Vào đầu năm dân quốc, lão Hoà ThượngĐế Nhàn có một học trò làm nghề vá nồi (câu chuyên này có ghi chép trong “Ảnh Trần Hồi Ức Lục”, pháp sư Đàm Hư khi mở Phật thất ở Hong Kong có giảng, ông có băng ghi âm, tôi từ nghe băng ghi âm này mà biết được, tôi đã nghe băng ghi âm này từ lâu rồi), là người thợ vá nồi, không hề đi học, không biết chữ, cả đời cuộc sống rất là nghèo khổ. Pháp sưĐế Nhàn là bạn thời thơ ấu với ông, họ cùng sanh ở một thôn trang cho nên lúc nhỏ cùng chơi chung với nhau.
Vào lúc đó, thấy pháp sưĐế Nhànxuất gia làm pháp sư rồi, ông rất ngưỡng mộ, cho nên ông liền đi tìm pháp sưĐế Nhàn mong cầu xuất gia. Pháp sưĐế Nhàn liền khuyên ông không nên xuất gia, tại vì sao vậy? vì tuổi tác lớn rồi, đã hơn 40 tuổi, vào thời trước hơn 40 tuổi thì gần đến tuổi già.
Ngài nói ông không có đi học, học kinh giáo thì không kịp, người cũng ngu độn, xuất gia thời khoá sớm tối ông cũng không thể học thuộc, vậy ông ở trong chùa nhất định bị người khác xem thường, người ta sẽ khinh khi ông, ông sẽ khó mà sống qua ngày.
Dù Pháp sư nói với ông như vậy nhưng ông nài nỉ là ông không xuất gia không được. Sau cùng Lão pháp sưĐế Nhànthương lượng với ông, ngài nói nếu như ông chân thật muốn xuất gia, vậy thì ông phải nghe lời của ngài nói. Ông ấy nói việc đó thì không vấn đề gì, ông đã lạy ngài làm sư phụ, ngài nói việc gì thì ông đều nghe.
Thế là Pháp sư cạo đầu cho ông, sau khi cạo đầu rồi, đưa xuống dưới quê, tìm một cái chùa hoang (lúc đó vào đầu năm dân quốc, quân phiệt tàn phá, xã hội không an định, cho nên rất nhiều chùa nhỏ không có người ở), rồi tìm mấy cư sĩ chăm sóc cho ông, đưa chút đồ ăn đến cho ông, bảo ông ở nơi đó và chỉ dạy ông một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Pháp sư nói với ông, ông nên một ngày từ sớm đến tối chỉ niệm câu Phật hiệu này, niệm mệt rồi thì ông nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khoẻ rồi thì phải mau niệm tiếp.
Ông thật biết nghe lời, phương pháp này tốt không có áp lực. Niệm được hơn ba năm thì công phu của ông thành tựu, ông đứng mà vãng sanh. Chuyện này cách chúng ta không bao lâu, cũng chỉ là sự việc bảy mươi – tám mươi năm trước, chân thật không hề giả. Con người này thế nào? Con người này tín tâm sâu dày, ông có thể tin sâu, không có một chút hoài nghi, Lão sư dạy ông thế nào thì ông chân thật làm theo.
Ba ngày sau khi ông vãng sanh thì lão Hoà thượngĐế Nhàn mới đến cái chùa đó để lo hậu sự cho ông. Ngài rất là tán thán ông, ngài nói, thiên hạ (ngài nói thiên hạ chính là nói toàn nước Trung Quốc), pháp sưgiảng kinh nói pháp cũng không thể sánh được ông, tòng lâmtự việntrụ trì cũng không thể so bì được ông. Đây là ngài nói về sự thành tựu. Sau khi vãng sanh, ông đứng ở nơi đó ba ngày. Thành tựu được điều này không có gì ngoài “tin sâu nguyện thiết, thành thật niệm Phật”.
Những người như chúng ta là không thành thật, cho nên ta không thể thành tựu. Người thành thật thì quyết định có thành tựu, vì người thành thật không có tạp niệm, người thành thật không có phân biệtchấp trước, cho nên tâm của họ là thanh tịnh. Tâm của chúng ta không thanh tịnh, tại vì sao không thanh tịnh? Vì chúng ta có phân biệt, có chấp trước, nên tâm của chúng ta không thanh tịnh. Do đó trên Kinh Kim Cang nói phá bốn tướng “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Tâm bình thì khí hoà, thuận cảnhthiện duyên tâm sẽ không dao động, nghịch cảnhác duyên tâm cũng không dao động. Tâm của họ là định, tâm của người thợ vá nồi là định, ba năm không phải là thời gian quá dài thì ông liền có thành tựu, hơn nữa thành tựu lại thù thắng đến như vậy. Ông biết trước giờ ra đi. Sự việc này trong lúc giảng giảichúng tôi cũng đã nhắc đến rất nhiều lần, rất nhiều đồng tu đều rất quen thuộc.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới.
Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN
Một đồng.. giữa lúc nguy nan
Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình..
Bão giông tan tác quê mình..
Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia....
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.