện xảy ra cho Mrs. Besant:

Ngày 17 tháng tám, con cảm thấy đau buốt tại gáy cổ và con phải giảm sự tham thiền mười lăm phút. Cơn đau buốt thay vì bớt đi như con đã hy vọng, lại trở nên tồi tệ hơn. Cực điểm xảy ra vào ngày 19. Con không thể suy nghĩ, con cũng không thể làm bất kỳ việc gì, và con được những người bạn ở đây ép buộc phải nằm trên giường. Sau đó hầu như con bị bất tỉnh, mặc dù con nhận biết rõ ràng được việc gì đang xảy ra chung quanh con. Con hồi tỉnh lại khoảng buổi trưa mỗi ngày. Ngày đầu tiên trong khi con đang ở trạng thái đó và nhận biết được nhiều về những sự việc sự vật quanh con, con có trải nghiệm lạ thường nhất đầu tiên. Có một người đàn ông đang sửa con đường; người đàn ông đó là chính con; cái rìu ông ấy cầm là chính con; mọi viên đá mà ông ấy đang đập vỡ là một phần của con; cọng cỏ mỏng manh là chính thân tâm của con và cái cây bên cạnh người đàn ông là chính con. Hầu như con có thể cảm thấysuy nghĩ giống như người sửa đường, và con có thể cảm thấy gió đang thổi qua cái cây và con kiến bé tí trên cọng cỏ con cảm thấy. Những con chim, bụi bặm và chính sự ồn ào là một phần của con. Ngay lúc đó có một chiếc xe chạy ngang qua ở xa xa; con là người tài xế, động cơ xe và những cái lốp xe; khi chiếc xe chạy xa khỏi con, con đang chạy xa khỏi chính con. Con ở trong mọi thứ, hay khác hơn mọi thứ ở trong con, không sức sống hay có sức sống, hòn núi, con giun và tất cả những sinh vật đang thở. Suốt ngày con ở trong tình trạng hạnh phúc này. Con không thể ăn bất kỳ thứ gì, và lại nữa khoảng sáu giờ con bắt đầu mất đi thân thể vật chất của con, và một cách tự nhiên cái yếu tố vật chất làm việc gì nó thích; con nửa mê nửa tỉnh.

Buổi sáng của ngày kế tiếp [ngày 20] hầu như giống hệt như ngày hôm trước. Suốt ngày con không ăn gì cả, và con không thể chịu đựng quá nhiều người trong phòng. Con có thể cảm thấy họ đang khá tò mò và những rung động của họ làm đau đớn những dây thần kinh của con. Chiều hôm đó khoảng lúc sáu giờ giống như vậy con cảm thấy tồi tệ hơn bao giờ. Con không muốn người nào gần con và cũng không muốn người nào chạm vào con. Con đang cảm thấy mệt mỏiyếu ớt kinh khủng. Con nghĩ rằng con đang khóc bởi vì sự kiệt sức hoàn toàn và mất đi khả năng kiểm soát thân thể. Bộ đầu của con khá nặng nề và trên đỉnh đầu cảm thấy như thể nhiều cây kim đang được xuyên thủng vào trong. Trong khi con đang ở trong trạng thái này, con cảm thấy rằng cái giường con đang nằm, giống hệt như ngày hôm trước, bẩn thỉu và gớm ghiếc vượt khỏi sức tưởng tượng, và con không thể nằm trong nó nữa. Bỗng nhiên con thấy mình đang ngồi trên nền nhà và Nitya và Rosalind bảo con lên giường. Con yêu cầu họ đừng chạm vào con và la lớn rằng cái giường không sạch sẽ. Con tiếp tục như thế này trong một khoảng thời gian cho đến khi cuối cùng con lang thang ra hàng hiên và ngồi kiệt sức trong một vài khoảnh khắc và trở nên hơi hơi bình thản lại. Con bắt đầu hồi tỉnhcuối cùng Mr. Warrington [Tổng Thư ký của Tổ chức Thông thái ở Mỹ] bảo con đi ra dưới cây tiêu gần ngôi nhà. Ở đó con ngồi kiết già trong tư thế tham thiền. Vì vậy khi con ngồi được một chốc lát, con cảm thấy chính con ra khỏi thân thể của con. Con thấy chính con đang ngồi ở đó với những chiếc lá non nớt, mảnh mai của cây tiêu phủ trên con. Con đang đối diện hướng Đông.

Trước mặt con là thân thể của con và trên đầu con thấy Ngôi sao rực rỡrõ ràng. Sau đó con có thể cảm thấy sự rung động của Chúa Buddha; con ngắm nghía Chúa Maitreya và Thầy K. H. Con hạnh phúc lắm, thanh thảnan bình. Con vẫn có thể thấy thân thể của con và con đang bay lượn lơ lửng và phía bên trong chính con là sự êm đềm của đáy một cái hồ thăm thẳm không thể đo lường được. Giống như cái hồ, con cảm thấy thân thể vật chất của con là một cái hồ không đáy. Giống như cái hồ, con cảm thấy rằng thân thể vật chất của con cùng những cảm xúc và cái trí của nó có thể bị lăn tăn trên mặt, nhưng không thứ gì, không, nói cho chính xác hơn không thứ gì có thể quấy rầy sự êm đềm của linh hồn con. Sự hiện diện của những Đấng Vĩ đại ở cùng con trong một khoảng thời gian và sau đó Họ tan biến. Con hạnh phúc vô cùng bởi vì con đã thấy. Không gì có thể giống như thế. Con đã uống nơi những giọt nước tinh khiết trong lành tại ngay nguồn của vòi nước của sự sống và linh hồn của con được an ủi. Không bao giờ con có thể khát nữa, không bao giờ con có thể ở trong sự tối tăm hoàn toàn nữa. Con đã thấy Ánh sáng. Con đã chạm được từ bi mà chữa trị khỏi tất cả phiền muộnđau khổ; nó không dành cho con, nhưng cho thế giới. Con đã đứng trên đỉnh núi và nhìn ngắm những Đấng Vĩ đại. Không bao giờ con có thể ở trong sự tối tăm hoàn toàn; con đã thấy ánh sáng rực rỡhồi phục. Nguồn nước Sự thật đã được phơi bày cho con và sự tối tăm đã được xua tan. Tình yêu trong tất cả vinh quang của nó đã làm say sưa quả tim của con; và quả tim của con không bao giờ có thể bị khép lại. Con đã uống nơi cái nguồn của hân hoan và Vẻ đẹp vĩnh hằng. Con được thẩm thấu cùng Thượng đế!

 Trong mười ngày tiếp theo thân thể của Krishna yên tĩnh, đang hồi phục. Tuy nhiên, vào ngày 3 tháng chín, có những dấu hiệu của một đang thức dậy của những cảm xúc trong cột sống của cậu và của ý thức đang rời khỏi thân thể của cậu. Chẳng mấy chốc những thời kỳ của đau buốt bắt đầu. Ba người chứng kiến hiện diện: Nitya, Rosalind, và Mr. Warrington. Nitya ghi lại từng chi tiết, nhưng không ai có thể hiểu rõ những sự kiện này biểu hiện điều gì. Những ghi chú này mang chữ ký của Nitya và ghi ngày 11 tháng hai năm 1923, được gởi đến Mrs. Besant. Chỉ vừa mới được tìm ra lại, chúng nằm nhiều năm trong một hồ sơ linh tinhvăn khố Adyar. Nitya đã viết, “Con rất khó khi quyết định liệu viết như thể nó là một qui trình khoa học; hay như thể nó là một nghi lễ thiêng liêng trong một ngôi đền. Những sự kiện được tập trung và được bắt đầu mỗi chiều khoảng 6 giờ. Chúng kéo dài trong một thời kỳ đều đặn và sẽ chấm dứt tại cùng thời gian muộn trong buổi chiều lúc 8 giờ – một vài ngày chúng kéo dài đến mãi 9 giờ tối.”

 Chuỗi sự kiện dường như đã xảy ra như dưới đây: Mỗi chiều Krishna tham thiền dưới cây tiêu. Vào ngày 3 tháng chín, sau khi anh đã chấm dứt những tham thiền của anh, anh đi vào nhà trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh và nằm xuống. Anh bắt đầu rên rỉ và phàn nàn về sức nóng kinh khủng; anh rùng mình chút ít và sụp xuống trên ghế trường kỷ. Khi anh khôi phục toàn bộ ý thức anh không nhớ việc gì đã xảy ra, mặc dù anh cảm thấy một khó chịu chung chung mơ hồ. Chiều kế tiếp lại xảy ra những hiện tượng như thế. Ngày 5 tháng chín anh đi xuống Hollywood để xem một vở bi kịch về sống của Christ. Anh đã sắp xếp để xem vở kịch này lâu rồi và không muốn phá vỡ sự hứa hẹn. Krishna kể cho Nitya sau đó rằng trong khi anh đang xem kịch chiều đó, anh cảm thấy dần dần mất ý thức và cần có một nỗ lực vô cùng anh mới có thể đánh thức mình được. Anh quay lại Ojai vào buổi chiều ngày 6. Vào tối ngày 7 tháng chín, ngày sau trăng tròn, vẫn còn rất sáng. Nitya tiếp tục:

 Khi Krishna xuất hiện từ cây tiêu, chúng con có thể thấy anh rất rõ ràng. Anh trông giống một bóng ma trong bộ quần áo Ấn độ của anh, khi anh đi bằng một bước chân kéo lê nặng nề chao đảo một chút ít, hiếm khi nào có thể giữ được tư thế thẳng. Khi anh tiến lại gần hơn, chúng con có thể thấy đôi mắt của anh, chúng có một cái nhìn chết rồi đầy lạ thường trong chúng, và mặc dù anh thấy chúng con anh không biết một người nào cả; anh vẫn có thể nói mạch lạc nhưng anh đang trở nên không ý thức rất mau. Nó trông quá nguy hiểm khi trông thấy anh đang đi nghiêng ngả đến độ Rosalind hay Mr. Warrington cố gắng đến gần để đỡ anh, nhưng anh sẽ la lên “làm ơn đừng chạm, ôi, làm ơn, đau lắm.” Sau đó anh sẽ đi vào hàng hiên và nằm xuống trên giường. Chúng con đã kéo tất cả những cái màn xuống, vì thế rất tối trong đó mặc dù vẫn còn có ánh sáng trăng. Rosalind sẽ ngồi gần bên. Sau chốc lát, anh sẽ ngồi dậy và nói với người nào đó mà không ai trong chúng con có thể thấy, “cái gì! Vâng tôi đang đến” và bắt đầu đi ra và Rosalind sẽ cố gắng ngăn anh lại, nhưng anh sẽ nói “Anh không sao đâu, làm ơn đừng chạm vào anh. Anh hoàn toàn không sao cả” và giọng nói của anh sẽ nghe có vẻ bình thường mặc dù hơi hơi tức tối. Bị lừa dối bởi câu nói này, Rosalind sẽ bỏ anh một mình và hiếm khi anh bước được hai bước, sẽ có một cú ngã kinh hãi lắm và anh ngã sóng soài úp mặt xuống, không thèm để ý anh ngã nơi nào hay như thế nào. Phía ngoài trên hàng hiên có những cái hộp lồi ra từ dưới một cái ghế băng dài mà suốt chiều dài của hàng hiên; nhưng anh tuyệt đối không nhận biết được tất cả việc này, và anh sẽ ngã xuống bất kỳ nơi nào, ngã không thể kiềm hãm được chính xác như thể anh đang bị ngất xỉu; thỉnh thoảng anh sẽ ngồi dậy trên giường và sau khi lầm bầm điều gì đó anh sẽ ngã về phía sau nghe một tiếng rầm trên giường và thỉnh thoảng ngã về phía trước xuống nền nhà. Anh cần chú ý cẩn thận mỗi khoảnh khắc, và vẫn vậy khi anh nhận ra việc này anh có vẻ bực bội và sẽ khẳng định trong một giọng nói rõ ràng “Anh không sao đâu, làm ơn hãy tin tưởng anh, anh hoàn toàn không sao mà.” Nhưng ngay cả khi anh nói câu đó anh sẽ kéo lê và lạc giọng. Tất cả thời gian này anh đang rên rỉ và lắc lư về việc không thể ngồi yên được, lầm bầm không mạch lạc và phàn nàn về cột sống của anh.

Bất kỳ sự ồn ào nào, thậm chí nói chuyện thấp giọng nhất, sẽ làm cậu bực bội và cậu sẽ van xin những người bạn của cậu đừng nói về cậu, bỏ cậu lại một mình; bởi vì mỗi lần họ nói về cậu nó gây tổn thương cho cậu. Và thế là nó tiếp diễn cho đến 8 giờ. Trước tám giờ một chút, cậu sẽ trở nên an bình hơn, yên ổn hơn, và thỉnh thoảng cậu sẽ đi ngủ; dần dần, cậu sẽ trở nên tỉnh táobình thường lại.

 Vào tối mồng mười tháng chín, Krishna bắt đầu gọi mẹ của cậu. Cậu gọi nhiều lần, sau đó cậu nói, “Nitya, em có thấy mẹ không?” Khi cậu quay về ý thức bình thường, cậu kể cho Nitya rằng khi đôi mắt của cậu ngừng lại trên Rosalind, khuôn mặt người mẹ của họ len vào giữa và khuôn mặt của Rosalind sẽ hòa tan với khuôn mặt người mẹ của họ. Những kỷ niệm thời niên thiếu của cậu được khơi dậy và cậu sống lại những trải nghiệm thời niên thiếu.

 Chẳng mấy chốc, Nitya và Warrington nhận ra rằng Krishna đang trải qua những chuyển hướng rất nguy hiểm của ý thức hay sự thức dậy của kundalini, và cảm thấy bầu không khí “được nạp” bởi điện; họ cảm thấy như thể họ là những người bảo vệ của một ngôi đền nơi những nghi lễ thiêng liêng đang được thực hiện. Thỉnh thoảng, những người ở cùng Krishna cảm thấy sự hiện diện của Đấng Vĩ đại đang điều khiển những ca giải phẫu, mặc dù họ không bao giờ có thể thấy hay nhận dạng được nó. Nhưng thân thể của Krishna, giữa những cơn đau đớn, sẽ nói chuyện với hiện diện không thấy được, người có vẻ là một người bạn và một người Thầy. Krishna không thể chịu được ánh sáng hay âm thanh; cậu sẽ la lớn khi bị chạm vào dù nhẹ nhất; cậu không thể chịu nổi quá nhiều người vây quanh cậu; thân thể và cái trí dường như tăng đến một mức độ cao nhất của sự nhạy cảm. Một đau đớn lờ mờ bỗng nhiên sẽ tập trung vào một điểm và sau đó trở thành đau buốt, cậu sẽ đẩy mọi người đi và phàn nàn về sức nóng.

 Đến ngày 18 tháng chín, một chặng mới bắt đầu. Sự đau đớn mãnh liệt thêm. Krishna đang hỏi hiện diện không thấy được những câu hỏi. Trạng thái bồn chồn đã gia tăng; đôi mắt của cậu mở to nhưng không đang thấy; cậu sẽ run rẩy và rên rỉ; thỉnh thoảng cậu sẽ la lớn vì đau đớn, “Làm ơn, ôi, làm ơn cho tôi một phút.” Sau đó cậu sẽ gọi mẹ.

 Vào ngày 18 tháng chín, lúc 8:30 chiều, cậu đang ngồi trên ghế dài, thức giấchoàn toàný thức, đang nói chuyện và đang lắng nghe; nhưng trong một vài phút cậu lại đi khỏi. Thân thể, mà giống như một vết thương hở, bắt đầu trải qua sự đau đớn kinh hoàng giống hệt nhau. Sự đau đớn dường như đã chuyển động đến một phần mới mẻ của thân thể không quen thuộc với sức nóng chết người, và khóc nức nở của cậu sẽ kết thúc trong một tiếng thét dễ sợ được kiềm chế lại. Krishna ở trong bóng tối và Nitya nghe “thân thể nói, nức nở, thét lên trong đau đớn và thậm chí van xin cho hoãn thi hành một khoảnh khắc.” Chẳng mấy chốc, họ học để nhận ra hai giọng nói: một, “yếu tố Vật chất,” thân thể, như Nitya viết về nó, và giọng còn lại là giọng của Krishna. Vào lúc chín giờ kém mười lăm phút, Krishna sẽ tỉnh lại, cuối cùng, cho tối đó. Thời gian cho tiến trình này dường như được đo lường, như thể một chất lượng nào đó của công việc phải được thực hiện mỗi chiều tối, và nếu trong bất kỳ cách nào nó bị cản trở khi bắt đầu nó sẽ được thực hiện lại tại khúc cuối.

 Trong muời lăm đêm kế tiếp, mỗi đêm cậu sẽ hỏi, giữa thời kỳ đau đớn của cậu, mấy giờ rồi. Không thay đổi, tới từng phút, nó luôn luôn là 7:30 tối.

 Khi cậu quay lại ý thức bình thường, sự đau đớn sẽ hoàn toàn được tiêu tan. Cậu lắng nghe Nitya và Rosalind kể lại cho cậu việc gì đã xảy ra; nhưng nó như thể là họ đang nói về một người khác.

 Ngày 19 tháng chín, sự đau đớn dường như còn tồi tệ hơn trước kia. Nó bắt đầu ngay tức khắc sau khi cậu bắt đầu bất tỉnh, không có bất kỳ những mở đầu nào, và trở nên mỗi lúc một tồi tệ hơn cho đến lúc bỗng nhiên Krishna vụt đứng thẳng trên hai bàn chân của cậu và chạy hết tốc lực. Họ giữ cậu lại rất khó khăn, vì sợ rằng cậu sẽ ngã xuống những tảng đá. Cậu giằng co để thoát đi. Sau một thời gian, cậu bắt đầu khóc nức nở và bật ra một tiếng la kinh hãi, “Ôi, Mẹ ơi! Tại sao mẹ đã sinh ra con, tại sao mẹ đã sinh ra con cho việc này?” Đôi mắt của cậu, theo Nitya, “trông không có ý thức lạ lùng, hoang dại và đỏ ngầu, không nhận ra ai cả ngoại trừ Mẹ.” Cậu phàn nàn rằng một ngọn lửa đang đốt cháy cậu, và những tiếng nức nở trở nên khủng khiếp đến độ cậu bắt đầu nghẹt thở và kêu ục ục; nhưng việc này kết thúc thật mau. “Và lại nữa khi nó bắt đầu không chịu đựng nổi, bỗng nhiên anh sẽ đứng dậy và vụt chạy, và chúng con sẽ vây quanh anh. Ba lần anh cố gắng chạy thoát và khi anh thấy chúng con vây quanh anh, anh sẽ bình thản lại một chút xíu. Tại những khoảng thời gian khi cơn đau mãnh liệt anh sẽ van xin được nghỉ ngơi một vài phút và sau đó anh sẽ bắt đầu nói với ‘Mẹ’ của anh hoặc chúng con sẽ nghe anh nói với ‘Họ’. Thỉnh thoảng anh sẽ nói bằng sự cam đoan mạnh mẽ, ‘vâng, trái lại tôi có thể chịu đựng nhiều hơn nữa, đừng để ý đến thân thể, tôi không thể bắt nó ngừng sụt sùi.’ ”

 Tối ngày 20 tháng chín, cơn đau thậm chí còn buốt hơn nhiều, và Krishna cố gắng chạy thoát năm hay sáu lần. Thân thể của cậu sẽ xoắn lại trong những vị trí lạ lùng và nguy hiểm, bởi vì đau đớn quá nhiều. Nitya viết rằng có một lần Krishna, đang nức nở và sụt sùi, bỗng nhiên đặt đầu qua hai đầu gối trên nền nhà và quay tròn, gần gẫy cổ của cậu; nhưng may mắn thay Rosalind ở gần bên và lật cậu trở lại. Cậu trở nên hoàn toàn bất động và trong một khoảnh khắc gần như chúng tôi không cảm thấy tim của cậu đang đập.

 Ngày hôm sau Rosalind phải đi khỏi trong vài ngày. Khi cô ấy không ở đó qui trình bớt quyết liệt, nhưng cậu tiếp tục phàn nàn về một đau đớn lạ lùng ở phía dưới thấp bên phía trái của cột sống.

 Có một lần, Krishna có vẻ bị quẩn trícảm thấy rằng người nào đó đang rình rập quanh nhà. Cậu khăng khăng đòi hỏi phải đi đến bức tường thấp vây quanh nhà và lớn tiếng nói, “Đi đi, ngươi có ý gì mà đến đây? Đi đi. Ta không cần biết ngươi đi đâu, đi ra phía sau những quả đồi, nhưng đi khỏi đây ngay tức khắc.” Sau đó, cậu quay lại và nằm xuống. Chốc sau cậu bắt đầu la lên, “Làm ơn quay lại Krishna.” Cậu tiếp tục gọi Krishna cho đến khi cậu trôi vào trạng thái không ý thức. Đây là lần đầu tiên cậu gọi tên riêng của cậu. Đêm đó sự đau đớn phía sau cổ của cậu gia tăng nhiều.

 Khi Rosalind quay lại, sự đau đớn trở nên tồi tệ hơn và cậu phàn nàn về một đốt cháy nóng ran trong cột sống và cậu không thể chịu được quá nhiều ánh sáng, ngay cả ánh sáng của trăng non. Lại nữa, khoảng giữa của tiến trình cậu đứng dậy để xua đuổi một người không thấy được nào đó. Cậu có vẻ tức giận và hiện diện không thấy được không quay lại. Ngay sau khi ánh sáng khiến cậu không thể chịu đựng được, họ phải đưa cậu vào trong nhà. Một buổi chiều, gần đến 5 giờ, bầu không khí trong ngôi nhà thay đổi; nó trở nên yên lặng, an bình hơn và chẳng mấy chốc họ cảm thấy một Hiện diện vĩ đại mà chịu trách nhiệm công việc. Nitya kể lại nó như thể, “Những động cơ vĩ đại đang chạy và suốt vài tiếng đồng hồ, ngôi nhà rung động.”

 Ngày 2 tháng mười, một giai đoạn mới bắt đầu. Sự đau đớn đã chuyển lên khuôn mặt và đôi mắt của Krishna. Cậu cảm thấy rằng họ đang làm việc trên đôi mắt của cậu và nói, “Mẹ ơi, làm ơn sờ mặt con, nó vẫn còn ở đó chứ?” và chốc lát sau, “Mẹ ơi, đôi mắt của con biến mất rồi, cảm thấy chúng, chúng đã biến mất rồi.” Khi cậu nói câu này cậu bắt đầu nức nở và rên rỉ. Việc này tiếp tục đến 8 giờ tối. Đến 9 giờ tối, cậu run rẩy và lắc mạnh và hầu như không thể thở được.

 Có vẻ như thể “Krishna thực sự” phát giác khó khăn cực kỳ khi quay vào thân thể của cậu. Theo Nitya, “mỗi lần anh cố gắng thức dậy, nó gây ra sự run rẩy này.”

 Ngày 3 tháng mười, cậu nói với Rosalind, “Mẹ, mẹ sẽ chăm sóc con nhé, con sẽ đi khỏi đây xa lắm,” và sau đó bị bất tỉnh. Thỉnh thoảng sau đó cậu bắt đầu nói với Rosalind, hỏi chị ấy Krishna ở đâu. Cậu bảo với chị ấy rằng cậu đã giao cho chị ấy chịu trách nhiệm, và bây giờ chị ấy không biết Krishna ở đâu. Và Krishna bắt đầu khóc, bởi vì cậu đã mất Krishna. Cậu không chịu ngủ trước khi Krishna quay lại, sau đó một tiếng rưỡi.

 Một buổi sáng trong khi họ ở nhà của Warrington, Krishna rời khỏi thân thể của cậu. Cậu đã bảo với Rosalind rằng cậu phải đi rất xa và chị ấy phải chăm sóc cậu. Hai tiếng sau cậu bắt đầu nói. Thấy bàn tay của Rosalind, cậu có vẻ kinh ngạc và hỏi, “Mẹ, tại sao da của mẹ lại trắng?” Cậu nhìn vào chị ấy và nói, “Mẹ trẻ hơn nhiều, chuyện gì đã xảy ra?” Sau đó, “Mẹ, Krishna đang đi vào, nhìn kìa, anh đang đứng ở đó.” Và khi Rosalind hỏi cậu ấy trông như thế nào, cậu trả lời, “Anh ấy là một người đàn ông cao, đẹp, rất trang nghiêm. Anh ấy sợ anh một chút xíu.” Sau đó cậu nói, “Nhưng, mẹ không biết anh ấy à, Mẹ, anh ấy là con trai của mẹ, anh ấy biết mẹ.”

 Vào đêm mồng 4 tháng mười Krishna chịu đựng đau khổ nhiều hơn thường lệ, sự đau đớn tập trung trong khuôn mặt và đôi mắt của cậu. Cậu liên tục nói, “Ôi, làm ơn hãy khoan dung tôi,” và, “Tôi không có ý đó, dĩ nhiên, bạn nhân từ lắm.”

 Sau đó, cậu bảo với Nitya rằng họ đang tẩy rửa đôi mắt của cậu để cậu có lẽ được cho phép thấy “Ngài.” Nó là, cậu nói, “Giống như đang bị trói chặt trong sa mạc, khuôn mặt của người ta đối diện mặt trời đang khạc lửa, với những mí mắt của người ta bị cắt trụi lủi.”

 Trễ hơn vào đêm đó, Nitya thấy Krishna đang ngồi tham thiền và lại nữa cảm thấy hiện diện rộn ràng của một Vĩ đại đang tràn ngập căn phòng. Tất cả đau đớn đã được tan biến. Nitya viết, “Krishna không thấy khuôn mặt của Ngài, chỉ có thân thể của Ngài đang chiếu sáng trắng xoá.”

 Sáng hôm sau, Krishna ở trong một tâm trạng phản kháng, cậu nửa tỉnh nửa mê nhưng quả quyết đòi ra ngoài. Họ phải chặn cậu lại. Sau đó cậu kể lại rằng cậu đã cảm thấy một đốt cháy kinh hoàng trong cột sống và muốn tìm một khe suối trong hẻm núi để cậu có thể ngâm thân thể trong nó, để giảm bớt sự đốt cháy.

 Lại nữa ngay sau đó những người bạn của cậu cảm thấy Hiện diện Vĩ đại. “Đôi mắt của Krishna sáng rực và toàn khuôn mặt của anh đều đẹp lên. Cùng sự có mặt của Hiện diện, bầu không khí đã thay đổi lạ thường. Chúng tôi cảm thấy sự có mặt của một Đấng uy nghi lạ thường và Krishna trông có được một hạnh phúc lạ thường trên khuôn mặt của cậu.” Krishna bảo Nitya, Rosalind, và Warrington tự chuẩn bị cho chính họ, bởi vì một người khách vĩ đại sẽ ghé thăm đêm đó. Cậu yêu cầu bức tranh của Chúa Buddha được đặt trong phòng của cậu.

 Sau đó, khi Krishna đi vào từ sự tham thiền của cậu, cậu kể cho họ rằng Đấng Vĩ đại đã đi khỏi sau khi sự tham thiền của Krishna chấm dứt.

Tối đó là một buổi tối đau khổ kinh hoàng khi con thấy nó, đối với con có vẻ rằng nó là một buổi tối đau đớn nhất mà Krishna đã từng chịu đựng. Anh trải qua sự đau đớn khủng khiếp những buổi tối kế tiếp, và có vẻ chúng còn tồi tệ hơn nhiều, nhưng con nghĩ đây là do bởi tình trạng yếu ớt rất thương tâm bị gây ra bởi buổi tối đó. Trước khi sự đau đớn thực sự bắt đầu, chúng con nghe Krishna nói chuyện với Người Thầy chịu trách nhiệm. Anh được yêu cầu không được kể bất kỳ điều gì về việc gì đang được thực hiện cho anh và anh đưa ra lời hứa của anh; sau đó anh được bảo rằng người khách sẽ quay lại muộn vào lúc 8:15. Krishna nói, “Anh ấy sẽ đến lúc 8:15, vậy thì chúng ta hãy bắt đầu thật mau.” Sau đó ngay trước khi nó được bắt đầu, anh đang đứng thẳng và chúng con nghe anh ngã xuống một tiếng rầm dễ sợ và sau đó chúng con nghe Krishna xin lỗi “Con rất xin lỗi vì con đã ngã, con biết con không được ngã.” Suốt buổi tối anh nhận biết được thân thể vật chất của anh hơn bất kỳ lúc nào trước đó. Họ bảo với anh rằng anh không được cử động, bởi vì thường thường anh đang nhăn nhó, lăn lộn và quằn quại bởi sự đau đớn. Nhưng lúc này anh hứa hẹn với “Họ” anh sẽ không cử động và lặp đi lặp lại anh nói “Con sẽ không cử động, con hứa con sẽ không cử động.” Thế là anh đan những ngón tay vào nhau thật chặt và với hai bàn tay đan chặt lại phía sau lưng anh, anh nằm ngả lưng, trong khi sự đau đớn dễ sợ tiếp tục. Tối đó anh thấy rất khó thở và anh thở hổn hển liên tục và anh bị nghẹt thở lặp đi lặp lại và khi sự đau đớn vượt khỏi sức chịu đựng và anh không còn thở được nữa, anh chỉ còn cách ngất xỉu. Tối đó anh bị ngất xỉu ba lần, và lần đầu tiên anh bị ngất xỉu, chúng con không biết việc gì đã xảy ra; chúng con đã nghe anh thở hổn hển và bị nghẹt thở và khóc nức nở bởi sự đau đớn và bỗng nhiên sau một hổn hển kéo dài có sự yên lặng chết rồi. Khi chúng con gọi tới anh, không có trả lời và chúng con đi vào phòng và mò mẫm về phía anh, bởi vì căn phòng tối đen như mực và chúng con không biết anh nằm ở đâu. Chúng con phát giác anh đang nằm ngả lưng bất động và những ngón tay của anh đan chặt vào nhau đến độ có vẻ anh giống như [một] cái tháp từ đá. Chúng con vội vã làm anh hồi tỉnh và việc này xảy ra ba lần. Mỗi lần anh hồi tỉnh lại, anh sẽ xin lỗi Họ vì đã phí phạm thời gian và nói với Họ rằng anh đã cố gắng hết sức để kiểm soát mình, nhưng rằng nó vượt quá sự kiểm soát. Thỉnh thoảng Họ cho anh một không gian thở nhe nhẹ và sự đau đớn sẽ ngừng lại và giữa những lăn lộn quằn quại của sự đau đớn anh sẽ bắt đầu đùa giỡn với người đang làm công việc và anh sẽ cười cợt như thể toàn công việc này là một trò chơi. Và thế là nó tiếp tục một tiếng mười lăm phút. Đến 7:15 Krishna bắt đầu yêu cầu gặp Mẹ của anh và khi Rosalind rón rén đi vào, anh trở nên căng thẳng nhiều và gọi lớn tiếng “ai đó, ai đó, ai đó?’ và khi chị đi vào phòng anh bị ngất xỉu. Sự kiện bất kỳ người nào đi vào phòng trong khi anh đang ở trong trạng thái nhạy cảm này dường như gây bực tức cho anh. Chị ở cùng anh trong chốc lát và sau đó anh yêu cầu chị ra khỏi phòng “bởi vì Ngài sắp đến.” Vì vậy con và Rosalind ở ngoài hàng hiên và Krishna ngồi phía bên trong, tư thế hoa sen, như thể đang tham thiền. Sau đó chúng con cảm thấy, như chúng con đã cảm thấy sớm hơn, trong buổi chiều, Hiện diện Vĩ đại.

 Sau đó, khi cả con và Rosalind đều ở trong căn phòng Krishna bắt đầu nói chuyện với những người chúng con không thể thấy được. Công việc đã được tin chắcthành côngrõ ràng họ đang chúc mừng anh, và căn phòng đầy những người khách viếng thăm tất cả đều mong muốn vui mừng cùng Krishna, nhưng có quá nhiều người làm anh không thoải mái. Chúng con nghe anh nói “Không có gì phải chúc mừng tôi cả, chính các bạn đã làm cùng sự việc.”

 Sau đó, chắc là họ đã rời đi bởi vì anh thở dài thật sâu và nằm yên lặng rất lâu, quá kiệt sức không cử động được. Sau đó anh bắt đầu nói, “Mẹ,” anh nói, “bây giờ mọi chuyện sẽ khác hẳn, sống sẽ không bao giờ giống hệt cho tất cả chúng ta sau tất cả việc này.” Và lại nữa, “Con đã thấy Ngài, Mẹ, và bây giờ không còn gì quan trọng nữa.” Lặp đi lặp lại anh nói điều này và chúng con cảm thấy sự thật của nó, sống sẽ không bao giờ giống hệt cho tất cả chúng con.”

 Tối đó khi chúng con đi ngủ, ngay trước khi chúng con ngủ Krishna bắt đầu nói chuyện với người nào đó mà con không thể thấy được. Con nghe Krishna chấm dứt nói chuyện. Chắc chắn một người đàn ông đã được gởi đến bởi Thầy D. K. để tiếp tục canh chừng thân thể suốt đêm; Krishna bắt đầu nói với ông ấy là anh cảm thấy ân hận làm sao khi gây cho ông ấy tất cả rắc rối đó. Đây là một trong những sự kiện đáng lưu ý nhất trong tất cả. Sự lễ phép và sự ân cần của Krishna rất lạ thường, liệu anh có ý thức tổng thể hay liệu nó chỉ là phần thân thể đang nói. Người đàn ông đến canh chừng mỗi buổi tối sau công việc này được sáu hay bảy buổi tối. Krishna sẽ nói “Bây giờ tôi đã thấy Ngài. Không còn phải sợ hãi gì nữa”

 Trước thời điểm này, thân thể đã trở nên rất yếu ớt và sẽ liên tục trôi vào trạng thái không ý thức.

Vị trí của sự đau đớn đang chuyển hướng liên tục. Một ít ngày sau, ngày 6 tháng mười, sự đau đớn đã chuyển đến mảnh da đầu. Cái gì đó dường như đã mở ra trong bộ đầu của anh, mà đang gây cho anh sự tra tấn không thể diễn tả được. Có một khoảnh khắc anh hét lên, “Làm ơn đóng nó lại, làm ơn đóng nó lại.” Anh thét lên kinh hoàng, nhưng họ cứ tiếp tục mở nó ra từ từ. Khi anh không còn có thể chịu đựng được sự đau đớn nữa, Krishna hét lên và sau đó ngất xỉu. Tại khúc cuối của bốn mươi lăm phút, anh nằm mà không còn một chút cử động nhỏ nhoi nào. Chầm chậm, ý thức quay lại. Ngạc nhiên thay, những người bạn của anh phát giác họ đang nói chuyện với Krishna như một đứa trẻ, khoảng bốn tuổi hay thậm chí còn nhỏ hơn. Cậu đang sống lại những khoảng đời nào đó của những năm đầu tiên. Cậu thấy ba cảnh rõ rệt. Thứ nhất, người mẹ của cậu đang sinh ra một đứa trẻ. Chứng kiến sự đau đớn của mẹ cậu là một cú sốc khủng khiếp cho cậu, và cậu rên rỉ và la lên và tiếp tục la lên, “Ôi, Mẹ tội nghiệp. Mẹ tội nghiệp, mẹ thật can đảm Mẹ.”

Cảnh thứ hai là Krishna và người em của cậu như những đứa trẻ, đang nằm bị bệnh sốt rét rất nặng.

Cảnh cuối cùng là cái chết của người mẹ cậu. Cậu không thể hiểu được việc gì đang xảy ra. Khi cậu thấy những bác sĩ cho mẹ uống thuốc, cậu van xin mẹ đừng uống nó. “Đừng uống nó Mẹ ơi, đừng uống nó, nó độc hại lắm và nó sẽ không giúp ích cho mẹ đâu. Những bác sĩ không biết gì cả. Ông ấy là một người xấu xa, làm ơn đừng uống nó Mẹ ơi.” Một lát sau, trong một giọng kinh hoàng, cậu nói, “Tại sao mẹ yên lặng vậy, Mẹ? Việc gì đã xảy ra và tại sao bố che mặt bố bằng một miếng dhotti của bố? Trả lời con, Mẹ, trả lời con Mẹ, trả lời con?” Giọng nói của đứa trẻ tiếp tục la lên cho đến khi cậu hồi tỉnh và Krishnamurti quay lại. Lại nữa đêm đó hiện diện đến để canh chừng cho cậu trong khi cậu ngủ.

Đêm sau, theo Nitya, “Họ xuất hiện để đang giải phẫu da đầu của cậu nữa.” Cậu quá đau đớn và thét lên kinh hoàng – thậm chí còn bị ngất xỉu tám lần – khi nó trở nên quá khốc liệt. “Anh van xin họ mở nó ra từ từ và chầm chậm để cho anh có thể dần dần quen thuộc với từng mức độ.” Anh bị nghẹt thở và thở rất khó khăn.

Chốc lát sau, lại nữa cậu trở thành một đứa trẻ, và người ta có thể cảm thấy sự miễn cưỡng phải đi học của cậu. “Mẹ, con không cần đi học hôm nay – đúng chứ? Con bệnh nặng lắm Mẹ à.” Và sau một lúc “Mẹ, cho con ở với mẹ, con sẽ làm bất kỳ việc gì mẹ muốn, con sẽ lấy dầu cho, nếu mẹ muốn, nhưng cho con ở với mẹ.” Và sau đó, “Mẹ ơi, mẹ biết, mẹ giấu chúng con hộp bánh biscuit; ồ, con ăn cắp bánh từ cái hộp đó. Con đã làm nó lâu, lâu lắm rồi.” Khi Rosalind cười, Krishna bị tổn thương rất nhiều, và nói, “Mẹ, mẹ luôn luôn chế nhạo con, tại sao mẹ chế nhạo con?”

Vẫn vậy tiếp theo, sau khi nói nhiều về những con rắn, những con chó con, và những người ăn xin, “anh nói về việc đi đến điện thờ nơi anh thấy một bức tranh của một phụ nữ đang ngồi tư thế hoa sen trên da một con hươu. Nitya nhớ mang máng rằng nó có lẽ là một bức tranh của A. B. và gợi ý điều này. Krishna không biết tên của người phụ nữ ‘ai đó?’ anh hỏi ‘bà ta hao hao giống người nào đó anh biết, nhưng thật ra bà ấy không giống lắm, bà ấy hơi khác.’ ”

Chẳng mấy chốc, một thay đổi không thể chối cãi được. Đến lúc này cậu có thể rời thân thể của cậu một cách dễ dàng và mau lẹ lạ thường, và sự quay lại không còn gây ra run rẩy nữa. Cậu sẽ kể lại sau vào đêm đó rằng họ đã ngừng mở trong trung tâm bộ đầu của cậu.[8] Người đàn ông mà họ không thể thấy được lại đến để tiếp tục canh chừng.

Khi ngày tiếp tục, Krishna nói ít lại; cậu tiếp tục ngất xỉu vào ban đêm, nhưng cậu tỉnh dậy mau và cậu có nhiều sức sống hơn.

Vẫn còn có những thời điểm khi cậu trở thành một đứa trẻ. Có một lần cậu kể về một chuyến đi trong một chiếc xe bò kéo dài ba hay bốn ngày.

Vào ngày 18 tháng mười sự đau đớn trở thành từng đợt thường xuyên, nhưng cao điểm của nó sẽ làm cho cậu bị kiệt sức. “Lại nữa chúng con được ban phước bằng một chuyến viếng thăm từ Đấng Vĩ đại. Ngày 19 là một trải nghiệm rất lạ thường sau khi anh đi vào từ tham thiền của anh, anh bắt đầu gọi Krishna lặp đi lặp lại. Anh gọi lớn tiếng, “Krishna, làm ơn Krishna, đừng bỏ tôi.’ ”

Sau đó, cậu nói với Nitya và Rosalind và yêu cầu họ “chăm sóc Krishna cẩn thận, không bao giờ đánh thức anh mau lẹ quá, không làm anh giật mình, bởi vì việc đó rất nguy hiểm”, “những công việc có lẽ đóng lại” nếu có bất kỳ việc gì tiến triển sai lầm. Những công việc giảm xuống đều đặn, và tháng mười một năm 1923 chúng đã chấm dứt.

Tiến trình, không thể giải thích được bởi Leadbeater và Mrs. Besant, sẽ tiếp tục ngắt đoạn trong những tháng tiếp theo. Thân thể của cậu sẽ bị mổ xẻ rất đau đớn, nó sẽ quằn quại khắp mọi nơi, và thỉnh thoảng sẽ đập mạnh trên nền nhà. Krishnamurti thường xuyên phải yêu cầu em của cậu hay bất kỳ người nào có mặt ra khỏi căn phòng, bởi vì họ phát giác rằng chứng kiến sự hành hạ khốn khổ của Krishna thật là khó khăn. Cậu sẽ ngất xỉu lặp đi lặp lại, và khi kết thúc trông cậu sẽ mệt nhoài.

Năm 1924, Krishna và vài người bạn đi ra nước ngoài, nơi những trải nghiệm tiếp tục. Gần đến sự kết thúc đau đớn kinh khủng của Krishna, cậu ngắm nghía những hình ảnh của Buddha, Maitreya, và những Bậc Thầy khác của Thứ bậc Huyền bí. Nitya, bị bối rối rất nhiều, viết cho Mrs. Besant vào ngày 24 tháng ba từ Ojai vào chuyến đi quay lại của họ từ Pergine, Ý:

 

Lúc này tiến trình của Krishna đã có một bước tiến rõ ràng. Một tối khác, nó bắt đầu như thường lệ, không ai trong chúng con chờ đợi bất kỳ việc gì chưa từng xảy ra hay mới mẻ. Bỗng nhiên, tất cả chúng con cảm thấy một luồng sức mạnh vô hạn trong ngôi nhà, mãnh liệt hơn con đã từng cảm thấy từ khi chúng con ở đây; Krishna thấy Chúa và những

Bậc Thầy; con cũng nghĩ ngôi sao[9] đã chiếu sáng đêm đó, bởi vì tất cả chúng con đều cảm thấy một ý thức mãnh liệt của kính trọng và hầu như sợ hãi mà con đã cảm thấy trước khi ngôi sao ló dạng. Sau đó Krishna bảo cho chúng con biết rằng dòng luân chuyển bắt đầu như thường lệ tại đáy của cột sống và lên đáy của cổ, tiếp theo một luồng rẽ sang hướng trái, luồng còn lại rẽ sang hướng phải của bộ đầu của anh và cuối cùng chúng hội tụ tại trung tâm của cái trán; khi chúng gặp một ngọn lửa lung linh từ cái trán của anh. Đó là nét chính tối thiểu của việc gì đã xảy ra; không ai trong chúng con biết nó có nghĩa gì nhưng đêm đó sức mạnh quá mãnh liệt đến độ dường như nó đánh dấu một chặng đường rõ rệt. Con đoán chừng nó phải có nghĩa sự khai mở của mắt thứ ba.

Ngoại trừ hình ảnh của “Chúa,” phần còn lại là một diễn tả thường biết về sự thức dậy của kundalini.

 

CHƯƠNG 5

 “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

 

M

ột nhóm bạn bè thân thiết của anh theo cùng Krishna đến Pergine ở Ý. Lady Emily, cùng hai cô con gái Betty và Mary, cũng có mặt; cũng cả Helen Knothe, một phụ nữ trẻ người Mỹ và một trong những người bạn thân của Krishnaji; Dr. Shivakamu, chị của Rukmini Arundale; Malti; vợ của Patwardhan; một người bạn thân khác của K, Ruth, John Cordes, người đại diện ở Áo của Star, đã ở Adyar năm 1911 và 1912 và lúc đó chịu trách nhiệm cho đào tạo, sức khoẻ, và những bài tập thể dục của Krishna. Rama Rao và Jadunandan Prasad, những người đồng hợp tác thân thiết của K ở Ấn độ, Và D. Rajagopal cũng trong nhóm. Câu chuyện không được biết đến này của K ở Pergine được tìm thấy trong số những giấy tờ của Shiva Rao sau khi anh chết. Mặc dù sự nhận dạng của tác giả không biết được, tài liệu có vẻ trung thực.

 

______________

 

Ngày 29 tháng tám năm 1924:

 

 Ở đây sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt và hầu như hoàn toàn theo quán tính ở phía bên ngoài. Hay đó là việc gì nó nên là và việc gì Krishnaji mong muốn.

Vào những kỳ nghỉ trước thuộc loại này, khi Krishna đã tụ họp quanh anh những người anh mong muốn giảng dạy và giúp đỡ và đã lui về một nơi yên tĩnh nào đó xa khỏi nền văn minh, đã không có một kế hoạch sắp đặt sẵn của hành động. Dĩ nhiên, Krishnaji đã nói chuyện cá nhân với mỗi người đi theo, nhưng trước đó chưa bao giờ những Bậc Thầy đã nói chuyện với tất cả tập thể chúng tôi cùng một lúc, như trong nhóm hiện nay của chúng tôi, để cho mỗi thứ bậc và những người vẫn còn tách rời có lẽ lắng nghe và nói chuyện cởi mở về họ.

Chúng tôi hiện diện ở đây chỉ vì một mục đích, thực hiện “những bước” rõ rệt và qua đó trở nên hữu dụng một cách trực tiếp đối với Họ. Mỗi người có cơ hội của anh ấy, mỗi người tại một chặng đường khác nhau, và vì vậy có thể phục vụ những người ở trên và giúp đỡ những người ở dưới. (Những thuật ngữ như ở trên hay ở dưới có lẽ dẫn đến sự hiểu sai, tôi sử dụng chúng không hàm ý một người cao hơn hay thấp hơn, nhưng chỉ là một phân biệt.)

Thời khóa biểu cho một ngày là, tham thiền vào lúc tám giờ mười lăm, ăn sáng tám giờ ba mươi. Một chuyến dạo bộ xuống một cánh đồng lởm chởm mênh mông nơi chúng tôi chơi rounders khoảng một hay hai tiếng, và sau đó nói chuyện một tiếng dưới những cái cây, về những Bậc Thầy và về làm thế nào để phục vụ Họ. Ăn trưa lúc 12:30 – nghỉ ngơi hay công việc cá nhân, nếu muốn, cho đến ba giờ; những trò chơi trong sân của Castle, tắm và ăn tối lúc sáu giờ. Sau đó tất cả chia tay để nghỉ đêm, vài người chúng tôi đi đến tháp Square nơi sự chuẩn bị chuyên sâu tiếp tục một tiếng đồng hồ. Ngủ 8:30.

Dĩ nhiên, Krishnaji là nhân vật trung tâm của mỗi ngày; của trò chơi, và của công việc. Quanh anh mọi thứ [được] tập trung; sống của Krishnaji là một sống của sự hiến dâng tuyệt đối cho Chúa, sự tôn sùng thật đam mê của lý tưởng và vẻ đẹp – và tuy nhiên anh là con người quá hoàn hảo và rất gần gũi với bạn bè. Không từ ngữ nào có thể mô tả nhân cách của anh, nhưng dường như anh giống như một con người đã tự hoàn chỉnh chính mình đến một mức độ tuyệt vời, hơn là một hiện diện thiêng liêng trong một hình dạng con người không hoàn hảo. Chắc chắn điều gì Chúa sẽ ao ước, sẽ là một công cụ con người hoàn hảo, để cho Ngài có thể tiếp xúc với nhân loại trên mức độ riêng của nó. Sự thiêng liêng mà Chính Ngài sẽ thể hiện qua công cụ. Ngoại trừ sự hiện thân của Thầy Thế giới đến thế giới của Thầy, không bao giờ có một hiệp thông giữa những thứ Thiêng liêng và những thứ mà là con người. Bởi vì thông thường con người vươn lên Thiêng liêng và khoảnh khắc nó tiếp xúc được nó trở thành một cùng Thiêng liêng, nhưng trong trường hợp này Thiêng liêng hạ xuống một công cụ con người, sử dụng nó, làm việc qua nó như chính nó tự tạo thành một đơn vị và tách khỏi nó, và lui về lại để cho công cụ vẫn còn là một công cụ con người. Chắc chắn sự tiến hóa của một công cụ con người thường quá mau lẹ đến độ hầu như tức khắc nó trở thành siêu nhân (qua sự phục vụ này) nhưng đây là một qui trình tách rời. Con người có lẽ vươn lên và trở thành Thiêng liêng nhưng anh ấy không thể sử dụng những quyền năng của Thiêng liêng trong khi anh ấy vẫn còn là con người. Trái lại, Thiêng liêng có thể hạ xuống và sử dụng những quyền năng của con người, mặc dù anh ấy không còn là con người nữa.

Hôm nay, tại bữa ăn sáng Krishnaji rất sinh động, và như thường lệ nói chuyện của chúng tôi không thể in ra được. Sáng hôm sau, một nói chuyện rất nghiêm túc hay một công việc gian nan của buổi chiều, Krishnaji sẽ thường xuyên bông lông nhiều, nói những chuyện đùa và cười cợt chúng rất náo động, cùng những bột phát đột ngột vang to của tiếng cười ngặt nghẽo, hay tiếng cười khúc khích kéo dài, lan truyền qua những người khác. Hai điều lạ lùng về anh – thứ nhất, khả năng của anh để thay đổi từ một tâm trạng nghiêm túc, thực sự và vinh quang nhất, thành một tâm trạng giỡn cợt và đùa bỡn [,] tức khắc; thứ hai, không câu chuyện đùa dù thô thiển đến chừng nào mà anh thốt ra, khiến cho bầu không khí thông thường có thể góp phần vào câu chuyện đó. Có vẻ như thể vẻ đẹp của anh, sự rõ ràng tuyệt đối của hiện diện của anh, quét sạch mọi thứ trước mặt nó, đến độ anh có thể tiếp xúc bất kỳ người nào, hay vật nào hay chủ đề nào, và chuyển tải sự hồn nhiên của anh vào nó, trao tặng nó không khí trong lành bởi sự hiện diện của anh. Krishnaji cố gắng nhớ lại những trải nghiệm riêng của anh. Khi lần đầu tiên anh và Nitya gặp C. W. L., anh đưa cho họ xem những bức tranh của Thầy M. và Thầy K. H. và hỏi họ Thầy nào họ ưa thích hơn. Khi họ chọn bức tranh của Thầy K. H., anh nói đó chính là điều anh suy nghĩ.

Khi Krishnaji còn nhỏ, những Bậc Thầy rất thực sự đối với anh, chính là vậy nên anh viết “Ngay chân Thầy,” tiếp theo đến thời kỳ khi đối với anh thực sự không còn mãnh liệt lắm, anh chỉ tin tưởng bởi vì điều gì C. W. L. và A. B. đã nói. Lúc này lại nữa thực sự mãnh liệt đã quay trở lại. Nitya nói rằng nhóm của chúng tôi sẽ tạo ra một bầu không khí mà phải “thu hút” sự chú ý của Họ. Anh nói về những ảnh hưởng khác biệt tại Ojai, vào những đêm khác nhau. Ảnh hưởng của Thầy M. như một quyền năng mà làm cho bạn cảm thấy có khả năng về bất kỳ việc gì. Ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự độ lượng hoàn hảo – nó có vẻ như là mật ngọt đang chảy vào bạn khi Ngài nói. Và ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự trong sáng tuyệt đối, sự minh bạch hoàn hảo. Tiếp theo, ảnh hưởng vĩ đại nhất của tất cả những ảnh hưởng, ảnh hưởng của Chúa, như chúng tôi cũng đã cảm thấy tại Ehrwald[10]an bình – “an bình mà chuyển thành sự hiểu rõ.”

Krishnaji nói về Adyar như về một ngôi nhà quyền năng phi thường, nơi hoặc bạn trở thành một vị thánh, trở nên điên khùng, hoặc bị đuổi đi như người vô dụng bởi một người quan sát luôn luôn chính xác.

Tôi chưa bao giờ thấy anh đẹp rực rỡ như lúc này vào những buổi tối, tại những thời điểm này. Đôi mắt của anh tươi cười bằng một hân hoan siêu thoát lạ thường, mà là hoan hỉtuy nhiên lại quá thanh thoát. Sự thanh thoát và một hân hoan tha thiết và thuần khiết choàng quanh anh, và biểu hiện trong những đường nét và những khúc khủy, và một hương thơm của những bông hồng lan tỏa và bao bọc anh. Thỉnh thoảng, anh run rẩy như thể bị lạnh và vào những lúc khác anh lại quá mệt nhoài, nhưng vào những đêm này, những đêm đặc biệt này mà tôi đang nói, Krishna thực sự, tất cả điều đó khiến cho anh là cái gì anh là trong ý nghĩa sâu thẳm nhất, đến và nhìn ra ngoài qua đôi mắt của anh.

Ngày 1 tháng giêng năm 1924:

 Lady Emily so sánh Rajagopal với St. Peter. Có vẻ anh là Người Hề Vui nhộn trong số những môn đệ hiện nay; và anh thiết tha thương yêu chức vụ của anh như High Court Jester Anh Hề. Muốn biết Krishnaji, người ta phải biết những người theo anh. Lúc trước, Rajagopal là St. Bernard của Clairveaux, và vào những thời điểm khác, anh đã là một giáo sĩ được kính trọng; và cả vị thánh lẫn giáo sĩ trỗi dậy nơi anh lặp đi và lặp lại. Đặc biệt có lẽ là người sau. Anh nói liên tục, và khi nói năng lại dài dòng và nhạt nhẽo, thật ra anh lên lớp về đạo đức một cách rỗng tuếch. Anh ham mê hay nói khác hơn giả vờ rất ưa thích thức ăn, điều này là chủ đề chính của anh cho những câu chuyện đùa vân vân. Khi Krishnaji bị căng thẳngmệt mỏi, hay nói chung cả nhóm, bị buồn chán, Rajagopal luôn luôn có sẵn vài câu chuyện đùa, hay những cụm từ vui nhộn, và anh tự động cười dai dẳng đến độ mọi người phải cười theo. Người ta nói rằng một phẩm chất mà tất cả những Bậc Thầy phải có, và nếu không có nó thì tất cả những môn đệ không thể tiến bộ được, là khiếu hài hước. Và sống thuộc tinh thần càng được dẫn dắt nhiều bao nhiêu, điều này càng trở nên rõ ràng nhiều bấy nhiêu. Khiếu hài hước sẽ giải tỏa sự căng thẳng của những cảm thấy và những suy nghĩ dưới những tình huống gay go nhất, và thường thường chắc chắn việc đó ngăn cản một cắt đứt rõ ràng trong công việc, hay cá thể trong một người. Chắc chắn sự dí dỏm của Rajagopal không thuộc loại nhạy bén và rõ ràng nhất, nhưng sau đó, nó cho phép Krishnaji và những người khác tham gia và góp thêm sự hài hước của họ. Không cần phải nói, Rajagopal nhận được nhiều chọc ghẹo, nhưng tiếp theo mọi người đến gần Krishna cũng vậy, mà là một cách anh gây ảnh hưởng mọi người; đặc biệt thuộc những phương cách nào đó.

Một trong những lý thuyết của Krishnaji là rằng người ta phải chắc chắn có thể phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan, đến với Thượng đế một cách tự nhiên như một bông hoa nở trước ánh sáng mặt trời. Một thời gian, nó có vẻ gây lo lắng cho anh, rằng mọi người anh gặp gỡ từ trước đến nay đã phát triển trong những cách quanh co của đau khổ, và vì vậy chẳng có bao nhiêu người nhận được cách đơn giản của hân hoan. Tôi nghĩ thậm chí tôi đã nghe anh nói rằng chưa bao giờ gặp bất kỳ ai phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan; dẫu vậy nó có lẽ xảy ra được, mà sẽ trở thành rất thông dụng chỉ khi nào văn minh hiện nay của chúng ta không quá phức tạp. “Hãy tự nhiên, hãy vui vẻ.” Thế là Rajagopal có một vai trò quan trọng trong sự kiện to tát này, trong đó Krishnaji là người đầu tiên sẽ cười, người dễ dàng nhất sẽ được vui vẻ. “Hãy là một Thượng đế, và vui đùa một mình.”

Nói về hai năm được đào tạo bởi Leadbeater của anh, Krishnaji nói anh bị “chán nản đến độ rơi nước mắt,” theo nghĩa đen. Tất cả những ham muốn bị đốt cháy; ví dụ, K và N xin những chiếc xe đạp, (có thể bởi vì họ là những cậu trai còn nhỏ họ đã gây bực mình cho Leadbeater khi xin xe đạp); những chiếc xe đạp được tìm ra và đạp xe mười dặm không chỉ được thực hiện một lần nhưng họ phải thực hiện nó mỗi ngày trong suốt hai năm. Cũng vậy họ diễn tả một ham muốn xin ăn cháo; họ có nó – nhưng lại nữa, mỗi ngày trong suốt một năm; nếu họ có hai bàn chân bẩn thỉu, hay như một lần Nitya ném một viên đá vào một con ếch, nó là “Môn đệ của những Bậc Thầy không làm những việc này.” Nhưng chắc chắn lúc đó có vẻ rất khó khăn cho cậu trai da sẫm bé tí mà sẽ trở thành Krishna của ngày hôm nay – Chúa Jesus của ngày mai.

Anh đã trải qua nhiều sống như một người đàn bà, và những sống này đã để lại một dấu vết rất sâu đậm trong nhân cách của anh; khả năng lạ thường của anh về giáo dục làm cho anh không giống như mọi người đàn ông khác. Thỉnh thoảng anh có thể hung dữ giống hệt như con người ngược lại của anh, nhưng việc này luôn luôn cho một mục đích. Một cụm từ sắc bén ngắn gọn, mà đôi mắt lóe sáng của anh nhấn mạnh đến một mức độ không thể chịu đựng nổi, đó là tất cả. Krishnaji sẽ không bao giờ đề nghị nói chuyện với bất kỳ người nào, nếu một tiếp cận không được thực hiện, và sau đó trong hai hay ba lần đầu tiên mà một nói chuyện nghiêm túc được bắt đầu, anh nhút nhát ghê lắm.

Ngày 8 tháng chín năm 1924:

 Lady Emily, Cordes và tôi ngồi trong phòng của Krishnaji. Krishnaji đang ở trong một phòng tầng dưới. Thời gian vào khoảng bảy giờ mười lăm phút, và mọi chuyện đều giống hệt như những tối thông thường, ngoại trừ một yên lặng huyền bí ập xuống chúng tôi. Nơi nào đó trong cái tháp Nitya, Ramao Rao và Rajagopal đang hát thánh ca, và mùi hương trầm phảng phất trong phòng qua những chỗ nứt trên cửa ra vào. Tất cả chúng tôi cảm thấy Hiện diện của Ngài, làm thế nào ngay cả những người ngốc ngếch nhất mà không nhận ra được sự an bình không thể diễn tả được đang lan tỏa trong khu nhà. Chúng tôi ngồi “yên lặng lạ thường và hạnh phúc vô cùng” suốt một tiếng đồng hồ.

Sau đó, khi tất cả chúng tôi tập hợp lại cùng nhau, và Krishnaji ngồi giữa chúng tôi, nó như thể là chúng tôi chỉ vừa tìm được nhau; và khi chúng tôi kể về việc gì đã xảy ra, một tiếng cười ngọt ngào thấp giọng, của sự hân hoan vô cùng, không thể diễn tả được dường như bật ra trong đôi môi của chúng tôi. “Nếu bây giờ nó như thế này, nó sẽ là gì khi thời gian đến?”

Ngày 14 tháng chín năm 1924:

 Chiều nay thay vì chơi “bóng chuyền” như thường lệ, tất cả chúng tôi đều nằm dài trên những tảng đá chung quanh Square Tower. Krishnaji ngồi chồm hỗm trên những tảng đá cùng Ramao Rao, say mê ngắm nghía một con ốc sên nhỏ màu vàng. Có một lần cách đây vài năm, tôi nhớ đã ở cùng Krishnaji khi anh tìm thấy một đàn kiến và trải qua nguyên buổi sáng cho chúng ăn đường, chọc ghẹo chúng và quan sát chúng khuân trứng và dựng lại tổ của chúng. Vừa nãy, một con ốc sên khác được tìm ra và hai con bị bắt buộc bò qua nhau và bò lên xuống vách đá lởm chởm dốc đứng. Năm ngoái tại Ehrwald, anh nằm dài giữa những đám cỏ cao và hoa dại, bỗng nhiên một con bướm đậu trên bàn tay anh, và chốc lát sau anh lại có một hay hai con vẫy cánh thăng bằng trên đầu ngón tay của anh. Sự thích thú của anh không có giới hạn. Anh có tình yêu tất cả những sinh vật to lớn hay nhỏ bé, thật ra bất kỳ thứ gì đẹp đẽthiên nhiên đều khiến anh vui vẻ; anh sẽ đuổi theo một con cào cào và theo dõi những cử động của nó và thuộc lòng màu sắc hai cánh của nó; hay với câu “Tôi nói!” thông thường của anh, anh sẽ đứng mê mẩn trước một cảnh đẹp. “Chỉ nhìn ngắm cái hồ đó, nó rất êm ả, giống như tảng băng – và xanh đậm. Thấy những phản ảnh trong nó? Ồ, em nên thấy Geneva Lake – quá xanh.”

Krishnaji đọc một đoạn văn ngắn từ quyển “The Gospel of Buddha” “Lời vàng của Phật” trong khi tham thiền mỗi sáng. Thật ra anh là một người mộ đạo và chính âm thanh của danh tánh Chúa Buddha, hầu như có vẻ khiến anh rung động bởi một cảm giác tôn sùng tột đỉnh. Hôm nay có một câu, trong đó Chúa Buddha nói rằng, môn đệ sống trong thế giới phải giống như một bông sen. Ở Ấn độ, bông sen, tượng trưng sự tinh khiết. Khả năng nở hoa trọn vẹn trong khi vẫn bám rễ trong một cái ao bùn loãng của nó biểu hiện khả năng nở hoa trong sự tinh khiết và trỗi dậy từ bất kỳ điều kiện nào dù tối tăm hay ô uế của con người.

Chiều nay Krishnaji đang nói chuyện với tôi. Anh nói về Chúa Buddha và trạng thái hiện diện đó mà không có cái tôi. Những ngày này anh đang suy nghĩ về tuyệt đối không-cá nhân, và dường như anh đã lặn sâu vào cái giếng tinh khiết đó nơi không bị ô uế bởi bùn lầy của cái tôi. Và khi anh nói về Chúa Buddha, một thế giới mới mẻ trải dài trước mặt người ta, trong đó tất cả tham vọng và tình yêu cá nhân đều tan biến và đã trở thành con số không, chỉ một tình yêu vô bờ bến không-cá nhân không-lay động còn hiện diện. Sự nhận ra trọn vẹn của sống không-cái tôi chỉ thức dậy trong Krishnaji khi anh ở Ojai, và thậm chí anh thấy rằng nó hầu như không thể diễn tả được. Anh kể về làm thế nào khi tất cả những Bậc Thầy tụ họp cùng nhau, Chúa Buddha hiện diện giống như cơn gió phía bắc, quá tự do khỏi bất kỳ cái gì giống như cái tôi. Anh nói: “Bất kỳ lúc nào anh thấy bức tranh của Chúa Buddha, anh tự nhủ với mình, anh sẽ giống hệt như thế.”

Hình ảnh của Chúa Maitreya đã hiện ra cho anh rất nhiều dịp. Ở Pergine, khi xuất hiện lần cuối cùng Ngài sẽ trao cho Krishnaji một thông điệp – “Hạnh phúc mà ngươi đang tìm kiếm không phải ở đâu xa xôi; nó ở trong mỗi viên đá bình thường.” Trong một thông điệp khác, Ngài chuyển tải “Đừng tìm kiếm những Hiện diện Vĩ đại khi họ có lẽ ở rất gần con.” Ba buổi tối kế tiếp, Krishnaji sẽ thường xuyên cười đùa, kể những câu chuyện hài hước – nhiều thành viên của nhóm người bị choáng váng khi anh cư xử như thế.

 
 

CHƯƠNG 6

“Tôi và em tôi là một

 

M

rs. Besant tham gia vào bối cảnh chính trị ở Ấn độ năm 1913, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến Thứ nhất. Dưới sự hướng dẫn và những phước lành của Rishi Agastya (người, theo Tổ chức Thông thái, có trách nhiệm đặc biệt trong Thứ bậc Huyền bí về Số mạng của Ấn độ), bà được quăng vào trung tâm của sự sôi sục chính trị đang hừng hực.

 Bà đã nổi tiếng khắp quốc gia rồi. Được biết đến về khả năng diễn thuyết sáng chói của bà, bà được công nhận như một người giáo dục của trật tự tột đỉnh và được khâm phục về sự can đảm của bà như một người đổi mới xã hội. Bởi vì sự quan tâm của bà đến những giá trị mới mẻ, và cùng sự tự hào vô bờ bến của bà trong tư tưởngvăn hóa của Ấn độ, sự tham gia vào chính trị của bà được hoan nghênh bởi nhiều bạn bè trí thức và những người khâm phục bà. Cùng với tính khí của bà chắc chắn rằng bà sẽ đam mê chính trị nhiều lắm. Chẳng mấy chốc bà không còn liên quan với Thứ bậc Huyền bí nữa; những thấu triệt vào thiêng liêng của bà và những khả năng tâm linh của bà bắt đầu suy yếu, và bà phải phụ thuộc vào C. W. Leadbeater để nhận được những thông điệp từ thế giới huyền bí của những Bậc Thầy.

 Năm 1925, cùng tuổi già đang gia tăng, những khả năng thuộc tinh thần của bà bắt đầu suy giảm và kèm theo nó sự kiểm soát kiểu bàn tay sắt của bà về những công việc của Tổ chức Thông thái. Những mưu mô và những tính toán để có được quyền hành đối với bà và vì vậy đối với Tổ chức đang đạt đến đỉnh điểm. Nhận biết được sự thất bại của bà trong công việc làm thức dậy lại kundalini shakti chakras (hay sáu trung tâm của năng lực tâm linh đang ngủ yên được đặt dọc theo cột sống) và những thèm khát của bà để tiếp tục có lại sự tiếp xúc với những Mahatma, nhiều người quen biết của bà quả quyết có những quyền năng tiên tri và khả năng tiếp nhận được những chỉ dẫn từ những Bậc Thầy. Học đòi sự huyền bí, khẳng định đã đánh thức con rắn kundalini, tìm kiếm quyền lực và buông thả tự do trong ảo tưởng, thường thường liên kết điều gì không phù hợp với lược đồ của những sự việc sự vật của họ như bắt nguồn từ những thế lực đen tối, những hành động của những thành viên thâm niên của nó sẽ tạo ra một giễu cợt về Tổ chức Thông thái.

 Ở Sydney, Úc, Leadbeater, bọc trong những cái áo choàng màu tím cùng cái thánh giá nạm đá quý và cây gậy phép của chức Giám mục và năng lượng cho sự hiện ra của chủng tộc gốc thứ sáu[11]. Vây quanh ông bởi những cậu trai và cô gái nhỏ tuổi là những môn đệ được chọn lựa của ông, những quyền năng huyền bí của ông và những ứng dụng của chúng đã đạt đến những mức độ kỳ quái. Ông đang hấp dẫn những nữ trang cho những nàng tiên trong National Park ở Sydney, để bù đắp lại sự cho phép đưa vài nàng tiên về lại “The Manor” “Trang viên,” nơi ông và những môn đệ sống. Để gia tăng những nguồn huyền bí của ông, trong khi đang qua phà ở hải cảng Sydney, Leadbeater khẳng định đang tạo ra những mạng lưới không nhìn thấy được mà ông giăng bắt những nàng tiên nước từ biển cả; mà đính kết họ vào hào quang của ông, ông gởi họ ra ngoài theo nhu cầu để cứu giúp những người đang bị đau khổ.

 Ở Châu âu, George Arundale và Wedgwood khẳng định đã thiết lập một kênh giao tiếp trực tiếp với Thứ bậc Huyền bí và đã được chấp thuận là những môn đệ bởi Mahacholan. Bầu không khí tràn đầy hứng khởi khi nhiều người khai trí mới được công bố bởi Mrs. Besant sau khi được thông qua bởi Arundale.

 Bởi vì đã được phong chức Giám mục của Liberal Catholic Church, Arundale và Wedgwood “bọc màu tím” liên tiếp đạt được rất mau lẹ Arhathood bằng cách vượt qua những khai trí thứ ba và thứ tư của họ. Người vợ của Arundale, Rukmini,[12] vượt qua ba giai đoạn khai trí trong ba ngày. Mrs. Besant và Leadbeater đã là những Arhat rồi, đã vượt qua khai trí thứ tư. Krishnamurti, ở Ojai đang chăm sóc Nitya người em trai bệnh nặng của anh, không nhận biết được sự sôi sục huyền bí đang diễn ra ở Huizen, Netherlands và sau đó ở Star Camp, Ommen, một hội nghị hàng năm được tham dự bởi những thành viên của The Order of The Star. Không có sự công nhận của anh, một công bố được thực hiện rằng thân thể tinh thần của anh từ Ojai và thân thể tinh thần của Jinarajadasa từ Adyar đã đi đến và hiện ra trước sự tề tựu trang nghiêm của những người trong Thứ bậc Huyền bí để nhận được những ban phước lành của hai người trong chuyến hành trình của họ qua sự khai trí thứ tư. Sau đó khi trại bế mạc, Mrs. Besant ở Huizen đã mời Lady Emily, Miss Bright, và Shiva Rao đến phòng của bà và nói cho họ rằng bà và Leadbeater, Krishnaji, Arundale, và Wedgwood đã vượt qua sự khai trí thứ năm và cuối cùng của họ. Bây giờ tất cả họ không chỉ là những Arhat nhưng còn là những Adept, và vì vậy được giải thoát khỏi nghiệp lực và sinh lại.

 Một bài tường thuật in trong tạp chí của Tổ chức Herald of the Star cho sự hiểu biết nào đó về trại Ommen, nơi những tin tức quan trọng này được công bố bởi Mrs. Besant. Dưới đầu đề “Bởi lệnh của Vua,” tờ Herald xuất bản những từ ngữ của Mrs. Besant:

 Thầy Thế giới mới sẽ chọn, như trước đây, 12 Môn đệ của Ngài. Tôi chỉ có sự yêu cầu đề cập bảy người đã đến bậc Arhatship…Hai người đầu, người anh của tôi Charles Leadbeater, và tôi, đã vượt qua mức khai trí vĩ đại tại cùng thời gian. Những Arhat khác là, C. Jinarajadasa, George Arundale, mà sự phong chức của ông như Giám mục là cần thiết, để là bước cuối cùng của sự chuẩn bị của ông cho bậc thứ tư quan trọng của sự khai trí. Oscar Kollerstron, Mrs. Rukmini Arundale, Krishnaji, và Giám mục Wedgwood .

Sau đó, vì nhận ra rằng bà đã gây ra một lỗi lầm nghiêm trọng khi gồm cả danh tánh của Krishnamurti, mà là phương tiện, trong danh sách của những Môn đệ, bà sửa chữa sự tuyên bố của bà. Những danh sách khác nhau đã tồn tại trong đó được bao gồm danh tánh của Lady Emily, Nitya, Rajagopal, và Theodore St. John, một người được bảo trợ mười lăm tuổi có mái tóc vàng của Leadbeater.

Sau đó, Mrs. Besant tiếp tục công bố ba mục đích hoạt động mà Tổ chức sẽ tuân theo trong tương lai. Một tôn giáo thế giới mới mẻ phải được thành lập, với Mrs. Besant như người đứng đầu. Một trường đại học thế giới mới mẻ phải được thành lập với Mrs. Besant như hiệu trưởng. Arundale như người ủy nhiệm, và Wedgwood người quản lý – bởi vì, theo Mrs. Besant, “ông ấy biết cả hai mặt – thông thường và huyền bí.” Bà tiếp tục nói rằng “các bạn không nên phản đối họ bởi vì họ là bộ phận thuộc công việc của Vua.” Trong khi đó Arundale, khẳng định khả năng tiên tri, nói:

Tôi nghĩ không ai trong thế giới mà có một khả năng quá lạ thường, quá cao quý về tự-quên bẵng cái tôi, như người em của tôi Nitya có. Cái cách em mất mình trong người anh của em là một trong những sự việc phi thường nhất mà tôi đã từng thấy. Và tôi muốn các bạn ghi nhớ điều gì tôi đang nói hôm nay, bởi vì tôi mạo muội bày tỏ nó trong khả năng tiên tri. Tôi nghĩ rằng khi những năm tháng trôi qua, chúng ta sẽ không những thấy Krishnamurti theo một sống mà em ấy rất hiến dâng, nhưng chúng ta cũng thấy bên tay phải của em là người em vĩ đại của em được công nhận khắp thế giới như một trong những người lãnh đạo chính trị xuất sắc nhất.

 Nitya chết bốn tháng sau khi những điều này được công bố.

 Trong khi đó, bệnh tật của Nitya đã đến giai đoạn trầm trọng hơn. Arundale đã giao cho Rajagopal, người có mặt tại trại và đã được phong chức Trợ tế của Liberal Catholic Church, một lá bùa hộ mạng để mang đến đưa cho Nitya, đã được hấp lực đặc biệt bởi Mahachohan. Những Đấng Vĩ đại của Thứ bậc đã tuyên bố rằng Nitya sẽ sống và là một trong những cột trụ chính cho công việc của Thầy Thế giới. Theo Arundale, “Sống của Nitya là ân huệ của Krishna khi trở thành một Arhat.”

 Krishna, khi nghe những tường thuật về những Môn đệ và những Arhat, những khai trí mau lẹ, thế giới tôn giáo và những trường đại học thế giới, bị bối rốiđau khổ nhiều lắm. Để lại Nitya dưới sự bảo vệ của những Bậc Thầy, anh khởi hành đến Châu âu với Rajagopal. Lady Emily, người đã có mặt tại trại và chính bà đã trải qua sự khai trí thứ hai, đã đến đón anh tại bến tầu. Krishnamurti nói với bà, quan điểm của anh về chuyện đó là không thể hiểu được. Anh chối từ chấp nhận những khai trí hay những Môn đệ. Anh ngờ vực rất nhiều về tôn giáo thế giới và trường đại học thế giới. Anh không muốn gây tổn thương Mrs. Besant trong tuổi già của bà, và vì vậy kiềm chế không tuyên bố công khai sự phản đối của anh; nhưng anh chuyển tải những nghi ngờ của anh đối với bà.

 Mrs. Besant bị tan nát bởi sự phủ nhận của anh về những khai trí, những Môn đệ, tôn giáo thế giới, và trường đại học thế giới. Tinh thần của bà bắt đầu bị suy sụp rất mau lẹ. “Bà biểu hiện những dấu hiệu của lão suy, mất trí nhớ và một khuynh hướng tập trung vào quá khứ.” Nhưng trong bất kỳ cách nào, điều này không cướp đi những hoạt động của bà hay sự tận tụy hoàn toàn của bà cho Krishnamurti như Thầy Thế giới.

 Đầu tháng mười một năm 1925 Mrs. Besant, Krishnaji, Rajagopal, Rosalind, Wedgwood, Shiva Rao, và Rukmini và George Arundale đi đến Ấn độ để tham dự những lễ kỷ niệm đặc biệt Toàn xá được tổ chức ở Adyar. Sự trung thành nơi những Bậc Thầy của Krishnamurti và sự cam đoan của họ về sức khỏe của Nitya là không phải ngờ vực. Đầu năm 1925, trong khi ở Adyar, Nitya đã bị bệnh nặng lắm. Ngày 10 tháng hai năm 1925, Krishnamurti viết một lá thư cho Mrs. Besant diễn tả một giấc mơ trong đó anh viếng thăm Huynh đệ Vĩ đại và van xin họ cho nguời em của anh được sống khỏe mạnh:

 Theo giấc mơ của con, con nhớ lại đã đi đến nhà của Thầy và năn nỉvan xin cho Nitya được khỏe mạnh lại và cho em được sống. Thầy nói rằng con phải đến gặp Chúa Maitreya và con đến đó và con cầu khẩn ở đó, nhưng con có ấn tượng rằng đó không là công việc của Ngài và rằng con nên đến gặp Mahachohan. Thế là, con đi đến đó. Con nhớ tất cả việc này rất rõ ràng. Ngài được dìu đến cái ghế của Ngài, bằng sự cao cả vô cùng & sự hiểu rõ lạ thường, cùng đôi mắt nhân từnghiêm trang. Sự diễn tả thừa thãi của con là quá vô lý, nhưng, nó không thể chuyển tải ấn tượng to tát về tất cả việc này. Con thưa với Ngài rằng con sẽ hy sinh hạnh phúc của con hay bất kỳ việc gì được đòi hỏi để cho phép Nitya sống, bởi vì con cảm giác việc này đang được quyết định. Ngài lắng nghe con và trả lời “Em ấy sẽ khỏe.” Thật khuây khỏa rằng tất cả lo lắng của con hoàn toàn được tan biến và con sung sướng vô ngần.

 Nói về sự chuẩn bị riêng của con, con không biết điều gì đã được quyết định nhưng con sẵn sàng làm bất kỳ việc gì. Công việc tiến triển rất tồi tệ và con đang cảm thấy rất mệt mỏi và khá yếu ớt, nhưng không thể giúp được gì cả.

 Cám ơn Thượng đế, mẹ sẽ ở đây, người mẹ riêng của con & con yêu mẹ, bằng tất cả quả tim và tâm hồn của con.

 Krishna của mẹ.

Sự gặp gỡ trực tiếp này với những Bậc Thầy đã thuyết phục Krishnaji về những quyền năng của những Đấng Vĩ đại để kéo dài sống của Nitya. Nếu chúng ta ngừng lại một chốc lát để tìm hiểu sự tiếp xúc của Krishnaji với những Bậc Thầy, những hiện thân của họ, và sự giao tiếp với họ của Krishnaji, nó trở nên rõ ràng rằng sự gặp gỡ của anh với Thầy K. H., Mahachohan, Maitreya, và Buddha là ảo tưởng, thường trong trạng thái giấc mộng. Điều này đã xảy ra như thế khi anh còn là một cậu trai trẻ; với ý thức nhạy cảm của anh được định hướng về những hình dạng thuộc suy nghĩhình tượng bí truyền của Leadbeater, một cách tự nhiên anh thấy những Bậc Thầy trong những hình bóng tương tự được vẽ lên tranh trong Khu Huyền bí của Tổ chức Thông thái. Chính là như thế khi anh diễn tả những gặp gỡ của anh với Thầy K. H. trong những lá thư đầu tiên gởi đến Mrs. Besant của anh, và những dấu vết của nó sẽ được tìm thấy trong tiến trình ở Ojai, mặc dù trước lúc đó anh đã được tự do khỏi những ảo tưởng, những hiện thân thuộc vật chất, và những hình tượng nhìn bằng mắt. Trong những năm đầu tiên, không có sự phân chia rạch ròi được tồn tại thực sự cho Krishnaji giữa trạng thái mơ mộngtrạng thái thức giấc. Đối với anh, những ảo tưởng, những giấc mơ và những hiện thân thực sự của những hình dạng thuộc suy nghĩ dường như có cùng thực tế. Sau đó, anh nói rằng tất cả những hình ảnh và những hiện thân, dù sâu đậm đến chừng nào, đều là những chiếu rọi của cái trí. Cùng cái chết của Nitya và sự đau khổ bùng nổ mà đưa anh mặt đối mặt với thực tế, tất cả những liên hệ thuộc vật chất với những Bậc Thầy đều kết thúc.

Thậm chí trước khi đó, trên boong tầu quay về Ấn độ, Arundale bắt đầu tiếp nhận và chuyển đi những thông điệp từ Mahachohan khiển trách Krishnamurti về sự nghi ngờ của anh và tinh tế gợi ý rằng nếu anh không chấp nhận những tiết lộ khai sáng được tiếp nhận và chuyển đi bởi Arundale tại Huizen và Ommen, và khẳng định danh tánh của những người đã được khai trí thành Adept, Nitya sẽ chết. Krishnamurti khước từ.

Trong khi đang ở Suez Canal, Krishnaji nhận được một điện tín từ Nitya nói rằng em đã nhiễm phải bệnh cúm. Ngày hôm sau, một điện tín khác được nhận trong đó Nitya nói rằng, “Cúm trầm trọng hơn nhiều. Cầu nguyện cho em.” Krishnamurti, sự trung thành không bị lay chuyển, nói với Shiva Rao rằng những Bậc Thầy đã không cho phép anh rời khỏi Ojai nếu số mạng của em anh phải chết. Vào ngày 13 tháng mười một, giữa một cơn bão sấm sét, họ nhận được một điện tín báo rằng Nitya đã chết.

Shiva Rao, người đang ở cùng cabin với Krishnamurti, đã kể một câu chuyện sinh động về việc gì tiếp theo:

 Mrs. Besant yêu cầu tôi đưa bà đến cabin của Krishnamurti. Bà đi vào trong một mình, để nói chuyện với anh. Tin đó làm anh sụp đổ hoàn toàn: nó còn tác động nhiều hơn thế, như chính tôi đã thấy trong suốt phần còn lại của chuyến hành trình. Toàn triết lý về sống của anh – sự trung thành tuyệt đối trong tương lai như được phác thảo bởi Mrs. Besant và Mr. Leadbeater, sự tham dự tất yếu của Nitya trong nó, đã bị tan nát tại khoảnh khắc đó. Khi đêm tới, anh sẽ sụt sùi và than thở và khóc lóc thảm thiết về Nitya, thỉnh thoảng bằng ngôn ngữ Telugu, mà trong ý thức tỉnh táo của anh, anh không thể nói. Ngày qua ngày, dường như anh đã thay đổi, kiểm soát anh vững vàng trong một nỗ lực để đối diện sống – nhưng không còn Nitya.

Krishna và Nitya đã cùng nhau chia sẻ sự cô đơn của họ trong một thế giới xa lạ; cùng nhau cười đùa; cùng nhau kể những câu chuyện hài hước; cùng nhau đi – cùng nhau đặt kế hoạch cho sống và công việc tương lai của họ.[13] Viết sau cái chết của người em, Krishnaji sẽ nói, “Một giấc mộng cũ đã chết rồi và một giấc mộng mới đang được sinh ra. Một tầm nhìn mới đang được hiện diện và một ý thức mới đang được bộc lộ – tôi đã khóc, nhưng tôi không muốn những người khác phải khóc; nhưng, nếu họ khóc, tôi biết nó có nghĩa gì. Lúc này, tôi biết, bây giờ chúng tôi không tách rời. Em và tôi sẽ cùng nhau làm việc, bởi vì tôi và người em của tôi là một.”

Trước thời gian Krishnamurti, cùng Dr. Besant, đến Adyar, Krishnamurti đã sống lại từ sự chạm trán bất thình lình cùng đau khổ và có được sự bình thản vô hạn, sự tỏa sáng, và sự tự do khỏi tất cả cảm tính và cảm xúc. Nhưng sự tin tưởng của anh trong những Bậc Thầy và Thứ bậc Huyền bí đã trải qua một cách mạng hoàn toàn. Hiếm khi anh lại nói về những Bậc Thầy trong hình dạng vật chất. Trong những năm sau, khi ngập ngừng nói về thời kỳ này. Krishnamurti chấp nhận rằng có lẽ sự mãnh liệt của đau khổ đã châm ngòi một nhận biết bao la, không còn vướng vào thế gian. Một thông minh đã phải mất nhiều năm dài mới chín chắn, mà đã nằm im lìm không được vận dụng, sẽ vận hành trong khoảnh khắc kịch liệt của đau khổ.[14]

_____________________________________________________

  

CHƯƠNG 7

 “Nhân cách của Krishnamurti đã được nuốt trọn trong những ngọn lửa.”

 

T

rước khi hội nghị Jubilee Toàn xá bắt đầu ở Adyar, Mrs. Besant cố gắng giải quyết những căng thẳng giữa Krishnaji và những người thâm niên đứng đầu của Tổ chức Thông thái. Bà đưa Người Thầy trẻ tuổi đến phòng nơi Leadbeater, Jinarajadasa, Arundale, và Wedgwood đã tụ họp, và hỏi K liệu anh sẽ thâu nhận những người đó được tuyển chọn như những Apostle, như những môn đệ của anh. K trả lời rằng anh sẽ chỉ thâu nhận Mrs. Besant.

 Tại Star Congress tiếp theo sau hội nghị Jubilee, K nói chuyện dưới cây bồ đề cổ; mặt trời được tinh lọc qua những cành cây vươn rộng và vô số rễ của nó, biến nó thành một cánh rừng ma thuật của ánh sáng và những cái bóng. Bỗng nhiên, giữa nói chuyện của anh, anh khích động khán giả bằng cách chuyển từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất. Liên quan đến Thầy Thế giới sắp đến anh nói, “Ngài hiện diện chỉ dành cho những người mà mong muốn, mà khao khát, mà ao ước –” và bỗng nhiên sau đó, “Ta đến cho những người mà cần đến sự thông cảm, mà ao ước hạnh phúc, mà đang thiết tha tìm được hạnh phúc trong tất cả mọi sự việc sự vật. Ta đến để đổi mới và không tàn phá, Ta đến không phải để hủy diệt, nhưng để xây dựng.” Nhiều người có mặt cảm thấy âm thanh của giọng nói thay đổi, một sức mạnhquyền năng nằm trong những từ ngữ. Sau đó Mrs. Besant sẽ nói, “Sự kiện đánh dấu sự thánh hóa của phương tiện được chọn lựa.”

 Từ Adyar, Krishnamurti sẽ viếng thăm Varanasi vào tháng hai. Anh sẽ tổ chức những nói chuyện với những nam sinh và nữ sinh của những trường học tại Kamaccha. Anh quay lại và bị sốt nặng bởi ngộ độc thực phẩm. Anh được khuyên nghỉ ngơi và đi thẳng tới Ootacamund. Trong khi đang ở đó anh

 

 Đang thử nghiệm với chính tôi, thoạt đầu không thành công lắm, đang cố gắng khám phá làm thế nào tôi có thể tách khỏi chính tôi và thấy thân thể như nó là. Tôi đã và đang thử nghiệm điều này được hai hay ba ngày – nó có lẽ đã được một tuần lễ – và tôi phát giác rằng qua một khoảng thờì gian nào đó tôi có thể dễ dàng tách khỏi thân thể và nhìn ngắm nó. Tôi đang đứng bên cạnh giường ngủ của tôi, và có thân thể trên giường – một cảm giác lạ thường nhất. Và từ ngày hôm đó đã có một ý thức rõ rệt của sự tách khỏi, của sự phân chia giữa người cai trị và vật được cai trị, để cho thân thể, mặc dù nó có những mong mỏi của nó, những ham muốn của nó để lang thang ra khỏi và sống và tự thụ hưởng một cách tách rời cho chính nó, trong bất kỳ phương cách nào không can thiệp vào Cái Tôi thực sự.

 

 Mùa xuân năm 1926, Mrs. Besant theo cùng Krishnaji trở lại nước Anh. Anh đang suy nghĩ nghiêm túc về việc thực hiện sannyasa,[15] và kể về nó cho một số bạn bè.

Sau đó, tháng bảy, K đi đến Ommen. Mặc dù Mrs. Besant có mặt, chính anh thực hiện những nói chuyện bên cạnh lửa trại tại Ommen. Krishnamurti đang biểu lộ một hân hoan vô cùng và một cảm thấy của chất lượng hòa hợp duy nhất cùng vũ trụ. Những từ ngữ của anh không tuân theo sự giảng dạy của Thông thái chính thống và Wedgwood, người có mặt ở đó, bị rối tung lên. Ông nói nhỏ với Mrs. Besant rằng không phải Chúa Maitreya đang nói qua Krishnamurti, nhưng một người quyền năng nào đó thuộc thế lực đen tối. Sau đó chính Annie Besant nói về điều này với Người Thầy trẻ tuổi. Bị choáng váng bởi câu nói của bà, anh trả lời rằng nếu bà tin tưởng việc này, anh sẽ không bao giờ nói lại nữa. Bà rút lại những phê bình của bà và tối hôm sau Krishnamurti nói cùng những người cắm trại, “Dạo bộ qua những quả đồi của Ấn độ mùa đông vừa qua, ở đó hiện ra trước mặt tôi Lý tưởng của tôi, Thương yêu của tôi, Đạo sư của tôi, Thầy Vĩ đại của tôi và liên tục từ cảnh đó, dường như tôi đã thấy tất cả cây cối qua Ngài, tất cả núi non, tất cả những cái hồ nhỏ xíu, tất cả những côn trùng bé tí và liên tục từ cảnh đó, sự hiểu rõ đó về những sự vật vẫn còn giữ nguyên.” Chất lượng hòa hợp duy nhất này cùng đạo sư và sự huyền bí của sống tiếp tụcđề mục trong những nói chuyện của anh.

Tại nói chuyện cuối cùng Krishnamurti nói, “Tôi đã thay đổi quá nhiều trong suốt mười lăm ngày vừa qua – cả phía bên trong và phía bên ngoài thân thể của tôi, khuôn mặt của tôi, hai bàn tay của tôi, toàn thân tâm của tôi đã thay đổi. Phương cách duy nhất để hít thở không khí trong lành của sự sống là bằng thay đổi liên tục, náo động liên tục, bất mãn liên tục này.”

Viết về trại Ommen 1926, Esther Bright đã nói:

Thế là A. B. ngồi cạnh anh tại Camp Fires, cùng một thương yêu nồng ấm trong quả tim của bà, đang dò hỏi, đang thương yêu, đang ngưỡng mộ, không luôn luôn đang hiểu rõ, nhưng cùng niềm tin lạ thường nhất rằng anh là Sứ giả của Thời đại Mới mẻ, và rằng trong thời gian tất cả sẽ được làm cho sáng tỏ. Và cùng nhau họ dạo qua đám đông tụ họp chật ních của những người đàn ông và những người đàn bà, xuống con đường nhỏ dẫn đến trung tâm, nơi lửa trại đã được sắp xếp sẵn – những đống cành cây, những khúc cây và những cành con chồng chất, và cùng nhau họ thắp sáng lửa trại – cái đầu bạc trắng già nua ưu việt, và cái đầu đen và những nét đầy ân cần, tinh tế của Krishnaji, đang cùng nhau cúi xuống. Những ngọn lửa bừng bừng, và tất cả đều cùng nhau ngồi yên lặng một khoảng thời gian…

“Nhưng anh là một người thầy” người bạn trung thành của anh, Rajagopal nói với anh vào một ngày tại Ommen, khi một nhóm người chúng tôi cùng nhau tụ họp, đang bàn luận những vấn đề khó hiểu. Krishnaji yên lặng một lúc, và sau đó nói một cách đơn giản, “Tôi đưa ra một cây đèn cho bạn.”

Từ tháng 8 năm 1926 đến tháng 4 năm 1927, Annie Besant và Krishnamurti cùng nhau ở tại Ojai. Có thể đó là thời gian lâu nhất họ cùng nhau trải qua sống từ tuổi trẻ của anh. Vì thấy được một cần thiết nào đó cho sự hiện diện của bà, Annie Besant hủy bỏ chuyến quay lại Ấn độ của bà và nhiều cuộc hẹn chờ đợi bà ở đó. Trong khi ở Ojai bà và Krishnamurti trồng cây, và bà bận rộn mua những mảnh đất ở Ojai Valley cho cái gì mà sau này được gọi là Happy Valley Foundation. Sống tương đối gần gũi anh bà trở nên ý thức được anh đã tiến xa biết chừng nào đối với sự giảng dạy của Tổ chức Thông thái chính thống.

Mrs. Besant đang thấy một Krishnamurti mới mẻ. Bà có một nhận biết đang gia tăng rằng sự tiên tri lúc anh còn nhỏ rằng thân thể của Krishnamurti sẽ là phương tiện qua đó một phần của ý thức Maitreya sẽ hóa thân là không đúng đắn, và rằng ý thức của Krishnamurti và Chúa Maitreya có thể sẽ hợp nhất. Bà sẽ xác nhận điều này trong một lá thư gởi Arundale vào ngày 12 tháng mười: “J. K. luôn luôn đang thay đổi, nhưng có vẻ không phải là anh bước ra và Chúa bước vào, có vẻ hao hao giống như sự hòa tan của ý thức.”

Mỗi lúc một rõ rệt rằng không phải những năm được hình thành trong Tổ chức Thông thái dưới sự chỉ dẫn của Leadbeater, cũng không phải những khắc nghiệt của sống của anh trong suốt những năm chiến tranh ở nước Anh, cũng không phải thời gian được trải qua bởi Krishnamurti trong trung tâm của giới quý tộc người Anh đã đúc khuôn bộ não của anh. Nó không thể được lập trình, nhưng được nghỉ ngơi – đang nhìn ngắm, đang lắng nghe, không bị bận tâm.

Sau một thời gian ấp ủ lâu, cái trí của Krishnamurti, đã tỏa ra trên những tầng bề mặt mà mang máng thâu nhận và phản ứng theo thứ bậc và nghi lễ của Tổ chức Thông thái, và đã trỗi dậy tánh ban sơ, không một tì vết. Một năng lượng mãnh liệt được cần đến để lật tung gốc rễ của cái trí con người – để nghi ngờ, để nhận biết, để phủ nhận cấu trúc của ý thức con người, để thâm nhập vào phía bên trong của sự suy nghĩcảm thấy khi nó vận hành, để phá vỡ tất cả những hiểu biếtnhận biết mới mẻ lại. Mộc mạc và một sống của khắc khổ không những hòa tan cùng con người của anh nhưng còn, như anh sẽ nói, “một tất yếu để bảo toàn năng lượng.”

Sự thức dậy của anh đã phát sáng. Những từ ngữ của anh có một chất lượng đơn giản kinh ngạc. Ngày 9 tháng hai Krishnamurti viết cho Leadbeater:

Em biết sứ mệnh của em và công việc của em. Em biết bằng sự chắc chắn rằng em đang hòa tan vào ý thức của Người Thầy duy nhất và rằng Ngài sẽ lấp kín em hoàn toàn. Em cảm thấy và em cũng biết rằng cái tách của em gần gần đầy lên miệng và nó sẽ tràn ra mau thôi. Từ bây giờ đến đó em phải chờ đợi và bằng sự kiên nhẫn tha thiết. Em khao khát làm và sẽ làm cho mọi người hạnh phúc.

Trước khi Mrs. Besant rời nước Mỹ, bà phát biểu trước Báo chí Mỹ: “Một lần nữa Tinh thần Thiêng liêng đã giáng xuống một con người, Krishnamurti, người mà trong thời gian sống của anh là hoàn hảo như những người biết anh có thể chứng thực. Thầy Thế giới ở đây.”

Tại khai mạc của Star Camp tại Ommen năm 1927, Krishnamurti nói một ngôn ngữ hoàn toàn đối lập với sự giảng dạy của Tổ chức Thông thái. Ngày 30 tháng sáu anh nói, “Trong nhiều sống và trong tất cả sống này, và đặc biệt vài tháng vừa qua, tôi đã đấu tranh để được tự do – được tự do khỏi bạn bè của tôi, những quyển sách của tôi, những kết giao của tôi. Bạn phải đấu tranh cho cùng sự tự do như thế. Phải có sự bất an liên tục phía bên trong bạn.” Krishnamurti đang phản kháng. Không người thầy hay uy quyền nào gây thỏa mãn anh. “Ai mang sự thật?”, anh sẽ chất vấn.

Anh đang tự chất vấn mình để tìm ra sự thật đằng sau hình dạng của Thầy Thế giới. Anh kể cùng những người lắng nghe rằng khi còn là một cậu trai anh đã thấy Chúa Krishna cầm một cây sáo; trong Tổ chức Thông thái cùng Leadbeater, anh thấy Thầy K. H. và sau đó Chúa Maitreya, trong hình dạng mà những người kết giao với anh đã tin tưởng. Trong những năm vừa qua, trong sự đau khổ cùng cực của anh, anh đã thấy Buddha, trong sự hài lòngvinh quang của anh.

Những Thương Yêu mà anh nói là Krishna, những Bậc Thầy, Buddha – và xa xa khỏi tất cả những người này. “Những Thương yêu là bầu trời bao la, bông hoa, mọi con người. Krishnamurti không ở phía bên ngoài nhưng ở phía bên trong của họ. Bởi vì sự đau khổ của anh, anh đã trở thành một cùng bức tranh.”

Chẳng mấy chốc, Jinarajadasa sẽ đến trại, và rất mau lẹ ông ấy nghi ngờ những khẳng định của Krishnamurti. Bởi vì rõ ràng rằng Krishnamurti đang phủ nhận tất cả uy quyền, thậm chí những uy quyền cơ bản nhất; như sự tin tưởng những Bậc Thầy và con đường huyền bí. Ngày 11 tháng bảy, trong nói chuyện bên lửa trại của anh, anh trả lời Jinarajadasa: “Tôi và những Thương yêu của tôi là một. Tầm nhìn là tổng thể. Đối với tôi, đó là sự giải thoát.” Và tiếp theo: “Nhân cách của J. Krishnamurti đã được nuốt trọn trong ngọn lửa – điều gì xảy ra sau đó không đặt thành vấn đề – liệu tia lửa vẫn còn trong ngọn lửa hay thoát khỏi.”

Năm sau, mùa hè 1928, Krishnamurti có mặt tại Eerde ở Hà lan. Anh đã bắt đầu nói với bạn bè của anh về việc có thể giải tán The Order of The Star.

Một tập họp rất đông trên ba ngàn người chờ Krishnamurti tại trại Ommen, kéo dài từ ngày 2 đến ngày 12 tháng tám. Bằng sự minh bạch vô cùng, anh nói về sự cần thiết cho những người lắng nghe phải loại bỏ tất cả những nền tảng của uy quyền, đặc biệt uy quyền của Thầy Thế giới. Mỗi người phải sống chỉ cùng ngọn đèn bên trong. Sau đó, khi trả lời một người đại diện của hãng Reuter có mặt ở đó, anh nói, “Buddha, Christ không bao giờ đã khẳng định là siêu phàm, chính là người môn đệ mà, qua sự tôn sùng của anh ấy, đã cho sự siêu phàm vào người thầy.” Người phóng viên đầy kinh ngạc, sau đó, Thầy Thế giới tiếp tục nói về chơi golf và được người ta chấp khi chơi, mà là cộng thêm 2. Krishnamurti đã chơi golf trên vài sân golf nổi tiếng nhất trong thế giới.

Tin tức về sự bất hòa giữa Krishnamurti và Tổ chức Thông thái lan tràn thật mau lẹ. Annie Besant không tham dự trại Ommen, và khi nghe điều gì Krishnamurti đã phát biểu, bà ngã bệnh rất nặng. Theo một lời thuật lại bà đã bị suy sụp tinh thần, ngất xỉu, và bất tỉnh. Bà bị bệnh lâu lắm. Những khả năng tinh thần của bà biến dần từ từ; bà bị mất trí nhớ và không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Bà đã được kể lại rằng Krishnamurti đã từ chối chấp nhận vai trò của Đấng Cứu thế theo những giới hạn được xếp đặt bởi Tổ chức Thông thái.

Khi bà quay lại Ấn độ, bà đã hồi tỉnh đầy đủ và quyết định đóng cửa Khu Bí truyền, tâm điểm của sự giảng dạy huyền bí bên trong Tổ chức, tuyên bố rằng Thầy Thế giới đã hiện diện ở đây, và không ai có quyền để giảng dạy. Vào ngày 30 tháng mười một năm 1928, bà viết cho Krishnamurti, khi anh đang trên đường đến Adyar:

Yêu quý,

Mẹ đang nhờ Mr. Varma mang một lá thư được gởi đến tất cả những Thư ký liên quan đến Khu Bí truyền E. S., bởi vì mẹ cam đoan rằng tất cả những học trò của chúng ta phải hiến dâng họ vào sự học hành về những mong muốn và những lý tưởng của con, và xóa sạch tất cả những giảng dạy xưa cũ cho hiện tại. Vì vậy, mẹ đang đình chỉ toàn bộ Khu Bí truyềnthời hạn, dành tất cả sự giảng dạy cho con. Mẹ rất tiếc không có mặt khi con đến, nhưng chẳng thể nào được.

Tất cả tình yêu của mẹ chuyển đến con Yêu quý.

Mẹ.

Tuy nhiên, vài tháng sau, Mrs. Besant nhượng bộ những áp lực từ những thành viên khác và mở cửa lại Khu Bí truyền. Bà cũng nói với Krishnamurti rằng bà muốn từ chức chủ tịch của Tổ chức Thông thái và chỉ mong muốn ngồi tại chân anh và lắng nghe lời giảng; nhưng anh từ chối không cho phép bà làm như thế.

Vào ngày 3 tháng tám năm 1929, trong sự hiện diện của Mrs. Besant và ba ngàn hội viên của The Order of The Star có mặt tại trại Ommen, Krishnamurti tuyên bố quyết định giải tán The Order of The Star, mà anh là chủ tịch. Nói chuyện cùng những hội viên là một tóm tắt của những thấu triệt đã nảy ra trong anh suốt những năm tháng kể từ sau cái chết của người em. Nói chuyện có lẽ là một phát biểu phôi thai về vị trí của anh, một phát biểu vẫn còn y nguyên suốt sống của anh: “Tôi khẳng định rằng Sự thật là một mảnh đất không lối vào, và bạn không thể tiếp cận nó bằng bất kỳ con đường nào cả, bằng bất kỳ tôn giáo nào, bằng bất kỳ giáo phái nào. Đó là quan điểm của tôi, và tôi trung thành với điều đó một cách tuyệt đối và vô-điều kiện. Sự thật, bởi vì không bị giới hạn, không bị quy định, không thể tiếp cận bởi bất kỳ con đường nào, không thể được tổ chức; cũng không có bất kỳ tổ chức nào cần phải được hình thành để dẫn dắt hay để ép buộc con người theo bất kỳ con đường đặc biệt nào. Nếu đầu tiên bạn hiểu rõ điều đó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng tổ chức một niềm tin là điều không thể xảy ra được. Một niềm tin chỉ là một vấn đề thuộc cá nhân, và bạn không thể và không được tổ chức nó. Nếu bạn thực hiện, nó trở thành chết rồi, cố định; nó trở thành một tín điều, một giáo phái, một tôn giáo, để được áp đặt vào những người khác. Sự thật bị thâu hẹp lại và là trò giỡn cợt cho những người nhu nhược, cho những người chỉ bị bất mãn trong chốc lát. Sự thật không thể bị hạ xuống, trái lại cá thể phải nỗ lực để vươn lên nó. Bạn không thể mang đỉnh núi xuống thung lũng. Nếu bạn muốn đến được đỉnh núi, bạn phải đi qua thung lũng, leo lên những sườn dốc, không sợ hãi những vách núi hiểm nghèo. Bạn phải trèo lên hướng Sự thật, nó không thể được bước xuống hay được tổ chức cho bạn. Tôi không muốn phụ thuộc vào bất kỳ tổ chức nào của một loại tinh thần, làm ơn hiểu rõ điều này. Lại nữa, tôi khẳng định rằng không tổ chức nào có thể dẫn dắt con người đến tánh tinh thần. Nếu một tổ chức được tạo ra cho việc này, nó trở thành một cái nạng, một hèn nhát, một ngục tù, và chắc chắn phải làm què quặt cá thể, và ngăn cản anh ấy không phát triển, không thiết lập trạng thái độc nhất của anh ấy, mà nằm trong sự khám phá cho chính anh ấy về Sự thật tuyệt đối, không bị quy định. Vì vậy đó là một lý do tại sao tôi đã quyết định, giống như tôi tình cờ là người Đứng đầu của The Order, giải tán nó. Không ai đã thuyết phục tôi đến sự quyết định này.

“Đây không là một hành động vĩ đại, bởi vì tôi không muốn những người theo sau, và tôi có ý điều này. Khoảnh khắc bạn theo sau người nào đó bạn không còn theo đuổi sự thật. Tôi không quan tâm liệu bạn chú ý đến điều gì tôi nói hay không. Tôi khao khát thực hiện một việc nào đó trong thế giới và tôi có ý định thực hiện nó bằng một tập trung không lay động. Chính tôi chỉ đang quan tâm đến một điều cốt lõi: đưa con người đến sự tự do. Tôi khao khát giúp đỡ anh ấy được tự do khỏi tất cả những chuồng cũi, khỏi tất cả những sợ hãi, và không thành lập những tôn giáo, những giáo phái mới, cũng không thiết lập những lý thuyết mới và những triết lý mới. Vậy thì tự nhiên bạn sẽ hỏi tôi, tại sao tôi lại đi khắp thế giới, tiếp tục nói chuyện. Tôi sẽ nói cho bạn lý do gì tôi làm việc này: không phải vì tôi ham muốn một nhóm người theo sau, không phải vì tôi thèm khát một nhóm đặc biệt của những môn đệ đặc biệt. (Con người thích khác biệt với những con người anh em của họ nhiều làm sao, những phân biệt của họ có lẽ lố bịch, vô lý, nhỏ nhen làm sao: tôi không muốn khuyến khích sự vô lý đó.) Tôi không có những môn đệ, không có những tông đồ, hoặc trên quả đất này hoặc trên lãnh vực của tinh thần.

“Một phóng viên báo chí đã phỏng vấn tôi, nghĩ rằng đó là một hành động vĩ đại khi giải tán một tổ chức có hàng ngàn hội viên. Đối với anh ấy đó là một hành động vĩ đại bởi vì, anh ấy hỏi, ‘Anh sẽ làm gì sau đó, anh sẽ sống như thế nào? Anh sẽ không có những người theo sau, mọi người sẽ không còn lắng nghe anh nữa.’ Nếu chỉ có năm người mà sẽ lắng nghe, mà sẽ sống, mà hướng về vĩnh hằng, điều đó quá đủ rồi.

“Như tôi vừa nói, tôi chỉ có một mục đích: giúp đỡ con người được tự do, thúc đẩy anh ấy hướng về tự do; giúp đỡ anh ấy đập vỡ tất cả những giới hạn, bởi vì chỉ một mình điều đó sẽ cho anh ấy sự hạnh phúc vĩnh cửu, sẽ cho anh ấy sự nhận biết không bị quy định của cái tôi.

“Bởi vì tôi được tự do, tổng thể, không bị quy định – không phải một phần, không phải tương đối, nhưng Sự thật tổng thể mà là vĩnh hằng – tôi khao khát những người, mà tìm kiếm để hiểu rõ tôi, để được tự do, không phải để theo sau tôi, không phải để từ tôi sáng chế một cái cũi mà sẽ trở thành một tôn giáo, một giáo phái. Ngược lại, họ nên được tự do khỏi tất cả những sợ hãi – khỏi sợ hãi của tôn giáo, khỏi sợ hãi của không được cứu rỗi, khỏi sợ hãi của tinh thần, khỏi sợ hãi của tình yêu, khỏi sợ hãi của chết, khỏi sợ hãi của ngay cả sống. Như một họa sĩ vẽ một bức tranh bởi vì anh ấy nhận được sự thỏa mãn trong bức tranh đó, bởi vì nó là sự tự-diễn tả của anh ấy, sự vinh quang của anh ấy, sự hạnh phúc của anh ấy, vì vậy tôi làm việc này và không phải bởi vì tôi muốn bất kỳ thứ gì từ bất kỳ người nào.

“Bạn quen thuộc với uy quyền, hay quen thuộc với bầu không khí của uy quyền mà bạn nghĩ sẽ dẫn dắt bạn đến tinh thần. Bạn nghĩ và hy vọng rằng một người khác có thể, bằng những quyền năng lạ thường – một phép lạ – chuyên chở bạn đến lãnh vực của sự tự do vĩnh cửu mà là Hạnh phúc. Toàn tầm nhìn của bạn về sống [được] đặt nền tảng trên uy quyền đó.

“Đến lúc này bạn đã lắng nghe tôi được ba năm, mà không có bất kỳ sự thay đổi nào đang xảy ra ngoại trừ trong một ít người. Bây giờ hãy phân tích điều gì tôi đang nói, hãy phê bình, để cho bạn có thể hiểu rõ một cách thấu đáo, một cách cơ bản. Khi bạn tìm kiếm một uy quyền để dẫn dắt bạn đến tinh thần, một cách tự động chắc chắn bạn phải dựng lên một tổ chức quanh uy quyền đó. Bằng chính sự sáng chế tổ chức đó, mà, bạn nghĩ, sẽ giúp đỡ uy quyền này dẫn dắt bạn đến tinh thần, bạn bị nhốt trong một cái cũi.

“Thay vì những phân biệt thuộc tinh thần cũ kỹ, thay vì những tôn sùng cũ kỹ, bạn có những tôn sùng mới mẻ. Tất cả các bạn đều phụ thuộc vào người nào đó để có tinh thần của bạn, vào người nào đó để có sự hạnh phúc của bạn, vào người nào đó để có sự khai sáng của bạn; và mặc dù các bạn đã chuẩn bị cho tôi suốt mười tám năm, khi tôi nói tất cả điều này là không cần thiết, khi tôi nói rằng các bạn phải dẹp đi tất cả chúng và nhìn vào chính các bạn cho sự khai sáng, cho sự vinh quang, cho sự tinh khiết, và cho sự vô nhiễm của cái tôi, không một người nào trong các bạn sẵn lòng làm nó. Có lẽ có một ít người, nhưng rất, rất ít.

“Vì vậy tại sao cần có một tổ chức?

“Tại sao phải có những người đạo đức giả, giả dối đang theo sau tôi, hiện thân của Sự thật? Làm ơn hãy nhớ rằng tôi không đang nói điều gì đó gay gắt hay tàn nhẫn, nhưng chúng ta đã đến một tình huống khi bạn phải đối diện với những sự việc như chúng là. Năm ngoái tôi đã nói rằng tôi sẽ không thỏa hiệp. Lúc đó, chẳng có bao nhiêu người lắng nghe tôi. Năm nay tôi đã trình bày điều đó rất rõ ràng. Tôi không biết bao nhiêu ngàn người khắp thế giới – những hội viên của The Order – đã chuẩn bị cho tôi suốt mười tám năm, và tuy nhiên lúc này họ không sẵn lòng lắng nghe một cách tổng thể, không điều kiện, đến điều gì tôi nói.

“Vì vậy tại sao phải có một tổ chức?

“Như trước kia tôi đã nói, mục đích của tôi là giúp đỡ con người được tự dođiều kiện, bởi vì tôi khẳng định rằng tinh thần duy nhất là sự vô nhiễm của cái tôi mà là vĩnh hằng, là sự hòa hợp giữa lý trí và tình yêu. Đây là Sự thật tuyệt đối, không bị quy định mà là chính Sự sống. Vì vậy, tôi muốn giúp đỡ con người được tự do, hân hoan như chim chóc trong bầu trời xanh, thênh thang, độc lập, ngây ngất trong sự tự do đó. Và tôi, người các bạn đã chuẩn bị suốt mười tám năm, lúc này nói rằng, các bạn phải được tự do khỏi tất cả những sự việc này, phải được tự do khỏi tất cả những phức tạp của bạn, những vướng víu của bạn. Muốn có cái này, bạn không cần có một tổ chức được đặt nền tảng trên niềm tin thuộc tinh thần. Tại sao lại phải có một tổ chức cho năm hoặc mười người trong thế giớihiểu rõ, mà đang đấu tranh, mà đã gạt đi tất cả những sự việc nhỏ nhen? Và đối với những người nhu nhược, không thể có tổ chức nào giúp đỡ họ tìm được Sự thật, bởi vì Sự thật ở trong mọi người; nó không xa, nó không gần; nó hiện diện ở đó vĩnh hằng.

“Những tổ chức không thể khiến cho các bạn được tự do. Không con người nào từ phía bên ngoài có thể khiến cho các bạn được tự do: không có sự tôn sùng được tổ chức, không có sự hy sinh chính các bạn cho một nguyên nhân, có thể khiến cho các bạn được tự do; không uốn nắn các bạn vào một tổ chức, không quăng các bạn vào công việc, có thể khiến cho các bạn được tự do. Các bạn dùng [một] máy đánh chữ để viết những lá thư, nhưng bạn không đặt nó trên bàn thờthờ phụng nó. Nhưng đó lại là việc gì các bạn đang làm khi những tổ chức trở thành sự quan tâm chính của các bạn. ‘Có bao nhiêu hội viên trong nó?’ Đó là câu hỏi đầu tiên tôi được hỏi bởi tất cả những phóng viên báo chí. ‘Anh có bao nhiêu người theo sau? Nhờ số lượng tham gia của họ tôi sẽ đánh giá liệu anh nói là sự thật hay giả dối.’ Tôi không biết có bao nhiêu người. Tôi không quan tâm đến điều đó. Thậm chí, nếu có một người đã được tự do, từng đó cũng đủ rồi.

“Lại nữa, các bạn có ý tưởng rằng chỉ những người nào đó mới giữ chìa khóa của Vương quốc Hạnh phúc. Không ai giữ nó. Không ai có uy quyền để giữ chìa khóa đó. Chìa khóa đó là cái tôi riêng của các bạn, và trong sự thăng hoa và trong sự tinh khiết và trong sự vô nhiễm của chính cái tôi đó là Vương quốc Vĩnh hằng.

“Vì vậy, các bạn sẽ thấy rằng toàn cấu trúc mà các bạn đã dựng lên, tìm kiếm sự giúp đỡ phía bên ngoài, phụ thuộc vào những người khác cho sự thanh thản của các bạn, cho hạnh phúc của các bạn, cho sức mạnh của các bạn là điều phi lý cực kỳ. Cái này chỉ có thể tìm được bên trong chính các bạn.

“Vậy là tại sao phải có một tổ chức?

“Bạn đã quá quen thuộc được chỉ bảo bạn đã hoàn thiện đến mức độ nào, tình trạng tinh thần của bạn ra sao. Thật ngô nghê làm sao! Người nào ngoại trừ chính bạn có thể bảo cho bạn liệu phía bên trong bạn tốt lành hay xấu xa? Người nào ngoại trừ chính bạn có thể bảo cho bạn liệu bạn không tội lỗi? Bạn không nghiêm túc trong những việc này.

“Nhưng những người thực sự khao khát để hiểu rõ, đang hướng đến để tìm được vĩnh hằng, không khởi đầu và không một kết thúc, sẽ đi cùng nhau bằng một mãnh liệt lạ thường, sẽ là một hiểm họa cho mọi thứ không cốt lõi, cho những ảo tưởng, cho những cái bóng. Và họ sẽ tập trung, họ sẽ trở thành ngọn lửa, bởi vì họ hiểu rõ. Chúng ta phải sáng tạo một nhóm như thế, và đó là mục đích của tôi. Bởi vì tình bằng hữu trung thực đó – mà có vẻ bạn không biết – sẽ có sự hợp tác thực sự về vai trò của mỗi người. Và việc này không phải vì uy quyền, không phải vì được cứu rỗi, không phải hy sinh cho một nguyên nhân, nhưng bởi vì bạn thực sự hiểu rõ, và thế là có thể sống trong vĩnh hằng. Đây là một việc to tát hơn tất cả vui thú, hơn tất cả hy sinh.

“Vì vậy đây là vài lý do tại sao, sau khi suy nghĩ cẩn thận suốt hai năm, tôi đã đưa ra quyết định này. Nó không phải một động cơ nhất thời. Tôi đã không bị thuyết phục phải thực hiện nó bởi bất kỳ người nào – tôi không bị thuyết phục trong những việc như thế. Suốt hai năm, tôi đã suy nghĩ về điều này, chầm chậm, cẩn thận, kiên nhẫn, và bây giờ tôi đã quyết định giải tán The Order, như tôi tình cờ là người đứng đầu của nó. Các bạn có thể thành lập những tổ chức khác và chờ đợi người nào đó. Tôi không quan tâm đến việc đó, và cũng không quan tâm đến việc tạo ra những chuồng cũi mới, những trang trí mới cho những chuồng cũi đó. Sự quan tâm duy nhất của tôi là giúp đỡ con người được tự do một cách tuyệt đối, không điều kiện.”

Sau đó, nhiều tổ chức và những quỹ khác nhau bị đóng cửa, những đất đai và những điền trang rộng lớn được giao lại cho những người dâng tặng ban đầu. Một văn phòng nhỏ được thành lập với Rajagopal như người tổ chức chính, để đảm trách những xuất bản và những nói chuyện của Krishnamurti. Đến lúc này, Krishnamurti đang nổi lên như một triết gia thế tục, hoàn toàn căm ghét tất cả những niềm tin thuộc tôn giáo, và nhiều hội viên tích cực của Tổ chức Thông thái khẳng định rằng Thầy Thế giới sắp đến đã bị hư hỏng.

 

CHƯƠNG 8

Krishnamurti ở Ojai Những năm quên lãng,

 1938 -1947

 

K

rishnamurti rút khỏi Tổ chức Thông thái năm 1930. Năm đó viết trong tờ International Star Bulletin anh đã nói, “Lời giảng của tôi cũng không huyền bí hay bí ẩn bởi vì tôi nắm giữ cả hai như những giới hạn được áp đặt trên con người trong sự tìm kiếm Sự thật của anh ấy.” Một lo ngại của Mrs. Besant khi nghe tin tức về sự rút khỏi của anh là sự băn khoăn về tương lai của Krishnamurti. Bà nhận biết được sự khiếm khuyết hoàn toàn về những giá trị thế giới của Krishnamurti và lo lắng làm thế nào anh sẽ sống sót trong thế giới hung tợn này mà không có sự bảo vệ của Tổ chức. Tôi nghe nói rằng bà thuyết phục B. Sanjeeva Rao và vợ của ông, Padmabai, những người giáo dục nổi tiếng và những người quen biết gần gũi của bà, rút khỏi Tổ chức Thông thái, để cho họ có thể tham gia công việc của Krishna, ở cùng anh và bảo vệ anh.

 Anh không quay lại Ấn độ mãi đến tháng mười một năm 1932. Từ Bombay anh đi thẳng đến Adyar để thăm Mrs. Besant. Bà đã rất yếu ớt, mất trí nhớ, và đang sống trong quá khứ. Nhưng bà nhận ra đứa con trai yêu quý thân yêu của bà. Thật là một bi kịch khi gặp bà, và Krishnamurti buồn bã lắm. Khi anh trở lại từ Varanasi anh sẽ gặp lại bà. Anh đã nuôi một bộ râu quai nón và bà phê bình về khuôn mặt đẹp đẽ của anh và nói rằng trông anh mỏng manh quá và nên chăm sóc sức khỏe nhiều vào. Đây là lần gặp gỡ cuối cùng của họ.

 Nói chuyện của anh tại hội nghị Thông thái được tổ chức ở Adyar đã gặp phải những chỉ trích gay gắt từ những người thâm niên của Tổ chức. Nhiều năm sau anh kể với tôi rằng họ đã vây quanh anh và vặn hỏi anh không thương xót, yêu cầu anh xác nhận hay phủ nhận sự tồn tại của những Bậc Thầy. Anh đã từ chối trả lời.

 Trên đường quay lại Châu âu, anh gặp George Bernard Shaw tại nhà Sir Chunilal Mehta. Họ nói về Mrs. Besant. Shaw hỏi thăm về sức khỏe của bà. “Rất khỏe,” Krishnamurti trả lời, “nhưng tại tuổi già của bà, bà không thể suy nghĩ liên tiếp.” “Bà không bao giờ có thể,” Shaw nói nhỏ. Krishnamurti chỉ mỉm cười.

 Sau đó, Shaw sẽ diễn tả về Krishnamurti cho Heskith Pearson như con người đẹp đẽ nhất mà ông đã từng gặp.

 Annie Besant chết tại Adyar ngày 20 tháng chín năm 1933. Nửa thế kỷ sau tôi hỏi Krishnamurti về ảnh hưởng cái chết của Mrs. Besant đối với anh như thế nào. Một cái nhìn rất nghiêm nghị lóe ra trên đôi mắt của anh khi anh trả lời. “Tôi đọc thông báo về cái chết của mẹ trong tờ The New York Times – họ không bao giờ thông tin cho tôi.”

 Suốt hai sống của họ, được xoắn chặt vào nhau, Mrs. Besant và cậu trai Krishna, con nuôi của bà đã trải qua quá ít thời gian cùng nhau. Nhưng từ những lá thư sớm nhất của Mrs. Besant gửi cho Krishna, một mãnh liệt của thương yêu, một con sóng, tuôn chảy từ bà để vươn tới và quyện vào cậu con, ôm ấp cậu và bảo vệ cậu.

 Những ràng buộc của họ hòa tan giữa bà và Krishna, vượt khỏi thời giankhông gian. Khi còn là một cậu trai mỗi tuần anh đều đặn viết cho bà diễn tả những giấc mơ của anh, những học hành của anh, sống hàng ngày của anh, và những vấn đề cỏn con của anh. Trước tiên, bà là một người mẹ, lo âu rằng không một nguy hiểm nào đó xảy đến cho cậu con trai; tiếp theo là người thầy; khi năm tháng trôi quathỉnh thoảng trở thành người môn đệ và ngồi ngay tại chân anh lắng nghe những lời giảng của anh. Khi trí năng của bà cạn kiệt, những khả năng về tinh thần của bà giảm đi và những lá thư gởi tới Krishna của bà trở nên ít quan trọng; những lá thư của anh lại vẫn biểu lộ sự trìu mến, tuy nhiên trang trọng hơn. Nhưng tình yêu và kính trọng sâu thẳm của Krishna đối với bà không suy giảm suốt sống của anh.

 Bà là một ảnh hưởng không phải trong việc đúc khuôn hay đưa ra phương hướng cho cái trí và lời giảng của anh, nhưng trong việc cung cấp nền tảng cho sự an toàn tổng thể của tình yêu. Anh đã thấy ngọn lửa hừng hực trong lửa sống vĩ đại của bà và suy giảm thành những đám than hồng, nhưng sự nhiệt tình và tình yêu không ích kỷ của Mrs. Besant có lẽ là một nhân tố bất biến duy nhất trong sống ban đầu của anh.

 Kèm theo sự giải tán The Order of The Star, nhóm những người trẻ luôn luôn tụ tập quanh Krishna đã bị tan rã. Thời gian đó, sự tổ chức những chương trình đi lại và những nói chuyện của anh được phân chia giữa Jadunandan Prasad, một người bạn trẻ được yêu quý nhiều, và Rajagopal. Cái chết đột ngột của Jadu vào năm 1931, lúc ba mươi lăm tuổi, khiến cho Krishna chẳng còn bao nhiêu người đồng hành. Nhiều người đã rời bỏ Tổ chức Thông thái cùng anh cảm thấy bị lạc lõng và tuyệt vọng; Tổ chức đã cung cấp chỗ ở, sự an ủi, và một mục đích trong sống. Tiền bạc không dễ kiếm được.

 Jadu đã là một người bạn thân. Krishna viết cho Padmabai Sanjeeva Rao ở Varanasi, chia sẻ sự đau khổ của cô. Những lá thư này tiết lộ cái trí của Krishna trong những ngày tiếp theo sau khi anh từ bỏ làm hội viên của Tổ chức Thông thái. Ngày 30 tháng tám năm 1931, anh viết:

Akkaji yêu quý nhất của tôi,

Thật quá kinh hoàng khi Jadu đã ra đi. Nó thực sự quá bi thương và Padmabai thương yêu, tôi có thể tưởng tượng bạn phải đang cảm thấy ra sao và bạn phải buồn thảm biết chừng nào. Hầu như tôi không thể tin tưởng một việc như thế có thể xảy ra được. Jadu chỉ mới đang ổn định trong công việc và bạn không biết được anh ấy được ưa thích đến chừng nào trong chuyến đi của anh ấy và anh ấy đã thành công như thế nào. Suốt thời gian của trại, tôi đã nghe nói rằng tôi đã nhận được một điện tín từ John Ingleman – Jadu đã bị đột quỵ vì say nóng và áp lực máu của anh là 220; lại nữa vài ngày sau, rằng anh đang khỏe lại từ từ. Tự nhiên chúng tôi lo âu về nó nhưng anh ấy không nghĩ rằng bất kỳ việc gì trầm trọng đang trở dậy. Khi tôi đến đây, tôi đã nhận được một điện tín như bạn đã biết. Akkaji, đúng là bạn đã bị đau lòng lắm và tôi ước rằng tôi ở cùng bạn, nhưng . . .!

Trong lá thư của bạn – cám ơn bạn rất nhiều vì đã viết cho tôi – như bạn viết, bạn đã tiên đoán bao nhiêu người còn sống khi tất cả chúng ta gặp lại nhau! Nitya đã đi rồi và tiếp theo là Jadu. Jadu rất thông minh, được yêu quý nhiều và nhận xét rất sắc sảo. Chúng ta sẽ nhớ anh ấy và Padmabai yêu quý nhất của tôi, tất cả tình yêu của tôi ở cùng bạn.

Bạn buồn rầu ghê lắm và đây sẽ là một xúc động kinh hoàng. Akka, chẳng còn có bao nhiêu người của chúng ta nên chúng ta phải xích lại gần nhau thêm nữa và chúng ta phải thay đổi và chúng ta phải nhận ra không có gì quan trọng nhiều hơn là sanh và tử. Chúng ta phải nhận ra nó và nỗ lựcvô cùng. Tôi ao ước tôi ở cùng bạn nhưng hoàn cảnh này phải như vậy thôi. Sống giống như thế đó và hung tợn nếu chúng ta không là ông chủ của nó.

 Tôi ao ước, tôi ở cùng bạn, Akka yêu quý nhất.

 Thư trả lời của Padmabai chắc đã diễn tả nỗi buồn sâu đậm riêng của cô ấy, bởi vì trong một lá thư khác, ngày 29 tháng mười một, Krishna kể về nỗi buồn của anh khi Nitya chết, sự tìm hiểu vào nguyên nhân đau khổ của anh, và một thức dậy rực sáng.

 Padmabai yêu quý nhất của tôi,

 Cám ơn bạn rất nhiều về lá thư của bạn. Tôi biết, Padmabai, sự chiến đấu bạn phải đang chịu đựng, Akkaji, bởi vì chúng ta muốn hương thơm của tình yêu chỉ qua một người, cái chết [làm tối tăm] tình yêu của chúng ta. Sẽ luôn luôn có chết chừng nào sự hiểu rõ của chúng ta bị giới hạn bởi tầm nhìn vị kỷ, cá nhân. Tôi kể cho bạn. Akkaji thân mến, chừng nào còn có ý thức của chính người ta, còn có chết, cô độcđau khổ. Tôi đã trải qua điều này khi Nitya chết và tôi đã hiểu rõ điều gì nằm sau đau khổ, nguyên nhân của nó. Tôi đã vượt khỏi chết. Vì vậy, Akkaji, đây là thời gian để hiểu rõ trong sự rối loạn của đau khổcô độc này. Bạn phải hiểu rõ, dò dẫm vào tầng ý thức sâu thẳm nhất và bạn sẽ thấy, Padmabai thân mến, rằng có cái gì đó trường cửu hơn, vĩnh hằng hơn tất cả những con người. Tất cả chúng ta đều phải chết và trong khi bạn đang ở trong sự rối loạn của đau khổ này, đây là thời điểm phải hiểu rõ. Đừng trì hoãn nó, Akkaji. Trong buồn bã, bạn phải tìm được cách vượt khỏi và không chờ đợi hay cho phép đau khổ gặm nhấm quả tim của bạn và cô độc làm tối tăm nụ cười của bạn. Vì vậy, Padmabai, hãy háo hức để hiểu rõ, mặc dù nó đau đớn lắm. Tách rời cái trí của bạn khỏi đau khổ, cô độctìm hiểu và bạn sẽ thấy rằng qua tự do khỏi ý thức riêng của bạn, bạn vượt khỏi sanh và tử. Hãy thử nó Padmabai và đừng nói đây chỉ là những từ ngữ.

Tôi ao ước tôi ở cùng bạn, có lẽ tôi có thể giúp đỡ bạn. Ôi, Padmabai, bạn không có ý tưởng về sự hân hoan của tình yêu không cá nhân thực sự.

 Bạn ở trong những suy nghĩ của tôi và trong quả tim của tôi.

 Tất cả tình yêu của tôi, Padmabai yêu quý nhất của tôi. Tình yêu của tôi gởi đến mọi người.

 Krishna.

 

 Những lá thư của anh bày tỏ một khao khát về Ấn độ; anh đang trôi giạt xa khỏi nhiều bạn bè thân thiết ở phương Tây mà anh quen biết từ thời niên thiếu. Từ Ojai, anh viết về cô đơn, nghỉ ngơi và vào samadhi.

 

Padmabai yêu quý nhất của tôi,

Cám ơn bạn rất nhiều về lá thư ngày 29 tháng mười. Tôi rất ân hận rằng bạn đang trải qua một thời gian khó khăn và tôi ao ước tôi ở đó để giúp đỡ bạn vượt qua. Sẽ rất tốt khi được nói về mọi thứ và phải chờ đợi đến khi chúng ta gặp nhau lại, mà sẽ chỉ mãi đến cuối năm tới. Tôi đã ở một mình suốt mười lăm ngày qua và tôi đã nhìn lại những suy nghĩ của những năm vừa qua. Tôi ao ước tôi có thể có một nói chuyện tốt cùng bạn mà sẽ giúp ích nhiều hơn là viết.

Nơi này đẹp lắm và một ngày (?) bạn phải đến đây. Tôi đang nghỉ ngơi hoàn toàn và vào samadhi.[16] Tôi chỉ thấy con người vào những ngày Chủ nhật và những ngày khác trong tuần tôi đang dành cho sự suy nghĩ. Rajagopal và Rosalind đang ở Hollywood vì Rajagopal phải khám bệnh thấp khớp khá nặng của anh.

Tôi nghe nói sức khỏe Amma rất kém và người ta nghĩ mẹ không thể sống bao lâu nữa. Ramma Rao viết cho tôi rằng mẹ bị điếc đặc và hầu như không thể nhận biết. Thật là bi thương và tôi không hiểu việc gì sẽ xảy đến cho Tổ chức Thông thái…

 Cùng tất cả tình yêu của tôi,

 Krishna

Người bạn của Krishna, Rama Rao bị mù và bệnh rất nặng. Kèm theo cái chết của Jadu, Krishna chỉ còn Rajagopal và người vợ của anh (họ đã lấy nhau năm 1927), những người vẫn ở cùng anh và được tự do để theo cùng anh khắp những châu lục.

Khi Nitya còn sống, vai trò của Rajagopal trong sống của người thầy trẻ tuổi chỉ ở vòng ngoài – Nitya đã phụ trách tất cả những vấn đề tổ chức liên quan đến công việc của Krishnamurti. Cái chết của Nitya đã tạo ra một khoảng trống trong vận hành công việc mà cần phải lấp kín. Chắc chắn, lúc đầu là Jadu và sau đó Rajagopal đảm đương, lập kế hoạch cho những giảng thuyết và những chuyến đi và thiết lập cơ sở để phục vụ cho công việc tương lai của anh. Hôn nhân của Rajagopal với Rosalind, một trong những người bạn rất thân của Nitya, đã đưa Rajagopal gần gũi Krishnamurti nhiều hơn. Chẳng mấy chốc Arya Vihar ở Ojai trở thành ngôi nhà thường trú của họ.

Một liên hệ được sinh ra từ một hành động thân thiện để bảo vệ Krishnamurti trẻ tuổi, mỏng manh – người không có sự hiểu biết hoàn toàn về thế giới đã khiến cho sự bảo vệcần thiếtchầm chậm trải qua một thay đổi to tát. Trong thời kỳ đầu tiên thuộc sống của anh, được bảo vệ bởi Mrs. Besant, anh là Thầy Thế giới sắp đến – và những thái độ của những người bạn hợp tác phản ảnh sự nhận biết này và một kính trọng. Luôn luôn có một khoảng cách giữa Thầy Thế giới và những môn đệ của ngài.

 Tuy nhiên, kèm theo sự giải tán những tổ chức và sự phủ nhận tất cả thứ bậc tinh thần bởi Krishnamurti, những thái độ mới là điều không tránh khỏi. Dần dần, khoảng cách giữa người thầy và những người quen biết giảm bớt. Chẳng mấy chốc, Rajagopal và Rosalind gánh vác nhiệm vụ của những người bảo vệ, sarvadhikaris, những người nắm giữ uy quyền quanh người thầy trẻ tuổi, đảm trách tất cả sự thực hiện quyết định trong sống cá nhân của Krishnamurti và công việc liên quan đến lời giảng của anh. Người thanh niên trẻ tuổi ngập ngừng, nhút nhát đang thận trọng tiến bước trong đại dương muôn màu của năng lượng đang được giải phóng bên trong anh, dò dẫm tìm kiếm những từ ngữ có thể chứa đựng những quan sát và những thấu triệt của anh, hoàn toàn không quan tâm đến những công việc của thế giới. Anh sung sướng khi giao mọi thứ trong bàn tay sành sõi của Rajagopal. K dường như mơ màng, thụ động, ngây thơ, và thậm chí còn quá trẻ con. Những môn đệ trước của anh, đang sống gần gũi Krishnamurti, phát giác anh rất hăm hở làm những công việc nhà hèn hạ nhất; và điều này làm mờ đi sự tinh tế của họ. Họ đã mất đi sự tiếp xúc cùng bao la trong thời gian đó và từ từ bắt đầu đối xử với anh như một đứa trẻ, mà có thể bị la mắng, bị bỏ quên, bị dọa nạt, bị sai bảo phải làm gì và phải gặp gỡ ai.

 Nó là một phần thuộc sự huyền bí của Krishnamurti mà, theo thời gian và lại nữa, anh đã cho phép điều này. Chính bản chất của anh đã khiến cho bất kỳ phản ứng hay hành động hung hăng hoặc quyết đoán nào không thể xảy ra được. Anh không bao giờ mất bình tĩnh. Cái trí dễ bảo của anh, không có cái tôi, và hoàn toàn tin cậy những người chung quanh khiến cho những người khác có thể xem như thế là đương nhiên. Anh sẽ ký bất kỳ giấy tờ nào được đặt trước anh bởi những người bạn thân, và thậm chí, thỉnh thoảng còn lặp lại những điều phi lý của họ. Việc này dẫn đến những hành động và những câu nói dường như mâu thuẫn, mà đã làm rối loạn những người bạn của anh. Tuy nhiên, khi anh có vẻ hoàn toàn bị vây quanh và bị chi phối, tình huống sẽ nổ tung từ những phức tạp của nó, để lại Krishnamurti không chạm đến được, tự do chuyển động; trái lại những người chi phối anh sẽ bị bỏ lại đầy tức giận, bị rối loạn, thường là tan nát.

 Giữa những năm 1933 và 1939, Krishnamurti nhiều lần đến Ấn độ, tổ chức những nói chuyện cùng những lượng khán giả khá đông. Kèm theo cái chết của Mrs. Besant năm 1933 và sự chọn lựa George Arundale làm chủ tịch của Tổ chức Thông thái năm 1934, tất cả liên hệ giữa Krishnamurti và Tổ chức đã bị cắt đứt. Krishnamurti đã nói về Tổ chức Thông thái như một niềm tin có tổ chức, “và ý tưởng của một Bậc Thầy đang dẫn dắt con người đến Sự thật không khi nào có trong niềm tin của tôi.”

 Thế giớitruyền thông đã không còn hứng thú “Thầy Thế giới” sau khi anh phủ nhận vai trò của Tổ chức Thông thái đã tưởng tượng cho anh. Trong một khoảng thời gian dài, tên của anh biến mất khỏi báo chí và anh sống một sống vô danh.

 Hướng về cuối những năm đó, một tổ chức mới, Krishnamurti Writings Inc. (K. W. I.), được thành lập có bộ chỉ huy đặt tại Ojai. Krishnamurti là người đứng đầu trên danh nghĩa, nhưng Rajagopal giữ một vai trò then chốt trong việc quyết định hội viên của tổ chức mới và những lãnh vực hoạt động của nó. Tuy nhiên, có một lãnh vực nơi người thầy trẻ tuổi, dù lưỡng lự như thế nào, chối từ cho phép bất kỳ sự xâm phạm nào: Đó là sự khai mở, sự nở hoa của cái trí mới mẻ, và nền tảng yên lặng của sự nhận biết đang hình thành.

 Krishnamurti ở Ojai năm 1939 khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ ở Châu âu. Gần tám năm anh sống ở Ojai trong sự biệt lập tương đối. Chiến tranh đã kiềm chế những di chuyển của anh, và anh không còn có thể đi lại được nữa. Anh đã bị triệu tập bởi Uỷ ban Nghĩa vụ quân sự của Mỹ, và phải đưa ra những giải thích chi tiết về vấn đề tại sao anh không thể chiến đấu và gia nhập quân đội. Ủy ban đề nghị anh nên trở về Ấn độ. Anh đồng ý và yêu cầu họ gửi anh về, nhưng không có phương tiện vận chuyển. Thế là họ cho phép anh ở lại, nhưng anh bị cấm tổ chức những nói chuyện và phải báo cáo đều đặn cho cảnh sát.

 Trong những năm sau, Krishnamurti sẽ kể về những năm quên lãng đó ở Ojai. Anh yêu mến những dạo bộ của anh trong những tĩnh mịch của những hòn núi vây quanh Ojai Valley. Anh đi bộ “khủng khiếp,” suốt vô số dặm, trải qua nguyên những ngày dài trong vùng hoang dã, một mình, ăn uống cẩu thả, lắng nghe và nhìn ngắm, dò dẫm thế giới bên trong và quanh quanh anh. Anh kể lại những tình tiết khi gặp những con rắn rung chuông và những con gấu hoang, đối diện chúng mà không có bất kỳ chuyển động nào của thân thể và cái trí. Con thú hoang sẽ ngừng lại, đôi mắt cảnh giác, thận trọng của nó đang gặp gỡ đôi mắt lặng lẽ của Krishnamurti trong nhiều phút; con thú, đang nhận biết được một vắng mặt hoàn toàn của sự sợ hãi, sẽ quay lại và đi khỏi.

 Cái trí đang nhìn ngắm của Krishnamurti, tự do khỏi bất kỳ áp lựcphương hướng bên trong, đã nở rộ; và cùng nó một nhận biết cơ bản mãnh liệt, một nhận biết thân thể-cái trí qua đó đất, những viên đá, những cái cây, những chiếc lá đang nhú, những con côn trùng, những con bò sát, những con chim, những con thú chuyển tải câu chuyện về lịch sử của quả đất và sự bí mật của hố sâu thăm thẳm của thời gian. Anh nói, “Khi tôi đi, tôi không suy nghĩ, không có suy nghĩ. Tôi chỉ nhìn…Tôi nghĩ rằng những dạo bộ cô đơn của tôi đúng là đã làm cái gì đó.”

 Krishnamurti nhớ lại thời gian làm vườn ở Arya Vihar, trồng hoa hồng và rau, vắt sữa bò, rửa chén đĩa. Sự thích thú mãnh liệt trong những đồ vật thuộc máy móc, mà anh đã có từ niên thiếu, sẽ tiếp tục; anh vẫn còn thích tháo rời những chiếc đồng hồ và những động cơ xe hơi để hiểu rõ chúng vận hành như thế nào, và sau đó ráp chúng vào lại. Anh đã được tặng một chiếc xe hơi bởi vài người bạn. Xăng hiếm lắm, nhưng, bất kỳ khi nào có thể, Krishnamurti thích lái hết tốc độ theo những con đường quanh co của thung lũng.

 Những tường thuật về chiến tranh và sự tàn phá Hiroshima và Nagasaki bởi bom nguyên tử đã khiến anh ngập tràn sự kinh hoàng không thể diễn tả được, nhưng đã thức dậy những thấu triệt vào bản chất của bạo lực và tội lỗi. Đặc biệt thấu triệt này đã được làm sống động thêm cho anh vào một ngày khi anh đi đến vùng Santa Barbara gần bên. Một người đàn bà đến gần anh, cho anh những món kỷ niệm ở Nhật. Krishnamurti từ chối, nhưng bà ta quả quyết chỉ cho anh cái gì bà ta có trong cái hộp. Bà ta mở nó ra và trong đó là một cái tai và cái mũi của con người đã bị quắt lại.

 Miss Muriel Payne, người khẳng định đã săn sóc Krishnamurti ở Ojai khi anh bệnh nặng, kể với tôi rằng sự phản ứng của anh đối với sự tàn phá và tàn bạo của chiến tranh là rất đau thương. Anh hỏi đi hỏi lại, “Ích lợi của nói chuyện của tôi là gì?” Anh tìm kiếm nơi nương tựa một mình trong những hòn núi, cùng cây cối và những thú hoang. Anh trải qua nhiều tuần lễ cô đơn trong một cái chòi ở Wrightwood, trong những hòn núi San Gabriel gần Los Angeles, và ở Sequoia, xa hơn về phía Nam. Anh đã để một bộ râu quai nón.

 Krishnaji kể lại công việc hàng ngày thuộc sống của anh trong cabin gỗ có chút ít đồ đạc trong vùng rừng rú. Anh thường thức dậy sớm vào buổi sáng, dạo bộ rất lâu, nấu bữa sáng, rửa chén đĩa và lau nhà và một tiếng đồng hồ mỗi ngày nghe bản hòa âm thứ chín của Beethoven (chỉ có một đĩa), lắng nghe, tham thiền. Không có quyển sách nào. Vào buổi chiều anh sẽ hát thánh ca tiếng Phạn được ghi nhớ từ thời niên thiếu của anh. Bài ưa thích nhất của anh là một bài tôn vinh Daksinamurti – Shiva là đạo sư tối thượng. Âm thanh của tiếng Phạn cất lên từ những chiều sâu của bụng anh – nó tràn ngập những cánh rừng, những âm thanh trinh nguyên được lắng nghe bởi những cái cây cổ thụ gỗ đỏ và cây thông, bởi chồn, gấu, và rắn rung chuông. Một con nhện ở chung cái chòi cùng anh. Mỗi buổi sáng, Krishnamurti quét màng nhện, trong đó có những con ruồi và những con côn trùng bị vướng bẫy; cẩn thận nhặt con nhện lên, anh sẽ đặt nó phía bên ngoài cái chòi, nhưng mỗi buổi sáng, con nhện cứ quay lại, giăng màng nhện của nó. Một khổ thơ từ kinh Upanishads, được học thuộc trong thời niên thiếu của anh, có lẽ đã hiện ra trong cái trí của anh. “Như một con nhện lòi ra [khỏi chính nó] bằng cách [giăng] những sợi chỉ [từ thân thể riêng của nó], vậy là cũng như thế từ cái tôi này, tất cả sự sống thở, tất cả những thế giới, tất cả những thần thánh, tất cả những sinh vật tình cờ trỗi dậy trong tất cả những phương hướng.”

Suốt nhiều ngày, nghi lễ giữa con nhện và Krishnamurti tiếp tục, một truyền đạt không từ ngữ; cuối cùng vào một ngày Krishnamurti nói với con nhện, “Pax, chúng ta hãy ở chung cùng cái chòi.”

 Krishnamurti thỉnh thoảng có những người khách viếng thăm. Aldous Huxley, người đã định cư ở California và đang mất dần thị lực, dạo bộ cùng Krishnamurti trong nhiều tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng họ nói về những giác quan và sự mù lòa. Krishnamurti giúp Huxley; quyền năng chữa bệnh thức dậy. Anh sử dụng nó rất ít và bí mật, khá nhút nhát về nó, và thậm chí xin lỗi trước khi nói về nó.

 Nhiều năm sau, khi được hỏi anh có ý gì khi anh nói về tất cả những giác quan đang vận hành cùng lúc, Krishnaji kể về việc gặp một người bạn bị mù khi anh đang sống trong những quả đồi. Họ đã bàn luận về những giác quan. Sau đó, một mình trong cái chòi, Krishnamurti trải qua một tuần lễ với hai mắt bịt kín lại, để hiểu rõ việc gì xảy ra khi một giác quan mà người ta lệ thuộc bị hư hỏng. Anh nói về mỗi lỗ chân lông của anh, bởi vì thức dậy trọn vẹn, mỗi giác quan cẩn thận vận hành, đang bù đắp cho giác quan bị mất; về mọi thứ phải ở trong vị trí đúng đắn của nó, phía bên trong và phía bên ngoài.

 Cũng có những hàm ý rằng tại thời điểm đó, anh đã thử nghiệm nhiều khổ hạnh khắt khe của yoga – nhịn ăn một thời kỳ dài; quan sát hoàn toàn yên lặng trong nhiều ngày; che kín những cơ quan thuộc giác quan bằng hai bàn tay để chặn đứng khả năng nhìn, âm thanh, và hơi thở; và nhận thấyvô số vang dội của âm thanh phía bên trong. Nhưng anh loại bỏ những tư thế yoga này và coi như trò chơi, vòng ngoài, và không quan trọng.

 Vẻ đẹp tỏa sáng và cuộc sống tuổi thơ, huyền thoại đầy xúc động của Krishnamurti đã kích thích sự hiếu kỳquan tâm của nhiều tác giả, diễn viên, và những người tìm kiếm đã định cư tại và quanh Los Angeles, ngoài Huxley ra. Gerald Heard là một trong những người đầu tiên của những người huyền bí phương Tây định cư ở California và mê say tìm hiểu tôn giáo của Ấn độ. Ông là một người bạn của Huxley, Krishnamurti, Christopher Isherwood, và Prabhavanand, một thầy tu của The Ram Krishna Mission. Huxley và Heard đã trở thành những người bạn thân của Krishnamurti. Nó là một liên hệ lạ lùng. Krishnamurti trong cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940, rất nhút nhát, và có lẽ đã không cho phép những vô-giới hạn bên trong anh tự phơi bày. Ngược lại, không thể hiểu rõ sự phê bình về anh của Maria Huxley. Bà nói về anh trong những năm 1938 đến 1939, “Anh rất quyến rũ và vui nhộn và rất đơn giản. Anh phải đau khổ biết chừng nào khi anh được đối xử như một tiên tri?”

 Aldous Huxley và người vợ đầu tiên của ông, Maria, thích đi picnic, giống như Krishnamurti. Anita Loos, viết về Los Angeles trong cuối những năm 1930, kể lại một vụ rắc rối mà, như bà viết nó, “đáng ra có thể xảy ra ở Alice trong Wonderland.” Tại một picnic như thế, những người khách gồm gia đình Huxley và Krishnamurti; Greta Garbo, mặc quần vải mềm nhũn của đàn ông và đội một cái mũ méo mó; Charlie Chaplin và người vợ đẹp của ông Paulette Goddard, mặc bộ đồ nông dân Mexico; Bertrand Russel (người được diễn tả bởi Anita Loos như một “Nàng tiên nhỏ bé vui vẻ”); và tác giả Christopher Isherwood.

 Không tìm được một khu picnic phù hợp, cuối cùng họ đi xuống mảnh đất đầy bụi rậm của sông Los Angeles. Khi họ đang chuẩn bị bày biện thức ăn đặc biệt của họ – Garbo mang những bó rau xanh, Goddard có rượu champagne và caviar, Krishnamurti cùng cơm của anh – bỗng nhiên một người cảnh sát to lớn xuất hiện và hỏi, “Việc gì đang xảy ra ở đây vậy?”

 Họ ngừng tất cả những chuẩn bị, “im lặng vì sửng sốt.” Một người cảnh sát xuất hiện, tay cầm một khẩu súng. “Không một ai trong nhóm này biết đọc hay sao?” Ông ta hỏi Aldous Huxley, chỉ tay tới một cái bảng “Không xâm phạm.” Huxley năn nỉ người cảnh sát, hứa sẽ dọn dẹp nơi này và nó sẽ sạch sẽ hơn cả trước khi họ đến. Người cảnh sát tức giận và ra lệnh cho Huxley “Biến khỏi đây – và nó có nghĩa ngay bây giờ.” Huxley, đang suy nghĩ rằng nó có lẽ làm nguôi giận người cảnh sát bằng cách đề cập vài người nổi tiếng, chỉ vào Charlie Chaplin và Greta Garbo.

 “Đừng lừa bịp tôi,” người cảnh sát hầm hè, “Tôi đã thấy những ngôi sao này trên màn ảnh và không ai mặc những bộ đồ kiểu này. Ra khỏi đây, các bạn những kẻ lang thang, nếu không tôi sẽ bắt tất cả các bạn.” Và thế là, Anita Loos nói, “Chúng tôi cuốn lều lại giống như những người Ả rập và lặng lẽ đi khỏi…”

 Khoảng giữa những năm 1940, Krishnamurti và Huxley đã trở thành những người bạn thân. Họ gặp gỡ thường xuyên và dạo bộ cùng nhau nhiều lần. Huxley nói và Krishnamurti lắng nghe. Huxley bị bối rối; kiến thức rộng rãi của ông gặp quá nhiều khó khăn khi muốn hiểu rõ một cái trí được sinh ra từ sự nhận biết không bị vấy bẩn bởi hiểu biết. Luân phiên, Huxley lắng nghe và học yên lặng khi Krishnamurti nói về sự nhận biết, về thời gian, và về sự hiểu rõ. Điều mà cái trí của Krishnamurti đã gây hứng thú cho Huxley là quá rõ ràng. Tại một trong những dạo bộ, ông bảo cho Krishnamurti “rằng ông sẽ đổi tất cả mọi thứ để có được một nhận biết hiệp thông cùng sự thật, nhưng cái trí của ông không thể thực hiện điều đó. Nó bị nhét đầy bởi những hiểu biết.” Christopher Isherwood kể lại một nói chuyện với Huxley. Isherwood đang kể cho Huxley về những chỉ dẫn tham thiền được dạy cho ông bởi đạo sư của ông, Swami Prabhavanand, “thế là, ngay lập tức Aldous bảo tôi rằng Krishnamurti không bao giờ tham thiền trên “những vật” như những bông sen, những ánh sáng, những thần thánh nam nữ và thậm chí còn tin tưởng rằng nếu làm như thế, có lẽ dẫn đến sự mất trí.”

 Nhớ lại sự liên hệ của anh với Huxley và Gerald Heard, Krishnamurti kể, “Tôi nhút nhát ghê lắm. Tất cả bọn họ đều là những người trí thức vô cùng. Tôi lắng nghe họ. Tôi xen vào một hay hai câu.” Nhiều thư từ qua lại giữa Krishnamurti và Huxley, và những ghi chú của Huxley về giai đoạn đó trong sống của ông, bị cháy rụi trong một vụ hỏa hoạn mà tiêu hủy ngôi nhà và tất cả những tài liệu của ông. Sau đó, Huxley sẽ viết lời giới thiệu cho quyển sách của Krishnamurti The First and Last Freedom Tự do Đầu tiên và Cuối cùng. Năm 1961, ngay trước khi ông chết, Huxley đã nghe Krishnamurti nói tại Saanen, Thụy sĩ. Viết cho một người bạn, ông diễn tả nó “như trong số những sự việc ấn tượng nhất mà tôi đã lắng nghe…nó giống như lắng nghe bài giảng của Buddha – thật quyền năng, thật uy quyền bên trong, thật là một phủ nhận không khoan nhượng để cho phép bất kỳ một người bình thường nào những tẩu thoát hay những thay thế, bất kỳ những đạo sư, những người cứu rỗi, những người cha, những giáo hội. Tôi chỉ cho bạn sự đau khổkết thúc sự đau khổ, và nếu bạn không đáp ứng những điều kiện để kết thúc sự đau khổ; dù bạn gặp gỡ bất kỳ những đạo sư, những giáo hội, vân vân mà bạn có lẽ tin tưởng, hãy chuẩn bị cho sự tiếp tục vô tận của đau khổ.”

 Tại Ojai, suốt những năm chiến tranh, Krishnamurti nhớ lại đã viếng thăm Gerald Heard ở Trabuco, “một câu lạc bộ của những huyền bí” được xây dựng cách Los Angeles một vài dặm bởi Gerald Heard và Felix Green, một người Anh nghiên cứu về Hán học rất quan tâm đến sự tìm hiểu tôn giáo Ấn độ. Gerald Heard, được diễn tả đầy hùng biện bởi Christopher Isherwood như “một trong vài người tạo ra sự tưởng tượng ảo thuật vĩ đại và những người phơi bày sự kỳ diệu của sự sống” đã xây dựng một khu ẩn dật có một sảnh tham thiền nhìn ra biển Thái bình dương. Krishnamurti viếng thăm Trabuco một tuần lễ do lời mời của Gerald Heard. Khi diễn tả về Trabuco cho chúng tôi, Krishnamurti nói về sự giống nhau của nó với một tu viện dòng Không nói – ngoại trừ rằng những con người ở đây có thể đến để ẩn dật và không bị trói buộc trong phần còn lại thuộc sống của họ. Những buổi tham thiền diễn ra khoảng sáu lần một ngày. Những người ở đó được cho phép nói chuyện vào buổi sáng, nhưng sau bữa trưa, sự yên lặng nghiêm ngặt được áp đặt. Krishnamurti tham gia trong những buổi tham thiền; đang ngồi kiết già trên nền nhà nhiều tiếng đồng hồ trong sảnh tham thiền được che tối, anh cảm thấy những suy nghĩ sôi sục trong những cái trí của những người đang tham thiền quanh anh. Bóng tối dày dặc được sử dụng như một trợ giúp để tạo ra cái trí yên lặng. Bầu không khí ma quái và những suy nghĩ hung bạo, hỗn loạn của những người khách khác gây bực dọc Krishnamurti nhiều lắm, và anh không bao giờ viếng thăm lại Trabuco.

 Có lẽ lời bình phẩm sâu sắc nhất lại đến từ “những người đứng ngoài” đang sống trên Bờ biển Thái bình dương trong những năm 1940 và 1950 là từ Henry Miller, một tác giả sôi động, tục tĩu của một số trong những người viết văn xuôi hay nhất nổi lên từ Bắc Mỹ trong thế kỷ thứ hai mươi. Trong những năm cuối đời của ông Miller trở thành một người ẩn dật và sống tại Big Sur trên bờ biển phía Nam San Francisco. Ông chưa bao giờ gặp Krishnamurti; nhưng sau khi đọc một quyển sách viết về anh bởi Carlo Suarez, Miller đã viết:

 

Krishnamurti đã phủ nhận nhiều hơn bất kỳ người nào tôi có thể suy nghĩ ngoại trừ Christ. Tại cơ bản, quá đơn giản để hiểu rõ bản chất mộc mạc của anh đến độ rất dễ dàng nắm bắt được những hỗn loạn mà những từ ngữ và những hành động trực tiếp, chân thật của anh đã gây ra. Con người miễn cưỡng chấp nhận điều gì có thể nắm bắt dễ dàng.

 Tôi chưa bao giờ gặp Krishnamurti, mặc dù tôi sẽ nghĩ rằng gặp được anh sẽ là một ân hụê vô cùng hơn là gặp bất kỳ người nào đang sống.

 Nghề nghiệp của anh, độc nhất trong lịch sử những người lãnh đạo tinh thần, nhắc nhở người ta về thiên sử thi Gilgamesh nổi tiếng. Được hoan nghênh trong thời thanh niên của anh như Đấng Cứu rỗi sắp đến, Krishnamurti từ bỏ vai trò đã được chuẩn bị cho anh, hất hủi tất cả những môn đệ, bác bỏ tất cả những người thông thái và những người thầy. Anh khởi sự bằng không niềm tinkhông giáo điều mới mẻ, chất vấn mọi thứ, vun đắp sự ngờ vực (đặc biệt trong những khoảnh khắc ngây ngất), và, do bởi sự đấu tranh quả cảm và sự kiên trì, đã tự-giải thoát chính anh khỏi ảo tưởng và vui thú, khỏi kiêu ngạohão huyền, và mọi hình thức tinh tế của thống trị người khác. Anh đã đến tận nguồn của sự sống để thâu nhận sự nuôi dưỡngcảm hứng. Muốn kháng cự lại những mưu mô và những giăng bẫy của những người tìm kiếm, bắt anh làm nô lệ và trục lợi anh, đòi hỏi sự cảnh giác vô cùng. Anh đã giải thoát linh hồn của anh, nếu có thể diễn tả như thế, khỏi thế giới trần tụcthế giới trên cao, vì vậy mở toang đến nó “thiên đàng của những người anh hùng.”

Liệu cần thiết phải định nghĩa trạng thái này?

 

Năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, Krishnamurti sẽ đi đến New Zealand, nhưng cảm thấy bị bệnh rất nặng. Anh bị nhiễm trùng đường tiết niệu, sốt cao, và bị hôn mê trong những thời kỳ dài. Có thể rằng những thay đổi lớn lao về tinh thần đã xảy ra trong anh suốt thời gian bệnh tật này. Anh nói về tự hồi phục một mình anh, về thân thể bị bỏ lại một mình. Những bác sĩ khám bệnh cho anh, nhưng có vẻ không thể chẩn đoán bệnh tật của anh, không thuốc men nào được kê ra.



[1] Telugu là một ngôn ngữ Dravidia được nói bởi người dân của Andhra Pradesh ở Ấn độ, trong nó có nhiều Phạn ngữ.

[2] Hanuman, người có mặt khỉ tôn sùng vị anh hùng thiêng liêng Rama của thiên sử thi Ramayana, là một vị thần của con người, được thờ phụng khắp Ấn độ. Ở Ấn độ Hanuman cũng được biết đến như Anjaneya.

[3] Manhatma, một thuật ngữ tiếng Phạn có nghĩa “tinh thần vĩ đại,” “linh hồn vĩ đại,” hay “người thầy.”

[4] Russel B. Clarke (Dick) là một kỹ sư và một người trong Tổ chức đã đến ở tại Adyar năm 1910 và đang giúp đỡ C. W. Leadbeater trong công việc của ông. Khi hai cậu bé Krishna và Nitya được phát hiện, Clarke trở thành gia sư của họ.

[5] Trong Krishnamurti ’s Journal Nhật ký của Kríhnamurti, trang 36, có một câu chuyện khác hẳn điều gì G. Sharada đã kể. Tôi đã đọc bài viết trong bản thảo của tôi cho Krishnaji. Anh nói anh không nhớ. Thỉnh thoảng khi anh nhắc về quá khứ, những kỷ niệm riêng của anh thường lẫn lộn với điều gì những người khác đã kể cho anh.

[6] Liberal Catholic phát sinh từ một nhóm người Germa Catholic phản đối chống lại Church of Roma về giáo điều không thể sai lầm của giáo hoàng năm 1870. Nó liên kết với Catholic Church của Holland cũ, lan tràn trong số những giáo sĩ Catholic và Anglican, nhưng có ít người theo sau.

[7] Nguyên lý năng lượng kundalini, nằm ngủ im lìm cho đến khi được đánh thức bởi một yogi, được ví như một con rắn; nó xuất phát tại vùng đáy của cột sống, phía sau cơ quan sinh dục, và đi lên qua sushumma nadi, xuyên thủng và đánh thức chakra bằng chakra cho đến khi nó thoát ra qua trung tâm của da đầu, nơi lỗ hỗng phía sau đầu. Sáu chakra của yoga kundalini được coi như là sáu trung tâm của năng lượng vũ trụ bùng nổ nhưng im lìm thuộc bản chất của lửa. Lộ trình mà những trung tâm này được đặt nằm dọc theo cột sống. Những chakra được ví như một bông sen: được thức dậy bởi quyền năng của con rắn hay kundalini, nó nở ra và hướng lên trên.

Trên phía bên kia của sushumna hay dây thần kinh động mạch giữa là những kênh thuộc mặt trờimặt trăng, idapingala cuốn quanh sushumna giống như những con rắn. Điểm giữa hai chân mày là chakra thứ sáu hay điểm nút của năng lượng. Cùng sự nở hoa của bông sen hàng ngàn cánh trong da đầu, người yogi được giải thoát; trong anh ấy, anh ấy có một nguồn năng lượng vô hạn không bị hao tán.

[8] Đây có thể là một dính dáng đến việc mở trong da đầu trong kundilini yoga được nói đến như Sahasrara hay Brahmarandhra – hoa sen một ngàn cánh nở rộ, nghỉ ngơi trong trống không tối thượng. Cùng công việc mở này hiện diện sự hợp nhất và sự giải thoát cuối cùng cho những yogi.

[9] The Order of the Star of the East, một tổ chức quốc tế, được thành lập bởi Annie Besant và C. W. Leadbeater năm 1911. Mrs. Besant và C. W. L. được cho danh nghĩa Những Người Bảo vệ của The New Order và Krishna được tuyên bố là Người Đứng đầu của nó. Những người đại diện được bổ nhiệm và những văn phòng được thành lập cho mỗi quốc gia. Huy hiệu của The Order là một ngôi sao bạc năm cánh. Một tuần báo từng quý được in ở Adyar có tên là Herald of the Star, với Krishna là người biên tập của nó. Phát hành đầu tiên tháng giêng năm 1911. Năm 1914, văn phòng xuất bản được chuyển đến nước Anh.

[10] Krishna, Nitya, và một số trong những bạn bè của họ đã viếng thăm Ehrwald ở Áo trước chuyến đi của họ đến Pergine.

[11] Arhat là một thuật ngữ sramanic thể hiện sự thành tựu cao nhất thuộc tinh thần cho một thầy tu dưới Buddha. Trong thứ bậc thuộc tinh thần của Tổ chức Thông thái, adept là những bậc thầy hay những mahatman. Thành viên của Great White Brotherhood, họ đã đạt được sự hoàn hảo nhưng vẫn còn giữ hình dạng con người, để giúp đỡ sự tiến hóa của những người Tìm kiếm trên con đường của Môn đệ.

[12] Rukmini là người vợ Brahmin Nam Ấn của George Adrundale. Bà xuất thân từ một gia đình nổi tiếng thuộc Tổ chức Thông thái. Là một cá nhânvăn hóa nổi bật, bà thành lập một trường âm nhạc và vũ danh tiếng, Kalakshetra, ở Madras. Bà chết năm 1986.

[13] Trong một lá thư từ Ojai ngày 28 tháng hai năm 1923, Nitya đã viết cho Mrs. Besant “Krishna và con đầy những kế hoạch mà chúng con muốn thực hiệnẤn độ; và chúng con muốn nói chuyện với mẹ về chúng và cả hai chúng con muốn quay về, trong sống của con chưa bao giờ con cảm thấy nhớ quê hương Ấn độ như thế. Dĩ nhiên, con đang bắt đầu nhận ra một chút ít, điều gì mẹ cảm thấy về Ấn độ.

 Gửi mẹ tất cả thương yêu Nitya.”

[14] Trong một bài viết gửi đến International Self-Preparation ngay sau cái chết của Nitya, Krishnaji đã viết, “Ví dụ, khi người em của tôi chết, tôi cảm thấy hoàn toàn bị mất hút. Bạn không có ý tưởng về tôi đã cảm thấy như thế nào suốt hai hay ba ngày – còn nhiều hơn nữa, có lẽ một tuần lễ. Tôi vẫn còn nhớ em; tôi sẽ luôn luôn nhớ em phần thân thể; nhưng tôi cảm thấy rằng em và tôi đang cùng nhau làm việc, rằng chúng tôi đang dạo bộ cùng con đường, trên cùng sườn núi, đang ngắm cùng bông hoa, cùng những sinh vật, cùng bầu trời xanh, cùng những đám mây và những cái cây. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy như thể tôi là bộ phận của em; và chỉ khi nào tôi bị mệt tôi mới bắt đầu nói: ‘Em tôi không có ở đây’. Nhưng ngay lập tức, cái trí của tôi khiển trách và bảo với tôi một suy nghĩ như thế là quá vô lý.”

[15] Sannyasa là một trạng thái của đang hiện diện, một trạng thái của chết đi thế giớixã hội. Những sannyasin giữ những lời thề của sannyasa. Được bắt đầu bởi một đạo sư, anh ấy được cho một chiếc áo cà sa, chấm dứt là một thành viên của xã hội, và ở phía ngoài cái khung của nó, hầu như không liên quan đến những luật pháp, những nghi lễ, những tôn sùng, những hiến dâng thuộc xã hội, và vân vân. Những sannyasin từ bỏ giai cấp, gia đình, và nhận vào một cái tên mới biểu hiện sự sinh ra lại.

[16] Samadhi: Một trạng thái của giải thoát cuối cùng. Một trạng thái nơi thực thể cái tôi đã ngừng tồn tại và người tìm kiếm đã tan biến. Một trạng thái của hợp nhất cùng vũ trụ.



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
16/08/2013(Xem: 16752)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.