CÔNG ĐỨC PHÓNG SANH
Pháp Sư Viên Nhân
- LỜI NÓI ĐẦU
- PHẦN I: CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH
- LỜI DẪN
- CHUƠNG I: PHÓNG SINH LÀ GÌ?
- CHUƠNG II: CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH
- CHUƠNG III: NHỮNG LỜI KHAI THỊ CỦA LỊCH ĐẠI TỔ SƯ
Đại sư Trí Giả
Đại sư Vĩnh Minh
Đại sư Huệ Năng
Đại sư Hàn Sơn và Đại sư Thập Đắc
Thiền sư Chí Công
Thiền sư Phật Ấn
Đại Sư Liên Trì
Đại Sư Ngẫu Ích
Đại sư Ấn Quang
Đại sư Hoằng Nhất
Lão Hòa Thượng Hư Vân
Đại sư Diệu Thiện
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Pháp sư Viên Nhân - CHUƠNG IV: GIẢI TRỪ NGHI VẤN
- CHƯƠNG V: BỐN PHÁP BẢO
Sám hối
Phóng sinh
Ăn chay
Niệm Phật - CHƯƠNG VI: PHÓNG SINH LÀ NUÔI DƯỠNG LÒNG TỪ BI
- LỜI KẾT
- PHẦN II.NHỮNG CÂU CHUYỆN PHÓNG SINH
- A. PHÓNG SINH ĐƯỢC PHƯỚC BÁU
TÂM TỪ BI CHUYỂN HÓA CÔN TRÙNG
THỰC HÀNH PHÓNG SINH CHUYỂN HÓA ĐƯỢC GIA ĐÌNH
THẢ CÁ ĐƯỢC THOÁT NẠN
DÙNG VOI CHỞ NƯỚC
SA DI CỨU ĐÀN KIẾN
THẦY ĐỒ THẢ CÁ LÝ NGƯ
BẦY CHIM CHÔN CẤT ÂN NHÂN
PHÓNG SINH TĂNG TUỔI THỌ
ĐƯỢC PHƯỚC SỐNG LÂU
ĐÀO AO PHÓNG SINH
THƯƠNG CON ĐỨT RUỘT - B. SÁT SINH CHỊU ÁC BÁO
ĐỨT LƯỠI VÌ DAO MỔ TRÂU
ĐAU ĐỚN SUỐT SUỐT BA THÁNG
CẮT LƯỠI THÚ VẬT – CON BỊ KHUYẾT TẬT
NGƯỜI TÀN ÁC CHẾT ĐAU ĐỚN
NGƯỜI LÀM ÁC PHẢI BỊ CHẾT THÊ THẢM
CÁ LƯƠN TRẢ THÙ
BẮT ẾCH BỊ QUẢ BÁO
CỘNG NGHIỆP SÁT SANH
ẾCH ĐÒI MẠNG
SÁT SINH BỊ NƯỚC CUỐN
CON BA BA ĐÒI MẠNG
QUẢ BÁO HIỆN TIỀN
CẮM ĐẦU VÀO NỒI VÌ BẠO SÁT
GIẾT HEO BỊ QUẢ BÁO THẢM KHỐC
GIẾT DÊ BIẾN THÀNH DÊ - MẤY LỜI TÂM HUYẾT
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo lý của đạo Phật tuy rất sâu xa
mầu nhiệm nhưng cũng vô cùng thiết thực, gần gũi; tuy nói tánh không, giải
thoát, nhưng cũng không rời sự sống của muôn loài; tuy nói hành thiền, quán
tịnh, nhưng nhất cử nhất động cũng đều vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bậc
chân tu giác ngộ từ xưa nay chưa từng nghĩ đến việc lìa khỏi chúng sinh phiền
não để riêng mình được phần giải thoát. Chính đức Phật Thích-ca cũng từng thị
hiện trải qua biết bao khó nhọc, suốt bốn mươi chín năm không một phút nghỉ
ngơi để rộng truyền Chánh pháp khắp nơi.
Vì thế, đạo giải thoát không phải chỉ ở nơi thâm sơn cùng cốc, mà luôn hiển
hiện quanh ta. Ngày nào chúng ta chưa thấy được điều ấy, chưa vận dụng được
những lời dạy của đức Phật vào ngay trong cuộc sống hằng ngày, thì chúng ta
chưa thể thực sự hưởng được phần lợi ích vô biên của giáo pháp. Và cũng vì thế,
việc nghe hiểu được giáo pháp là điều vô cùng quý báu, nhưng vẫn chưa thể nào
so sánh được với giá trị của việc thực hành giáo pháp. Chỉ có thực hành giáo
pháp mới mang lại sự an vui lợi lạc cho chính ta và mọi người quanh ta; chỉ có
thực hành giáo pháp mới giúp ta trực tiếp cảm nhận được những ý nghĩa sâu xa và
mầu nhiệm trong từng lời dạy của đức Thế Tôn; và chỉ có thực hành giáo pháp mới
có thể giúp ta xa lìa những khổ đau của thế tục, ngày một tiến gần hơn đến cảnh
giới an lạc, giải thoát. Những ai có may mắn được tiếp xúc với giáo pháp, được
đọc hiểu giáo pháp, nhưng nếu không tự mình thực hành thì cũng chẳng khác nào
kẻ đếm tiền giúp cho người khác, trọn đời không có được chút giá trị quý báu
nào cho chính mình.
Trong vô số những pháp môn phương tiện mà đức Phật đã từng chỉ dạy, chỉ có
phương pháp phóng sinh là dễ thực hành nhất mà có thể sớm mang lại hiệu quả
nhất. Sở dĩ như vậy, vì phóng sinh là trực tiếp giải cứu sinh mạng cho chúng
sinh, mà sinh mạng lại chính là giá trị cao cả nhất, được trân quý nhất của tất
cả chúng sinh. Giải cứu được sinh mạng cho chúng sinh tức là giúp chúng sinh
giữ lại được cái giá trị cao cả nhất, đáng trân quý nhất. Như vậy, thử hỏi còn
có việc làm nào ý nghĩa hơn, đáng làm hơn chăng? Chỉ một việc phóng sinh đơn
giản dễ làm mà có thể gieo được cái nhân lành thù thắng không gì so sánh được,
đó là cứu vớt sinh mạng cho những chúng sinh sắp phải nhận lấy cái chết. Dù là
xét theo lý lẽ thường tình của thế gian hay theo giáo pháp nhân quả của Phật
dạy, cũng đều có thể thấy được là việc làm ấy đáng trân trọng biết bao nhiêu,
chắc chắn sẽ mang lại kết quả to lớn biết bao nhiêu!
Mặc dù vậy, trong thực tế cũng có nhiều người không thấy được những ý nghĩa rất
thiết thực của việc phóng sinh. Họ biện luận vòng vo, đưa ra lý này lẽ khác,
luôn cho rằng việc phóng sinh thực ra chẳng có ý nghĩa gì!!! Vì sao vậy? Điều
không thể phủ nhận là thói quen giết hại của con người từ xưa đến nay đã quá
nặng nề. Có khi giết để ăn thịt, có khi giết để lấy da, xương, lông, sừng... và
các bộ phận khác của thú vật mà sử dụng, nhưng cũng lắm khi giết hại chỉ vì
lòng hiếu sát, chỉ vì để mua vui, giải trí trong chốc lát... Than ôi! Những kẻ
xem thường sinh mạng muôn loài như thế ngày nay thật nhiều không kể xiết, mà
người thực hành phóng sinh chỉ lác đác như đếm được trên đầu ngón tay. Vì thế,
mặc cho có những người tích cực phóng sinh, mà số loài vật bị giết hại vẫn
dường như không thấy giảm thiểu chút nào! Chính vì nhìn thấy thực trạng như vậy
mà rất nhiều người đã nản lòng thối chí, cho rằng những nỗ lực phóng sinh chẳng
qua cũng chỉ như dã tràng xe cát, nào có ích lợi gì!
Nhưng cách suy nghĩ như thế thật là cạn cợt và vô lý. Cho dù kẻ giết hại nhiều,
người phóng sinh ít, cũng không thể vì thế mà chúng ta lại bỏ đi việc làm tốt
đẹp của chính mình. Ví như sau một trận động đất, người chết nhiều như rơm rạ,
mà người còn sống sót chẳng có bao nhiêu, dù nỗ lực suốt ngày trời chẳng qua cũng
chỉ tìm cứu được một vài sinh mạng. Nhưng cũng không thể vì thế mà bỏ đi công
việc tìm kiếm cứu nạn. Hơn nữa, lại càng phải dốc sức đào bới, tìm kiếm tích
cực hơn, may ra còn có thể kịp thời cứu sống được những nạn nhân khốn khổ đang
bị đè trong đất đá. Cũng vậy, đồng loại của chúng ta càng ra sức giết hại, thì
ta càng phải tích cực hơn trong việc phóng sinh, hầu có thể cứu chuộc được phần
nào những tội lỗi nặng nề mà những kẻ si mê kia đang ngày đêm tạo tác.
Mặt khác, cũng có không ít người mang nặng ý tưởng phân biệt giữa sự sống của
con người với sự sống của loài vật. Họ cho rằng chỉ có con người mới thực sự có
quyền được sống, còn loài vật sinh ra vốn chỉ để phục vụ đời sống con người
(!), dù có giết chết bao nhiêu con vật cũng chẳng có gì là tội lỗi! Thật ra,
những lập luận như thế thường chỉ là tự dối gạt chính mình, để bảo vệ cho việc
làm sai trái của mình mà thôi. Vì hầu hết những người đưa ra lập luận như thế
nhưng khi nhìn thấy cảnh những con vật bị giết chết, bị hành hạ đau đớn, cũng
đều không thể dửng dưng vô sự, mà đều có sự động tâm thương xót tự trong sâu
thẳm của lòng mình. Sở dĩ như thế là vì sự sống vốn không hề có phân biệt, cho
dù là những con vật nhỏ hay lớn, sống trên cạn hay dưới nước, cũng đều biểu lộ
những phẩm tính hoàn toàn giống nhau đối với sự sống còn. Tất cả đều thực
hiệnam sống sợ chết, đều biết sợ hãi, đau đớn, mừng vui, yêu thương, oán
giận... Như thế thì dựa vào đâu để tự cho rằng chỉ có con người mới có quyền
được sống? Hơn nữa, nếu như trên thế giới này chỉ còn lại duy nhất loài người,
liệu chúng ta có vui sống được hay chăng?
Thật ra, muốn thấu hiểu mọi ý nghĩa sâu xa của việc phóng sinh cũng không phải
là việc dễ dàng. Vì thế, các vị Tổ sư từ xưa nay đã có không ít vị dành trọn
cuộc đời để tuyên dương, giảng giải và khuyến khích mọi người cố gắng làm việc
phóng sinh. Trong tập sách này, chúng tôi ghi lại những lời dạy của Pháp sư
Viên Nhân, một bậc cao tăng thạc đức, người đã hết lòng cổ xúy cho việc phóng
sinh. Sự giảng giải của ngài, tuy nhiều chỗ đơn sơ mà không kém phần sâu sắc,
thể hiện rõ trí tuệ của một bậc cao tăng thực tu thực chứng, hy vọng có thể qua
đó mà giúp cho nhiều người hiểu sâu thêm về ý nghĩa và công đức của việc phóng
sinh.
Chúng tôi biên soạn sách này gồm hai phần, nhắm đến việc giảng dụ từ những ý
nghĩa căn bản nhất cho đến sâu xa, thâm thúy nhất của việc phóng sinh. Vì thế,
hy vọng là có thể phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của đông đảo độc giả, từ những
người đã am hiểu phần nào cho đến cả những người sơ cơ chưa từng nghe biết đến.
Về phần giảng, ngoài những lời dạy của Lão Pháp sư Viên Nhân, chúng tôi cũng
dẫn thêm quan điểm, ý kiến cũng như lời dạy của nhiều vị Tổ sư, các bậc danh
tăng từ xưa nay, kể cả những vị đương đại. Trong phần này, phần lớn tư liệu là
do chư tăng ở Viện Chuyên tu (Đại Tòng Lâm) cung cấp. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn và ghi nhận sự đóng góp quý báu của quý thầy.
Về phần dụ, chúng tôi ghi lại những câu chuyện xưa nay minh họa cho ý nghĩa và
kết quả của việc phóng sinh, chủ yếu là cho thấy việc thực hành phóng sinh được
phước báu ra sao, cũng như việc giết hại sinh mạng phải chịu những quả báo như
thế nào. Trong phần này, ngoài sự giúp đỡ của quý thầy ở Viện Chuyên tu, chúng
tôi cũng nhận được tập sưu tầm của Sư cô Linh Lạc, do Sư cô Linh Bửu chuyển
đến, và đặc biệt là chuyện kể của Đại đức Thích Nhuận Châu ở Tịnh thất Từ
Nghiêm (Đại Tòng Lâm). Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình
của quý thầy và quý sư cô trong việc thực hiện tập sách này.
Qua những lời giảng giải và những câu chuyện có xưa, có nay, hội đủ các yếu tố
cổ kim, chúng tôi hy vọng có thể giúp cho tất cả mọi người đều thấy rõ được giá
trị của việc cứu vật phóng sinh cũng như sự nguy hại của việc giết hại sinh
mạng mà sớm có một sự chuyển hướng tốt đẹp trong đời sống.
Tâm nguyện duy nhất của chúng tôi khi thực hiện tập sách này là mong sao có thể
góp được một phần nhỏ bé trong việc khơi dậy lòng từ bi sẵn có nơi tất cả mọi
người, khiến cho ai ai cũng thực hành việc giới sát phóng sinh, giúp cho loài
vật sớm có được một cuộc sống an lành, không bị giết hại.
Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không thể tránh khỏi ít nhiều sai sót,
kính mong các bậc tôn túc trưởng thượng rộng lòng chỉ bảo và quý vị độc giả gần
xa niệm tình tha thứ.
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
PHẦN I.
CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH
LỜI DẪN
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật
tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha
mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình. Vì mình trải qua nhiều đời đều do đó mà
sinh ra, nên chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ của mình. Nếu giết hại
sinh mạng để ăn thịt tức là tự giết cha mẹ mình, cũng là giết thân cũ của mình.
Tất cả đất, nước là thân trước của mình. Tất cả gió lửa là bản thể của mình.
Cho nên, thường thực hành phóng sinh thì đời đời sinh ra thường gặp Chánh pháp.
Khuyên dạy người làm việc phóng sinh, nếu thấy người đời giết hại súc vật, nên
tìm phương tiện để giải cứu, khiến cho chúng được thoát khổ nạn.”[1]
Đức Phật có trí tuệ vô thượng, trong kinh Phạm Võng đã sớm có lời ân cần khẩn
thiết khuyên răn chúng ta. Giới sát phóng sinh thì tiêu trừ nghiệp chướng, lại
trưởng dưỡng được tâm từ bi. Đức Phật còn nói rõ rằng: “Chúng sinh trong sáu
đường đều là cha mẹ ta, cứu vật sống được tức là cứu được cha mẹ ta.”
Mỗi một chúng sinh đều là anh em, thân quyến, cha mẹ, con cái từ nhiều kiếp đến
nay của chúng ta. Nếu đem nhãn quan của mình mở rộng đến chân tướng vô hạn của
không gian, thời gian, của vũ trụ, đối diện với thân quyến của mình lúc bị bắt,
bị nhốt, bị giết, bị ăn thịt... vẫn không cố gắng tận tâm mà rụt rè do dự;
không gấp rút mà giải cứu họ, thật chẳng bằng loài cầm thú.
Tuy nhiên, chính như Đại sư Ấn Quang,
[2] tổ thứ 13 của Liên tông có nói: “Việc giới
sát phóng sinh tuy cạn cợt dễ thấy, mà cái lý của giới sát phóng sinh thì sâu
mà khó hiểu.” Trong thời mạt pháp mờ mịt như ngày nay, Chánh pháp suy vi, ma
đạo thịnh hành, tánh người ngu tối thấp hèn, chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng,
bị vô minh che lấp, không có trí tuệ để chọn lấy pháp môn thù thắng, đơn giản
dễ thực hành này; không có phước báu để tiêu trừ sát nghiệp vô tận nhiều đời
tạo nên. Vì vậy nên đề xướng việc phóng sinh ngày nay thật là khó khăn, thường
gặp phải sự cản trở phê phán rất nhiều. Thường thường vừa gặp phải sự phê bình,
thì có nhiều cư sĩ phóng sinh đã mất hẳn niềm tin, sinh lòng thối chuyển, tiếp
đó thì bỏ đi cơ hội tiêu trừ nghiệp chướng.
Khó làm mà làm được mới đáng quý! Trong thời mạt pháp hôm nay, có một vị không
sợ bị chê cười, phỉ báng, dị nghị; bất kể sự phê bình cản trở khó khăn, đối với
việc phóng sinh vẫn cật lực đề xướng. Đó là Lão Pháp sư Viên Nhân. Lão Pháp sư
đối với cư sĩ đến thỉnh pháp đều khuyến khích: “Phải hết lòng niệm Phật, lấy
giới làm thầy.” Ngoài ra đối với việc giới sát phóng sinh đặc biệt nhấn mạnh,
chú trọng. Lão Pháp sư thường hay khuyên răn chúng ta: “Phóng sinh tức là trả
nợ, trả vô số nợ sát sinh từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay. Người đời nay nhiều
bệnh tật đau khổ, đều là do thiếu món nợ sát sinh từ kiếp trước mà có. Trả nợ
sát sinh, chỉ có phương pháp hay nhất là phóng sinh. Cứu mạng kẻ khác cũng như
cứu mạng mình, tức là trả món nợ sát sinh trước kia đã thiếu.”
Lão Pháp sư Viên Nhân dạy: “Nhân quả báo ứng như bóng theo hình. Sát sinh tự có
ác báo của sát sinh. Phóng sinh tự có thiện báo của phóng sinh. Đừng nên để ý
đến sự phê bình, hủy báng của kẻ khác. Chúng ta thực hành thiện nghiệp của
mình, kẻ khác tạo ác nghiệp của chính họ. Mai sau quả báo hiện tiền, thiện ác
nhân quả báo ứng tuyệt đối không bao giờ sai được.”
Dưới sự chỉ dạy của Lão Pháp sư, những cư sĩ phóng sinh chẳng những tiêu trừ
được túc nghiệp mà trong quá trình phóng sinh lại càng nuôi dưỡng được tấm lòng
từ bi, thể hội được chân lý: Vạn vật chúng sinh bình đẳng nhất như, đều có đầy
đủ tánh Phật, đều có thể thành Phật. Sự chuyển biến của loại tâm từ bi này
chẳng phải hạng người chỉ biết phê phán, chỉ trích kia có thể lãnh hội được
trong muôn một.
Trong nghĩa cử cao đẹp của việc phóng sinh, bao nhiêu những chứng bệnh ung thư,
ác tật đều tiêu mất trong vô hình. Bao nhiêu sự kiện cảm ứng nhiệm mầu thật
chứng, từ miệng các cư sĩ thường xuyên kể lại. Bao nhiêu hình ảnh của loài vật
cảm ơn thị hiện trước mắt. Quyển sách Công đức phóng sinh này hy vọng có thể
khiến cho càng nhiều người hiểu rõ được sự thù thắng của việc phóng sinh, từ đó
mà tự mình cố gắng làm công việc từ bi phóng sinh. Cũng hy vọng khiến cho những
người đối với việc phóng sinh có sự nghi ngờ và phê bình, qua sự giảng giải
trong sách này có thể cải chính một số thiên kiến của chính mình, không cản trở
kẻ khác phóng sinh nữa; lại tiến thêm một bước để bỏ ác làm lành, rộng khuyên
người đời phóng sinh.
Qua lời dạy của Lão Pháp sư Viên Nhân, mong sao người nghe có thể một truyền ra
mười, mười truyền ra trăm ngàn... khiến cho người người đều khởi tâm từ bi, đều
thực hiện việc phóng sinh. Nhờ đó mà phát triển việc giới sát, ăn chay, khiến
cho mọi sự tàn bạo trong xã hội được tiêu trừ, tuần hoàn tăng trưởng, đất nước
an lành, nhân dân thịnh vượng, vạn vật muôn loài trong trời đất đều được vui thú
hồn nhiên, hưởng trọn tuổi đời.
CHUƠNG I: PHÓNG SINH LÀ GÌ?
Thế nào gọi là phóng sinh? Phóng
sinh tức là nhìn thấy các loại chúng sinh có mạng sống đang bị bắt nhốt, giam
cầm, sắp sửa bị giết hại, kinh hoàng lúng túng, mạng sống trong phút giây nguy ngập,
liền phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc. Như vậy tức là hành vi giải thoát,
phóng thích, cứu lấy mạng sống.
Luận Đại Trí độ dạy rằng: “Trong tất cả các tội ác, tội sát sinh là nặng nhất.
Trong tất cả các công đức, không giết hại là công đức lớn nhất.” Tại sao phải
phóng sinh? Nói một cách đơn giản, phóng sinh tức là cứu chuộc mạng sống. Chúng
ta đã tạo sát nghiệp nặng nề từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay. Kinh Hoa Nghiêm
dạy rằng: “Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì cho đến cùng tận hư không cũng không
dung chứa hết.” Chúng ta ngay trong kiếp này tạo nghiệp giết hại chúng sinh quả
thật đã không thể tính đếm được, huống chi là đã tạo trong nhiều đời nhiều
kiếp!
Nên biết chân lý: “Có nợ phải trả, có tội phải báo.” Xét lại tự thân mình đã
tạo biết bao nghiệp giết hại, chẳng tránh khỏi phải khủng hoảng, xấu hổ, thật
không đất dung chứa! Sao có thể không tự mình kịp thời sám hối, cố gắng phóng
sinh, hầu mong đền trả nợ nần trong muôn một! Việc phóng sinh có thể trưởng
dưỡng tấm lòng từ bi của mình. Nên khởi lòng bi mẫn phóng sinh, xem sinh mạng
của loài vật như sinh mạng của chính mình. Được vậy thì sẽ chẳng cuồng vọng,
điên đảo nữa; sẽ chẳng tạo nghiệp giết hại nữa; sẽ chẳng thiếu món nợ sát sinh
nữa; nên chẳng phải luân hồi thọ báo nữa.
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được
tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp
muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
Phóng sinh có những công đức gì?
Công đức phóng sinh rộng lớn vô biên, không thể tính đếm. Nay xin nói đại lược
như sau:
1. Không có nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát.
2. Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.
3. Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.
4. Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.
5. Chỗ mong cầu được toại nguyện.
6. Công việc làm ăn phát triển, hưng thạnh, gặp nhiều thuận lợi.
7. Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.
8. Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.
9. Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.
10. Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng
sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
Trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện dạy rằng: “Chúng sinh thương
yêu nhất là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất là chúng sinh. Cứu được thân
mạng chúng sinh thì thành tựu được tâm nguyện của chư Phật.”
Sau khi phóng sinh, tự mình có những thay đổi gì?
Phóng sinh có thể nuôi dưỡng lòng từ bi của chúng ta. Trong khi thực hiện việc
phóng sinh, chúng ta nhân đó có thể thấu hiểu được chân lý vạn vật đều bình
đẳng, đều có cảm giác, đều có tánh Phật, đều có thể thành Phật. Nhờ đó, chúng
ta có thể khởi tâm từ bi với hết thảy chúng sinh, lại còn tôn trọng trân quí.
Tiến thêm một bước nữa, trong cuộc sống hằng ngày có thể thực hiện việc giới
sát, ăn chay, cứu giúp sinh mạng muôn loài; các điều ác không làm, các điều
thiện cố gắng làm; khởi tâm từ bi đối với tất cả muôn loài trên thế gian.
Nên biết rằng, tâm Phật là từ bi. Khi chúng ta nuôi dưỡng lòng từ bi thì tâm ta
với tâm Phật hợp nhau, chư Phật hoan hỷ thì tự nhiên dễ có sự cảm ứng đạo giao,
việc học Phật tự nhiên dễ dàng thành tựu.
Trong kinh Phạm võng, Bồ Tát Giới sám văn có dạy: “Phật tử không được tự mình
giết hại, dạy người giết hại, dùng phương tiện giết hại, tán thành việc giết
hại, hoặc thấy người khác giết hại mà vui mừng tán thành. Tất cả các loài có sự
sống, có sinh mạng, đều không được giết hại. Bồ Tát phải luôn phát khởi, gìn
giữ tâm từ bi, hiếu thuận, dùng phương tiện mà cứu mạng, bảo vệ cho tất cả
chúng sinh. Người thích sát sinh thì làm ngược với bốn tâm vô lượng: từ, bi,
hỷ, xả. Như vậy là phạm vào tội ba-la-di của hàng Bồ Tát.”
Tại sao hiện nay có nhiều người phản đối và chỉ trích việc phóng sinh? Phóng
sinh là phương pháp dễ dàng nhất để tiêu trừ nghiệp chướng, lại đơn giản dễ
làm. Chỉ cần phát tâm tùy thời, tùy chỗ, một người hay nhiều người, nhiều tiền
hay ít tiền đều có thể phóng sinh. Chính vì phóng sinh thù thắng nhiệm mầu như
vậy, mà nhiều đời nhiều kiếp đến nay chúng ta có biết bao nhiêu oan gia trái
chủ, tà ma ngoại đạo, đều không muốn chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, thành tựu
đạo nghiệp một cách đơn giản như vậy. Vì thế nên chúng dùng trăm phương nghìn
kế để tăng trưởng vô minh, làm lẫn lộn sự thấy nghe, mê hoặc nhân tâm, cản trở
người ta phóng sinh.
Kinh Chánh pháp niệm có dạy: “Tạo một ngôi chùa chẳng bằng cứu một sinh mạng.”
Công đức phóng sinh to lớn đến như thế!
Hỏi: Có thể nào nói rõ một cách đơn giản đạo lý của việc phóng sinh?
Đáp: Có những điểm rất dễ thấy, dễ biết như sau:
1. Nhân quả báo ứng như bóng theo hình, mảy may không sai chạy. Gieo nhân gì
thì gặt quả ấy, đó là chân lý ngàn đời không thay đổi. Phóng sinh tức là cứu
sống sinh mạng. Đã gieo nhân lành ắt phải được quả lành. Cản trở và phê phán
việc phóng sinh tức là làm phương hại việc cứu sống sinh mạng. Đã gieo nhân ác
ắt phải gặt quả ác.
2. Muôn loài chúng sinh đều có sự sống, đều biết tránh nơi hung dữ, tìm chỗ an
lành; đều biết tham sống sợ chết, đều có vui, buồn, yêu, ghét... Người thực
hiện việc phóng sinh thì loài vật đều âm thầm cảm ơn và luôn mong có dịp báo
đáp.
3. Muôn loài chúng sinh đều có đủ tánh Phật như chúng ta, nếu so sánh với nhau
đều không hơn, không khác. Chỉ vì ác nghiệp trước đây sâu nặng, nên chúng phải
sinh làm các loài súc sinh. Ngày nào nghiệp chướng tiêu trừ, phát tâm tu tập
thì cũng đều có thể chứng thành quả Phật. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng
sinh, cứu được một mạng sống, cũng giống như cứu được một vị Phật trong tương
lai.
4. Muôn loài chúng sinh cùng với ta trong luân hồi từ vô thủy đến nay đều đã
từng là anh em, thân quyến. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng sinh cũng
giống như cứu vớt người thân của mình.
5. Muôn loài chúng sinh cùng với ta trong luân hồi quá khứ đều đã từng là oan
gia cừu địch. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng sinh là cơ hội có thể hóa
giải oán thù, chấm dứt sự oan oan tương báo.
Hỏi: Nay dù chúng ta cố sức làm việc phóng sinh, nhưng còn biết bao người khác
vẫn khăng khăng tìm cách bắt giết, như vậy thì có ý nghĩa gì?
Đáp: Người phóng sinh có công đức của việc phóng sinh. Kẻ bắt giết có tội lỗi
của việc bắt giết. Chúng ta là người tạo công đức của chính mình, người khác
bắt giết gây ra tội lỗi của chính họ. Mọi việc trong thế gian đều tương đối tồn
tại: Có thiện tất có ác, có ngay thẳng tất có gian tà. Lẽ nào vì hành động tội
lỗi của kẻ khác bắt giết mà chúng ta lại không làm thiện hạnh phóng sinh hay
sao? Như bác sĩ chữa trị cho bệnh nhân, cũng không thể bảo đảm bệnh nhân sẽ mãi
mãi mạnh khỏe. Gặp khi mất mùa phát tâm cứu tế, cũng không thể bảo đảm dân
nghèo về sau mãi mãi chẳng đói thiếu. Mọi việc trong thế gian đều là như vậy.
Tại sao chỉ có một việc phóng sinh lại đặc biệt nghi ngờ? Con người hiện nay
đối với việc danh lợi cá nhân trước mắt thì lỗ mãng, nóng nảy, không chút dè
dặt. Nhưng đối với việc làm thiện phóng sinh thì lại vô cùng do dự, cố sức vạch
lá tìm sâu để chỉ ra những chỗ không nên của việc phóng sinh, quả thật là điên
đảo!
Trong kinh Phật diệt độ hậu quan liệm táng tống có dạy rằng: “Nên giữ theo tâm
từ, ban trải ân huệ đến muôn loài, xem thân mạng muôn loài chúng sinh như thân
mạng của chính mình. Mở rộng lòng từ bi, dùng thân mình mà giúp an ổn cho muôn
loài, tức là mở con đường hạnh phúc cho chúng sinh. Bảo hộ thân mạng muôn loài,
thấm nhuần đến cả cỏ cây, khiến cho muôn loài đều không phải dứt tuyệt.”
[3]
Hỏi: Rất nhiều người phê phán rằng: Bỏ tiền mua những con vật để thả ra nhưng
cũng không cứu sống được chúng. Như vậy thì phóng sinh nào có ý nghĩa gì?
Đáp: Cần nêu rõ mấy ý như sau. Thứ nhất, những con vật thả ra mà không sống
được chỉ là một số ít. Tuyệt đại đa số những con vật phóng sinh đều được sống
còn. Nếu ta không làm việc phóng sinh thì tất cả những con vật ấy đều bị giết
hại. Vậy không thể vì một số ít con vật bị chết mà hoàn toàn phủ nhận nghĩa cử
cao đẹp của việc phóng sinh. Như vậy há chẳng phải vì mắc nghẹn mà bỏ ăn sao?
Như vậy thật vô lý.
Thứ hai, trong những con vật thả ra, dù có bị chết thì ít nhất cũng được chết
trong tự do, chết trong môi trường thiên nhiên quen thuộc, cũng còn tốt hơn là
bị cắt xẻo, bị chiên dầu, trải qua cực hình nước sôi, lửa đốt mà chết, đau khổ
gấp trăm ngàn lần!
Thứ ba, đối với những con vật khi phóng sinh thả ra được sống thì chúng ta vui
mừng vì đã tạo cho chúng cơ hội sống còn; đối với những con vật không may chết
đi thì chúng ta nên thành tâm cầu nguyện sự tốt lành cho chúng. Bởi vì hôm nay,
trong nhân duyên phóng sinh ngàn năm khó gặp này, ta đã vì những con vật ấy mà
phát nguyện quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, nên khi nghiệp ác trong kiếp này
vừa dứt thì chúng vĩnh viễn chẳng còn rơi vào trong ba đường ác
[4] nữa. Hơn nữa, đã được nghe ta niệm sáu chữ
hồng danh “Nam-mô A-di-đà Phật” tức là đã được gieo hạt giống đạo pháp trong
tâm, vĩnh viễn không bao giờ hư mất, chỉ chờ khi hội đủ duyên lành sẽ phát khởi
đại diệu dụng. Kiếp sau nghiệp báo đã hết, được sớm chuyển thế làm người, được
niệm Phật tu hành, chứng thành Phật quả, còn có thể trở lại Ta-bà cứu độ vô số
chúng sinh khổ nạn.
Trong kinh Phật có dạy rằng, nếu không giết hại, làm việc phóng sinh thì được
quả báo tuổi thọ dài lâu; giữ giới không giết hại thì giải trừ được mọi oán
thù, nuôi dưỡng được tâm từ bi, làm nảy nở hạt giống Bồ-đề.
CHUƠNG II: CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH
Hỏi: Có thể nào giảng giải thêm về ý
nghĩa sâu xa hơn nữa của việc phóng sinh trong trường hợp những con vật thả ra
bị chết?
Đáp: Chúng ta có thể xem trong phẩm Lưu thủy trưởng giả tử thứ 16 trong kinh
Kim Quang Minh. Tiền thân của Đức Phật có lần là con nhà trưởng giả, vì không
nỡ nhẫn tâm thấy hàng vạn con cá đang dần dần bị chết khô trong vũng cạn, nên
gấp rút dùng hai mươi con voi lớn chở nước đến đổ vào để cứu sống sinh mạng đàn
cá, lại vì một vạn con cá ấy mà thuyết pháp, niệm Phật. Trong ngày mạng chung,
số thi thể cá này tích tụ trên bờ ao, thần thức của chúng được vãng sinh lên
cõi trời Đao-lợi, hưởng phước không cùng. Nay xin trích dẫn nguyên văn trong
kinh làm chứng: “Bấy giờ, cõi đất nơi ấy chấn động dữ dội, mười ngàn con cá
cùng chết đi trong một ngày. Vừa chết rồi liền được sinh về cõi trời Đao-lợi.”
[5]
Sự thật, phước báu lớn lao của việc phóng sinh còn là ở chỗ thực hiện nghi thức
phóng sinh, bao gồm việc quy y, niệm Phật. Loài súc sinh trong lúc sắp chết,
thử hỏi có mấy con may mắn được quy y Phật, Pháp, Tăng? Lại còn được các vị
pháp sư và cư sĩ đều vì chúng mà niệm Phật cầu nguyện cho được siêu độ. Nhờ đó
mà nghiệp báo mau dứt, sớm được ra khỏi ba đường ác, há chẳng phải phước duyên
sâu dày lắm sao? Nhờ đó mà nghiệp báo súc sinh sớm dứt, được chuyển sinh kiếp
người, biết niệm Phật tu hành, nhanh chóng được vãng sinh về thế giới Tây
phương Cực Lạc, há chẳng phải là nhân duyên thù thắng hay sao? Cho nên khi cư
sĩ khi phóng sinh phải luôn phát tâm từ bi mà cứu chuộc sinh mạng. Thử đặt mình
vào vị trí nguy kịch ấy, vì cứu lấy mạng sống đang nguy ngập mà làm việc phóng
sinh. Nếu vạn nhất con vật ấy có chết đi thì chúng ta cũng không có gì phải hổ
thẹn với lương tâm, đồng thời cũng đã dành cho chúng sự cầu nguyện chân thành
vô hạn. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy rằng: “Tâm Phật chính là tâm đại
từ bi, dùng tâm từ không vướng mắc mà hóa độ khắp cả chúng sinh.”
[6]
Hỏi: Muôn loài cầm thú có đến hàng ngàn, hàng vạn, chúng ta phóng sinh làm sao
thả cho hết được?
Đáp: Đức lớn của trời đất là sự sống, đạo lớn của Như Lai là từ bi. Thuận theo
đạo trời thì yêu thích sự sống mà chán ghét sự giết hại. Nay ta cố gắng thực
hiện việc phóng sinh, nuôi dưỡng tâm từ bi là hợp với lòng trời mà chư Phật lại
hoan hỷ. Nếu như cứu được một mạng sống, công đức đã là vô lượng vô biên, huống
chi là cứu được nhiều mạng sống? Đến như muôn vạn loài súc sinh, dù hết lòng
cứu vớt cũng không hết, đó là do từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay cộng nghiệp
tạo thành, chẳng phải trong một lúc có thể dứt hết. Chúng ta chỉ cần đem hết
khả năng mình, tùy duyên mà thực hiện việc phóng sinh. Không thể vì muôn loài
súc sinh quá nhiều không giải cứu hết mà lại không ra tay cứu lấy những sinh
mạng trong muôn một.
Kinh Đại Bát Niết-bàn dạy rằng: “Lòng đại từ đại bi gọi là tánh Phật.”
[7] Lại cũng dạy rằng: “Lòng từ bi chính là Như
Lai, Như Lai chính là lòng từ bi.”[8]
Hỏi: Tôi nghĩ, thà đem số tiền làm việc phóng sinh để cứu tế cho những người
nghèo khó đói thiếu, xem ra có hiệu quả thực tế hơn.
Đáp: Già cả cô độc, bần cùng khổ nạn, tuy thật đáng thương xót, nhưng mạng sống
chưa đến nỗi phải mất đi trong chốc lát. Còn loài vật đang nguy ngập kia, nếu
chẳng kịp cứu giúp phóng sinh thì tức khắc sẽ bị giết để nấu nướng, phải bỏ
mạng trong miệng con người. Một bên là cảnh ngộ đáng thương, nhưng vẫn còn giữ
được tính mạng. Một bên là chỉ mành treo chuông, mạng sống bị đe dọa. So ra bên
nào gấp rút hơn đã có thể thấy ngay.
Nên biết, chúng sinh muôn loài so với chúng ta thì tánh Phật cũng đồng nhất,
không sai khác. Chỉ vì vô minh che lấp, nghiệp báo nặng nề mà phải trầm luân
trong cảnh giới súc sinh. Đối với tất cả chúng sinh, đức Phật đều thương yêu
như đứa con duy nhất. Cứu được một mạng sống tức là cứu được một người con
Phật, nên chư Phật đều hoan hỷ. Lại nữa, cứu một chúng sinh cũng như cứu được
một vị Phật tương lai, vì tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, đều có khả năng
thành Phật.
Luận Trí độ dạy rằng: “Trong tất cả các tội ác, tội giết hại là nặng nhất.
Trong tất cả các công đức, không giết hại là công đức lớn nhất.”
[9] Trong kinh Phật cũng dạy rằng: “Tâm từ chính
là nhân duyên đem đến mọi sự an lạc.”
Hỏi: Nếu ai ai cũng làm việc phóng sinh mà không giết hại, các loài súc sinh sẽ
sinh sản càng nhiều, tương lai thế giới này há chẳng phải sẽ trở thành thế giới
cầm thú hay sao?
Đáp: Như các loài kiến, mối, côn trùng... loài người không ăn chúng nó, để mặc
tình chúng tự nhiên sinh sản, nhưng thế giới ngày nay có phải là thế giới của
loài kiến chăng? Hay là thế giới của loài mối, của côn trùng chăng? Thật ra,
những loài vật mà ta phóng sinh, khi được tự do sinh sản, được nuôi dưỡng trong
thế giới tự nhiên, thì tự chúng có sự điều tiết phù hợp trong sinh thái và sinh
sản cân bằng. Nghiệp ác của chúng ta hiện nay vẫn chưa được giải trừ, nếu lại
cứ một mực lo lắng rằng các loài súc sinh trên thế giới sẽ quá nhiều, như vậy
có khác nào người nông dân chưa xuống ruộng gieo giống mà lại cứ ngày ngày lo
lắng mai sau lúa thóc chín đầy cả ruộng đồng, không sử dụng hết. Lo lắng vô cớ
như thế há chẳng phải là buồn cười lắm sao?
Nên biết rằng, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, mảy may không sai chạy.
Hiện nay, trên thế giới sở dĩ cầm thú rất nhiều chính là vì trước kia những
người giết cầm thú quá nhiều, nay phải hóa sinh làm cầm thú. Như người ăn dê,
dê chết rồi thành người, người chết lại thành dê, sinh sinh tử tử trở thành báo
oán lẫn nhau, đời đời không dứt. Vì sự oan oan tương báo như thế, cùng làm súc
sinh, cho nên có thế giới cầm thú. Nếu như người người đều có thể bỏ việc giết
hại, làm việc phóng sinh, thì oan nghiệp hận thù giữa súc sinh và con người sẽ
dần dần tiêu mất. Cầm thú súc sinh do đó dần dần giảm thiểu, cõi người, cõi
trời ngày càng thêm đông. Như nước Sở chẳng ăn ếch mà ếch lại ít dần. Nước Thục
chẳng ăn cua mà cua tự nhiên ngày càng hiếm. Thời xưa đã có tấm gương sáng,
chúng ta nên tự phản tỉnh, xét soi. Kinh Đại Nhật có dạy rằng: “Phật pháp lấy
tâm Bồ-đề làm chánh nhân, lấy lòng đại bi làm căn bản.”
Hỏi: Khuyên những người làm nghề sát sinh thay đổi nghề nghiệp, đó là làm hại
sinh kế của người ta. Như thế là thương loài súc sinh mà không thương người, có
vẻ như không được hợp tình hợp lý chăng?
Đáp: Xã hội có đủ các giới sĩ, nông, công, thương, đủ các ngành nghề. Mỗi ngành
nghề đều có thể kiếm ra tiền, đều có thể nuôi sống gia đình, lẽ nào cứ phải lấy
việc sát sinh hại mạng để làm phương tiện mưu sinh cho mình hay sao? Nên biết
rằng, nhân quả báo ứng mảy may không sai lệch. Đã tạo nghiệp giết hại ắt phải
gặp quả báo bị giết hại. Ngày nay tuy có tạm thời được ăn sung mặc sướng, nhưng
tương lai đến lúc thọ nhận quả báo e rằng chẳng có lúc được ngừng nghỉ, vả lại
còn để họa lây đến con cháu đời sau. Quả là điều lợi chẳng bằng điều hại! Kinh
Phạm Võng dạy rằng: “Bồ Tát nên sinh khởi tánh Phật, hiếu thuận từ bi, thường
giúp đỡ cho hết thảy mọi người đều được an vui hạnh phúc.”
[10]
Hỏi: Việc phóng sinh có hạn chế đối tượng hay không?
Đáp: Không có hạn chế! Phàm là các loài chim bay trên trời như bồ câu, se
sẻ..., các loài sống trong nước như tôm, cua, cá, ốc..., các loài sống trên mặt
đất như hươu, nai, dê, thỏ..., các loài chui sâu trong đất như giun, trùng,
kiến, mối... Chỉ cần có mạng sống thì đều có thể phóng sinh được. Luận Đại trí
độ dạy: “Tâm đại từ là ban vui cho tất cả chúng sinh, tâm đại bi là cứu vớt khổ
nạn cho tất cả chúng sinh.”
[11]
Hỏi: Tại sao khi thực hiện việc phóng sinh thường có nghi thức thọ Tam quy y và
niệm Phật cho loài súc sinh?
Đáp: Chánh pháp ngàn năm khó gặp. Chúng ta cùng với loài súc sinh ấy có nhân
duyên, nên phát tâm cứu được mạng sống cho chúng, nhưng không thể cứu giúp
chúng thoát khỏi luân hồi nghiệp báo. Vì vậy rất nên phát tâm đại từ bi, vì
chúng mà truyền thọ Tam quy y, để giúp chúng kết duyên lành với Phật pháp.
Chúng sinh nào có duyên lành được quy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) thì không
còn phải đọa vào ba đường ác, nên có thể giúp cho những súc sinh ấy khi nghiệp
báo dứt hết sẽ vĩnh viễn không rơi vào các đường ác nữa. Ngoài ra, khi thực
hành nghi thức như vậy, vị pháp sư cùng tất cả cư sĩ tham gia đều vì chúng mà
trì niệm danh hiệu Phật: “Nam-mô A-di-đà Phật”. Được nghe sáu chữ hồng danh ấy
tức là đã gieo nhân lành vào tạng thức, nhờ đó mà kiếp sau chuyển thế làm người
ắt sẽ gặp được Phật pháp, biết niệm Phật tu hành, được vãng sinh về thế giới
Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn thoát ly cái khổ của sáu đường luân hồi. Đây mới
chính là ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm nhất của việc phóng sinh.
CHUƠNG III: NHỮNG LỜI KHAI THỊ CỦA LỊCH ĐẠI TỔ SƯ
Đại sư Trí Giả
Đại sư Trí Giả[12] được tôn xưng là Phật Thích-ca tái thế. Ngài
sống vào giai đoạn các đời Trần, Tùy ở Trung Hoa.
Đại sư nhìn thấy ngư dân ven biển ngày ngày bắt cá sát sinh. Ngài khởi lòng từ
bi, liền dùng tiền cúng dường mua được một nơi ven biển Thượng Hải làm ao phóng
sinh. Lại vì ngư dân giảng kinh nói pháp. Nhóm ngư dân sau khi nghe pháp đều
đổi ngành chuyển nghiệp, tôn trọng mạng sống, ham làm điều thiện, còn đem hộ
lương 63 sở ở ven biển có từ 300 - 400 dặm làm ao phóng sinh. Đây là nơi phóng
sinh đại quy mô sớm nhất từ trước đến nay trong lịch sử Trung Hoa. Vật mạng
được cứu sống có đến hàng vạn ức. Tây Hồ hiện nay tức là ao phóng sinh mà năm
xưa Đại sư sáng lập.
[13]
Đại sư Vĩnh Minh
Đại sư Vĩnh Minh tương truyền là Phật A-di-đà từ bi thị hiện vào thời Ngũ đại ở Trung Hoa. Đại sư trước làm quan coi kho ở huyện Dư Hàn. Thường muốn làm việc phóng sinh nên lấy tiền trong quốc khố để mua tôm, cá, chim... mà phóng sinh. Đến khi truy cứu bị khép tội lấy trộm quốc khố, phải xử tử hình, nhưng ngài trước sau mặt không đổi sắc. Quốc vương lấy làm lạ, gạn hỏi nguyên do. Đại sư đáp rằng: “Tôi vì phóng sinh nên mới làm việc này. Nay đã cứu được hàng ngàn, hàng vạn sinh mạng. Nhờ công đức này để vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, vì thế nên vui mừng chứ không hề lo sợ.” Vua hiểu chuyện, tôn trọng đức hạnh của ngài bèn ra lệnh xá tội. Từ đó ngài xuất gia làm tăng sĩ, trọn đời niệm Phật tu hành, đắc đạo chứng quả. Đời sau tôn xưng ngài là Tổ thứ sáu của Liên tông (tức Tịnh độ tông).
Đại sư Huệ Năng
Đại sư Huệ Năng là Tổ thứ sáu của
Thiền tông. Từ sau khi được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai truyền tâm ấn, vì
tránh sự bức hại của kẻ xấu nên đi về Thiều châu ở phương nam mà ẩn mình, giấu
kín thân phận, cùng sống chung trong một đoàn thợ săn.
Đoàn thợ săn giao cho ngài giữ lưới. Ngài lấy tâm từ bi làm hoài bão, gặp những
con vật như sói, cọp, nai, thỏ... bị sa lưới đều tìm cách để phóng sinh. Phóng
sinh như vậy được 16 năm, vật mạng được cứu sống không thể tính đếm hết, lại
còn cảm hóa được nhóm thợ săn đổi nghề hướng thiện. Sau này, Đại sư ở tại đạo
tràng Tào Khê làm hưng thạnh Thiền tông, truyền khắp mọi nơi.
Đại sư Hàn Sơn và Đại sư Thập Đắc
Đại sư Hàn Sơn tương truyền là Bồ
Tát Văn-thù-sư-lợi thị hiện, còn đại sư Thập Đắc tương truyền là Bồ Tát Phổ
Hiền thị hiện.
Đại sư Hàn Sơn hỏi ngài Thập Đắc: “Phóng sinh có thể thành Phật được chăng?”
Đáp rằng: “Chư phật vô tâm, duy chỉ lấy từ bi làm tâm. Người có thể cứu cái khổ
của sinh mạng tức là thành tựu tâm nguyện của chư Phật. Cho nên, sinh một niệm
từ bi, cứu sống một sinh mạng tức là tâm nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm vậy.
Ngày ngày làm việc phóng sinh thì tâm từ bi cũng ngày ngày tăng trưởng, mãi mãi
không ngừng, niệm niệm đều chảy vào biển lớn đại từ bi của đức Quán Thế Âm. Khi
ấy, tâm ta tức là tâm Phật, sao lại chẳng thành Phật?”
Cho nên biết rằng nhân duyên phóng sinh chẳng phải những điều lành nhỏ nhặt có
thể so sánh được. Phàm là người đồng nguyện như ta nên rộng hành khuyến khích,
khéo léo khiến cho mọi người đều biết trở về với tâm từ bi của chính mình mà
hóa độ chúng sinh.
Thiền sư Chí Công
Vua Lương Võ Đế hỏi thiền sư Chí Công rằng: “Công đức phóng sinh như thế nào?” Thiền sư đáp rằng: “Công đức phóng sinh không thể hạn lượng. Trong kinh dạy rằng: Muôn loài chúng sinh đều có tánh Phật, chỉ vì mê vọng nhân duyên nên khiến cho thăng trầm khác biệt. Cho đến sinh tử luân hồi trở thành quyến thuộc với nhau, thay đầu đổi mặt chẳng nhìn ra nhau được nữa. Nếu phát được tâm hỷ xả, khởi niệm từ bi, người chuộc mạng phóng sinh thì đời này ít bệnh sống lâu, tương lai chứng được quả Bồ-đề.”
Thiền Sư Phật Ấn
Thiền sư Phật Ấn có kệ rằng:
“Tham tha nhất luyến, luyến hoàn tha,
Cổ thánh lưu ngôn chung bất ngụy.
Giới sát niệm Phật kiêm phóng sinh,
Quyết đáo Tây phương thượng phẩm hội.”
Tạm dịch:
Miếng ăn, miếng trả ắt chẳng sai,
Lời chư thánh xưa nào hư dối?
Giới sát, niệm Phật, thường phóng sinh,
Quyết về Tây phương, bậc Thượng phẩm.[14]
Đại Sư Liên Trì
Đại Sư Liên Trì sống vào triều đại
nhà Minh, từ nhỏ ưa thích làm việc phóng sinh. Sau khi xuất gia, ngài xây dựng
ao phóng sinh ở hai nơi là Trường Thọ và Thượng Phương. Ngài có trước tác một
bài Giới sát phóng sinh, khuyên dạy hết thảy người đời nên giới sát phóng sinh.
Ngài cũng để lại cho hậu thế bức vẽ Liên Trì Đại Sư đồ giải. Tranh vẽ, văn
chương của ngài đều đẹp đẽ phong phú, đều ân cần khẩn thiết khuyên răn người
đời chân lý nhân quả báo ứng, cùng với nhiều sự thực chứng, cảm ứng rõ ràng
nghiệp ác của việc sát sinh và nghiệp lành của việc phóng sinh. Đời sau tôn
ngài làm Tổ thứ tám của Liên tông (tức Tịnh độ tông). Sau đây là những lời
khuyên của ngài về việc giới sát phóng sinh:
1. Ngày sinh không đuợc sát sinh
Cha mẹ đau đớn, sinh ra ta vất vả. Ngày sinh ra ta chính là ngày mẹ ta chết dần
đi. Vì vậy nên phải cấm tuyệt việc sát sinh, nên ăn chay, làm nhiều điều thiện,
cầu cho cha mẹ tăng thêm phúc thọ. Cớ sao lại quên nỗi vất vả của cha mẹ mà nỡ
lòng sát hại sinh linh?
2. Sinh con không được sát sinh
Không có con ắt phải buồn lo, sinh được con thì rất vui. Sao không nghĩ xem,
loài cầm thú cũng biết yêu thương con, cớ sao mình sinh con ra lại khiến cho
con của loài khác phải chết? Như vậy có thể yên tâm được sao? Than ôi đứa trẻ
vừa mới sinh ra, đã không vì nó tích đức mà lại sát sinh, thế chẳng là mê muội
lắm sao?
3. Cúng giỗ không được sát sinh
Khi cúng giỗ người đã khuất hoặc tảo mộ vào tiết xuân thu đều nên cấm việc sát
sinh để tạo phước đức. Trong tự nhiên sẵn có tám loại thực phẩm quý để dâng
cúng,
[15] đâu thể bới xương cốt dưới cửu tuyền lên mà
ăn sao? Sát sinh để dâng cúng chính là đại bất hiếu!
4. Hôn lễ không được sát sinh
Việc cưới hỏi ở thế gian, có đủ nghi lễ thì thành chồng vợ, nào có phụ thuộc
vào việc sát sinh? Khi lập gia đình là đã bắt đầu nghĩ đến việc sinh con. Trước
lúc sinh con mà làm việc giết hại, quả là nghịch lý. Như vậy là ngày lễ tốt
lành mà lại làm việc hung dữ, giết hại, chẳng phải là mê muội lắm sao?
5. Đãi khách không được sát sinh
Ngày lành cảnh đẹp, chủ hiền đãi bạn rau, gạo, quả, trà không trở ngại chi đến
cảnh trí nhà Phật. Cớ sao lại giết hại mạng sống? Cùng cực béo ngọt, vui ca say
sưa với cốc chén, giết hại oan uổng bao mạng sống trên mâm ăn! Than ôi! Người
có tấm lòng, nhìn thấy như vậy chẳng buồn lắm sao?
6. Cầu an không được sát sinh
Người đời có thói quen sát sinh để tế thần, mong thần phù hộ. Không nghĩ rằng
mình tế thần là muốn tránh cái chết, cầu sự sống, nhưng giết hại mạng sống loài
khác để mong cho mạng mình sống lâu quả thật là nghịch lý, tàn độc hung ác.
7. Buôn bán sinh sống không đưọc sát sinh
Phàm là con người ai cũng phải vì cơm ăn áo mặc. Hoặc phải đi săn bắt, hoặc
phải xuống nước bắt cá, mò tôm, hoặc phải giết trâu, bò, lợn, chó... cũng chỉ
vì kế sinh nhai. Nhưng xét lại, những người không làm các nghề này cũng vẫn có
cơm ăn áo mặc, đâu vì thế mà phải chết đói chết rét? Làm nghề sát sinh ắt sẽ
chịu quả báo bị giết hại. Lấy việc giết hại mà được giàu có thì trăm người
chẳng có lấy một! Ngược lại còn phải chịu ác báo trong nay mai, không có gì
nguy hại hơn thế. Sao không cố gắng thay đổi nghề nghiệp, chọn những cách sinh
nhai hiền lành chẳng phải tốt hơn sao?
Người Phật tử phải luôn tâm niệm bảy điều này để làm kim chỉ nam trong đời sống
hằng ngày.
Người giữ giới không sát sinh được thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi
thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp. Nếu
dốc hết sức làm việc phóng sinh, lại thêm chuyên tâm niệm Phật, không những
tăng trưởng phước đức mà còn nhất định sẽ được tùy nguyện vãng sinh, vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi, tiến lên địa vị không thối chuyển.
Đại Sư Ngẫu Ích
Đại Sư Ngẫu Ích dạy rằng: “Giết hại sinh mạng tức là giết mất các đức Phật tương lai trong tự tâm mình. Phóng sinh tức là cứu sống các đức Phật tương lai trong tự tâm mình. Nếu cứu sống các đức Phật tương lai trong tự tâm tức là phép tam-muội niệm Phật chân thật. Tu tập phép tam-muội niệm Phật này tức là thường xuyên chuyển kinh Pháp Hoa đến trăm ngàn vạn ức bộ vậy.”
Đại sư Ấn Quang
Đại sư Ấn Quang được xem vị đại sư
đệ nhất của Tịnh độ tông kể từ năm Dân quốc (1912) tới nay. Đời sau tôn xưng
ngài là Tổ đời thứ 13 của Liên tông (tức Tịnh độ tông). Đại sư hết lòng đề
xướng việc giới sát phóng sinh, không tiếc sức lực. Trong nhiều bài thuyết
pháp, Đại sư đều giảng rõ về sự lý của việc giới sát phóng sinh, khuyến khích
đệ tử cố gắng giới sát phóng sinh. Nay xin ghi lại vài câu pháp ngữ của Đại sư
về việc giới sát phóng sinh như sau:
“Người giới sát phóng sinh, đời sau được sinh lên cõi trời Tứ thiên vương,
hưởng phước vô cùng. Nếu lại có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về Tây Phương Cực
Lạc, công đức ấy thật vô bờ bến. Phàm những ai muốn cho việc nhà được bình an,
thân tâm an ổn, tráng kiện, thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, chỉ cần khởi
sự từ việc giới sát phóng sinh, ăn chay niệm Phật mà cầu thì đều được cả. Phật
giáo truyền sang phương Đông, chỉ rõ lẽ nhân quả báo ứng, khuyên người giới sát
phóng sinh, bỏ việc ăn thịt súc vật mà theo cách ăn chay.”
Đại sư Hoằng Nhất
Đại sư Hoằng Nhất là vị đại đức của Luật tông trong thời cận đại, cũng đề xướng việc phóng sinh. Ngài dạy: “Xin hỏi quý vị, có muốn trường thọ chăng? Muốn lành bệnh chăng? Muốn khỏi tai nạn chăng? Muốn được con cái chăng? Nếu ai muốn thì nay đã có một phương pháp đơn giản, dễ thực hành, tức là phóng sinh vậy.”
Lão Hòa Thượng Hư Vân
Lão Hòa Thượng Hư Vân là bậc Thiền tông đại đức, cũng dạy chúng ta giới sát, phóng sinh, đoạn ác tu thiện. Ngài dạy: “Đây là cơ hội muôn kiếp khó gặp, chúng ta phải dũng mãnh tinh tấn, phải trong ngoài cùng tu. Tu tập bên trong tức là chỉ đơn độc tham một câu thoại đầu: Niệm phật là ai? Hoặc niệm một câu A-di-đà Phật, không khởi tham, sân, si, các tạp niệm, khiến cho chân như pháp tánh được hiển bày. Tu tập bên ngoài tức là giữ giới sát sinh, đem Mười điều ác chuyển thành Mười điều thiện. Chớ nên suốt ngày rượu thịt buông lung, tạo thành tội nghiệp vô biên.”
Đại sư Diệu Thiện
Đại sư Diệu Thiện cũng được Phật tử
tôn xưng là đức Phật sống Kim Sơn. Việc phóng sinh là một trong các sinh hoạt
thường ngày của ngài. Ngài đối với các loài cầm thú như chim, cá, rùa, ốc,
cua... đều có lòng thương yêu, đối xử bình đẳng. Bất cứ đi đến đâu ngài cũng
đều ưa thích làm việc phóng sinh.
Ngài từng nói với những người đệ tử đang chịu khổ báo rằng: “Ta tuy có thể tạm
thời làm cho bệnh khổ của ông giảm thiểu, nhưng nghiệp giết hại từ nhiều kiếp
trước của ông vẫn chưa tiêu mất, e rằng sẽ có mối lo chết yểu. Có một phương
pháp tiêu trừ nghiệp chướng hay nhất là làm việc phóng sinh và giới sát. Cho
nên, phóng sinh là công đức lớn nhất. Ông nếu tin được lời tôi, hãy mau mau tùy
sức mà mua lấy vật mạng để phóng sinh thì có thể tăng phước, tăng thọ.”
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói về việc
giới sát phóng sinh như sau: “Chúng sinh từ xưa nay không dứt nổi nghiệp giết
hại, ai ai cũng phạm vào việc sát sinh. Sát sinh có thể chia làm hai loại: Một
là trực tiếp, hai là gián tiếp. Trực tiếp là tự mình giết hại chúng sinh, cắt
xẻo lấy da thịt mà làm thức ăn. Gián tiếp là vì mình ăn thịt chúng sinh nên
khiến cho người khác phải làm việc giết hại để phục vụ mình.
“Cái nhân tạo ra của hai loại sát sinh này tích tụ lâu ngày, gặp duyên thì kết
thành cái quả của nạn đao binh, chiến tranh. Có người cho rằng, muốn cứu vãn
nạn chiến tranh thì phải làm nhiều việc thiện như sửa cầu, làm đường... Lời nói
như vậy không thể tin cậy được. Bởi vì nay phải chịu nạn đao binh chẳng phải do
cái nhân quá khứ phá hoại cầu cống, đường sá. Nay muốn lấy việc làm đường, sửa
cầu cống mà giải trừ, thì là hai việc hoàn toàn khác nhau.
“Tôi xin đem phương pháp phóng sinh đơn giản nói với các vị: Trước tiên phải
gia trì chú Đại bi vào một ly nước sạch, rồi rưới lên mình chúng sinh được
phóng sinh, miệng niệm bài sám hối như sau:
Chúng con xưa nay tạo ác nghiệp,
Đều do ba độc tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý mà sinh ra.
Nay đối trước Phật cầu sám hối.
“Sau khi niệm như vậy ba lần rồi, lại vì những súc sinh ấy mà niệm Tam quy y:
Quy y Phật,
Quy y Pháp,
Quy y Tăng.
Quy y Phật không đọa địa ngục.
Quy y Pháp không đọa ngạ quỷ.
Quy y Tăng không đọa súc sinh.
“Tại sao đối với chúng sinh phải nói Tam quy y? Bởi vì tất cả chúng sinh đều có
hai cái mạng: Một là thân mạng, hai là huệ mạng. Phóng sinh chẳng những cứu lấy
thân mạng, mà cũng nên cứu lấy cái huệ mạng của chúng. Nói Tam quy y cho chúng
nghe là tạo nhân lành cho chúng, nếu nghe mà nhận được thì đời sau sẽ không
phải rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được thân người thì có thể phát
tâm Bồ-đề, tin sâu Phật pháp, sẽ có khả năng thành Phật. Đây tức là cứu cái huệ
mạng của chúng.”
Pháp sư Viên Nhân
Pháp sư Viên Nhân dạy rằng: “Tật bịnh, ung thư, tai nạn... sở dĩ có thể bất
hạnh sinh ra là duyên nơi nghiệp giết hại trước kia chúng ta đã tạo nên mà
chiêu cảm lấy quả báo này. Phương thức giải quyết chính là phóng sinh. Nhờ vào
việc bỏ tiền, bỏ sức để cứu mạng phóng sinh nên có thể đền trả vô số món nợ sát
sinh trước kia mà chúng ta đã thiếu.
“Điều quý báu nhất của mỗi chúng sinh đều là mạng sống. Giết hại chúng thì
chúng oán hận nhất, oan cừu kết sâu nhất, cho nên nói nghiệp giết hại là nặng
nhất. Ngược lại, cứu sống được chúng thì chúng cảm kích nhất, tạo được nhiều
phước thiện nhất, cho nên nói công đức phóng sinh là đệ nhất.
“Những ai phê phán, hủy báng việc phóng sinh, hoặc cản trở nghi ngờ việc phóng
sinh cần phải lưu ý. Vì cản trở người phóng sinh thì cũng giống như sát sinh,
khiến cho hàng ngàn hàng vạn sinh mạng không được giải cứu, phải hàm oan mà
chết. Tội lỗi đó thật là vô lượng vô biên. Nhất định phải gấp rút sám hối, sửa
lỗi, nếu không thì khổ hình nơi địa ngục nhất định không tránh khỏi.”
CHUƠNG IV: GIẢI TRỪ NGHI VẤN
Ý nghĩa phóng sinh, tích cực hay
tiêu cực?
Hỏi: Mỗi lần chúng tôi phóng sinh, thường phải đến tiệm bán chim để mua chim.
Vì tiệm bán chim chỉ có mấy tiệm cố định, nên mua lâu rồi thì chủ tiệm chim đều
biết trước là chúng tôi sẽ đến mua chim để phóng sinh. Vì thế, họ cố ý thu gom,
tồn trữ, chuẩn bị rất nhiều chim chờ chúng tôi đến mua. Phóng sinh như vậy thì
sớm đã bị người ta đoán biết, nên cũng như gián tiếp khuyến khích họ đi bắt
chim về để bán cho chúng tôi thả. Như vậy thì việc phóng sinh vô tình lại tạo
điều kiện giúp người khác tạo sát nghiệp. Vì thế, rất nhiều người phê phán
chúng tôi, chê cười chúng tôi là ngu si. Ngay cả trong lòng chúng tôi cũng có
chỗ nghi hoặc, nên thật chẳng dám đi mua chim để phóng sinh nữa. Có thể giải
thích mối nghi này như thế nào?
Đáp: Chúng ta thả chim, đến tiệm bán chim không nỡ nhìn thấy chúng bị bắt, bị
giam, sắp bị giết, nên phát lòng từ bi cứu lấy chúng nó, đem chúng nó đi phóng
sinh. Đó là một công đức đơn thuần, chỉ trong một ngày thì có thể hoàn thành.
Nhờ đó mà vô số chim có được cơ hội sống còn trong tự nhiên, khác nào như được
tái sinh lần nữa!
Chủ nhân tiệm chim biết được chúng ta sẽ mua chim phóng sinh, vì thế mà trước
đó đã thu gom, tồn trữ, tìm khắp các nơi để mua sỉ, mua lẻ, mang về một chỗ chờ
đợi chúng ta đến mua. Như vậy thì lại càng phải cố gắng mua cho thật nhiều,
điều này có gì mà phải phân vân, do dự? Chỉ cần khả năng cho phép, họ thu gom
được càng nhiều chim thì ta càng nên mua chim để phóng sinh.
Ông hãy suy nghĩ cho kỹ việc này. Vì biết chúng ta phóng sinh nên chủ nhân tiệm
chim mới tìm mọi cách, nghĩ ra mọi biện pháp để thu gom những con chim bị bắt
được ở khắp nơi, toàn bộ đều mang về một chỗ để chờ chúng ta giải cứu phóng
sinh. Tất cả những con chim khổ nạn kia được giải cứu ắt phải mừng đến rơi lệ;
tất cả thiên long hộ pháp phải hết lòng tán thán việc lành này; chư Phật, Bồ
Tát đều hết lòng hoan hỷ khen ngợi; tất cả oán thân trái chủ của chúng ta phải
cúi đầu thất vọng; Ma vương, tà chúng phải tức giận đến dựng mày trợn mắt!
Chúng ta hãy thử đặt câu hỏi: Nếu như ngày nay chúng ta không phóng sinh nữa,
không thả chim nữa, thì những thợ săn bắt chim kia sẽ thôi không bắt chim nữa
chăng? Các tiệm bán chim kia sẽ đóng cửa không buôn bán được nữa chăng? Câu trả
lời chắc chắn là không. Chim vẫn bị người ta tung lưới ra bắt. Tiệm bán chim
vẫn mở cửa buôn bán như trước. Nhưng khi ấy, những con chim xinh đẹp, quý giá
thì bị bán cho người ta nhốt vào lồng để thưởng ngoạn, còn những con chim xấu
xí, giá trị không cao có thể bị bán cho người đem đi tiềm, nướng, làm thành
từng xâu chim nướng rao bán bên lề đường... Lại có những con quá xấu xí, gầy
ốm, không thể bán được nhưng rủi ro sa vào lưới, khi ấy thợ săn chỉ chọn một số
chim có giá trị đem bán, còn những con chim tội nghiệp ấy thì đưa tay bẻ cổ một
cái rồi quăng thây trong rừng núi hoang vắng.
Vì thế, nếu như thật có tiệm bán chim chỉ chuyên bán chim để phóng sinh thì
cũng chẳng sao cả. Cứ mặc tình chúng ta đến mua, mặc tình mang đi thả. Phóng
sinh là phóng sinh. Phóng sinh tuyệt đối là một việc tốt đẹp. Tiệm bán chim để
phóng sinh thì cũng chẳng khác nào một trại tập trung tù giam để chờ đợi đại ân
xá. Những con chim kia, hoặc là mừng vui, mừng vui vì có cơ hội gặp người thiện
tâm phóng sinh cứu mạng; hoặc là lo sợ, lo sợ rằng chúng ta đánh mất tâm niệm
phóng sinh. Nếu chúng ta nhụt tâm thối chí, nghe theo những kẻ năm lần bảy lượt
đẩy đưa cản trở, thì chúng nó dù một mảy may cơ hội sống còn đều chẳng có!
Một cuộc đối thoại: Phóng sinh hay phóng tử?
Một thanh niên nhìn thấy bà cụ già đang thả cá phóng sinh. Chàng chú ý quan sát
rồi đến gần bà cụ thắc mắc thưa hỏi.
Chàng thanh niên: Thưa cụ, cụ hãy xem kìa! Số cá vừa thả ra đã chết đi rất
nhiều, thi thể nổi lên mặt nước. Phóng sinh như vậy chắc hẳn phải gọi là phóng
tử, như vậy thì có ý nghĩa gì đâu?
[16]
Bà cụ: Này cậu thanh niên, cậu hãy nhìn lại cho thật kỹ, lẽ nào không thấy được
sao? Vẫn còn một số cá lớn sống trên mặt nước, vui mừng tung tăng bơi lội đó.
Trong quá trình phóng sinh giải cứu vật mạng, khó lòng tránh khỏi có một phần
nhỏ cá bị chết. Điều này không thể tránh được Cũng như trong chiến tranh, quân
nhân giải cứu đồng bào bị vây. Trong quá trình giải cứu cũng khó tránh khỏi có
một vài người không may tử vong. Tuy nhiên, cũng không phải vì thiểu số bị tử
vong mà bỏ đi hành động giải cứu. Lại cũng như trong khi cấp cứu, bác sĩ cứu
chữa bệnh nhân đang lâm nguy. Trong quá trình cấp cứu cũng khó tránh khỏi một
số bịnh nhân không may tử vong. Vẫn không thể vì thiểu số bệnh nhân tử vong mà
bác sĩ bỏ đi hành động cứu chữa.
Chàng thanh niên: Thưa cụ, lời cụ thật có đạo lý. Nếu chúng ta không làm việc
phóng sinh thì tất cả những con cá kia chỉ duy nhất có một đường chết mà thôi.
Toàn bộ đều sẽ bị bán đi, bị giết chết, bị ăn thịt! Nhờ có chúng ta làm việc
phóng sinh nên ít nhất những con cá kia vẫn còn một tia hy vọng, một cơ hội
sống sót, tối thiểu cũng có một phần cá được lấy lại tự do, được cơ hội sống
còn. Còn những con cá không may chết đi thì ít nhất cũng tránh được cực hình
cắt xẻo, lửa đốt, nước sôi... Không có người phóng sinh thì những con vật bị
bắt chỉ có duy nhất một con đường chết, vả lại còn phải chết một cách vô cùng
thê thảm. Nhờ có người phóng sinh, ít nhất cũng có thể cho những con vật tội
nghiệp kia một cơ hội sống sót. Vạn nhất chẳng may chết đi thì cũng được chết
trong lòng tự nhiên, chết được toàn thây, giảm được sự đau khổ rất nhiều.
Bà cụ: Cậu thanh niên này! Xem ra cậu rất có căn lành, vừa nói qua thì cậu đã
hiểu được ngay. Kỳ thật, còn có ý nghĩa sâu xa hơn nữa của việc phóng sinh là
quy y Tam bảo và niệm Phật. Chúng ta được biết, quy y Phật không đọa địa ngục,
quy y Pháp không đọa ngạ quỷ, quy y Tăng không đọa súc sinh. Trong pháp hội
phóng sinh, dưới sự chủ trì của pháp sư, những súc sinh trong nhân duyên ngàn
năm khó gặp này sẽ được quy y Tam bảo. Nhờ đó mà trải qua đời này, nghiệp báo
súc sinh dứt hết thì có thể nhờ công đức quy y Tam bảo mà thoát được ba đường
ác. Lại có pháp sư và nhiều cư sĩ thiện tâm cùng chí thành vì súc sinh tụng
niệm Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật”, nhờ đó mà gieo vào tạng thức của súc sinh
một hạt giống lành tròn đầy. Trong tương lai, hạt giống niệm Phật ấy sẽ đâm
chồi thành thục, giúp súc sinh được sinh làm người, biết niệm Phật tu hành,
vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chứng
đắc quả Phật. Đây mới là ý nghĩa tích cực nhất trong việc phóng sinh.
Chàng thanh niên: Thưa cụ, vô cùng cảm ơn những lời giải thích của cụ. Con hôm
nay cuối cùng đã hiểu rõ được ý nghĩa chân chánh của việc phóng sinh. Kỳ thật,
chết chỉ là một hình thức. Những con cá bị chết quả nhiên đáng thương, nhưng
ngày nay đã được quy y Tam bảo, lại được nghe câu thánh hiệu bất khả tư nghị
“Nam-mô A-di-đà Phật” thì thọ mạng của súc sinh sớm được kết thúc, sớm được
giải thoát, sớm được siêu sinh, sau này sớm biết niệm Phật tu hành, vãng sinh
về thế giới Tây phương Cực Lạc. Xét như vậy thì những con cá bị chết kia cũng
là có phước báu. Con trước đây cứ mãi phê phán việc vật mạng phóng sinh bị
chết, nay mới biết được chính mình là ngu si biết chừng nào.
Bà cụ: Cậu thanh niên này! Tất cả chúng sinh trong sáu đường luân hồi đều là
khổ, gồm cả chúng ta trong đó. Chúng ta phóng sinh đương nhiên phải hy vọng
toàn bộ súc sinh đều được sống. Hết lòng hết dạ làm cho chúng được sống còn.
Nhưng nếu vẫn không may có một số chết đi, chúng ta cũng thành tâm cầu nguyện
cho chúng sớm được giải thoát, được chuyển sinh, sớm biết niệm Phật, được vãng
sinh về thế giới Cực Lạc. Chúng ta tự mình cũng chán lìa cõi Ta-bà, cầu sinh
Cực Lạc. Hy vọng chính mình cũng sớm dứt nghiệp báo, được vãng sinh về thế giới
Tây phương Cực Lạc.
Chàng thanh niên: Thưa cụ, đúng vậy! Kỳ thật cái chết cũng chẳng phải thực sự
bất hạnh. Có cái chết nhẹ như lông hồng, có cái chết nặng như Thái sơn. Sau khi
chết được siêu sinh, được vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới, đó mới là đại
giải thoát chân chánh, mới là nơi quy trú tốt nhất của tất cả chúng sinh trong
sáu đường luân hồi. Từ nay trở đi con nhất định cố gắng phóng sinh, lại còn
rộng khuyên tất cả mọi người phóng sinh. Càng phải nói với mọi người rằng ngày
nay con được hiểu rõ giá trị và ý nghĩa chân chánh của việc phóng sinh. Cảm ơn
cụ, cảm ơn cụ!
Bà cụ: Cậu thanh niên này, cậu nhất định phải ghi nhớ: Phóng sinh tức là cho
súc sinh một cơ hội sống, một sự tự do, lại có được một cơ hội quy y Tam bảo,
một cơ hội được nghe niệm Phật. Dù thế nào cũng đừng vì những sự hủy báng cản
trở mà khiến cho vô số súc sinh đang thọ khổ nạn kia phải mất đi cơ hội sinh
tồn.
Chàng thanh niên: Thưa cụ, đúng vậy! Phóng sinh cũng là dành cho chính chúng ta
một cơ hội cứu thân chuộc mạng, đền trả nợ giết hại, một cơ hội rộng chứa phước
điền, tiêu trừ nghiệp chướng. Nhất định không thể vì bất cứ sự cười chê nghị
luận, phê phán nào mà thối tâm nhụt chí, bỏ lỡ đi cơ hội quý báu nhất để tiêu
trừ nghiệp chướng của chính mình.
CHƯƠNG V: BỐN PHÁP BẢO
1. SÁM HỐI
Khi chưa học Phật thường cống cao
ngã mạn, tự cho mình là đúng. Sống trong đời mỗi ngày đều mưu tính làm cách nào
để cho mình được hơn người một bậc; làm cách nào để có được gia tài đồ sộ; làm
cách nào để thân mình đeo đầy vàng bạc; làm cách nào để thanh danh vang xa...
Suốt một ngày có 24 giờ, mỗi khi thức dậy đều đuổi theo tham, sân, si. Ngay cả
trong giấc ngủ cũng bị ba món độc này trói buộc, nhưng tự mình ngu si không
giác ngộ, vẫn ở trong hầm phẩn mà chẳng tự biết, thật đáng xấu hổ đến cùng cực.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện dạy rằng: “Chúng sinh trong cõi Nam
Diêm-phù-đề, mỗi một cử động, mỗi một ý nghĩ đều phạm vào tội lỗi.”
Sau khi được học pháp Phật mới bừng tỉnh ra, nhận thấy chính mình quả thật xấu
xa độc ác. Toàn thân đều là những nghiệp sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng
ngữ... tội nghiệp sâu nặng. Trong sinh hoạt hằng ngày, nhất cử nhất động, khởi
tâm động niệm đều là xấu ác. Ngày ngày đối diện với tham, sân, si của mình mà
chiến đấu, vẫn cứ thất bại, rồi lại chiến đấu... Từ đó mới thể hội được sâu sắc
bốn chữ: cụ phược phàm phu kẻ phàm phu đầy dẫy phiền não). Trong nhiều kiếp từ
vô thủy đến nay đã tích lũy biết bao tập khí nghiệp chướng; sớm đã đem sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) buộc chặt vào đến nỗi không thoát ra được.
Muốn thoát khỏi tập khí, tiêu trừ nghiệp chướng nào phải dễ dàng. Như hôm nay
ta chỉ có một con đường là sám hối. Kinh Kim Quang Minh, phẩm Sám hối (phẩm thứ
3) dạy rằng:
Sở vị Kim Quang,
Diệt trừ chư ác,
Thiên kiếp sở tác,
Cực trọng ác nghiệp,
Nhược năng chí tâm,
Nhất sám hối giả,
Như thị chúng tội,
Tất giai diệt tận.
Ngã kim dĩ thuyết,
Sám hối chi pháp,
Thị Kim Quang Minh,
Thanh tịnh vi diệu,
Tốc năng diệt trừ,
Nhất thiết nghiệp chướng.
Tạm dịch:
Chỗ gọi là Kim Quang
Diệt trừ các điều ác.
Cho dù trong ngàn kiếp,
Tạo nghiệp ác nặng nề.
Nếu có thể một lần,
Chí tâm cầu sám hối,
Thì những tội lỗi ấy,
Hết thảy đều tiêu trừ.
Ta nay đã thuyết dạy,
Pháp sám hối nhiệm mầu,
Gọi là Kim Quang Minh.
Pháp thanh tịnh vi diệu,
Có thể diệt trừ nhanh,
Hết thảy mọi nghiệp chướng.
Pháp sám hối Kim Quang Minh này là pháp bảo vô giá. Chúng ta là phàm phu trong
thời mạt pháp của cõi thế giới có đủ năm sự xấu ác mà nghe được pháp môn này,
chính là nhờ đã từng đối trước trăm ngàn vạn ức đức Phật trồng các căn lành,
nay mới có được phước báu này.
Nguyện cho tất cả mọi người đều có thể thành tâm sám hối, phát lộ tội lỗi, cầu
mong chư Phật, Bồ Tát gia hộ, sớm diệt trừ tội chướng sâu nặng, và nhờ vào công
đức sám hối này mà hồi hướng cho khắp các chúng sinh hữu tình rộng lớn, cầu cho
khắp nơi thảy đều thoát ly biển nghiệp, cùng sinh về cõi Tịnh độ Cực Lạc.
2. PHÓNG SINH
Luận Đại Trí độ dạy rằng: “Trong tất
cả các tội ác, tội giết hại là nặng nhất. Trong tất cả các công đức, không giết
hại là công đức lớn nhất.” Vì đối với tất cả chúng sinh, điều quý báu nhất
chính là mạng sống. Bị giết hại thì sinh ra oán thù sâu nặng nhất; được cứu
sống thì cảm kích, mang ơn nhất.
Pháp đầu tiên trong sáu pháp ba-la-mật là Bố thí. Bố thí gồm có: tài thí, pháp
thí và vô úy thí, mà chỗ đáng quý của việc phóng sinh là tự nó bao gồm đủ cả ba
việc tài thí, pháp thí và vô úy thí. Vì gồm đủ ba cách bố thí nên công đức của
việc phóng sinh là cao quý, lớn lao nhất.
Pháp sư Viên Nhân đã chỉ dạy cho chúng ta pháp bảo vô thượng thù thắng là việc
phóng sinh, mọi người càng nên trân quý, nỗ lực thực hành, để chẳng phụ lòng
pháp sư đã khổ tâm lao nhọc dạy dỗ chúng ta.
3. ĂN CHAY
Kinh Lăng-già dạy rằng: “Ăn thịt
cùng với sát sinh đồng tội. Trong tất cả tội nghiệp, nghiệp giết hại là nặng
nhất.” Vì đã tạo nghiệp giết hại ắt phải nhận chịu quả báo bị giết hại. Nhân
quả báo ứng là thảm khốc nặng nề nhất.
Ngờ đâu, điều bất hạnh nhất của chúng ta là suốt đời mải mê tạo nghiệp giết hại
mà không tự biết. Bởi vì ăn thịt đồng tội với sát sinh, nên ăn thịt tức là sát
sinh. Chúng ta ngày ngày ăn thịt, tức là ngày ngày tạo nghiệp giết hại. Ba bữa
ăn thịt túc là ba bữa vay nợ giết hại. Chúng ta vì ăn thịt chúng sinh mà kết
thành mối oán thù sâu như biển lớn, vô lượng vô biên không thể tính đếm, nên
quả báo trong tương lai thật khiến cho người ta không thể tưởng tượng nổi,
không dám nghĩ đến.
Kinh Niết-bàn dạy rằng: “Người ăn thịt là đoạn mất hạt giống đại từ.”
[17] Tâm Phật tức là tâm từ bi. Chúng ta tu hành
học Phật, tức là học theo tâm đại từ bi của Phật. Học được một phần tâm từ bi
của Phật thì đạo nghiệp của chúng ta thành tựu một phần. Học được mười phần từ
bi của Phật thì đạo nghiệp của chúng ta thành tựu mười phần. Những người ăn
thịt, sớm đã đoạn mất hạt giống đại từ bi, thì còn biết làm sao được? Tâm từ bi
không được nuôi dưỡng, không nảy nở. Không có tâm từ bi thì sớm đã lìa xa tâm
Phật. Nên tất cả việc tu hành đều chỉ còn là sự thất vọng buồn chán!
Kinh Lăng nghiêm dạy rằng: “Người ăn thịt thì chỗ cầu công đức đều không thành
tựu.” Chúng ta muốn cầu cho thân thể khỏe mạnh, cuộc sống bình an, con cháu
hiển đạt, sự nghiệp thuận lợi; muốn cầu cho nghiệp chướng tiêu trừ, đạo nghiệp
thành tựu, liễu sinh thoát tử, vãng sinh Tây phương; nhưng nếu là người ăn thịt
thì chỗ cầu tất cả công đức đều không thể thành tựu. Đây là lời dạy bảo từ kim
khẩu đức Phật.
Nếu chúng ta không thể ăn chay, vẫn cứ ăn thịt, tạo sát nghiệp như cũ, thì tất
cả tâm nguyện của chúng ta xem như vô phương thực hiện! Chính vì việc ăn chay
quan trọng như vậy, nên Pháp sư Viên Nhân vẫn luôn giữ theo lời dạy của đức
Phật, một lần rồi hai lần, hai lần rồi ba lần, nỗ lực không ngừng khuyên dạy
mọi người phải cố gắng học Phật, nhất định phải mau mau ăn chay, mau mau dứt bỏ
cái thói quen ăn thịt từ lâu ngày.
Nếu có thể lập tức sửa đổi thành người ăn chay hoàn toàn là hay nhất. Nếu không
có cách chi lập tức sửa đổi như vậy, thì vẫn phải luôn thôi thúc chính mình,
đốc thúc chính mình hướng hoàn toàn về mục tiêu bỏ thịt ăn chay mà thực hiện
dần dần. Vì ăn một lần thịt là tạo một lần sát nghiệp, kết một lần oán thù. Ăn
mười lần thịt là tạo mười lần sát nghiệp, kết mười lần oán thù. Mỗi một lần ăn
thịt là tạo ra sát nghiệp, là kết thành mối oán thù sâu đậm với chúng sinh.
Tương lai nhân quả báo ứng vẫn phải chính mình đền trả. Tạo được vô biên công
đức thì chính mình được hưởng, gây ra vô biên tội lỗi thì cũng chính mình nhận
lãnh lấy. Mỗi một người học Phật đều phải nghiêm chỉnh trong việc này. Dù thế
nào cũng không thể xem thường!
4. NIỆM PHẬT
Kinh Đại Tập dạy rằng: “Thời mạt
pháp, muôn ức người tu hành cũng ít có được một người đắc đạo. Chỉ có y theo
pháp môn niệm Phật mà được độ thoát sinh tử.”
Đại sư Thiện Đạo dạy rằng: “Đức Như Lai sở dĩ xuất hiện trên thế gian này, mục
đích duy nhất là giảng thuyết về bổn nguyện to lớn của đức Phật A-di-đà.”
Chỉ một câu A-di-đà Phật là tinh hoa cao trổi nhất của đức Phật thuyết pháp
trong 49 năm; là con đường tắt trong đường tắt; là diệu pháp trong diệu pháp.
Nương nhờ đại từ đại nguyện của đức A-di-đà Phật, nương nhờ sức Phật mà cắt
ngang qua dòng trược lưu sinh tử, siêu thoát luân hồi quả báo.
Thời mạt pháp tu hành, nếu lìa khỏi pháp môn niệm Phật thì trong muôn ức người
tìm không ra một người thành tựu. Niệm Phật có đầy đủ công đức không thể nghĩ
bàn. Chúng ta nên chỉ theo một môn này mà thâm nhập. Đời này, kiếp này nên hết
lòng niệm Phật, không xen tạp, không lòng này ý khác. Vì niệm một câu Nam-mô
A-di-đà Phật thì tương đương như tụng hết 3 tạng, 12 phần giáo điển.
Một câu A-di-đà Phật cũng tức là pháp thiền. Kinh Đại Tập dạy rằng: “Nếu ai
nhất tâm niệm được câu Nam-mô A-di-đà Phật thì gọi là pháp thiền vô thượng thâm
diệu.”
Một câu A-di-đà Phật cũng tức là pháp mật. Sáu chữ hồng danh toàn y theo Phạn
văn, chưa phiên dịch một chữ nào, là câu chú chân thật nhất, đơn giản nhất.
Thế nên, một câu niệm Phật cũng vừa là pháp thiền, vừa là pháp mật, lại vừa có
thể bao quát cả 3 tạng 12 phần giáo điển.
Trong kinh dạy rằng: “Hàng Bồ Tát Thập địa xưa nay vẫn chưa từng rời bỏ câu
niệm Phật.” Khi chúng ta niệm Phật, mười phương chư Phật đều đến hộ niệm. Trên
từ các vị Bồ Tát đẳng giác, dưới đến bao chúng sinh nhiều tội nghiệp, một niệm
đó đều như nhau, chính là một câu Nam-mô A-di-đà Phật.
Thử nghĩ xem, chúng ta là phàm phu đầy dẫy phiền não, có phước đức năng lực gì
mà được phước báu cùng các vị Đại Bồ Tát cùng tu một pháp môn? Các vị Bồ Tát
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí đều dạy chúng ta niệm Phật. Pháp môn niệm
Phật thù thắng như vậy, khó gặp như vậy, đời này kiếp này chúng ta càng phải
nắm vững. Nếu không có thiện căn của nhiều đời nhiều kiếp thì chúng ta không
thể được nghe, càng không thể tin nổi câu Phật hiệu này.
Pháp sư Viên nhân đem một câu Nam-mô A-di-đà Phật mà dung hội vào mọi việc ăn,
mặc, ngủ nghỉ trong sinh hoạt hằng ngày. Nhất cử nhất động đều không lìa khỏi
việc niệm Phật. Đối với ngài thì chim hót, ếch kêu, mỗi tiếng đều là tiếng niệm
A-di-đà. Ngài lấy thân giáo thị hiện mà chỉ dạy chúng ta một lòng niệm Phật.
Chúng ta may mắn được gặp pháp sư Viên Nhân là bậc mẫu mực trong sự hành trì
niệm Phật chân chánh, lại còn được thân cận thỉnh ích. Đây là một phước báu hết
sức to lớn. Nguyện cho tất cả mọi người niệm Phật đều có thể một lòng một dạ
niệm Phật cầu vãng sinh, một đời thành tựu để chẳng cô phụ đại từ bi nguyện của
đức Di-đà, cũng chẳng quên ơn dạy dỗ với sự lao nhọc và ân cần chỉ dạy của pháp
sư.
CHƯƠNG VI: PHÓNG SINH LÀ NUÔI DƯỠNG LÒNG TỪ BI
Câu chuyện sau đây được ghi theo lời
kể của bác sĩ Quách Huệ Trân. Bản thân vị bác sĩ này là một người tinh tấn tu
tập, tín tâm sâu vững, về sau xuất gia trở thành Pháp sư Đạo Chứng.
Tôi có một người bạn đồng học hiện là giáo sư tại một trường đại học ở Hoa Kỳ,
cũng là một nhà khoa học về thực phẩm nổi tiếng trên thế giới. Khi anh còn đang
học trung học, bỗng nhiên mắc phải một cơn bệnh nặng. Cha mẹ đưa đi bác sĩ khắp
nơi, làm rất nhiều xét nghiệm cực khổ. Một hôm, tại Tổng y viện Vinh Dân, kết
quả xét nghiệm tìm thấy trong phim chụp X quang phần ngực của anh có một vết
đen lạ. Nhưng lúc đó bác sĩ cũng chưa có kết quả chẩn đoán chính xác.
Người bạn học này của tôi vì chịu rất nhiều đau khổ nên khởi tâm từ bi, rất cảm
thông với nỗi đau khổ của người khác. Lúc học lên đến bậc đại học, anh bắt đầu
học Phật pháp, lại còn phát tâm thọ trì Năm giới. Sau khi thọ giới, anh càng
chí thành, tinh tấn.
VÌ KIÊN TRÌ GIỮ GIỚI MÀ TỪ BỎ HỌC VỊ THẠC SĨ
Sau đó, lúc đang học chương trình cao học ở Hoa Kỳ, bài vở và việc thực nghiệm
rất bận rộn. Mỗi ngày anh phải thức đến 12 giờ đêm hay 1 giờ sáng. Lâu ngày, do
học nhiều và làm việc quá sức, lại thiếu ngủ nghỉ cũng như ăn uống thất thường,
nên dần dần anh thấy xuất hiện một số triệu chứng: môi trở nên trắng bệch.
Khi anh sắp lấy được học vị thạc sĩ, lần cuối cùng phải làm một cuộc thí
nghiệm, đòi hỏi phải giết rất nhiều chuột trong khi thực hiện. Anh vốn đã có
bản tính từ bi, lại thêm tinh thần trì giới, nên kiên quyết không làm việc sát
sinh, quyết định từ bỏ học vị thạc sĩ sắp có được. Người nhà và bè bạn đều chê
trách: “Tại sao đã chịu cực khổ học hành ở Hoa Kỳ lâu như vậy mà cuối cùng lại bỏ
đi? Biết bao người mong muốn có được học vị này, nay anh sắp có được sao lại từ
bỏ? Chẳng lẽ chỉ vì không muốn giết chuột lại từ bỏ một công trình khó nhọc lâu
ngày như vậy hay sao?...”
LÒNG TỪ BI VƯỢT THẮNG DỤC VỌNG CÔNG DANH
Anh là một người rất ôn hòa nên không muốn biện luận, phân trần gì cả. Nhưng
tâm từ bi và trí tuệ học Phật của anh đã vượt thắng lòng ham muốn công danh,
lợi lộc của thế gian. Do đó anh đổi ngành học để không còn phải sát sinh trong
việc nghiên cứu.
Anh lại phải khó nhọc rất lâu, nhưng cuối cùng cũng có được học vị thạc sĩ. Do
tích lũy sự mệt nhọc lâu ngày thành bệnh, và anh mắc bệnh ung thư máu. Anh đã
trải qua đủ mọi cách xét nghiệm khổ sở, anh cũng biết được trình trạng vô
phương cứu chữa của mình nên từ chối nhập viện.
Anh kiên trì ăn chay trường, kiên trì và chí tâm niệm Phật. Trong thời gian
này, anh lại tiếp tục đeo đuổi học vị tiến sĩ ở trường đại học Wisconsin tại
Hoa Kỳ. Ở vào tình trạng bệnh tật như anh, đối với người khác hẳn đã không thể
nào duy trì được ý chí và nghị lực, nhưng cuối cùng anh vẫn lấy được học vị
tiến sĩ ở trường đại học Wisconsin.
Trong khi theo đuổi việc học tập, cho dù bận rộn đến đâu anh cũng không từ bỏ
việc sớm tối tụng kinh, niệm Phật. Nhờ sức Phật gia hộ, cũng như nhờ sức công
đức giữ giới không sát sinh, thành tâm niệm Phật, khiến anh có thể duy trì được
cuộc sống an lạc, bình thường. Đây là một sự cảm ứng âm thầm không thể nghĩ
bàn. Cuối cùng, anh đã khỏi hẳn bệnh ung thư máu trước sự ngạc nhiên của giới y
khoa.
PHÓNG SINH LÀ CỨU LẤY SINH MẠNG CỦA CHÍNH MÌNH
Qua câu chuyện của người bạn nói trên, tôi nhận ra rằng ai có tâm từ bi thì
người đó có một phước báu đặc biệt. Phóng sinh chính là sự khai phóng, sinh
khởi lòng từ bi. Anh thà từ bỏ học vị mà mọi người mong muốn để giữ lại mạng
sống cho những con chuột thí nghiệm. Khi làm như vậy, anh vốn cũng không có chỗ
mong cầu, chỉ vì không đành lòng trước nỗi đau khổ của chúng sinh, lại tôn
trọng giới luật của đức Phật nên quyết không sát sinh.
Anh đã ở vào tình trạng kiên quyết “thà trì giới mà chết”, nhưng kết quả ngược
lại đã không chết mà cũng không phải khổ! Anh hiện nay còn có thể đi đến các
nơi trên thế giới để diễn giảng học thuật, sắc mặt cũng hồng hào, bình thường
trở lại.
TIỀN BẠC, HỌC VỊ ĐỀU KHÔNG ĐỔI ĐƯỢC MẠNG SỐNG
Khi mạng sống của chúng ta kết thúc, cho dù tiền bạc có nhiều bao nhiêu, học vị
có cao bao nhiêu cũng không cách nào mua lại được một phút sinh mạng. Sinh mạng
đáng quý như vậy, cho dù là một con trùng nhỏ, chúng ta cũng không cách nào
khiến nó đã chết rồi sống lại. Cho nên khi nó còn sống, phải biết trân quý, tôn
trọng sự sống tự do, an ổn của nó.
Lúc bình thường, chỉ cần dùng rất ít tiền bạc là có thể cứu giúp, tránh được sự
sợ hãi của loài vật khi bị giết, có thể đem lại cho nó sự sống, sao ta lại
không chịu làm? Nếu chúng ta thử đặt mình vào tâm trạng phải đối diện với cái
chết, hoặc bỗng nhiên mạng sống bị rơi vào trong tay kẻ khác, sắp bị giết hại,
thì chúng ta sẽ cảm nhận ngay được tâm trạng khát vọng, mong mỏi được phóng
sinh như thế nào!
Không nỡ để chúng sinh khổ,
Không nỡ để thánh giáo suy.
Do nhân duyên như vậy,
Phát khởi tâm đại bi.
TÂM TRẠNG CỦA NGƯỜI SẮP BỊ GIẾT HẠI
Có một người họ Hứa làm việc ở trường trung học Đông Sơn. Một hôm, ông ở lại
trong ký túc xá của nhà trường. Ban đêm, có một bọn trộm lẻn vào, bắt ông trói
lại và bịt kín mắt. Trong bóng tối, ông nghe bọn chúng bàn với nhau là phải
giết chết ông, vì ông đã thấy mặt bọn chúng, e rằng sẽ gây bất lợi về sau. Bọn
cướp tay cầm hung khí, trói gô ông lại. Ông thuật việc đó như sau:
“Tuy chỉ có ba tiếng rưỡi đồng hồ mà đối với tôi như cả một đêm dài dằng dặc,
dài nhất trong cả cuộc đời tôi...”
Ông trải qua một tâm trạng cực kỳ kinh sợ, rối loạn, chẳng khác nào một con vật
đang chờ đợi bị giết. May sao, trong lúc hoảng hốt đó ông chợt nhớ đến đức Phật
A-di-đà, nhớ đến thế giới Cực Lạc là nơi mình có thể sinh về. Do đó, ông vội
một lòng niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn vãng sinh. Không ngờ, ông niệm Phật hồi
lâu thì bọn cướp cuối cùng đổi ý không giết ông, kéo nhau bỏ đi.
Tâm trạng được sống sót sau khi đối diện với cái chết thực sung sướng làm sao!
Ông họ Hứa này từ đó về sau hết sức đề xướng, cổ động cho việc không sát sinh,
làm việc phóng sinh. Bản thân ông đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng: giảm một
phần nghiệp giết hại là thêm một phần khí chất từ bi, an lành; cũng như công
đức niệm Phật thật không thể nghĩ bàn, có thể khích lệ người phát tâm từ bi và
thay đổi nhân quả xấu ác cho cả hai bên.
LỜI KẾT
Thời mạt pháp suy vi, yêu ma mê hoặc
mọi người. Thường thường nghe nói việc giới sát phóng sinh là hành vi ngu si
chẳng có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, hy vọng mọi người có thể thâm thiết thể hội và
suy nghĩ: Đức Phật lẽ nào có thể nói dối hay sao? Các vị Tổ sư như Trí Giả,
Vĩnh Minh, Liên Trì, Ấn Quang... lẽ nào là ngu si cả hay sao?
Hàng ngàn, hàng vạn sự thực chứng cảm ứng về việc giới sát phóng sinh từ xưa
nay vẫn còn rành rành, đó là giả tạo hay sao? Hy vọng chúng ta có thể thấu hiểu
sâu sắc được tấm lòng của các bậc thánh nhân, hiểu rõ đạo lý sâu xa. Nguyện cho
tất cả mọi người đều thấu hiểu sâu xa, nỗ lực đề xướng việc phóng sinh, nắm lấy
cơ hội thân người khó được này để tuyên dương, vận động cho việc giới sát,
phóng sinh, mang lại sự sống yên vui cho muôn ngàn sinh mạng. Đó mới thật là
một việc làm vô cùng vĩ đại, xưa nay hiếm có!
PHẦN II. NHỮNG CÂU CHUYỆN PHÓNG SINH
A. PHÓNG SINH ĐƯỢC PHƯỚC BÁU
TÂM TỪ BI CHUYỂN HÓA CÔN TRÙNG
Câu chuyện sau đây được ghi lại theo
lời kể của Đại đức Thích Nhuận Châu. Thầy hiện nay đang tu học tại Tịnh thất Từ
Nghiêm, Đại Tòng Lâm.
Đại đức Thích Nhuận Châu từ khi mới xuất gia theo học với Thượng tọa Thích
Quảng Hạnh, cùng với một số huynh đệ khác tu tập tại chùa Đức Sơn, thuộc huyện
Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào những năm cuối thập niên 1980, chùa được
xây dựng trong vùng dân mới lập nghiệp, điều kiện kinh tế nói chung còn rất khó
khăn. Dân cư trong vùng đa số chỉ sống nhờ vào nông nghiệp. Nhà chùa cũng có
được một khoảnh đất khá rộng để trồng tỉa, tự túc một phần lương thực cho đồ
chúng.
Vụ mùa năm ấy, cũng như thường lệ, quý thầy trồng đậu phộng để ép dầu ăn quanh
năm. Khi đậu vừa lên xanh tốt, bỗng thấy bắt đầu xuất hiện nạn sâu rầy ăn lá,
khiến cho những cây đậu đang tươi tốt chẳng bao lâu trở thành vàng vọt, không
phát triển. Những người nông dân quanh đó liền lập tức sử dụng thuốc trừ sâu
phun xịt liên tục. Vì thế, đám đậu phộng của nhà chùa trở thành nơi trú ẩn của
đám côn trùng. Trong khi những ruộng đậu chung quanh ngày càng xanh tốt trở lại
thì ruộng đậu của chùa vẫn cứ vàng vọt, tưởng như sắp chết cả.
Mấy chú tiểu trong chùa thấy vậy nóng lòng, muốn sử dụng thuốc trừ sâu để cứu
lấy ruộng đậu, nhưng thầy Nhuận Châu và các thầy khác đều ngăn lại. Quý thầy
nói: “Vì sự sống của mình mà diệt sự sống của muôn loài, như vậy đâu có hợp với
lòng từ bi của nhà Phật? Huống chi, ruộng đậu này có mất sạch thì chúng ta cũng
chưa đến nỗi phải chết, vậy sao lại nỡ dứt đi con đường sống của muôn vạn côn
trùng?”
Tuy nói thì nói vậy, nhưng trong điều kiện kinh tế khó khăn khi ấy, phần thu
hoạch mỗi năm của đám đậu phộng này là một phần chính yếu cho sự sống của tăng
chúng trong chùa, nên quý thầy cũng không khỏi lo lắng. Vì thế, mấy hôm sau
thầy Nhuận Châu liền mời thêm mấy thầy nữa cùng đi lên đám đậu phộng. Thầy đứng
ở đầu đám đậu phộng, lâm râm khấn nguyện rằng: “Hết thảy các chúng sinh côn
trùng xin hãy nghe đây. Quý vị cũng vì sự sống mà nương náu nơi đây. Chúng tôi
cũng vì sự sống mà phải gieo trồng đám đậu phộng này. Nay chúng tôi không đành
lòng làm hại quý vị, chỉ mong quý vị hạn chế sự tàn phá, để tăng chúng trong
chùa còn thu hoạch được đôi chút.” Khấn nguyện như vậy rồi, các thầy cùng nhau
trì chú Đại bi ngay tại đám đậu phộng, cầu sức gia hộ của thần chú để chuyển
hóa tình trạng bế tắc này.
Thật kỳ diệu! Khoảng vài tuần sau đó, khi ra thăm lại đám đậu phộng, quý thầy
đều ngạc nhiên khi thấy sự tàn phá trên đám đậu phộng dường như không còn nữa.
Đám đậu phộng tuy vẫn chưa hết màu vàng vọt nhưng đã thấy đâm lá non và phát
triển đôi phần.
Kỳ lạ hơn nữa, đến vụ thu hoạch thì mỗi gốc đậu của nhà chùa đều sai trái, chắc
hạt, dù cây đậu rất vàng vọt, ốm yếu. Trong khi đó, những đám đậu quanh đó tuy
xanh tốt, rậm rạp nhưng khi nhổ lên lại chẳng được mấy trái! Năm ấy, chùa Đức
Sơn được một mùa bội thu kỳ diệu, và cũng được một bài học thực tế vô cùng quý
giá rằng lòng từ bi có thể chuyển hóa được tất cả.
THỰC HÀNH PHÓNG SINH CHUYỂN HÓA ĐƯỢC GIA ĐÌNH
Cách đây ít lâu, tôi lại có dịp ghé
thăm thầy Nhuận Châu và vô cùng ngạc nhiên khi thấy thầy đang sử dụng một chiếc
máy tính xách tay đời mới nhất! Là những người làm công việc biên khảo và dịch
thuật kinh điển, chúng tôi ai cũng ao ước có được một chiếc máy tính xách tay
cấu hình mạnh, vì như vậy sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công việc, nhất là những khi
có việc phải đi lại nhiều nơi. Tuy nhiên, với một tăng sĩ sống đời đạm bạc như
thầy Nhuận Châu mà có tiền để mua chiếc máy tính xách tay này thì quả là điều
khác lạ. Dù được quen biết thầy đã lâu, nhưng tôi cũng thấy khó hiểu được sự
kiện này.
Khi tôi đánh bạo thưa hỏi, thầy bật cười vui vẻ rồi nói: “Chuyện dài lắm, nhưng
nói tóm một điều là tôi làm gì có tiền để ‘xài sang’ đến thế! Chiếc máy tính
này là của một người Phật tử mua gửi cúng dường cho tôi. Còn nhân duyên vì sao
mà có sự cúng dường này tôi sẽ kể cho anh nghe. Tôi nghĩ, khi nào có dịp anh
cũng nên kể lại cho nhiều người cùng biết.”
Và rồi thầy chậm rãi kể lại cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện.
Số là, cách đây khoảng một năm, có một nữ Phật tử là Việt kiều về thăm quê,
được một người đệ tử của thầy Nhuận Châu giới thiệu về thầy nên sau khi trở về
nhà ở nước ngoài liền viết cho thầy một bức thư khá dài. Trong thư, bà than vãn
về vô số những chuyện rắc rối gần đây liên tục xảy ra với gia đình bà, nhất là
những bất đồng giữa mọi người trong gia đình mà hầu như chẳng bao giờ có thể
thấy được nguyên nhân rõ ràng. Cuối cùng, bà khẩn thiết xin thầy một lời chỉ
dạy, một lời khuyên bảo, rằng bà phải làm gì để có thể sớm giải tỏa được những
khó khăn trong cuộc sống như thế này?
Thầy Nhuận Châu nói: “Thú thật, có lẽ đây là yêu cầu khó nhất đối với tôi từ
xưa nay. Tôi chưa từng biết qua người nữ Phật tử này cũng như gia đình của bà,
càng không thể hiểu được nội tình những sự rắc rối, khó khăn mà bà đang gánh
chịu. Như vậy làm sao có thể giúp bà ấy một lời khuyên cụ thể? Nhưng bà cứ một
mực đặt niềm tin nơi tôi, khẩn thiết cầu mong tôi chỉ giúp cho bà một lối thoát
trong hoàn cảnh bế tắc hiện tại. Vì thế, tôi nghĩ chỉ có một phương pháp duy
nhất là phải tạo phước đức để hóa giải những tội nghiệp từ trước. Mà muốn tạo
phước đức một cách nhanh chóng nhất thì không gì bằng thực hành phóng sinh. Thế
là tôi viết thư cho bà ấy, khuyên bà hãy kiên trì thực hành hạnh phóng sinh
trong 6 tháng, sau đó hãy viết thư cho tôi biết kết quả. Ý tôi là sau thời gian
này, với hạt giống thiện căn đã gieo trồng, hy vọng bà ta có thể sẽ sáng suốt
hơn trong việc nhìn lại vấn đề. Và như vậy tôi mới có thể giúp bà đưa ra một
lời khuyên, một giải pháp cụ thể nào đó...”
Sáu tháng sau, quả nhiên thầy nhận được thư trả lời của người nữ Phật tử này.
Kết quả hoàn toàn bất ngờ. Thầy không cần phải đưa ra thêm bất cứ một lời
khuyên nào khác, vì bà ta không còn đòi hỏi gì hơn nữa ngoài việc hết lời cảm
ơn sự chỉ dạy của thầy. Mọi vấn đề đều đã được giải quyết một cách tốt đẹp đến
không ngờ. Và hiện tại bà ta vẫn tiếp tục thực hành việc phóng sinh như một
phần trong cuộc sống hằng ngày. Câu chuyện được bà kể lại như sau.
Với sự hướng dẫn chi tiết trong thư của thầy Nhuận Châu, người nữ Phật tử này
lập tức kính cẩn làm theo. Bà dành nhiều thời gian và tiền bạc để tìm mua các
loài vật như chim, cá... và thả cho chúng trở về với tự nhiên. Chồng bà là một
người nước ngoài, thấy bà làm như vậy thì lấy làm lạ, liền hỏi nguyên do. Theo
lời dạy của thầy, bà nói rằng làm như vậy để được phước đức, cầu sự an ổn trong
gia đình. Chồng bà không tin lắm, nhưng cũng không có ý cản trở. Không ngờ chỉ
ít lâu sau đó, ông ta chợt nhận ra một điều lạ là mỗi khi họ dừng xe ở đâu đều
có những bầy chim bay đến đậu quanh đó, cất tiếng kêu ríu rít. Khi xe lăn bánh
rồi chúng vẫn còn bay theo một đoạn xa như tiễn biệt. Rồi ít lâu sau nữa, sáng
nào khi họ chạy xe ra khỏi nhà cũng đều có những con chim bay đến chào mừng.
Người chồng bắt đầu tin rằng việc phóng sinh không phải là vô ích. Ông đã nhận
ra rằng loài vật cũng có những tình cảm và sự biết ơn không khác loài người. Vì
thế, ông cũng bắt đầu cùng tham gia vào việc mua chim phóng sinh với vợ mình.
Khi cùng nhau làm việc này, tình cảm của họ đối với nhau bắt đầu thay đổi rõ
rệt. Cả hai đều trở nên hòa nhã và biết lắng nghe, luôn tôn trọng và cảm thông
với nhau. Những bất đồng giữa họ hóa ra chẳng có gì là phức tạp và khó giải
quyết cả. Nhờ có dịp tìm đến tiếp xúc với những con vật trong điều kiện bị bắt
nhốt, bị giam cầm, bị đe dọa mạng sống, nên họ mới nhận ra rằng cuộc sống tự do
của họ là đáng trân quý biết bao nhiêu. Và những va chạm xích mích hằng ngày
trước đây đều trở nên vụn vặt không đáng kể khi so với sự may mắn lớn lao là họ
đang được sống khỏe mạnh và tự do, không bị giam cầm hay đe dọa đến mạng sống.
Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn sau đó thì hai người đã trở nên một cặp
vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận.
Dần dần, có những con chim tìm đến làm tổ quanh nhà họ, vì dường như chúng cảm
thấy rằng sẽ được an ổn, được che chở. Thế là họ liền nghĩ đến việc mua thực
phẩm để cho chúng ăn vào mỗi buổi sáng. Sân nhà của họ không bao lâu trở thành
một sân chim vào mỗi sáng, và cả hai đều không ngờ rằng việc “nuôi chim” lại có
thể mang đến cho họ niềm vui vô cùng lớn lao như vậy. Chỉ cần nhìn những con
chim thật dễ thương nhảy nhót vui vẻ và vô tư trên sân, không một chút lo lắng
hoảng hốt, họ cảm thấy như mọi sự mệt nhọc của công việc đều tan biến.
Một thời gian sau, công việc đòi hỏi họ phải chuyển đi một nơi xa, đành phải
bán căn nhà đang ở. Lúc này, với tâm từ bi đã được nuôi dưỡng trong thời gian
qua, họ thực sự lo lắng cho đàn chim khi không có họ nơi đây. Vì thế, họ đã đưa
ra một điều kiện trước khi chấp nhận bán nhà là người chủ mới phải cam kết bảo
vệ đàn chim quanh nhà. Ngoài ra, họ còn trích từ tiền bán nhà ra một số tiền
lớn và để lại cho người chủ mới để mua thực phẩm cho chim ăn. Người mua nhà hết
sức ngạc nhiên trước những yêu cầu của những người bán nhà mà ông ta cho là quá
kỳ lạ, nên cố gạn hỏi nguyên do. Sau khi nghe hai vợ chồng người “nuôi chim”
này kể lại cặn kẽ mọi việc xảy ra kể từ khi họ thực hành phóng sinh, thật bất
ngờ là người mua nhà liền phát tâm sẽ bỏ tiền mua thực phẩm cho chim ăn mà
không cần hai vợ chồng người kia phải để lại số tiền ấy.
Sau khi viết thư kể lại cho thầy Nhuận Châu nghe về mọi sự chuyển biến trong
thời gian thực hành phóng sinh theo lời dạy của thầy, vị nữ Phật tử kia cũng
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và mong muốn được kính biếu thầy một món quà nhân
dịp này. Được nghe nói về công việc biên khảo và dịch thuật của thầy, bà quyết
định mua gửi tặng thầy một chiếc máy tính xách tay đời mới nhất.
Có một điều thú vị là, cho đến nay thầy Nhuận Châu vẫn chưa từng gặp mặt vị nữ
thí chủ kia!
THẢ CÁ ĐƯỢC THOÁT NẠN
Có một người đáp thuyền đi xa. Lên
thuyền, nhìn thấy có hai con cá đang bơi lội rất vô tư trong một cái thùng, có
thể đến trưa sẽ bị giết để nấu nướng. Người ấy động lòng mới nói với chủ thuyền:
“Anh bán hai con cá này cho tôi đi!” Chủ thuyền đáp: “Được, nhưng giá 2 con cá
này rất đắt, đến 300 đồng. Lúc nào anh muốn ăn, tôi sẽ làm thịt nấu nướng giúp
anh.” Người ấy vui vẻ lấy ra 300 đồng tiền đưa cho chủ thuyền để mua hai con
cá, lại nói rằng: “Hôm nay tôi không thích ăn cá, xin ông đừng nấu.”
Cách một ngày sau, chủ thuyền lại hỏi: “Hôm nay nấu cá cho anh ăn nhé?” Người
ấy lúng túng trả lời: “Đừng! Đừng! Hôm nay tôi ăn chay!” Thật ra anh ta không
ăn chay, nhưng chẳng qua muốn viện lý do để không phải giết chết hai con cá
đang bơi lội trong thùng, nên mới nói dối rằng mình ăn chay. Rồi anh ta thả cá
xuống sông, trả lại mạng sống và sự tự do cho chúng.
Lại cách một ngày sau, thuyền đang giong buồm trên sông, bỗng cuồng phong nổi
dậy, sóng cao ngút trời, cả thuyền đều sợ khiếp vía. Đang lúc mọi người hốt
hoảng quỳ lạy khẩn cầu Trời Phật cứu mạng, bỗng nhiên thấy từ trên mây hiện ra
hai chữ “giả chay”. Mọi người ai cũng thấy rất rõ. Có người liền hỏi lớn: “Trên
thuyền chúng ta có người nào giả chay?” Hỏi đến mấy lần như thế thì người ấy
nghĩ thầm: “Chắc là mình giả ăn chay, xúc phạm luật trời. Nếu giấu không nói ra
ắt là làm hại tất cả mọi người.” Nghĩ vậy rồi lập tức lớn tiếng trả lời: “Là
tôi, là tôi đây!” Mọi người đều nói: “Vậy ông nhảy xuống nước đi.” Rồi hè nhau
xô đẩy anh ta xuống nước. Bỗng đâu trên mặt sông trôi đến một tấm ván lớn.
Người ấy vừa bị đẩy xuống sông, bắt được tấm ván liền bám chặt vào một cách an
toàn. Ngay khi ấy, một trận gió lớn đẩy anh tấp vào bờ và được người cứu sống.
Nhìn lại chiếc thuyền kia không chịu nổi sóng to gió lớn đã lật úp, toàn bộ
những người trên thuyền đều chết chìm, làm mồi cho cá.
Chúng ta thử nghĩ xem, người giả ăn chay này, chính nhờ khởi lên một niệm từ bi
làm việc phóng sinh mà hóa ra đã cứu được mạng sống của chính mình!
DÙNG VOI CHỞ NƯỚC
Từ khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni
giáng sinh nơi cõi đời ô trược này, thuyết pháp giáo hóa muôn loài, chúng sinh
mới hiểu được lý nhân quả báo ứng, sát sinh, phóng sinh. Trong kinh Kim Quang
Minh, phẩm Lưu thủy trưởng giả tử có nói về tiền thân của ngài khi còn hành đạo
Bồ Tát, đã trải lòng từ bi dùng voi chở nước cứu mạng chúng sinh. Câu chuyện
như sau.
Thuở xưa, ở Ấn Độ có một hiền giả, là con của một vị trưởng giả, có lòng nhân
từ. Ngày kia, nhân có việc ra ngoài, nhìn thấy bên cạnh núi có một ao nước rộng
lớn đang bị khô cạn. Trong hồ, có một đàn cá đến hàng vạn con đang sống. Trên
trời thì nắng gắt, còn dưới ao lại cạn khô dần trong nay mai, tất cả những con
cá đều đang nằm thoi thóp chờ chết.
Vị hiền giả thấy rồi liền sinh lòng thương xót, lập tức về triều, vào cung yết
kiến quốc vương, xin vua mở rộng lòng từ bi cấp cho 20 con voi trắng lớn để vận
chuyển nước về đổ vào ao, giúp cho những loài động vật kia thoát nạn khô cạn.
May thay! Vị quốc vương này là đệ tử Phật, trước đã quy y Tam bảo. Sau khi nghe
lời cầu thỉnh của vị hiền giả, quốc vương hoan hỷ chuẩn tấu.
Sau đó, hai cha con hiền giả cùng đi đến quán rượu, mượn nhiều bình chứa rượu
lớn, cho nước vào đầy rồi dùng voi chở đến đổ vào ao khô. Cứ mang nước đến rồi
trở về lấy nước, nhiều lần qua lại mà không cảm thấy mệt nhọc chút nào, chỉ
nghĩ đến sự sống còn của bầy cá dưới ao mà cố gắng không ngừng. Ông trời hình
như cảm động tấm chân tình đó, nên đã bắt đầu rưới xuống những trận mưa lớn,
thấm nhuần muôn loài cùng vạn vật, ban sự sống cho muôn vạn sinh linh. Cuối
cùng, hàng vạn mạng sống trong hồ đã được cứu sống. Vị hiền giả thấy thế lòng
vô cùng hoan hỉ, lại còn vì đàn cá nói pháp vô thường, khổ, không, vô ngã...
Đàn cá số đông đến mười ngàn con, đã có phúc duyên được cứu sống lại nhờ nghe
pháp, hiểu rõ lý nhân quả báo ứng, phát tâm bỏ ác làm lành, nên ngay trong ngày
cùng bỏ thân cá, thần thức thác sinh lên cõi trời Đao-lợi, hưởng phước vô cùng.
SA DI CỨU ĐÀN KIẾN
Chuyện kể rằng có chú sa-di là đệ tử
của một bậc cao tăng. Vị này đã tu chứng Túc mạng thông, biết đệ tử của mình sẽ
bị chết yểu và thời gian sống chỉ còn 7 ngày thôi. Ngài bèn gọi chú sa-di đến
cho phép về gia đình thăm mẹ và người thân, dặn đến ngày thứ tám hãy trở lại
chùa. Bổn ý của ngài là muốn chú sa-di khi từ giã trần gian này được chết trong
vòng tay ấm cúng của gia đình, bên cạnh người thân.
Khi thăm mẹ và người thân xong, chú sa-di trở về chùa đúng thời hạn quy định.
Vị thầy thấy đệ tử chẳng những không chết mà dung mạo lại thêm tươi tắn, trong
lòng cảm thấy kỳ lạ. Ngài liền nhập định tìm xét lý do. Hóa ra, chú sa-di trên
đường trở về thăm nhà gặp một trận mưa lớn, nên tìm nơi trú. Sau khi hết mưa,
chú định tiếp tục lên đường, chợt thấy bên hè nhà có một đàn kiến rất đông đang
bị nước cuốn trôi. Chúng cố dùng chân quờ quạng tìm chỗ bám víu, cố chống chọi
với cơn đại nạn. Có con vì yếu sức đành buông xuôi, mặc cho dòng nước cuốn trôi
số phận nhỏ nhoi của mình. Thấy rồi, chú sa-di chạnh nghĩ: “Bầy kiến kia nào có
khác chi người, cũng đang cố gắng giành giật lấy sự sống trong tự nhiên. Trong
lúc gian nan nguy cấp này, sao ta lại không cứu giúp?” Thế là, chú sa-di nhặt
một cành cây bên cạnh bắc qua làm cầu, lần lần cứu đàn kiến ra khỏi dòng nước.
Khi ấy, vị thầy liền gọi chú sa-di đến và nói: “Ta cho con về quê thăm mẹ là vì
biết mạng sống của con chỉ còn không quá 7 ngày. May nhờ con biết khởi lòng từ
bi cứu sống cả đàn kiến đông đảo, nên công đức lớn lao ấy đã giúp con được kéo
dài tuổi thọ, được thêm tướng tốt”.
Quả nhiên, về sau chú sa-di ấy thọ đến 80 tuổi. Và sau sự việc đó chú càng tinh
tấn tu hành, chứng được quả A-la-hán, vĩnh viễn dứt mọi nỗi khổ trôi lăn trong
sáu đường.
THẦY ĐỒ THẢ CÁ LÝ NGƯ
Ở tại địa phương kia có một thầy đồ
họ Khuất. Một hôm đang đi dạo bên bờ sông, thấy ngư phủ câu được một con cá lý
ngư màu đỏ, định đem ra chợ bán. Khi nhìn con cá đang giãy giụa, thầy Khuất
bỗng khởi lòng từ bi, thấy như ánh mắt đau đớn của nó đang hướng về thầy cầu
cứu. Lòng không nỡ nhìn thấy cảnh ấy, thầy liền bỏ tiền mua lại con cá, xong
đem đến chỗ vắng thả lại xuống sông.
Về sau, thầy mang chứng bệnh trầm trọng, sắp phải qua đời. Một đêm, đang nằm
thoi thóp trong phòng, bỗng mơ thấy có một người tướng mạo oai phong lẫm liệt,
tự xưng là Long vương. Long vương bảo thầy Khuất: “Thọ mạng của tiên sinh lẽ ra
đến đây đã dứt, song vì thầy có lòng từ bi cứu mạng con ta là thái tử Long cung
nên được phước báu, có thể sống thêm 12 năm nữa.” Nói xong biến mất. Năm ấy,
Khuất tiên sinh mới được 48 tuổi.
Thầy Khuất tỉnh dậy, bệnh tật dường như tiêu mất, trong người khỏe khoắn bình
thường. Từ đó tiếp tục sống cho đến 60 tuổi, rồi không bệnh mà chết, con cháu
đông vầy, nhiều đời vinh hiển.
BẦY CHIM CHÔN CẤT ÂN NHÂN
Tôn Lương vốn là người quê mùa nhưng
lòng dạ rất nhân hậu, tuy cảnh nhà nghèo túng nhưng thường làm việc cứu vật
phóng sinh.
Mỗi lần đi đâu, thấy những con chim bị người giăng bẫy bắt nhốt trong lồng, ông
liền đem tiền dành dụm mua chim rồi thả chúng bay đi. Lúc mở cửa lồng để thả
chim, nghe tiếng chim kêu ríu rít, rồi bay lượn vòng trên hư không trông rất tự
do tự tại, lòng ông cảm thấy vui thích, khoan khoái. Và như thế, ông cũng không
biết là mình đã thả được bao nhiêu bầy chim rồi, cho dù cuộc sống của ông vẫn
nghèo thiếu.
Ông mất vào năm 70 tuổi. Do không có người thân cũng không có bằng hữu, lại
thêm gia cảnh nghèo khó nên không có tiền của để lại lo việc tang ma, không
người chôn cất. Cuối cùng, người ta đem thi thể của ông bỏ nằm ở vùng núi ngoài
thành, trông rất thê thảm.
Bỗng dưng, có một bầy chim cả ngàn vạn con cùng bay đến, đông rợp cả bầu trời.
Trong miệng mỗi con ngậm một cục đất, bay nhả thành hàng trên thi thể của Tôn
Lương. Không quá một ngày đã chất đầy đất lên như một ngọn đồi lớn.
Tôn Lương đã được an táng một cách hy hữu như thế. Mọi người chung quanh thấy
việc kỳ lạ, họ cố tìm nguyên nhân. Cuối cùng mới hiểu, do vì lúc sanh tiền Tôn
Lương thường mua chim phóng sinh, bầy chim cảm ơn cứu mạng nên ngậm đất đắp mộ
để báo đáp.
PHÓNG SINH TĂNG TUỔI THỌ
Niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh
(1821-1850), có vị Thái thú Đồ Cầm Ô, trước lúc làm quan đã từng bệnh rất nặng,
lại thêm uống nhầm thuốc nên suýt phải mất mạng. Trong lúc nguy ngập sắp từ
trần, Thái thú phát nguyện: “Nếu được tai qua nạn khỏi, nguyện sám hối nghiệp
chướng đã gây tạo, làm tất cả việc lợi ích cho mọi người.” Công danh phú quí
đối với ông giờ đây như nước chảy mây bay, không còn vướng bận nữa.
Đêm nọ, Thái thú nằm mộng thấy đức Quán Âm Đại sĩ hiện ra nói rằng: “Đời trước
ngươi đã từng làm quan ở nước Sở, do xử lý công việc quá nghiêm khắc nên tổn
thương đến lòng nhân hậu. Tuy công tâm làm việc nhưng cũng bị quả báo giảm mất
tước vị và bổng lộc, thêm nữa là hay sát sinh hại vật nên đời nay quả báo phải
bị chết yểu. May sao trong lúc bệnh ngươi đã phát thệ nguyện kiên cố, niệm niệm
đều mong được làm lợi ích cho chúng sinh, không mảy may có tâm oán trách, nên
thay đổi được nghiệp báo, có thể tạm qua được cơn bệnh này. Nhưng chỉ có mỗi
một việc phóng sinh mới có thể tăng thêm phúc lộc và tuổi thọ, ngươi cần phải
cố gắng.
Sau khi tỉnh giấc, Thái thú ghi nhớ rõ ràng từng lời trong giấc mơ và hối hận
về những lỗi lầm của mình đã tạo từ trước, nên càng quyết tâm sửa ác tu thiện
và cùng gia đình đồng giữ giới không sát sinh, lại thường xuyên làm việc phóng
sinh.
Mùa đông năm ấy, vua ban chiếu lệnh đưa ông đến nhậm chức Thái thú Cửu Giang -
Viên Châu. Phước báo đến với ông quá bất ngờ, ân đức vượt trội, khiến ông càng
tích cực làm lành hơn nữa. Sang mùa đông năm sau, ông lành bệnh, lại còn khỏe
mạnh hơn xưa. Đó là do phước báo phóng sinh cảm nên vậy.
ĐƯỢC PHƯỚC SỐNG LÂU
Trước kia, ở Tô Châu có một người
tên Vương Đại Lâm, cả đời rất thương mến loài vật. Bất kể là loài vật nào ông
cũng yêu thương và thường mua những con vật bị bắt đem phóng sinh.
Khi thấy trẻ em trong thôn làng bắt các loài vật như cá, chim để vui chơi, ông
liền dùng lời nhẹ nhàng khuyên răn, giải thích là làm như thế sẽ giảm lòng từ
bi. Sau đó còn đem tiền cho bọn trẻ để đổi lấy con vật, rồi tìm chỗ an toàn thả
chúng đi.
Ông thường khuyên nhủ thanh thiếu niên: “Khi còn trẻ, các con cần rèn luyện đức
tính nhân từ, thương mến sinh mạng chúng sinh, các con không nên nuôi dưỡng
thói quen tàn nhẫn, giết hại chúng nó.”
Đám trẻ trong làng đều nghe theo lời khuyên dạy chân tình của ông, nên trở
thành những đứa trẻ hiền lành, ngoan ngoãn, hiếu thảo, thương người. Cha mẹ,
người thân của chúng, ai cũng vui mừng khôn kể. Cho đến các bậc phụ huynh của
những làng lân cận thấy thế, cũng bắt chước phương pháp ấy mà dạy dỗ con mình.
Có thời gian, Vương Đại Lâm bệnh nặng sắp chết, trong cơn mê sảng bỗng nghe có
người nói với ông: “Ông cả đời thương vật phóng sinh, phước báu và công đức vô
lượng, nên được tăng tuổi thọ, sống thêm 36 năm nữa”.
Sau đó, ông được lành bệnh. Sống thọ đến năm 97 tuổi mới từ biệt cõi đời. Con
cháu năm đời đều vinh hiển và cùng sống chung trong một đại gia đình, thật hạnh
phúc.
ĐÀO AO PHÓNG SINH
Vào thời Trần - Tùy, Đại sư Trí Khải
là Tổ sư của tông Thiên Thai. Vua Tùy Dạng Đế kính ngài là bậc đạo hạnh, nên
ban hiệu là Trí Giả.
Đại sư cảm thương cho sự tàn ác của người đương thời, giết hại muôn vạn sinh
linh chỉ vì tìm cầu chút vị ngon nhất thời của cái lưỡi. Ngài muốn khuyến hoá
mọi người phát triển tâm từ bi, nên đã cùng với nhiều đệ tử đi quyên góp khắp
nơi. Số tiền xin được, ngài mua một miếng đất rộng dài, ra sức đào ao thả cá,
lại khuyên dạy người đời giữ giới không sát sinh và phóng sinh. Đồng thời, ngài
tâu lên triều đình xin vua hạ lệnh cấm không được bắt cá trong ao. Đến niên
hiệu Trung Quán nhà Đường vẫn còn giữ nguyên lệnh ấy.
Sang các đời vua khác, đều là các vị minh quân cùng các bậc cao tăng đồng xướng
đạo dẫn đường dạy mọi người tu Mười điều lành. Niên hiệu Càn Nguyên, đời vua
Đường Túc Tông, triều đình từng hạ chiếu ra lệnh cho các châu, huyện đều phải
đào ao phóng sinh. Niên hiệu Thiên Hi năm đầu, đời Tống Chân Tông, cũng hạ chiếu
lệnh bắt mọi người mở rộng việc đào ao thả cá. Tây Hồ ở Hàng Châu trước kia
cũng là một ao phóng sinh, hiện nay là một thắng cảnh danh tiếng tại Trung
Quốc.
Khi nhà Minh lên ngôi, Đại sư Liên Trì đã từng ở nơi đây tạo thêm hai ao phóng
sinh, còn lập bia ghi chép sự lợi ích của việc phóng sinh hộ vật, và truyền
rộng khắp thiên hạ. Từ đó cho đến nay, phong tục hay đẹp này đã ảnh hưởng sâu
rộng trong nhân gian, người có lòng nhân, phát tâm từ bi thật vô số kể.
THƯƠNG CON ĐỨT RUỘT
Đời Tấn bên Trung Hoa, tại xứ Nhữ
Nam có một người tên Hứa Chân Quân, thuở thiếu thời có thú vui săn bắn. Ngày
kia, anh vào rừng săn thú, bắn trúng một nai con. Vừa định buông cung đến bắt
nai, bỗng đâu có bóng con nai lạ từ xa phóng lại gần xác nai con, dùng miệng
liếm trên vết thương của con vật. Nó không màng đến kẻ thù đang đứng bên cạnh,
bao nguy hiểm đang rình chờ, chỉ cất lên tiếng kêu sầu não và bày tỏ cử chỉ yêu
thương với con vật đã chết.
Hứa Chân Quân nghĩ chắc đây là con nai mẹ, mới có cử chỉ trìu mến với chú nai
nhỏ như thế, nên cũng chạnh lòng thương cho tình mẫu tử của chúng nó. Chỉ lát
sau, nai mẹ ngã xuống đất chết. Hứa Chân Quân mang hai con nai trở về nhà, định
xẻ thịt nấu thức ăn, phần còn lại sẽ đem phơi khô làm lương thực khi cần. Anh
dùng dao mổ bụng nai mẹ trước, mới thấy là lá gan của nó đã nát ra, còn ruột
thì đứt thành từng đoạn nhỏ. Thấy rồi, Chân Quân cảm động cho tình mẫu tử sâu
đậm của loài vật, càng nghĩ càng thương đến ứa nước mắt. Từ đó, Quân vô cùng
hối hận, bẻ gảy cung tên và từ bỏ nghề săn bắn.
Tất cả loài vật đều có tình mẫu tử thiêng liêng như con người không khác. Giây
phút sinh ly tử biệt, người mẹ nào không thương xót con mình. Hơn nữa, người mẹ
còn bất chấp cả nguy hiểm đang chờ, chỉ một bề muốn cứu con thoát khỏi hoạn
nạn.
Nai mẹ kia nào khác với con người, thương con đến tan nát cả ruột gan. Ôi! Trên
đời còn có gì sâu nặng hơn tình mẫu tử ư! Người ta sao nỡ vì miếng ăn ngon mà
gây ra sự chia lìa sinh ly tử biệt?
Về sau, Hứa Chân Quân được tiến cử làm quan. Nhân ý thức cuộc danh lợi chỉ như
sương trên đầu ngọn cỏ nên đã sớm từ quan, lui về ở ẩn, theo thầy học đạo. Sau
đó, ông chu du khắp nơi cứu dân độ thế, dạy người làm lành, lánh dữ. Sau khi tạ
thế, vẫn còn hiển linh giúp dân. Vua Tống truy phong là Thần Công Diệu Tế Chân
Quân, người đời gọi là Hứa Chân Quân hay Hứa Tinh Dương.
B. SÁT SINH CHỊU ÁC BÁO
ĐỨT LƯỠI VÌ DAO MỔ TRÂU
Trước đây, ở vùng Giang Tô, huyện
Thường Thục, cạnh sông Hoàng Hà, trong ngôi nhà tranh nghèo lụp xụp có một
người sống bằng nghề giết trâu. Cứ mỗi lần người ấy sắp làm thịt trâu, thì việc
đầu tiên là cắt lấy lưỡi. Tội cho những con trâu bạc phước, đang còn sống mà bị
người cắt lấy lưỡi, đau đớn vô cùng, rống tiếng kêu đau. Vậy mà người ấy không
một chút động lòng, thản nhiên coi như chuyện bình thường. Khi hoàn tất công
việc, người ấy đem lưỡi trâu về nhà ngâm rượu, đúng ngày đem ra nhâm nhi, hả hê
với thức ăn đặc biệt do mình chế biến, chỉ riêng trâu ngậm ngùi.
Có một hôm, ông để con dao mổ trâu phía trên cánh cửa ra vào, chợt nghe tiếng
hai con chuột kêu rúc rích trên ấy. Tò mò, ông muốn biết xem chúng làm gì, nên
bước lại gần ngước đầu nhìn lên. Thì ra hai con chuột kia nghe mùi tanh từ con
dao mổ, tưởng là có thức ăn ngon nên đến tranh nhau, nào ngờ đụng vào con dao
rơi xuống trúng ngay miệng của người đồ tể ấy, khiến cho đầu lưỡi của ông đứt
lìa. Ông đau đớn giẫy giụa hồi lâu rồi mới chết.
Người đồ tể kia một đời sát sinh hại vật, thói quen thành nghiệp, nên dửng dưng
trước những đau đớn của loài vật. Ưa thích rượu thịt, cắt lưỡi chúng sinh, tội
nhiều biết bao! Nếu ông hiểu được lý nhân quả nghiệp báo thì có lẽ đã lường
trước được sự báo ứng mà dè dặt trong hành động, không để cho tâm hiếu sát sai
khiến, hẳn đã biết dừng dao tạo nghiệp, không gây thương tổn cho loài vật như
thế!
ĐAU ĐỚN SUỐT SUỐT BA THÁNG
Nơi miền Giang Tô, thuộc trấn Nam
Tường, huyện Gia Định, bên cạnh sườn núi phía nam, có một người tên Tào Thăng
Nguyên, rất thích ăn thịt chó, thường giết chó để ăn thịt.
Hôm ấy, Tào Thăng Nguyên đem con chó đã giết chết ngâm vào trong chậu nước,
đang lúc tính toán sẽ phân chia thịt chó ra mấy phần. Bỗng con chó từ trong
chậu nước ngồi bật dậy nhảy cao khoảng một thước, đầu sấn vào Tào Thăng Nguyên
há miệng thật lớn cắn một cái, máu từ thân người của hắn chảy ra dầm dề. Quá
đau đớn nên hắn hôn mê bất tỉnh. Trong cơn mê hắn nhớ lại tất cả cảnh hắn đã
từng giết chó, và bị vô số chó chạy theo rượt cắn, nên sợ hãi kêu la. Người
bàng quan không một ai dám nhìn tình trạng thê thảm của hắn.
Sau khi Tào Thăng Nguyên bị chó cắn, kiếm tìm thầy thuốc trị bệnh, nhưng thuốc
thang đều vô hiệu, bệnh không chút thuyên giảm. Thế rồi, vết thương càng ngày
càng thêm lở loét, đau nhức thấu ruột gan, kêu khóc suốt ngày đêm, trọn ba
tháng rồi mới chết. Quanh vùng ấy, những người thích ăn thịt chó, thấy sự việc
xảy ra như thế, lòng lo sợ bị quả báo nên không dám giết chó ăn thịt nữa.
CẮT LƯỠI THÚ VẬT – CON BỊ KHUYẾT TẬT
Trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có
ghi: Đời Đường Cao Tổ, niên hiệu Vũ Đức, có một nông phu rất hung ác. Sáng nọ,
như thường lệ ông ra thăm đồng ruộng. Từ xa, ông trông thấy con trâu của nhà
hàng xóm đang nhởn nhơ ăn lúa và giẵm đạp lên đám ruộng tươi tốt của ông. Giận
quá, ông chạy đến nắm chặt lấy đầu trâu, lấy dây dàm quấn vào lưỡi trâu rồi
dùng sức kéo mạnh một cái. Tức thời, lưỡi con vật bị đứt lìa, trông tình trạng
của con vật trông thật thê thảm, đáng thương. Miệng đầy máu tuôn ra xối xả,
khua dậm chân nhìn thấy rất đau đớn, nhưng hình như biết lỗi nên không dám rên
la. Mọi người thấy vậy đến vây quanh xem rất đông. Thấy thảm cảnh của con trâu,
ai nấy đều chỉ trích sự tàn nhẫn của người kia.
Thời gian sau, người nông phu ấy lập gia đình, sinh được ba đứa con. Cả ba đứa
trẻ đều bị câm. Mọi người nhân sự việc này mà xét đoán lý nhân quả. Bởi do lòng
dạ tàn nhẫn mà ngay trong cuộc sống hiện tại của người nông phu kia bị chiêu
cảm quả báo đau khổ như thế. Lý nhân quả không sai chạy chút nào.
NGƯỜI TÀN ÁC CHẾT ĐAU ĐỚN
Trước đây có một vị tri huyện họ
Trương, đặc biệt thích ăn món chân ngỗng và trái tim của con dê còn sống.
Mỗi lần muốn ăn món chân ngỗng, trước tiên ông sai người bắt ngỗng bỏ vào chảo
sắt, sau đó đốt lửa. Nhưng phải là lửa lớn thì chân ngỗng mới ngon. Do vậy,
ngọn lửa từ dưới lò được quạt cháy dữ dội, đỏ rực một vùng. Thương cho con
ngỗng bị sức nóng của lửa đốt, hoảng hốt nhảy loạn cả lên. Nó quạt đôi cánh cố
vùng lên khỏi nắp chảo, xoay bên này, bên kia, miệng kêu la nghe rất thảm. Ban
đầu con ngỗng còn phản ứng mạnh, nhưng dần rồi nó quằn quại trong lòng chảo
nóng, đến nỗi không còn cất tiếng kêu được nữa. Đôi chân của nó bị đốt phồng to
lên, máu toàn thân tụ về, đau đớn khôn xiết, nhưng đó là chỗ mà người đời cho
là món ăn đặc biệt. Thế rồi, nó liền bị người cắt đứt đôi chân. Lại tiếp tục
đun nấu cho đến khi toàn thân ngỗng đều chín tới.
Thử tưởng tượng như việc này mà xảy ra với chúng ta hoặc người thân của chúng
ta thì quả là một cực hình không sao tưởng tượng nổi! Vậy mà có người lại nỡ
làm như vậy với con vật chỉ vì một miếng ăn ngon. Thật tàn ác biết bao!
Còn khi muốn ăn món dê, thì ông bắt trói con dê treo trên đầu cây cột sau bếp.
Rồi dùng dao đâm xuyên ngực, xương sườn của con dê, sau đó mới moi lấy trái tim
dê đem đi nấu nướng. Con dê đau đớn kêu la thảm thiết! Tiếng kêu của nó nghe
rất sầu não, đôi mắt ngoái nhìn quanh quất như tìm vị cứu tinh, hai chân lay
động như muốn vượt khỏi xích xiềng.
Thế rồi, sau thời gian thụ hưởng như thế, thân của vị Tri huyện kia bỗng sưng
phù lên, đầy mụn nhọt độc, chạy chữa thế nào cũng không hết, rên la đau đớn
suốt ngày. Và tri huyện bị quả báo hiện tiền kia, mang chứng bệnh thống khổ
hành hạ rất lâu mới chết.
NGƯỜI LÀM ÁC PHẢI BỊ CHẾT THÊ THẢM
Đời Thanh, niên hiệu Ung Chính, tại
huyện Quỳ Hưng, tỉnh Triết Giang có người họ Ngụy thường theo nghiệp săn bắn.
Người này dùng súng bắn chim thú và các loài ếch, nhái, rùa... rất giỏi, chuyên
pha thuốc độc để giết cá, phá hủy tổ chim, sát sinh hại vật vô số kể, nghiệp ác
của hắn thật không kể xiết.
Mọi người chung quanh thấy thế tìm đủ mọi cách khuyên nhủ, còn đưa ra những
việc về nhân quả báo ứng, mong rằng ông Ngụy biết sợ hãi hối hận mà giảm bớt
việc sát sinh. Nhưng ông Ngụy không những chẳng nghe lời khuyên bảo mà còn cười
chê những lời ấy là vô căn cứ.
Càng về sau, ông ta tạo tội càng nhiều. Nhưng chẳng bao lâu, trên người ông mọc
lên nhiều mụn nhọt độc, khắp thân phồng lên vô số bọc nước. Trong mỗi mụt nước
có chỗ cứng như một viên sắt tròn. Tiếp đó da dẻ bị cháy sém, bắp thịt lở loét,
ung mủ rồi dần dần thối rửa. Ông nằm trên giường bị bệnh khổ hoành hành, đau
đớn kêu la không sao kể xiết. Căn bệnh kỳ lạ ấy hành hạ ông cho đến chết.
Sau khi ông Ngụy chết, bỗng đâu có vô số loài vật như cá, ếch, rùa, chim, lớp
bò, lớp bay vào trong phòng mổ xé thi thể của ông mà ăn.
Người vợ của ông thấy thế buồn thương vô hạn. Song, nghĩ đến chồng mình đã giết
hại biết bao chúng sinh, nên ngày nay phải bị nghiệp báo như thế. Bà không dám
làm hại chúng nữa. Chỉ trong chốc lát, thi thể ông Ngụy đã bị các con vật ăn
hết sạch, chỉ còn trơ lại một bộ xương trắng.
Ông Ngụy đã bị chết thê thảm lại thêm quả báo xấu là không có con để nối dõi
phụng thờ. Thật là một việc đáng cho chúng ta suy xét mà ngăn ngừa tâm ác đối
với loài vật.
CÁ LƯƠN TRẢ THÙ
Có người họ Lục ở Quý Châu, đã hơn
60 tuổi, rất thích ăn lươn. Ông thích đến nỗi mỗi bữa cơm hằng ngày nhất định
phải có món lươn hầm thì mới chịu ăn và ăn rất ngon. Thật chua xót thay, để đổi
lấy sự ngon miệng cho ông mà biết bao nhiêu con lươn đã bị sát hại.
Có một hôm, ông đến chợ mua lươn. Ông đòi chọn những con mập lớn. Bấy giờ,
người bán lươn mới nhường cho ông tự chọn lấy. Ông Lục liền xắn tay áo thò vào
chum mò bắt lươn, nào ngờ bầy lươn hè nhau cắn chặt vào cánh tay ông. Bị cắn
đau, thêm phần hoảng sợ, nên sắc mặt ông tái xanh, té xỉu ngay xuống đất. Nhưng
bầy lươn vẫn không chịu nhả ra, chụm thành một xâu đeo lủng lẳng trên tay ông.
Lúc ấy, người trong chợ vây quanh đứng nhìn rất đông. Con ông hay tin liền chạy
đến, nhờ mọi người phụ khiêng ông về nhà. Trước tình cảnh ấy, người nhà của ông
đành phải dùng dao cắt đứt mấy con lươn. Song, phần đuôi lươn thì rơi xuống, mà
đầu lươn vẫn không chịu nhả rời cánh tay ông. Không biết trải qua thời gian bao
lâu, chúng nó mới chịu nhả ra. Nhưng hỡi ôi! Trên cánh tay ông, chỗ bị lươn cắn
đã không còn một chút thịt. Ông họ Lục rên la hồi lâu rồi tắt thở!
BẮT ẾCH BỊ QUẢ BÁO
Năm Đạo Quang thứ 16 (1836), ở Tô
Châu có vị quan ra cáo thị nghiêm cấm việc bắt ếch.
Trong vùng có một nông dân tên Trương A Hỷ, vốn sinh sống bằng nghề bắt ếch,
nên y vẫn lén lút bắt ếch đem bán. A Hỷ là người quê mùa ngu dốt, lại thêm bản
tính hung bạo, ngang bướng. Có người thấy hắn làm nghề bị cấm nên khuyên nhủ:
“Ếch là loài động vật bảo vệ cây nông nghiệp, rất có ích. Quan phủ đã dán cáo
thị nghiêm cấm không cho bắt ếch, ông nên đổi nghề đi, còn có rất nhiều cách để
sinh sống không phạm pháp, lại cũng không tổn hại lòng từ bi. Tội gì phải lén
lút khổ sở như thế?”
Mặc dù được nhiều người thương tình khuyên bảo, nhưng A Hỷ vẫn không đổi nghề.
Một bữa nọ, sau trận mưa lớn, nước sông dâng lên cao, A Hỷ đến bờ sông bắt ếch.
Vì vô ý nên trượt chân té xuống sông bị chết đuối. Hai ngày sau, thi thể hắn
nổi phình lên mặt nước, có nhiều con ếch xanh bu trên thây chết tranh nhau cắn
rỉa thịt. Cư dân ở gần thấy vậy rủ nhau đến xem rất đông. Tất cả đều sợ hãi mà
bảo nhau rằng: “Có lẽ đây là quả báo hiện tiền do việc bắt giết ếch của hắn.”
Cứ tưởng tượng lại hình ảnh khi hắn bắt ếch sống chặt đầu rồi lột da, ếch kia
oằn oại lâu lắm mới chết. Sự đau đớn của những con vật ấy thật là vô kể. Nếu
chúng ta là những con ếch ấy thì sự đau đớn về thân xác cũng như niềm oán hận
trong lòng sẽ sâu đậm lắm, cho nên đối với việc ếch trả thù như thế cũng là lẽ
đương nhiên. Song nhìn thấy người vì sát sinh hại vật, thương tổn lòng từ bi mà
bị quả báo đến thế kia, thì chúng ta cũng không khỏi thượng xét lại mình mà dè
dặt không nên để cho ba nghiệp tạo ác.
CỘNG NGHIỆP SÁT SANH
Cư dân sống quanh vùng Thái Hồ,
thuộc tỉnh Triết Giang hầu hết đều sống bằng nghề lưới chim, bắt cá. Cứ thế,
cha truyền con nối, hết đời này đến đời khác, mọi người đều quen với nghề
nghiệp ấy và không hề nghĩ là mình đang sống trên sự khổ đau của loài vật.
Trong vùng ấy, riêng có gia đình ông Trần Văn Bảo lại thích làm việc lành. Mỗi
khi thấy ai lưới chim, bắt cá, thấy mình đủ khả năng cứu giúp thì gia đình ông
liền xuất tiền mua lại rồi đem phóng sinh, lại còn ân cần khuyên nhủ mọi người
cùng nhau làm việc từ thiện. Ông thường nói rằng: “Chỉ một việc sát sinh đã làm
thương tổn lòng từ bi, mất phước đức, giảm tuổi thọ, lại còn bị báo ứng rất
đáng sợ, gần nhất là ngay trong đời này, xa nữa là trong nhiều đời sau.”
Chuyện kể lại như sau: Đêm hôm ấy, có một người dân trong vùng đang trên đường
ra chợ, chợt thấy có hai con quỷ, trong tay cầm rất nhiều lá cờ, vừa đi vừa nói
với nhau: “Trừ gia đình ông Trần Văn Bảo ra, vì những người ấy thương người cứu
vật, được miễn khỏi cắm cờ ngay nhà của họ, còn lại ta và ngươi cứ theo thứ tự
cắm mỗi nhà một lá cờ.”
Chỉ một thời gian ngắn sau đó, cả vùng ngư phủ đều bị bệnh dịch truyền nhiễm,
có hơn 300 gia đình do bị bệnh dịch mà chết. Riêng gia đình ông Trần Văn Bảo
không một ai bị bệnh cả. Cả đời ông Bảo làm việc thiện, lúc về già vẫn còn mạnh
khỏe, sống rất thọ. Khi từ giã cõi đời, ông ra đi thật an nhiên tự tại.
ẾCH ĐÒI MẠNG
Năm Dân Quốc thứ nhất (1912), ở
huyện Vô Vi thuộc tỉnh An Huy có một người thợ hớt tóc. Những bữa cơm hằng ngày
của ông không bao giờ thiếu món thịt ếch. Vì thích ăn món thịt ếch mà ông đã
giết không biết bao nhiêu con ếch vô tội.
Có một đêm, khi chuẩn bị lên giường ngủ, ông chợt thấy ếch nằm đầy giường, trên
gối, mền cho đến trên cổ áo, tay áo của ông đều có ếch bu đông nghẹt. Ông ngồi
dậy, bước ra ngoài nhóm bếp lửa đun một nồi nước sôi, bắt hết những con ếch ấy
bỏ vào nồi nước sôi cho chết. Xong rồi, tiếp tục leo lên giường định ngủ. Nhưng
lại thấy ếch cũng đầy giường như khi nãy, còn nhiều hơn nữa là khác! Ông lại
tìm cách đánh xua đuổi, bắt ếch bỏ ra ngoài, nhưng không bắt xuể. Suốt đêm như
vậy, hình ảnh những con ếch khiến ông không hề chợp mắt được.
Hôm sau, ông kể lại cho những người hàng xóm nghe sự việc lạ lùng này. Ngay khi
ông đang thuật chuyện, bỗng la lên hoảng hốt: “Kìa, chúng nó lại đến, nhảy bám
trên cổ tôi.” Nói xong, dùng tay phủi lia lịa. Kỳ lạ là mọi người chung quanh
lại không hề nhìn thấy ếch!
Chốc lát sau, ông lại la lên: “Kìa, ếch bu đầy trên đầu, trên mặt, trên mí mắt
của tôi rồi!” Ông vừa phủi vừa chạy đi tìm dao cạo, cạo sạch cả lông mày, cả
tóc trên đầu, mà vẫn chưa yên, cứ la ếch bu hoài!
Thật ra, nào có ếch bám trên đầu người ấy! Đây chỉ là ảo giác do ông giết hại
quá nhiều ếch mà sinh ra đó thôi. Mọi người thấy ông không còn tự chủ, la sảng
như vậy mãi, đều bảo nhau: “Chắc ông này bị điên rồi.”
Từ đó, ngày ngày ông thường la khóc vang trời, ngày đêm hốt hoảng, không một
lúc nào tỉnh táo. Gia đình ông vì thế cũng rối bời, bất an không dứt. Chứng
bệnh kỳ lạ ấy hành hạ ông suốt 6 năm trời rồi chết.
SÁT SINH BỊ NƯỚC CUỐN
Cư dân ở vùng Giang Tô, Nhuận Châu
chuyên nghề đánh cá sinh nhai. Họ sống bằng nghề sát sinh như thế đã nhiều đời,
tập nhiễm thành tính ác. Mỗi ngày, mọi người đều bắt ếch, bắt ốc, chài cá làm
thức ăn, người lớn dạy trẻ em biết cầm dao để chặn bắt ếch. Người dân vùng này
lấy sát sinh làm sở trường, đồng thời nuôi dưỡng, dạy dỗ con cháu như thế.
Nhưng lạ một điều là trong vùng lại có một bà lão họ Khổng, tính thương người
thương vật, tuổi đã 70 vẫn còn lao nhọc dệt vải kiếm sống qua ngày và dành tiền
mua vật phóng sinh. Bà thường khuyên mọi người giảm bớt việc sát sinh hại vật,
đem hết khả năng của mình cứu loài vật được đến đâu hay đến đó. Bà nói: “Hãy
tránh giết loài trùng, kiến, ốc, nhái... Chớ cho đó là việc thiện nhỏ. Mọi
người cần phải có tâm từ bi, thương xót mạng sống loài vật chung quanh. Nếu
người trong thôn này cứ mãi sát sinh hại vật, thì mai sau ắt không tránh khỏi
quả báo nặng nề.”
Đời vua Càn Long, sáng ngày mùng 9 tháng 9 năm Ất Dậu, bờ đê sông Hoàng Hà bị
sạt lở, nước tuôn tràn vào những vùng lân cận, gây tai họa khủng khiếp, trong
đó có thành Nhuận Châu. Cả thành Nhuận Châu đều bị chìm trong biển nước. Nhà
cửa, ruộng vườn, trâu bò... vô số kể đều chịu chung số phận nước cuốn trôi.
Người, vật chết nổi phình lên giữa biển nước mêng mông, không biết đâu là bờ.
Trước đó một ngày, người trong thôn nhìn thấy Khổng bà bồng đứa cháu nhỏ trong
nhà đi đến ngôi chùa trên núi cao, vào điện lễ Phật rồi xin ở lại qua đêm. Nhờ
vậy, bà thoát được tai nạn hãi hùng này. Phải chăng, chính nhờ lòng nhân từ,
yêu thương loài vật của bà Khổng đã giúp bà được an lành không phải chịu chung
quả báo khủng khiếp của cả vùng?
CON BA BA ĐÒI MẠNG
Miền nam tỉnh Giang Tô có một vị phú
ông, tiền của nhiều đến ức vạn, cuộc sống xa hoa, lại thích ăn món ngon vật lạ.
Một hôm, nhà ông chuẩn bị tổ chức yến tiệc linh đình, người đầu bếp đi chợ mua
về một con ba ba lớn. Lúc chuẩn bị giết con ba ba ấy, nhìn thấy con vật chảy
nước mắt, người đầu bếp không nỡ xuống tay, liền bẩm với chủ nhân hết sự tình
và xin thả con vật. Phú ông chẳng những không thương xót, trái lại nổi giận tự
cầm dao chặt đứt đầu con ba ba. Lưỡi dao sắc bén, nên chỉ một nhát là đầu con
ba ba đứt lìa khỏi cổ. Nhưng việc xảy ra ngoài dự đoán đến không ngờ. Là cái
đầu con ba ba lại nhảy lên bám chặt trên sàn nhà bếp. Ông và người đầu bếp đều
kinh dị, nhưng vì đang chuẩn bị tiệc lớn nên cũng bỏ qua, cứ để đầu con ba ba
trên sàn nhà như vậy, định sau rồi hãy tính.
Khi thịt của con vật chế biến thành thức ăn thơm ngon, được chia thành hai dĩa
dọn lên bàn tiệc. Ai nấy nghe mùi thơm đều thích chí đồng ăn Song đến khi phú
ông gắp đũa thịt thứ nhất ăn rồi, lập tức nhức đầu, hoa mắt, xây xẩm và hôn mê
bất tỉnh. Ông lại thấy cái đầu ba ba trên sàn nhà nhảy tới, nhảy lui trước mặt
ông. Người nhà đưa ông vào phòng nghỉ, ông cũng lại thấy giường, nệm, màn, mùng
... nơi nào cũng có cái đầu của con ba ba. Ông còn lải nhải một mình: “Ở đâu mà
có đến ngàn vạn đầu con ba ba cắn vào mình mẩy, tay chân của tôi, làm cho đau
nhức đến tận xương tủy.” Ông lải nhải như thế suốt ba ngày đêm, cuối cùng chịu
không nổi sự đau đớn nên tắt thở mà chết.
QUẢ BÁO HIỆN TIỀN
Trong quyển bút ký của tiên sinh Ký
Hiểu Lam có ghi câu chuyện: “Quê ông có một người họ Cổ, tướng mạo xấu xí, thân
hình to lớn, sống bằng nghề mổ giết trâu. Vợ con của ông cũng rất giỏi nghề
này. Cách sử dụng dao của bà cũng nhanh nhẹn như ông không khác. Ngày qua tháng
lại, cuộc sống của gia đình ông được sung túc ấm no. Nhưng ngậm ngùi thay, sự
êm ấm, no say của họ được đổi bằng nỗi bất hạnh của những con vật bị giết.
Thời gian sau, mắt ông Cổ bị đau nhức nhiều, tìm hết thầy này thầy nọ chữa trị,
tiền của hao tổn mà vẫn không hết, lần hồi ông không nhìn thấy được gì nữa. Đôi
mắt ông đã mù.
Riêng phần vợ ông lại bị chứng bệnh lở loét hôi dơ. Máu mủ ung đầy, chảy ra
tanh hôi, quần áo bị dính chặt vào người, hễ động đậy là đau nhức không chịu
nổi. Suốt ngày rên la trên giường không nghỉ, lảm nhảm nói: “Đây là do lúc
trước ta cắt cổ và lột da trâu, chúng đau đớn thế nào thì nay ta phải chịu gấp
đôi như vậy. Ôi! Biết bao giờ mới khỏi cực hình này.” Nói xong, rên la liên tục
suốt ngày đêm. Mọi người đến thăm, thấy tình cảnh ấy cũng thương tình, nhưng
không biết làm sao!
Thế rồi, sau thời gian bị hành hạ vì chứng bệnh quái ác, bà nhắm mắt lìa đời
trong đau đớn, hãi hùng.
Việc này đã được cô con dâu nhà họ Thẩm chính mắt trông thấy và kể lại.
Ôi! Nghiệp giết hại loài vật tội báo rất nặng. Xét như con trâu thật có công
rất lớn đối với con người, đã giúp chúng ta biết bao việc nặng nề, vì sao lại
giết trâu ăn thịt? Quả báo hiện tiền, nhân quả không sai chạy, rất mong mọi
người hãy để tâm suy nghĩ việc này thật thấu đáo.
CẮM ĐẦU VÀO NỒI VÌ BẠO SÁT
Có một người làm nghề đồ tể ở huyện
Lâm Thanh – Đông Sơn. Một hôm, người ấy đem tiền mua một con trâu. Con trâu
linh tính tự biết mình sẽ bị giết chết nên đứng hoài không chịu đi. Người kia
nắm dây mũi kéo mạnh rồi đánh con trâu túi bụi, con trâu cố né đòn roi và nhất
định không đi, cho đến khi sức gượng yếu dần, thế rồi để mặc cho người đồ tể
kia kéo lôi quát tháo.
Khi con trâu đi ngang trước cửa nhà phú hộ, nhìn thấy người chủ của nhà ấy,
bỗng nhiên hai chân quỳ xuống, nước mắt chảy đầm đìa, như muốn xin người kia
cứu mạng. Ông phú hộ thấy tình cảnh như thế, cảm động vô cùng, hỏi người đồ tể
đã mua con trâu này với giá bao nhiêu? Đáp: Tám vạn quan tiền. Ông phú hộ ngỏ ý
mua lại con trâu ấy để cứu mạng nó. Nhưng người đồ tể vì giận con trâu quá ương
ngạnh, trì trệ không đi, làm ông mệt nhọc, nên nhất định không bán. Phú ông cứ
năn nỉ mãi, song người ấy một mực từ chối, còn nói: “Bởi vì con trâu này đáng ghét,
nên tôi nhất định đem nó về làm thịt mới hả giận của tôi.” Con trâu nghe lời
người đồ tể nói, biết không còn hy vọng nào sống sót, liền từ từ bước đi theo
ông.
Người đồ tể giết trâu xong, đem thịt trâu bỏ vào trong nồi chưng nấu, rồi về
phòng ngủ một giấc. Đến 3 giờ sáng ngày hôm sau mới đi xuống bếp nếm thử vị mặn
lạt của nồi thịt trâu, nhưng đi lâu rồi mà chưa trở lại phòng ngủ tiếp. Vợ
người đồ tể thấy kỳ lạ, nên đi tìm. Vừa bước xuống nhà sau, bà ấy liền hoảng
kinh hồn vía. Trời ơi! Nửa phần trên của chồng bà đã đâm đầu vào trong chảo, bị
chưng nấu chung với nồi thịt trâu.
Thử nghĩ xem! Tất cả loài động vật cũng như con người đều tham sống sợ chết,
thấy con trâu sợ hãi khi biết mình sẽ bị giết, đồ tể đã không có lòng thương
xót, trở lại còn thêm lòng sân hận, ắt là nghiệp sát của người đồ tể này quá
nhiều. Khi ấy, nỗi oán hận trong lòng của con trâu, rõ ràng thêm sâu. Hai nỗi
sân hận đồng cảm với nhau, nên đồng chung số phận bị chưng nấu.
GIẾT HEO BỊ QUẢ BÁO THẢM KHỐC
Tại trấn Bà Đầu, huyện Hợp Phì, tỉnh
An Huy, có người tên là Tuyên Tứ, hành nghề mổ heo đã hơn 20 năm. Ông tạo được
3 căn nhà: một căn để ở, còn hai căn kia thì cho người thuê, cộng thêm 200 mẫu
ruộng.
Cứ vào lúc 3 giờ sáng mỗi ngày, Tuyên Tứ dậy nấu nước làm heo, vợ ông cũng thức
dậy phụ chồng. Vừa ra ngoài nhà sau, người vợ thấy trong chuồng heo có dáng 2
người đàn bà nằm. Bà dụi mắt nhìn kỹ mấy lần, cũng vẫn thấy như thế. Lúc ấy, sợ
quá bà liền đi tìm chồng thuật lại sự việc, còn nói thêm một câu: “Thôi mình
hãy tìm nghề khác đi.” Ông không tin còn cười nhạo bà.
Người vợ lấy con dao mổ heo ném vào trong cầu tiêu. Nên hôm ấy, Tuyên Tứ không
thể giết heo, nhưng vẫn không hề có tâm đổi nghề.
Hôm sau, người vợ mời hết thảy gia tộc đến thưa là nếu Tuyên Tứ không đổi nghề
thì bà sẽ chia tay. Tuyên Tứ chấp nhận chia tay, chứ không bỏ nghề.
Thế rồi, hai người chia đôi gia sản. Người vợ mang đứa con ra riêng nuôi dưỡng.
Chỉ thời gian sau, đứa con mà hai vợ chồng yêu thương lại qua đời. Đến đây,
Tuyên Tứ mới có một chút niềm hối hận. Vì buồn việc đứa con mất sớm, nên Tuyên
Tứ đem tiền của dành dụm nướng vào trong cờ bạc. Cuối cùng, tất cả gia sản đều
tiêu tan như mây khói. Ông lại mua mấy con heo nuôi để xây dựng lại sự nghiệp
nhưng đều thất bại cả. Một tháng sau, miệng mũi của ông lúc nào cũng tuôn máu
mủ, đau đớn vô cùng, nằm kêu la suốt ngày đêm như bị người thọc dao vào yết hầu
vậy. Mãi một năm sau, ông mới chết.
GIẾT DÊ BIẾN THÀNH DÊ
Tại huyện Thường Thục, tỉnh Giang
Tô, có người họ Tiết tên Khánh Quan, chuyên sinh sống bằng nghề giết dê, nhà
rất giàu có sung túc. Hàng ngày, cứ vào lúc 3 giờ sáng là ông đã thức dậy nấu
nước sôi để làm thịt dê. Mặc cho những con dê hoảng sợ, kêu la thống thiết, ông
vẫn thản nhiên cầm dao đâm tới. Nhiều người thấy nghe cảnh tượng đau lòng đó,
không nhẫn tâm nhìn thêm nữa. Bạn bè thân tình cũng hết lời khuyên ông đổi
nghề, nhưng ông nào có nghe. Trải qua 10 năm tạo nghiệp, số dê đã bị ông giết
không biết là bao nhiêu nữa.
Làm ác mà không thấy hối hận, nên quả báo xấu cuối cùng cũng đến. Khi Tiết
Khánh Quan hơn 40 tuổi, bị một chứng bệnh kỳ quái, tìm thầy chữa trị biết bao
nhưng vẫn không thuyên giảm, đến nỗi gia tài hao mòn, lần hồi kiệt quệ mà bệnh
không thuyên giảm, lại còn sinh thêm biến chứng.
Mũi của ông tự nhiên dài ra, rồi mặt từ từ biến thành mặt dê, rất đáng sợ. Ông
vô cùng khổ sở, trốn tránh tất cả mọi người, ngày đêm hoang mang sầu thảm, lo
không biết còn điều gì xảy ra nữa đây! Những đêm khuya lăn lộn vì chứng bệnh
hoành hành, bấy giờ ông mới nghĩ đến lý nghiệp quả báo ứng, nên khuyên bảo gia
đình bỏ hết đồ nghề giết dê và đổi nghề sinh sống.
Năm sau, ông ta mang 300 lượng vàng cùng với người láng giềng đi đến tỉnh An
Huy mua gạo về bán. Trong lúc đi đường, vì vô ý nên ông bị té xuống sông chết.
Người nhà cố tìm vớt thi hài nhưng không thấy.
MẤY LỜI TÂM HUYẾT
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách
giáo lý nhà Phật, hoặc phát hành kinh sách, băng đĩa Phật pháp, biếu tặng cho
mọi người, giúp cho họ được sớm hiểu đạo lý, thay đổi nếp sống tốt đẹp hơn,
được như thế là hạnh phúc không gì bằng, đó gọi là pháp thí. Nếu không đủ điều
kiện làm những việc ấy thì có thể thỉnh một số kinh sách, băng, đĩa, rồi chịu
khó đem đến từng nhà cho mọi người mượn xem, hoặc đọc cho người khác nghe, nhất
là cho những người không biết chữ. Việc làm này thật quý giá vô biên, đây cũng
gọi là pháp thí. Chính đức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí, pháp thí có công
đức lớn nhất.”
Đời người trôi qua trong thoáng chốc, đường lợi danh dù rạng rỡ đến đâu cũng
không giúp được gì khi nhắm mắt xuôi tay. Chỉ mỗi một việc tu tập theo Chánh
pháp mới có thể giúp chúng ta được an vui trong hiện tại, thanh thản lúc qua
đời. Vì thế, tích lũy vật chất của cải nhiều đến đâu cũng không có ý nghĩa bằng
việc rộng truyền Chánh pháp giúp cho mọi người đều được phần lợi ích. Đó là
việc làm thiêng liêng và cao cả nhất mà tất cả chúng ta đều nên góp sức. Việc
truyền bá Chánh pháp luôn cần đến sự chung lưng góp sức của tất cả chúng ta.
Khi làm việc hoằng pháp cũng không nên mong cầu công đức, hãy nghĩ nhiều đến
những người quanh ta đang lầm đường lạc lối, đắm chìm trong tội lỗi không lối
thoát. Hãy mau giúp đỡ, cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý, tìm
ra lẽ sống an vui. Được như thế là chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp rồi
vậy.
Bất cứ ai trong chúng ta, nếu có điều kiện đều nên phát tâm góp sức vào việc
phát hành kinh sách, sang băng, đĩa cho mọi người xem. Được vậy, cuộc sống hiện
thời chắc chắn được an vui, mà con đường tương lai cũng sẽ ngày thêm tươi sáng!
Biếu tặng cho người thân một số tiền nhỏ thì lòng ta không vui, nhưng không đủ sức
biếu tặng nhiều hơn nữa! Chỉ có một cách là biếu tặng các loại kinh sách, băng
đĩa giảng truyền Phật pháp, hướng dẫn việc tu tập để xây dựng đời sống thanh
cao, thì dù chỉ một quyển sách, một cuốn băng... giá chỉ mấy ngàn nhưng quý giá
hơn cả tiền trăm bạc triệu. Mấy lời tâm huyết, mong các vị thiện hữu cùng suy
xét!
[1] Kinh Phạm Võng: (Nhược Phật tử dĩ từ
tâm cố hành phóng sanh nghiệp. Nhất thiết nam tử thị ngã phụ ,nhất thiết nữ
nhân thị ngã mẫu. Ngã sanh sanh vô bất tùng chi thọ sanh. Cố lục đạo chúng sanh
giai thị ngã phụ mẫu. Nhi sát nhi thực giả, tức sát ngã phụ mẫu, diệc sát ngã
cố thân. Nhất thiết địa thuỷ thị ngã tiên thân, nhất thiết hỏa phong thị ngã
bản thể. Cố thường hành phóng sanh, sanh sanh thọ sanh thường trụ chi pháp.
Giáo nhân phóng sanh, nhược kiến thế nhân sát súc sanh thời, ưng phương tiện
cứu hộ, giải kỳ khổ nạn.)
[2]
Đại sư Ấn Quang (1862-1940): Tổ sư đời
thứ 13 của Liên tông, tức Tịnh độ tông.
[3]
Phật diệt độ hậu quan liệm táng tống kinh:
(Đương tuân từ nhân. Phổ huệ ân cập quần sanh. Thị thiên hạ quần sanh thân mạng
nhược kỷ thân mạng. Từ tế bi mẫn, thứ dĩ an bỉ đạo hỷ khai hoá, hộ bỉ nhược
thân, nhuận đãi thảo mộc, vô hư cơ tuyệt dã.)
[4]
Ba đường ác: tức ba cảnh giới địa ngục,
ngạ quỷ và súc sinh. Chúng sinh do tạo nhiều ác nghiệp nên phải sinh vào trong
3 cảnh giới này.
[5]
Kinh Kim Quang Minh, phẩm thứ 16, Lưu
thủy trưởng giả tử: (Nhĩ thời kỳ địa thốt đại chấn động, thời thập thiên ngư,
đồng nhật mạng chung, ký mạng chung dĩ, sanh Đao-lợi thiên.”
[6]
Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh:
(Phật tâm giả, đại từ bi tâm thị. Dĩ vô duyên từ phổ nhiếp chúng sanh.)
[7]
Đại Bát Niết-bàn kinh, quyển 32: (Đại từ, đại
bi danh vi Phật tánh.)
[8]
Kinh Đại Bát Niết-bàn: (Từ tức Như Lai, Như
Lai tức từ.)
[9]
Đại Trí độ luận, quyển 22: (Chư dư tội trung,
sát tội tối trọng. Chư công đức trung, bất sát đệ nhất.)
[10]
Kinh Phạm Võng: (Bồ tát ưng sanh Phật
tánh, hiếu thuận từ bi, thường trợ nhất thiết nhân sanh phước sanh lạc.)
[11]
Đại Trí độ luận: (Đại từ dữ nhất thiết
chúng sinh lạc, đại bi bạt nhứt thiết chúng sinh khổ.)
[12]
Tức Đại sư Trí Khải, sinh năm 538, mất năm
597.
[13]
Xem thêm chuyện Đào ao phóng sinh ở
phần sau.
[14]
Người tu Tịnh độ tùy theo công đức tu
tập mà khi vãng sinh về cõi Cực Lạc chia ra thành chín phẩm (cửu phẩm), ba phẩm
thuộc về bậc hạ, ba phẩm thuộc về bậc trung và ba phẩm thuộc về bậc thượng.
Thượng phẩm là những người có công đức cao nhất, được chia ra Thượng phẩm hạ
sinh, Thượng phẩm trung sinh và Thượng phẩm thượng sinh.
[15]
Chỉ các loại hoa quả, ngũ cốc.
[16]
Trong thực tế, điều này vẫn thường gặp khi
chúng ta phóng sinh. Do những chim, cá mà chúng ta mua thả có khi đã bị giam
hãm quá nhiều ngày, trong điều kiện lồng, chậu vô cùng chật chội, thiếu dưỡng
khí, chen chúc lẫn nhau, nên đến khi được trả về với tự nhiên thì đã có một số
vì không chịu đựng nổi đã phải tử vong. Nhưng rõ ràng là điều này không liên
quan gì đến tâm niệm tốt đẹp của người phóng sinh.
[17]
Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 4, phẩm
Như Lai tánh: (Phù thực nhục giả, đoạn đại từ chủng.)