HÃY LÀ NGỌN ĐÈN CHO CHÍNH MÌNH
Thực hành Phật pháp là học cách sống, và đó là con đường vừa đầy niềm vui vừa đầy thách thức. Việc này đòi hỏi chúng ta phải mở rộng tâm thức để có được một cái nhìn mới mẻ về những nhận định hay ý kiến của chính mình và để không chấp nhận bất kỳ điều gì chỉ dựa trên niềm tin thuần túy. Khi thực hành Phật pháp, hành giả sẽ được khuyến khích kiểm chứng thật kỹ ngay cả những niềm tin chắc chắn nhất vẫn được ấp ủ, kể cả niềm tin mà hành giả có sẵn về giáo pháp. Thật là may mắn, con đường đó có thể là cuộc hành trình không bao giờ kết thúc về việc tự khám phá vào mọi khía cạnh trong đời sống của hành giả. Trước khi tìm hiểu sâu hơn những lời dạy đó trong kinh này, tôi muốn kể lại một câu chuyện. Câu chuyện này được cho là đã xảy ra tại một ngôi làng ở Trung Quốc nơi mà các Phật tử từ nhiều nơi đến tụ tập để nghe pháp được truyền giảng bởi một vị pháp sư trẻ tuổi rất nổi tiếng. Một hôm, một vị thầy già đáng kính tham dự buổi giảng pháp với đám đông. Khi vị pháp sư trẻ nhận ra vị thầy già, ông nói, “Mời trưởng lão lên đây. Hãy ngồi cạnh tôi trong lúc tôi giảng pháp”. Nghe vậy, vị thầy già đáng kính tiến đến ngồi gần vị giảng sư trẻ. Vị giảng sư trẻ tiếp tục bài giảng và mỗi lời vị này nói ra đều được trích dẫn từ kinh điển hay từ một vị tổ Thiền. Vị thầy già đáng kính bắt đầu ngủ gà ngủ gật trước đám đông. Mặc dù vị giảng sư trẻ đã nhận thấy điều ấy qua khóe mắt, ông vẫn tiếp tục bài giảng. Ông càng trích dẫn những điều có thẩm quyền, vị thầy già càng chìm sâu vào giấc ngủ. Cuối cùng, vị pháp sư trẻ dừng lại và hỏi, ‘Có gì nhầm lẫn không? Bài giảng của tôi quá chán, quá tệ, quá sai lạc hay sao?’ Vào lúc đó, vị thầy già nghiêng người về phía người giảng sư trẻ và véo ông ta một cái thật mạnh. Người giảng sư trẻ kêu lên ‘Ái cha!’ Vị thầy già nói, ‘Thế đấy! Đây mới là điều mà tôi đã phải từ xa đến để được nghe. Lời giảng tinh túy vừa rồi. Lời giảng “Ái chà!” ấy’. Giống như vị thầy già trong câu chuyện thiền vừa kể, câu trả lời của Đức Phật dành cho người Kalama nhấn mạnh đến tính ưu việt của kinh nghiệm trực tiếp. Đức Phật hiểu rõ rằng con người phải nương tựa vào nhiều loại thẩm quyền, có những thẩm quyền nội tại, một số là ngoại tại, một số đáng tin cậy, một số khác là những con đường sai lạc. Ngài khuyên họ rằng chỉ vì một giáo pháp nào đó là cổ xưa, hay được ghi nhận lại trong các kinh điển, chưa chắc đã là chân thực. Chỉ vì một giáo pháp nào đó tỏ ra là hợp lý hoặc vì con người bị thu hút bởi người đã giảng giải điều đó, chưa chắc đã có nghĩa đó là điều minh triết. Vậy thì câu hỏi trở nên là: Bằng cách nào ta phân biệt được điều đáng tin cậy với những điều sai lầm hay những hướng dẫn lạc lối? Đâu là nơi ta có thể chuyển hướng theo những chỉ dẫn để học được cách sống đúng nghĩa? Trong kinh Kalama, Đức Phật không hề phủ nhận sự suy xét hay luận lý. Ngài cũng không cho rằng những giáo pháp cổ xưa là không thích hợp, hoặc con người phải phát hiện lại bánh xe pháp mỗi khi họ đối diện một sự lựa chọn. Không, Đức Phật cung cấp cho người Kalama – và cho tất cả chúng ta – những chỉ dẫn tổng quát mang tính cách phòng ngừa chứ không phải là cấm đoán. Ngài lưu ý chúng ta đừng tuân phục một cách mù quáng trước mọi thẩm quyền của truyền thống hay của các đạo sư, hoặc thẩm quyền của những ý tưởng của chính mình. Ngài cũng cảnh giác phải chống lại mọi sự tuân phục mù quáng trước những suy xét và luận lý. Với những hành giả mới bước vào đời sống thực hành giáo pháp, những điều căn dặn này đặc biệt có ý nghĩa. Ở bước đầu trong việc thực hành, ta sẽ thấy rằng những niềm tin được khơi gợi bởi giáo pháp, bởi các vị đạo sư cũng như sự hỗ trợ của cộng đồng tu tập giúp đỡ ta rất nhiều trong việc thúc đẩy và cung cấp năng lực cho ta để ta bắt đầu tu tập. Tuy nhiên, niềm tin đó chỉ có tính cách tạm thời. Hãy nhớ, Đức Phật bảo ta phải kiểm chứng mọi giáo pháp và mọi ý tưởng như là những “giả thuyết có thể chấp nhận được” trong phòng thí nghiệm. Có một “thời điểm hết hạn” khi một niềm tin dựa trên sự hỗ trợ bên ngoài phải nhượng bộ trước những niềm tin xây dựng trên kinh nghiệm cá nhân. Tại thời điểm đó, sự hiểu biết của ta không còn là sự hiểu biết vay mượn của người khác. Đó là sự hiểu biết chân thực và là của chính mình. Điều đó xảy ra khi ta phát triển được khả năng nhận thức rõ và giữ được sự ổn định của chánh niệm. Cho dù là người mới hay kẻ đã có kinh nghiệm thiền định, khi thực sự tìm hiểu kỹ về lòng tin và những niềm tin chắc chắn của mình, có khi nào bạn thấy điều đó thách thức bạn và khiến bạn cảm thấy đuối sức? Điều đó chắc chắn đã từng là kinh nghiệm của tôi. Giáo pháp có thể gợi hứng cho bạn. Chỉ cần nghe giáo pháp không thôi cũng có thể làm thỏa mãn trí tuệ và nuôi dưỡng cảm xúc của bạn. Ngay cả như vậy, hãy nhớ phải đặt câu hỏi: Điều đó đưa ta đến đâu? Có phải việc thực hành thiền định gợi cho ta đi theo hướng hành động với từ bi và trí tuệ hơn? Phải tìm hiểu kỹ điều này. Nhưng đừng dừng lại ở đó. Để cho giáo pháp trở thành kinh nghiệm thật của chính mình – để cảm nhận được cái “ái chà” của giáo pháp – bạn phải sống miên mật với giáo pháp, nắm lấy giáo pháp để nghiên cứu thật cẩn thận, và để cho giáo pháp nắm lấy bạn để xem xét bạn thật cẩn thận.Đức Phật đã nói, “Hãy làm ngọn đèn cho chính mình”. Những câu hỏi của bạn thắp sáng con đường. Đó chính là điểm cốt lõi của kinhKalama. Cuối cùng, mọi ý niệm của bạn về chân lý phải được đưa vào để kiểm chứng trong những kinh nghiệm sống động. Trong suốt những lời giảng của Ngài, Đức Phật cung cấp một công thức đơn giản để dẫn dắt chúng ta đi theo hướng đó: hãy xem xét mọi sự về phương diện nhân quả. Bất kỳ điều gì thô tháo vụng về dẫn tới tai họa hoặc đau khổ cho mình và cho người, ta phải nhận biết và từ bỏ. Bất kỳ điều gì khéo léo tinh tế đưa đến an lạc và hạnh phúc cho mình và cho người, ta cần phải theo đuổi. Hãy nhớ rằng ngay từ đầu trong cuộc sống của một bậc Đạo sư, Đức Phật đã nói, “Ta chỉ giảng dạy một điều duy nhất, đó là sự khổ và cách thoát khổ”. Thế rồi, Ngài trao cho chúng ta một bộ cẩm nang thực hành nhấn mạnh đến việc học cách sống và cách làm giảm bớt đau khổ, được gọi là Tứ diệu đế: “Đây là khổ; đây là nguyên nhân của khổ, gồm có tham ái và bám chấp; đây là trạng thái chấm dứt khổ; và đây là con đường dẫn đến trạng thái chấm dứt những đau khổ đó”. Tứ diệu đế là kim chỉ nam của chúng ta trước mọi hình thái của cuộc sống, cho dù đó là lúc ngồi trong thiền đường hay khi chạm trán một người xa lạ ngoài phố. Trải qua hàng ngàn năm, giáo pháp đó vẫn được chia sẻ bởi mọi giáo phái Phật giáo và đã hướng dẫn vô số hành giả. Tứ diệu đế mang lại một phương tiện giúp con người học được những biện pháp khéo léo nhằm làm giảm đau khổ trong cuộc đời và giải thoát từng con người khỏi mọi khổ đau trong cuộc sống. Nhưng ngay cả những giáo pháp căn bản nhất của Đức Phật như Tứ diệu đế cũng cần phải được đặt dưới ánh sáng của sự truy vấn được nói trong kinh Kalama. Tôi đã học được điều này trong thời gian bắt đầu trở thành một hành giả, khi Đại sư Ajahn Chahngười Thái đến thăm Trung tâm Thiền Insight Meditation Society tại Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Vào lúc ấy, hầu hết hành giả sơ cơ chúng tôi đã bị mê hoặc bởi năng lực giải thoát của hạnh buông xả. Trong những câu chuyện của chúng tôi, ai cũng nói đến việc buông xả điều này, buông xả điều nọ – và hầu như buông xả “tất cả mọi sự”. Khi nghe những điều ấy, ngàiAjahn Chah có vẻ càng lúc càng ngờ vực. Ngài khuyến khích chúng tôi từ tốn hơn, cô đọng hơn, và xem xét thật cẩn thận những khoảnh khắc khi chúng tôi thực sự cảm thấy đau khổ. Thay vì vội vàng buông xả, ngài nhắc nhở chúng tôi phải đối mặt trực tiếp với đau khổ và nghiệm kỹ xem có phải điều đó có nguyên nhân là những hình thức tham ái và bám chấp hay là vì thiếu những thứ mà đáng ra phải có. Ngài cho rằng việc buông xả thực sự phải học được từ việc thấy rõ cái giá mà chúng ta phải trả trong việc bám giữ hay chống đối và từ niềm vui mà chúng ta được hưởng khi chúng ta đã được giải thoát khỏi gánh nặng của việc bám chấp. Việc chú ý đến những kinh nghiệm của chính mình về đau khổ, thay vì quan tâm đến những ý tưởng mang tính khái niệm của việc buông xả, cho chúng ta cơ hội thấy rõ lợi ích của Tứ diệu đế trước những thử thách gắt gao trong cuộc sống của chính mình. Sự chuyển hóa đau khổ đến từ nhận thức sẽ có năng lực mạnh mẽ nhất khi sự chuyển hóa đó là thiết thân với kinh nghiệm trong cuộc sống của chính chúng ta. Hãy truy vấn, đặt câu hỏi và kiểm chứng những hiểu biết của mình về giáo pháp để sự hiểu biết đó được ghi khắc trong tâm khảm của mỗi người. Tác Giả: Larry Rosenberg là người Nga gốc Do Thái di cư sang Hoa Kỳ, nghiên cứu về Tâm lý học Xã hội tại University of Chicago và đã từng là giáo sư tại Harvard. Không hài lòng về học thuật phương Tây, ông tìm hiểu đạo Phật, thực hành với các vị thiền sư Đại Hàn và Nhật Bản, rồi trở thành một học giả chuyên về Thiền Nhập tức Xuất tức niệm (Anapanasati). Ông là tác giả một số tác phẩm Phật giáo được ưa chuộng.
Trích: Three Steps to Awakening: A Practice for Bringing Mindfulness to Life, Larry Rosenberg, Shambala Sun Publications Inc. 2013
Theo: Be a Lamp Unto Yourself, Shambala Sun Magazine
(Văn Hóa Phật Giáo)
|