TRUYỆN NGẮN LỊCH SỮ : " CHÚ TIỂU CHÙA CỔ PHÁP "
Ngô Viết Trọng
Một
buổi chiều, khi sư Khánh Vân đang dạo bước ngắm hoa ở sân sau thì
chợt nghe tiếng người
ồn ào đâu phía trước.
Chú tiểu Công Sơn từ ngoài
đi vào
lật đật lại gần sư thưa:
- Bạch thầy, không biết ai đã đem một
đứa bé trai bỏ trước cửa chùa. Nó đang khóc dữ quá. Cũng có một số thôn
dân đang đứng quanh đấy
bàn tán xôn xao, xin thầy ra xem
thử.
- Mô Phật, để đó thầy ra xem sao!
Sư
thong thả đi trước, tiểu Công Sơn cũng nối gót
theo sau. Những người dân đang đứng
quanh đứa trẻ thấy sư đi ra thì đều hướng về sư
chắp tay xá và nói như
đồng loạt:
-
Nam mô A Di Đà Phật!
- Mô Phật, chào các đàn việt!
Một người đàn bà thưa:
- Bạch thầy, không biết con ai đem bỏ đây, nó khóc quá mà ai bồng nó cũng không chịu. Chúng con đều thử cả rồi nhưng không thể nào làm nó nín.
Tội nghiệp thằng nhỏ trông kháu quá!
Đứa trẻ được đặt
nằm ngửa trên một tấm vải thô màu nâu, đang quơ tay quơ chân khóc
dữ
dội. Sư Khánh Vân tiến lại gần đứa trẻ, đứng nhìn nó. Đứa trẻ bỗng
im bặt chăm hẳm nhìn lại sư rồi vươn tay lên như đòi bồng.
Mọi người có vẻ
ngạc nhiên lắm. Sư quay lại hỏi:
- Thế các
đàn việt có ai biết đây là con ai và người nào mang nó lại bỏ đây không?
Một người đàn ông thưa:
- Bạch thầy, con đang gánh củi ngang qua đây thì thấy một người đàn bà từ nơi này đi ra có vẻ hấp tấp lắm.
Ban đầu con không
để ý làm gì nhưng sau đó con nghe tiếng trẻ khóc, con
ngạc nhiên nhìn lại thì thấy đứa trẻ
này, khi ấy người đàn bà đã khuất dạng mất rồi. Con lại gần thì đứa trẻ
càng khóc thét lên, con phải dội ra. Kế đó những người này kéo lại, thấy
đứa nhỏ
dễ thương ai cũng muốn bồng nhưng hễ ai đưa tay đến là thằng nhỏ lại hét lên. Không ngờ bây giờ thấy thầy nó lại
im thin thít và đòi bồng như vậy, kể cũng là một sự lạ. Con nghĩ có thể đứa trẻ này có duyên
với chùa.
Nhà sư ngồi xuống cạnh đứa trẻ, nó
mỉm cười vói tay lên nhưng
nhà sư không bồng, nói với
mọi người:
- Bây giờ các
đàn việt hãy giúp thầy dò tìm người nào đã đem con bỏ lại
nơi này.
Tìm ra, thầy sẽ có cách nói chuyện và
tìm giải pháp giúp
thân nhân đứa trẻ. Thầy nghĩ người nào đó chắc có một nỗi
khổ tâm. Trong khi chờ đợi
tìm ra tông tích đứa bé, thầy nhờ một
đàn việt nào đó đem đứa bé
về
săn sóc, chùa có thể phụ
cấp cho về mặt
vật chất.
Thầy
xem tướng đứa trẻ này không phải tầm thường đâu. Nào, nó nín khóc rồi,
đàn việt nào lại bồng nó về đi!
Một người đàn bà tiến lại:
- Thầy để con lo việc này cho!
Nhưng khi người đàn bà đưa tay toan bế đứa trẻ thì nó giẫy nẩy và khóc thét lên. Người đàn bà
cố gắng mấy lần nhưng
vô hiệu.
- Thôi, con xin chịu!
Mấy người khác đều thay nhau thử bồng nhưng đứa trẻ
nhất quyết không chịu và cứ một mực đòi sư Khánh Vân. Sư Khánh Vân gọi
chú tiểu Công Sơn lại bế thử thì người ta lại
ngạc nhiên thấy đứa nhỏ nín khóc và chịu cho
bồng.
Mọi người đều cười :
- Thôi, quả
là thằng nhỏ có duyên với Phật rồi!
Sư Khánh Vân lấy làm lạ bèn khiến tiểu Công Sơn bồng đứa nhỏ vào chùa. Khi được tiểu Công Sơn bồng
đi vào cổng thì thằng bé nhoẻn miệng cười có vẻ
thích chí. Sư Khánh
Vân thấy vậy cũng cười, quay lại nói với
mọi người :
- Mô Phật, bây giờ tạm thời cứ yên yên như vậy đã. Nhưng thầy nhờ các
đàn việt phải tìm gấp tông tích
thân nhân đứa trẻ cho thầy nhé!
- Bạch thầy, chúng con sẽ
cố gắng.
*
Từ khi chú bé được đem vào chùa, tiểu Công Sơn phải bận rộn hơn một chút.
Tuy thế, để
bù lại, cái
không khí trong chùa lại khởi sắc
vui vẻ hơn. Chú bé không mấy khi khóc, không làm nũng. Những khi sư Khánh Vân và tiểu Công Sơn bận
kinh kệ hoặc công việc, chú bé
một mình đùa nghịch
vui vẻ với mấy món đồ chơi
chứ không làm phiền ai hết. Quá lắm, chú chỉ bò quanh trong
phạm vi được tiểu Công Sơn “khoanh vùng”. Sư Khánh Vân, tiểu Công Sơn và những khách đến lễ chùa đều
cảm thấy vui vẻ khi đùa chơi với chú bé. Chú
tỏ ra
rất
thông minh, bắt chước tiếng nói khá nhanh và biết
nghe lời dạy bảo.
Không như những đứa trẻ khác, chú không
ăn uống ẩu, không chơi dơ. Khi cần đi cầu đi tiểu chú cũng kêu và chờ người lớn giúp đỡ chứ không bao giờ làm bậy. Vào chùa được mươi ngày thì chú biết ngồi. Sau đó không lâu
chú được tập đứng, tập đi
và chỉ ba tháng sau là chú có thể
đi lui tới khắp chùa.
Sự có mặt của chú nhỏ trong chùa không làm trở ngại việc
tu học bao nhiêu mà lại tăng thêm sự
vui vẻ nên sư cũng như tiểu Công Sơn không còn nôn nóng
trong việc tìm tông tích
thân nhân đứa bé nữa. Bốn tháng
trôi qua, vẫn không thêm được một tin gì khác về
gia đình chú nhỏ, sư Khánh Vân đành cười:
"Con ai đem bỏ chùa này,
Nam mô A Di Đà Phật, con thầy, thầy nuôi!"
Bấy giờ sư Khánh Vân mới tính đến việc chọn một cái tên cho chú nhỏ. Không biết con ai làm sao biết họ gì? Sư
suy nghĩ rồi
quyết định cho chú
nhỏ lấy họ Lý, họ của sư. Sư lại đặt tên cho chú nhỏ là Công Uẩn. Ở trong
chùa bên cạnh sư, tất nhiên Công Uẩn cũng
trở thành chú tiểu.
Khi bắt đầu dạy
chữ nghĩa, sư Khánh Vân
vô cùng ngạc nhiên về sự
thông hiểu mau chóng và nhớ dai của Công Uẩn. Giảng đâu hiểu đó, đọc đâu nhớ đó, chẳng bao lâu Công Uẩn có thể
đối đáp văn sách ngang ngửa với tiểu Công Sơn. Riêng về thơ phú thì Công Uẩn vượt hẳn cả tiểu Công Sơn. Trong
thơ của Công Uẩn thường toát ra một thứ khẩu khí kỳ dị. Như một hôm Công Uẩn phạm lỗi, bị sư phạt trói nằm giữa bệ đặt
tượng Phật suốt đêm, Công Uẩn đã đọc ra hai câu "Đêm khuya chân mỏi không dám ruổi. Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng". Sư Khánh Vân nghe vậy vừa mừng vừa sợ.
Hằng ngày
sư càng
chuyên tâm dạy dỗ cho Công Uẩn
hơn.
*
Hôm ấy có một vị sư
phương xa
vân du đến viếng chùa Cổ Pháp. Vị sư trông dáng dấp
oai nghi thông tuệ, đó là sư
Vạn Hạnh. Sau khi cùng khách
lễ Phật rồi dẫn khách viếng quanh chùa một vòng, sư Khánh Vân mời sư
Vạn Hạnh vào
nhà khách uống trà.
- Này
sư huynh, không hiểu sao
bần tăng thấy cảnh sắc
nơi đây có vẻ khác thường lắm! Trong chùa có gì lạ chăng? - sư
Vạn Hạnh
hỏi.
-
Sư huynh thấy có sự lạ sao? Chùa này lâu nay vẫn thế có gì khác đâu!
- Dám hỏi,
sư huynh được mấy đệ
tử?
- Chẳng dám giấu
sư huynh,
bần tăng chỉ có hai
đệ tử,
đệ tử lớn Công Sơn là người vừa dâng nước đó.
Đệ tử nhỏ Công Uẩn hiện đi lấy củi chưa về.
- Thế lâu nay
sư huynh có
theo dõi chuyện thời thế đến không? Theo
bần tăng nhận xét, rồi đây đạo có thể gặp khó khăn đấy.
-
Sư huynh hay
vân du khắp chốn nên rõ
tình hình.
Bần tăng cứ
ru rú một
chỗ thế này chẳng biết gì cũng lấy làm thẹn. Có gì xin
sư huynh rộng lượng chỉ bảo cho biết.
- Không dám,
tuy nhiên bần tăng cũng không
ngại ngùng đưa ra những
nhận xét thô thiển của mình xem có hợp ý
sư huynh không.
Quả tình bần tăng có
vân du nhiều nơi thật, nhưng đến nơi nào thấy cảnh
sắc
già lam cũng
tiêu điều,
bần tăng lấy làm lo lắm. Không ngờ khi đến
đây thì thấy cảnh sắc lại khác hẳn, thật đáng mừng. Nếu quả sắp tới đây
có pháp nạn thì chính nơi này là chỗ cứu đạo đây.
-
Sư huynh nói thế chứ
bần tăng và tiện
đệ tử đức mỏng tài cạn mà trông gì!
Tuy nói thế nhưng sư Khánh Vân lại vui nghĩ tới người học trò nhỏ của mình. Bấy lâu nay sư đã có
nhận xét so sánh giữa hai
đệ tử của mình, thực là một trời một vực. Cũng
lúc ấy, tiểu Công Uẩn vác
một bó củi
đi vào. Sư
Vạn Hạnh nhìn thấy tiểu Công Uẩn thì
giựt mình. Tiểu Công Sơn liền ra ngoài báo cho Công Uẩn biết chùa đang có khách.
-
Đệ tử Công Uẩn xin ra mắt sư bá và
sư phụ.
Sắc mặt sư
Vạn Hạnh sáng hẳn lên. Sư
gật đầu cười với Công Uẩn rồi nhìn sư Khánh Vân :
- Mừng cho
sư huynh có một
đệ tử xứng đáng.
Sau khi chào khách, tiểu Công Uẩn đi lo công việc. Sư Khánh Vân khi ấy cũng tươi nét mặt nói với sư
Vạn Hạnh :
-
Sư huynh chắc biết xem tướng!
Sư huynh thấy tiện
đệ tử thế nào?
Sư
Vạn Hạnh gật gật cái đầu :
- Quí lắm! quí lắm! Về học vấn Công Uẩn đã đạt tới mức nào rồi?
Sư Khánh Vân bèn đem tông tích,
đạo hạnh cùng học vấn của Công Uẩn kể hết cho sư
Vạn Hạnh nghe.
Suy nghĩ một
lúc, sư
Vạn Hạnh nói :
-
Sư huynh có thể nào cho
bần tăng mượn Công Uẩn một
thời gian được không?
- Để làm gì?
-
Thú thật với
sư huynh,
bần tăng có một
đệ tử võ nghệ
siêu phàm,
bần tăng muốn cho Công Uẩn được truyền thụ cái võ nghệ đó.
Đồng thời,
bần tăng cũng muốn có một
thời gian ngắn gần gũi với Công Uẩn để chỉ dạy cho
y một ít
kiến thức về thuật kinh bang
tế thế.
- Đâu
cần thiết phải vậy? Thật sự Công Uẩn cũng đã được
bần tăng truyền một chút võ nghệ
đủ giữ thân rồi. Một kẻ đã muốn rời vòng
tục lụy còn ôm cái thuật kinh bang
tế thế vào người đâu có hay.
Bần tăng muốn tiện
đệ tử chăm lo kinh sách để
sớm đạt đạo mà
giác ngộ đại chúng thoát cảnh
trầm luân trong bể khổ là
toại nguyện rồi.
- Như vậy là
sư huynh chưa
hiểu ý bần tăng.
Thú thật với
sư huynh,
bần tăng vốn cũng có học chút đỉnh về việc
xét đoán thời thế,
xem tướng người. Nếu
bần tăng không nhìn sai, rồi đây
đạo
Phật có thể vướng vào vòng nước lửa, đất nước ta có thể rơi vào tròng
nô lệ.
Chúng ta rất cần một người có khả năng cứu nước giúp đời, mà người đó, dưới mắt
bần tăng, có thể là Công Uẩn.
-
Xin lỗi sư huynh, lý của
sư huynh bần tăng thấy còn
mơ hồ. Lôi kéo một người có khả
năng đi
tới bến giác
trở lại vòng
tử sinh,
bần tăng thật
áy náy lắm. Thôi thì xin
sư huynh tha cho tiện
tử.
- Đạo có thể bao trùm
vũ trụ nhưng người theo đạo không nên tách rời với sự an nguy của tổ quốc.
Bần tăng sở dĩ phơi cả lòng mình ra mà
thỉnh cầu sư huynh, chính là vì nước mà cũng vì đạo nữa. Nếu như nước bị tàn phá, dân chịu gông ách
nô lệ,
sư huynh có thể
thoải mái ngồi tìm
chân lý giải thoát được không? Những kẻ
vô thần,
dị giáo họ có thể để
sư huynh yên ổn ngồi tu không?
Việc đời luôn luôn
biến cải, nếu mình cứ
nhất nhất đi theo một nguyên tắc e rằng
lạc hậu đến phải
ân hận mất.
Giả sử đạo Phật có
giới cấm sát sinh, nhưng nếu vùng mình ở có một con cọp cứ luôn làm hại người, mình có thể vì
giới cấm mà cứ để cho con cọp giết người mãi hay không?
Sư huynh cho rằng Công Uẩn có
khả năng đi
tới bến giác, thì
tới bến giác cũng chỉ có
mục đích cứu độ chúng sinh chứ gì?
Đồng ý là khi đã đạt đạo, cái khả năng
cứu độ,
giải thoát sẽ nhiệm mầu hơn nhiều, nhưng chẳng lẽ cứ hướng tới đó mà lơ cái việc cứu vớt những kẻ
trầm luân ngay bên cạnh mình, cho như thế là bị níu kéo, bị trở ngại? Bậc
nhân giả ở trong chốn
ba quân hay giữa
trường đời đen bạc nhưng vẫn giữ đuợc tâm ý
tự tại, tùy
hoàn cảnh mà phuơng tiện
độ sinh cũng là một cách tu vậy. Không lý việc diệt gian
trừ tà để cứu
chúng sinh thoát cảnh
trầm luân binh lửa cũng là tội? Giờ đây, vua
Đại Hành đã già mà chưa lập
Thái tử, con trai ngài thì quá đông,
rõ ràng
là mầm loạn chứa sẵn rồi. Các đại thần trong triều thì mỗi người riêng một
bụng.
Chắc chắn sẽ có cảnh
huynh đệ tương tàn xảy ra. Nước Tàu
tham lam
thì khi nào cũng rình rập cơ hội để thôn tính nước Đại Cồ Việt ta. Nếu
sư huynh cho Công Uẩn đi với
bần tăng mà sau này lời
dự đoán của
bần tăng không đúng, tất nhiên Công Uẩn sẽ
trở về với
sư huynh thôi. Còn nếu
sư huynh không chịu nghe
bần tăng mà sự việc ấy quả xảy ra thì e
công đức của
sư huynh sứt mẻ nặng. Xin
sư huynh suy nghĩ kỹ.
Sư Khánh Vân
trầm ngâm suy nghĩ. Sư biết người học trò của mình khác thuờng
đấy. Nhưng sư làm sao dám nghĩ rằng
chú tiểu đó lại có khả năng làm thay đổi vận nước? Sư
Vạn Hạnh hy vọng có
quá đáng không? Sư cũng có
nghe phong phanh về những sự tác oai tác quái của một số quan lại địa phương
dựa vào
sự
che chở của một số đại thần đang gây
thế lực trong triều. Những
dự đoán của sư
Vạn Hạnh nghiệm ra cũng có lý lắm.
Cuối cùng sư Khánh Vân buông xuôi:
-
Sư huynh đã nói
cạn lời như vậy
bần tăng đâu dám
ngăn cản.
Tuy nhiên, nên để cho chính Công Uẩn tự
quyết định vẫn hay hơn.
Sau đó, tiểu Công Uẩn đã theo sư
Vạn Hạnh về chùa
Lục Tổ.
*
Mấy năm sau, Lý Công Uẩn vào Hoa Lư làm quan. Nhờ
tài năng xuất chúng,
đức độ siêu quần, không bao lâu
uy tín ông lan rộng trong dân chúng cũng
như ở triều đình. Chưa tới 30 tuổi
ông đã được phong chức Tả Thân Vệ Điện Tiền
Chỉ Huy Sứ. Cũng
thời gian này, nhà Tiền Lê đang ở trên đà tuột dốc
kinh khủng. Vua Lê Đ ại Hành
tuổi già bệnh hoạn liên miên cho nên
suy tính rất
lầm lẫn.
Mùa xuân năm Giáp Thìn (1004) ngài mới lập con thứ ba là Long Việt lên làm
Thái tử trong khi mộng lớn đã căng đầy trong đầu óc các hoàng tử khác.
Tháng 3 năm Ất Tỵ, vua
Đại Hành qua đời. Thế là ba vị hoàng tử Ngân Tích (con cả), Long Kính, Long Đĩnh
nổi loạn đánh nhau luôn 8 tháng ròng
Long Việt mới
chính thức lên ngôi được. Ngân Tích bỏ trốn rồi
bị giết, Long Kính, Long Đĩnh
đầu hàng. Nhưng chỉ ba ngày sau, Long Đĩnh lại thuê
người lẻn vào cung
ám sát được vua Long Việt.
Long Đĩnh cướp
ngôi xưng là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn, Tắc Thiên Sùng Đạo
Đại Thắng
Minh Quang Hiếu
Hoàng Đế. Vụ
ám sát vua Long Việt xảy ra làm các quan lớn nhỏ của triều đình
kinh hoảng bỏ chạy tứ tán. Chỉ còn lại viên quan Thân Vệ Lý Công Uẩn ở lại ôm thây vị vua
xấu số mà khóc. Hành động
trung
thành và
can đảm này của Công Uẩn đã
chinh phục được sự nể nang của Long Đĩnh. Nhưng Long Đĩnh
lên ngôi lại liền bị các hoàng tử Long Ngân, Long Kính nổi dậy đánh
tơi bời. Phải hơn một năm sau Long Đĩnh mới dẹp yên được
loạn lạc.
Long Đĩnh có lẽ là ông vua tàn bạo nhất
hoàn
vũ.
Bình thường ông ưa lấy chuyện giết chóc làm
trò vui. Nhiều lần ông thân xuống nhà bếp tự tay thọc huyết bò heo gà vịt rồi trao cho nhà bếp.
Ông bắt
tử tù quấn rơm vào mình, tẩm dầu rồi đốt cho nóng chạy trước khi chết. Ông bắt tù leo lên cây rồi sai đốn cây cho ngã. Ông sai trói tù dưới chân cầu để chờ nước lên xem tù chết ngộp như thế nào. Nghe ở Ninh Giang
có nhiều
rắn độc, ông sai trói tù bên mạn thuyền rồi cho bơi qua bơi lại để cho rắn cắn. Có khi ông cho để mía trên đầu
nhà sư mà róc vỏ rồi
giả vờ trật tay cho dao bổ xuống đầu làm cho chảy máu, trong số đó có
nhà sư Quách Ngang,
nhà sư có tiếng đương thời.
Năm Nhâm Thân,
ông
đánh dẹp giặc Mán, bắt được một tù trưởng đem về đánh đập
hành hạ. Tên này chịu không thấu kêu tên tục vua
Đại Hành mà chửi. Thế mà Long Đĩnh
sung sướng cười ha hả vì lâu nay Long Đĩnh vẫn
hờn giận vua cha đã
cố
ý không truyền ngôi cho mình.
Long Đĩnh lại hoang dâm
vô độ nên mắc bệnh không ngồi dậy được. Lúc thiết triều ông thường phải
nằm nghiêng nên người thời bấy giờ vẫn quen gọi là Ngọa Triều. Thế mà ông vẫn tìm niềm vui bằng cách sai mấy tên hề nhại tiếng những viên quan tấu
trình công
việc làm chốn triều đình không còn thể thống gì hết.
Trong
tình trạng triều đình như thế, sư
Vạn Hạnh bèn
ráo riết bí mật vận động sắp đặt tạo ra một cuộc chính biến để cứu vớt
lê dân. Dân chúng
đồn ầm lên về chuyện có một cây gạo lớn ở làng Diên Hồng bị sét đánh gẫy, trên thân cây bị tróc vỏ thấy có mấy chữ "Hòa đao mộc lạc,
thập bát
tử thành". Chữ hòa, chữ đao, chữ mộc
hợp lại
thành chữ Lê, chữ thập, chữ bát, chữ tử
hợp lại thành chữ Lý. Câu chữ Hán trên
chiết tự và
giải nghĩa thành "Lê rụng, Lý thành". Không bao lâu
khắp quân đội lẫn dân chúng đều
nghe lời "truyền sấm" đó....
Giữa lúc đó thì vua Ngọa Triều bỗng mắc bệnh nặng rồi qua đời. Người con mới 4 tuổi của ông được ông di chiếu truyền ngôi.
Thấy cơ hội đó, một viên quan có
thế lực trong triều là Đào Cam Mộc bèn đến gặp Lý Công Uẩn và bàn:
-
Hồi trước đức vua
tối tăm bạc ác nên lòng trời
chán ghét, con ngài thì bé nhỏ quá làm sao kham nổi việc nước trong buổi đa nạn này? Dân chúng
trông chờ chân chúa như khát nước mong mưa. Thân Vệ nên theo gương
Thang, Võ để cho dân
nhờ. Trước đây họ Lê lấy nước củ a h ọ Đinh được coi là
chính đáng thì nay nếu Thân Vệ làm việc này cũng vậy, trên hợp ý trời dưới
thuận lòng dân chứ khư khư giữ cái tiết mọn làm gì?
Lý Công Uẩn
trả lời:
- Ông muốn đem cái họa giết
ba họ đến cho tôi sao? Tôi không dám nghe đâu!
Đào Cam Mộc
trở về. Nhưng hôm sau ông lại đến gặp Công Uẩn, nói:
- Lời sấm đã nói rõ họ Lý sẽ dấy lên, đổi họa ra phúc cho đất nước, Thân Vệ còn
ngần ngại gì nữa?
Lần này thì Công Uẩn
xiêu lòng:
- Ý ông và sư
Vạn Hạnh giống nhau, nhưng làm sao cho trong ấm ngoài êm?
-
Dân đang đói khổ, Thân Vệ là người công bình, khoan thứ
vỗ về ai không nghe?
Được sự bằng lòng của Công Uẩn, Đào Cam Mộc chủ động
triệu tập các quan,
lợi dụng lòng căm ghét củ a h ọ đối với vua Ngọa Triều, ông
thuyết
phục họ tôn Công
U ẩn lên ngôi Hoàng Đế. Cuộc chính biến đã xảy ra không đổ một giọt máu.
*
Chú tiểu Công Uẩn của chùa Cổ Pháp bấy giờ đã
trở thành vua Lý
Thái Tổ. Ngài là vị vua khai sáng ra triều Lý, một
triều đại tiếng tăm lừng lẫy về những chiến công phá Tống bình Chiêm, khiến các lân bang lớn nhỏ đều
phải
kiêng nể.
Sau khi
lên ngôi, Lý
Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Về nông nghiệp, ngài cho đắp đê Cơ Xá để tránh
thủy tai hàng năm làm
thiệt hại mùa màng. Về
văn học, ngài cho lập Văn miếu để
tôn sùng Nho học và mở khoa thi
Tam giáo (Phật, Lão và
Nho giáo).
Vốn
xuất thân từ cử a thi ền, Lý
Thái tổ đặc biệt trọng đãi và khuyến khích
Phật giáo. Ngài phong sư
Vạn Hạnh là
Quốc Sư và cho sưu tầm
Tam Tạng kinh điển để
truyền bá đạo Phật. Ngài cũng cho xuất tiền kho để xây
8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ, quê hương ngài). Tại thành Thăng Long, ngài cho lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế và cung Thái
Thanh. Bên ngoài thành Thăng Long thì ngài cho xây các chùa Thắng Nghiêm,
Thiên Vương, Cẩm Y,
Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên Đức và Thiên Quang.
Ngoài ra, những chùa đổ nát ở các đị a h ạt khác đều được ngài cho tu sửa.
Việc cải tổ lớn lao
nhất của vua Lý
Thái Tổ nhờ
ảnh hưởng của
Phật giáo là
bãi bỏ được
hình
luật đặt
vạc dầu và nuôi cọp beo để
trừng trị tội phạm như dưới hai triều Đinh, Lê. Bản sắc
từ bi của
Phật giáo đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách trị dân của cả triều Lý. Như vua Lý Thái Tôn
tha tội không giết Nùng Trí Cao, người đã
nổi loạn, vì ông ta là người còn lại
duy nhất của một
dòng họ. Như vua Lý
Thánh Tôn không giết vua Chiêm
Thành là Chế Củ. Cũng chính vua
Thánh Tôn, vào một
mùa đông cực lạnh, đã ra lệnh phát áo chăn cho tù phạm và cho xét
giảm tội và tha bớt. Không có một vị vua Lý nào hiếu sát hay hoang dâm
quá độ.
Có thể nói nhà Lý là
triều đại có chính sách cai trị dân khoan hồng
độ lượng nhất
trong lịch sử mà không một
triều đại nào khác
theo kịp.
Ngô Viết Trọng