Hương Xuân Trà

12/02/20245:25 SA(Xem: 1091)
Hương Xuân Trà
blank
HƯƠNG XUÂN TRÀ

Trịnh Khải Hoàng

buoi sang mua xuanBuổi sáng mồng một Tết, Ngữ Uyên thức dậy sớm, nàng bước ra khoảng sân vườn , nhìn lũ ong bướm bay lượn chập chờn bên mấy hàng tường vi , có con buông thân  đáp nhẹ làm lay động cánh hoa tươi hãy còn khép nép nở như e ấp thẹn thùng với chàng bướm giang hồ mầu sắc trử tình , lãng mạn cợt đùa lã lơi dưới ánh nắng ban mai và gió Xuân thổi phơn phớt hơi lạnh của tiết Đông cuối mùa. Nàng Xuân dạo gót hài tiên đâu đây mà hoa tươi nở rộ cả khu vườn…

   Đêm qua giao thừa , em trai của Ngữ Uyên đã đốt quá nhiều pháo , xác giấy đỏ hồng như trải thảm ở hàng hiên . Cội Mai già cưu mang nhiều hoa vàng rực rỡ , thân cây trĩu cành , xám vỏ , hình vóc đã cằn cỗi lão hoá với thời gian … Tuy vậy, những đọt chồi mơn mởn xanh tươi với dăm chiếc lá non phất phơ đong đưa trước gió Xuân thổi nhẹ hây hây và nhiều nụ hoa chưa nở hãy còn ươm lóng lánh hạt sương mai … khiến cho Ngữ Uyên chiêu cảm sức sống phơi phới tràn đầy tuổi trẻ và tình Xuân như đang nở rộ sắc hoa hàm tiếu trong tâm hồn ! Lão Mai luôn nở hoa như nhất , đài hoa tám cánh tựa đoá sen nho nhỏ vàng tươi, nhuỵ hoa lấm tấm phấn chuyển hương thơm nhẹ thoảng làm thêm thanh thoát không gian vào những ngày đầu năm , khi tiết Xuân giao thừa thổi len hơi man mát làm gợn nhẹ những sợi tóc mơn man xuân thì và lay nhẹ tà áo dài thiếu nữ trên đường đi lễ chùa … Ô hay , trời Xuân nửa đêm về sáng và mùi hương trầm nhà ai đốt muộn còn phảng phất trong không gian  khiến cho ngày Tết như tự có gì nhiệm mầu thiêng liêng huyền diệu … ! Ngữ Uyên chợt nhớ tới bài thơ “Hái Lộc Đầu Xuân “ của người yêu đã cùng đi lễ chùa với Uyên mấy năm qua rồi và ôi …  thật diễm tuyệt làm sao !

Gió mơn trớn Mai vàng e ấp nở
Cành chồi non ươm lóng lánh sương mai
Bướm vờn bay, ong quyến rũ chập chờn
Xuân diễm tuyệt ! Xuân tươi Xuân thắm mãi…

Em biết sang năm thêm một tuổi
Tóc mây mời gió lẳng ghẹo đường ngôi
Tay ngà ôm dăm đoá mộng Xuân thì
Chuông giục giã chùa Pháp Vân trẩy hội.

Lễ chùa đầu năm hương trầm nghi ngút
Em nguyện thầm mong vi vút cung thiên:
“Nếu phải duyên xin cho đặng vẹn tuyền,
Con yếu đuối, Phật - Trời thương chúc phúc…”!

Chàng đứng hoa viên cảm đề Xuân thưởng
Bài thơ chữ thảo trác tuyệt văn nhân…
Ý thơ hay dòng nhã nhạc gieo vần…!
Em mơ thấy thiên đường đôi long phượng.

Em biết sáng hôm nay chàng lỡ bút !
Bởi nhìn em, nét đọng ở vần Yêu
Thơ tứ tuyệt tả Xuân dáng mỹ miều
Xuân như ý nghĩa là Xuân hạnh phúc…!

Vào chánh điện, Phật ngồi cao an tĩnh
Em niệm Namô, tâm len lén ngoài hiên
Lộc đầu Xuân vừa chớm nở chuyện tình
Chàng có biết nhờ mối mai dạm tiếng ?

Xuân hiện đến lòng em xao xuyến quá…!
Trời Xuân hương ngát quyện không gian
Pháo mừng Xuân vang nổ khắp thôn làng…!
Em biết tình Xuân xôn xao rất lạ…!

Sư cụ chúc:” Mẹ con Bà sang năm,
Hào con, hào tài vượng cát hạnh thông,
Hỷ sự viên, có cháu đặng ẳm bồng…”.
Mẹ đáp:” Bạch Thầy, cháu còn dại lắm…”.

(HÁI LỘC ĐẦU XUÂN – Trịnh Khải Hoàng)

      Trên đường đến nhà Uyên , phố xá ngày mồng một Tết thật là vui tươi và nhộn nhịp dù chỉ mới vừa hừng sáng đã có nhiều thiếu nữ xinh đẹp diện áo dài nhiều mầu sắc khoe dáng Xuân sang , nói cười rộn rã , có cô sánh vai cùng người tình với niềm hạnh phúc hiện lên khuôn mặt rạng rỡ hân hoan … !

    Uyên định quay vào nhà thì Uy cũng vừa dừng xe trước hàng hiên , chàng tắt máy và nhìn vẻ mặt ngạc nhiên lẫn vui thích của Uyên … ! Ánh Xuân thoáng hiện đâu đây mà hoa hàm tiếu nở rộ trong vườn ! Nàng mở cổng cho Uy đẩy xe vào trong sân nhà…

-  Anh về khi nào ,  sao không báo tin cho em hay , để em đi đón ?
-  Mới buổi sáng nay thôi , Bố Mẹ có khoẻ không , giao thừa đêm qua Em có đi lễ chùa vui không … ?
-  Dạ vui Anh … !

Nàng ôm nhẹ cánh tay Uy tình tứ và nói nhỏ :

-  Anh vào nhà , ngồi chờ Em một vài phút để Em đun nước pha trà “chiêu đãi” Anh . Đêm qua Bố Mẹ canh thức cúng Giao Thừa rồi đi lễ chùa đến quá khuya mới về nhà … Nên bây giờ vẫn hãy còn ngủ , có lẽ cũng gần thức dậy rồi … Anh chờ Em nhé !

Nói xong nàng quay lưng bước xuống nhà dưới. Buổi sáng đầu Xuân hôm nay quả thậthạnh phúc vô cùng với Uyên , có Uy bên cạnh nàng cảm thấy mọi cảnh vật chung quanh như thay dáng mới , tình tứ ý vị hơn hay bởi chính tâm hồn nàng cũng đang hé nở rộ cánh hoa yêu diễm tuyệt lung linh trước chúa Xuân vốn là nòi tình lãng mạn … ! Có tiếng nhạc Xuân từ nhà hàng xóm :

Xuân đã về, Xuân đã về, kìa bao ánh Xuân về tràn lan mênh mông…
Trên cánh đồng, chim hót mừng, đang thướt tha từng đàn tung bay vui say…!!!

   Còn lại một mình ngồi trong phòng khách , Uy ngẩn nhìn bức tranh thuỷ mạc Viễn Phố treo trên tường , vẽ phong cảnh ngoại phố thị , một thảo am đơn sơ ở ven núi , xa xa một thuyền câu thả trôi theo dòng nước … Uy thoáng mơ ước một mai về quê, chân mang đôi guốc vong thoải mái dạo quanh thôn làng , nhìn buổi sáng bình minh người dân lành hiền hoà rời mái tranh vui việc đồng áng , buổi chiều lắng nghe tiếng sáo diều vi vu của đám trẻ hồn nhiên thả trên bầu trời xanh thẳm cùng đám mạ non được gió đồng nội thổi lùa gợn thành những lớp sóng xanh tươi như chạy rượt đuổi bắt nhau đến tận chân trời … và có Ngữ Uyên nữa , nàng sẽ sanh cho Uy đôi ba đứa con ngoan , con trai khôi ngô thông minh , lém lỉnh , con gái đẹp , lí lắc hiền từ … ! Ôi…hạnh phúc thật là giản dị mà cũng không dễ đạt !

-  Anh đang suy nghĩ gì mà đăm chiêu vậy, có Em không ?

Uyên bưng khay trà trên tay rồi đặt để xuống bàn , chiếc ấm đất Tử Sa song ẩm, một chén tống , hai chén quân nhỏ như hạt mít , vài sợi khói mỏng bay nhẹ toả hương trà thanh khiết dìu dịu … ! Uy đoán biết hẳn là loại trà Bích Lôi Xuân (碧螺春)lá nhỏ như móng tay , được các thiếu nữ hái vào mùa Xuân , màu xanh búp lá non biêng biếc diệp lục tựa như màu vỏ của một loại ốc nhỏ chỉ xuất hiện vào mùa Xuân ở Bích La Thôn – Trung Hoa khi thời tiết vừa thay mùa ấm áp trên vùng đồi núi cao nguyên đầy hơi lạnh vừa qua mùa Đông lan xuống những luống trà xanh tươi mơn mởn trồng ở ven đồi … Chàng trêu  nàng :

-  Trà Sư , à không “trà Em” chiêu đãi Anh loại danh trà “mạn Lài” phải không ? Anh thường bay bổng với con tàu trên trời … nên nhiều khi tưởng mình là loài chim không có cánh “bơi” trong không gian trống rỗng thì làm sao biết thưởng thức thú trà thất cầu kỳ của em ?

-  Không phải Trà Đạo , Trà Thất và trà “mạn Lài” như ai đó ham hố mau vội tưởng bở mà trêu ghẹo “Mạn Đà Sơn Trang” vốn là  “thục nữ” với “mạn thuyền” lãng đãng tương tư nhớ ai , ai nhớ đó thôi … !

Ngữ Uyên dịu dàng xoay trở nhẹ ấm trà , rót ra chén tống , rồi chia đầy hai chén quân , xong đẩy nhẹ chung trà cho Uy . Tuy không được như Trà Thất có đầy đủ cảnh trí để hưởng thú tiêu dao , thanh tao của người nhàn hạ ! Nhưng nhìn đôi bàn tay Uyên đẹp thanh thoát uyển chuyển với khai trà và mầu xanh bích thuỷ  cùng hương vị của trà Bích Lôi Xuân còn gọi là “Nữ Xuân Trà” đang lan toả những sợi khói lam nhẹ như chút  hơi ấm áp lan nhẹ trong không gian tình Xuân , khiến cho Uy có cảm giác niềm hạnh phúc lâng lâng an lạc … ! Uyên đến ngồi cạnh bên Uy với chung trà trên tay. Nàng nói như tâm tình :

-  Em vẫn thích hương vị của thanh trà Trà Bích Lôi Xuân , rót ra với chung tráng men màu trắng , trà phải được hái vào buổi sáng sớm trong những ngày đang  mùa Xuân mới hội đủ khí tiết , hương sắc và thanh vị … lại nữa chỉ để trà hong gió thiên nhiên thổi khô , chứ không xao sấy bằng củi lửa , hay nhiệt điện hoặc chế biến , pha trộn , ướp tẩm với những loại hoa thơm như hoa Sen , Lài , Nguyệt Quế , Dạ Hợp , … hoặc hoá chất để làm tăng thêm hương vị sắc mầu chiêu khách không sành điệu … ! Như vậy mới giữ được nguyên tính chất của thanh trà Bích Lôi Xuân . Nhưng  những loại trà như : Thiên Lư, Thiên Diên Trà , Vũ Di , Long Tĩnh , Bạch Mao , Ô Long , Thiết Quan Âm , Trà Mạn Thái Nguyên ở miền Bắc Việt Nam … thì lại tuỳ theo sở thích của người thưởng thức mà chế biến xao sấy … Với riêng em thì thưởng thức hương vị của trà mộc Thái Nguyên tương tợ Bích Lôi Xuân , nhưng vị hơi chát  và đậm đà hơn như ta đang thưởng thức tiết trời chính Xuân sẽ vào Hạ là đỉnh điểm của Trà Thái Nguyên và là của riêng tao nhân , mặc khách Việt sành điệu ẩm trà … !

Thiên niên sự tách trà buổi sớm
Vĩnh cửu hề một giấc ngủ ngon.

Trên đỉnh Trường Bạch Sơn hay còn gọi là Núi Bạch Đầu (백두산, 白頭山) ở ranh biên giới Trung Hoa và Bắc Hàn , được thẩm thấu dịch thuỷ và phù sa từ dòng Hắc Long Giang với hàn băng thiên niên bản địa , có rất ít những ngày nắng ấm … Nhưng tại nơi đây lại là môi trường sinh thái lý tưởng cho giống Sâm Cao Ly và Sơn Trà, riêng loại Trà còn được gọi là Bạch Đầu Trà vì ở ngọn đọt non màu  phơn phớt như lụa khi còn tươi , đem hong gió hoặc sấy khô sẽ trở mầu trắng như bạc đầu , cũng còn có tên gọi khác nữa như truyện kiếm hiệp , tiên cảnh vậy… là … gọi là Thiên Hạc Sơn Trà …

-  Thật lý thú ! Nhưng … do đâu có tên Thiên Hạc Sơn Trà … ?

-  Trên đỉnh Trường Bạch Sơn vào mùa Xuân tiết trời tương đối có chút ấm áp nên những đọt chồi non của trà trổ búp lá , giống chim Bạch Hạc sống và di cư theo mùa , chúng bay về tề tựu nơi đây để điểm những bông tuyết còn đọng trên những cội thiên niên Tùng và thích thú săn tìm ăn những đọt Bạch Đầu Trà đang trổ dăm chiếc lá non còn lấp lánh những hạt sương mai …  Người dân sinh sống gần vùng Trường Bạch Sơn lần theo dấu Hạc mà hái trà và đặc tên cho giống cao sơn Trà là Thiên Hạc Sơn Trà (天动 山茶) .

Uy với tay chăm thêm nước nóng vào ấm trà , lắt trở nhẹ để cho trà ngấm xong chàng rót ra chung nhỏ cho Uyên và rồi hỏi tiếp :

-  Em có thể “minh thuyết” thêm về giống Hạc trên thiên sơn cho Anh nghe … ? Anh rất thích chuyện Trà và chim Hạc nầy !

Học Thuật trong Văn Hoá Đông Phương rất thậm thâm vi diệu và có tầng bậc cho sở học , sở đắc của học chúng mà định phận , định thế , định danh , định hiền tài … Xưa nhà thơ Thôi Hộ  tự Ân công , người quận Bác Lăng - Trung Hoa vào thời đại Nhà Đường , ông vốn  là người có sở học uyên thâm , nho nhã , phong lưu … Năm  796, niên hiệu Trinh Nguyên ,  Thôi Hộ thi đậu Tiến Sĩ , được triều đình bổ nhậm làm Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam  … Một trong số những bài thơ nổi tiếng của ông kinh qua thiên niên kỷ đến ngày nay như bài Hoàng Hạc Lâu :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Hoàng Lạc Lâu-Thôi Hộ - Đường Thi)

 

-  Dường như người ta chỉ nhớ câu “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” nhiều hơn những câu thơ khác trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu ?

 

-  Theo riêng em thì câu thơ ”Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” trong Hoàng Hạc Lâu là tiêu biểu uyên thâm của Thôi Hộ mà thi tài chỉ là “cái” vỏ làm phuơng tiện chuyên chở sở học và là sở đắc của một cao nhân thời bấy giờ . Người đời có học, hiểu biết nên vốn quí trọng Thi Sĩ , vì Thơ là kết tinh của Văn Chương và hơn thế nữa Thơ đúng nghĩa thanh tao không chỉ Vị Nghệ Thuật không thôi … Trên hết là Vị Nhân Sinh. Nên Thơ Tình của TTKH cũng chỉ là thơ tình thôi . Nhưng hãy thưởng thức thiên tài hoa của Bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm bài Chinh Phụ Ngâm với nội dung Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh vì Chinh Phu, Chinh Phụ đều cùng ở trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng bảo vệ nước nòi :

 

Thiên Địa phong trần

Hồng nhan đa truân

 

diễn Nôm:

 

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

(Chinh Phụ Ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

 

-  Thế thì … còn ông “khách trú” Thôi Hộ “hoàng hạc nhất khứ bất phục phản”…?

-  Đã bảo từ … từ… ”Huynh” hãy từ từ bình thân và châm thêm trà cho “Đạo Cô”… hi … hi … hi… ! Trong Học Thuật Văn Đông Phương ,  khi người ta nói Bạch Hạc là để chỉ bách niên thanh tao cũng là kinh lịch của sở học trăm năm hay nhân thế thường tình như :

 

Tóc Mẹ bạc như tuyết phơi đầu núi

Dáng Mẹ gầy như vẻ hạc trăm năm.

 

Hay :


Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài , chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Kiều - Nguyễn Du
)

 

-   Nhưng trong Văn Hoá Phương Đông khi nói đến Hoàng Hạc tất yếu minh thị là “Thiên Niên Tài Hoa” , một ngàn năm thế gian mới có được một Người (viết Hoa) mà nếu sinh ra bất phùng thời , thì  ví như con Hạc Vàng đã bay đi , ngàn năm sau nữa mới  có cơ duyên gặp lại , đời người tính trăm năm đã “hết số” … Nên Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản là tri thời , là tiếc nuối … ! Thôi Hộ tri kỳ phận biết thời vận của mình đã lỡ và có phải cụ Tố Như Nguyễn Du cũng tương tự như thế nhưng khiêm nhường hơn Thôi Hộ chăng ? Cụ Tố Như tự nghĩ mình và Thôi Hộ xuất thân làm quan nhân , có tài kinh bang tế thế gì để  “ba trăm năm nữa nào biết được thiên hạ ai người khóc Tố Như” và “hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” ? Hay những thế hệ hậu nhân chỉ hoài niệm văn tài và thương cảm “tài hoa mệnh bạc” … ?

 

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,

Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.

(Nguyễn Du)


Và rồi tam thống khốc:

 

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như ?

(Nguyễn Du)

 

-  Nhưng một khi “cao nhân” ta …  à không , khi bậc Thiện Tri Thức  nói đến Hạc Huyền và Huyền Quyển tấc chỉ Vĩ Nhân tứ thiên niên kỷ vốn là bậc kỳ tài bốn ngàn năm mới có một trong thâm diệu uyên nguyên thông tuệ mà đời thường khó gặp và Huyền Quyển là Đồ Thư an bang tế thếtương tự như Hoa Mạn Đà (Mandharavas , Sen Thiên Giới , Hoa Vô Ưu) ba ngàn năm mới nở một lần báo tin bậc Siêu Nhân ra đời tại thế gian , hoa chỉ được biết trong tạng Kinh văn , chứ chưa có ai trong đời thường qua gần ba thiên niên kỷ được thấy qua … !

 

-  Em trở lại chuyện Thiên Hạc Sơn Trà trên Bạch Trường Sơn, để Anh thưởng thức “hàm thụ” hương vị loại cao sơn trà danh tiếng như mơ nầy…?

- Theo Sư Tuệ Minh  giống trà thiên nhiên nầy mọc ở những khe đá , hóc núi , ven suối quanh năm sương phủ , không có nhiều ánh sáng mặt trời nên lá trà như lụa non không có nhiều diệp lục tố , khi pha trà , nước trà ngã màu ngọc bích nhạt , trà hấp thụ khí tiết non cao thanh tao, nên hương thơm thoảng dịu trầm trì vướng vít chứ không bốc “hỗn” để rồi tan mau , vị có đầy đủ Lễ của Vương Trà : một chút chát , chút đắng , chút the đầu lưỡi , chút ngọt hậu ở cổ họng và đặc tính nguyên mộc của trà không thể lẫn lộn với bất cứ hương vị nào khác … Nếu được pha với nước từ suối nguồn Bạch Trường Sơn thì mới là tuyệt hảo … ! Trà vị cam tính ôn , khí trà dẫn xuống Đan Điền kích đến Thận thuỷ xông lên Bách Hội khiến người thưởng ẩm trà sảng khoái thân tâm như vơi đi niềm tục luỵ thường hằng trong miên mang thế sự đầy vơi … !

-  Thật nghe Em nói , Anh có cảm tưởng mình đang đàm đạo với Đạo Gia , Chân Nhân, hoặc Thầy Lang miệt vườn … à không … là “Trà Gia Nữ” … !!!

-  Anh cứ chế  giễu Em hoài … ! Nghe Em luận tiếp ba điều , bốn chuyện khác nhé ! Anh biết không ?

-  A … không … !

-  Anh biết không … ?  Người Nhật và Trà Đạo , Kiếm Sĩ Samurai cũng là Thiền Sinh hoặc Thiền Sư … Khi Anh thấy họ bình thản ở thế ngồi , tay nắm chắc chuôi gươm từ tốn tuốt ra khỏi vỏ , lại chậm rãi tra gươm vào … Sự luyện tập tinh tấn , kham nhẫn từ ngày nầy qua ngày khác , khiến cho người nhìn thấy mãi cũng phát chán ! Nhưng Anh biết không ?

-  Làm sao mà biết được ? Uy trêu nàng !

-  Anh … ! Nhưng Anh có biết không … ? Họ dụng Tâm thức quán Ý sinh khởi , Thân cố hành động để bắt kịp hợp như nhất với tư tưởng tuốt gươm từ Ý niệm phát sinh , dần …  dần theo công phu luyện tập với thời gian dài lâu Tâm và Thân sẽ đồng nhất thể . Kiếm Sĩ đạt và dụng khi Ý ở Tâm khởi lên : Kiếm điểm ở cổ đối phương thì tấc nhanh như chớp tay đã tuốt gươm điểm ngay vị trí cổ họng kẻ địch rồi vậy .

-  Ồ … thủ thuật xuất chiêu nhanh như thế thật sao … ?

-  Anh hãy tới phòng tập Kendo để quan sát tinh tế và lâu ngày thì tấc yếu sẽ “khám phá” những điều như kỳ diệu đó ! Nhưng thật ra tất cả là do biết áp dụng phương pháp và tập luyện mà thành toàn, chứ không có gì là bí hiểm … ?

 

Minh Uy góp lời . Ngữ Uyên lắng nghe :

-  Nhưng … Thiền Sư trên đường tu học , luyện tâm … Vị ấy sống : “Quán pháp trên các nội pháp hay quán pháp trên các ngoại pháp , hay quán tánh sinh khởi trên các pháp , hay quán tánh tịch diệt trên các pháp . Vị ấy sống an trú , chánh niệm , không nương tựa , không chấp trước bất cứ vật gì trên cõi đời nầy (Dìgha Nikàya) “. Em thấy không ?

-  Không , Em không thấy… hi … hi … hi … ! Uyên “trả miếng” bên tám lạng, người nửa cân !

-  Em thấy không … Thiền Sư sống tri thức , trực diện với mọi cảnh ngộ trên thế gian từng sátna từ trạng thái thô đến vi tế của thân tâm … ?

-  Em nhận biết muốn sống giản dị , ung dung trong ràng buột , tự tại giữa khổ đau như vị Thiền Sư thật là không giản dị chút nào ? Muốn trở về cái thực tướng của thường , Em nghĩ phải phi thường lắm mới được . Dòng sống luôn biến đổi , hằng chuyển không ngừng … Vậy có chi là thường phải không Anh … ?

-  Tuyệt…! Không ngờ “cô” Ngữ Uyên luận uyên thuyên mà hữu lý vô cùng … !

-  Em chuyên cần trau giồi học hỏi từ những sinh hoá , diệt tận ở vạn cảnh chung quanh … chứ chỉ học ở trường học không thôi hạn hẹp lắm … ! Có đỗ đạt tạm gọi là khoa bảng , đặng được bậc trí thức lại là vấn đề và tiến trình khác !   Anh biết không … ? Trong Sa Thạch Tập (Shasekishù) hay còn gọi là Góp Nhặt Cát Đá có chép nhiều chuyện thật của Thiền Sư Vô Trú (Muju) rất trí thức , từ tâm … thật có ý nghĩa ,  đáng để ta tham học ,  áp dụng trong đối nhân xử thế hay vô cùng ! Để Em kể Anh nghe nhé !

-  Trà nguội rồi cô “Ngàn Cánh Hạc”  Nakashima Okita (なかしま おきたみう) !

Thiền Sư Bankei không dụng luận lý phức tạp , tối nghĩa của “triết gia”, hoặc lẻo mép lắm lời , nhiều chuyện phân tích của giới “học giả” để trình bày , hướng dẫn việc xảy ra thường tình và quảng bá Phật Pháp cho đệ tử và dân chúng quanh vùng , mỗi …  mỗi lời nói của ông đều phát xuất tự tâm trí chân thật đến người lắng nghe và cảm hoá được họ . Tiếng đồn đãi vang xa đến tai gã tu sĩ trẻ tuổi kiêu hãnh bất phục và anh ta rất lấy làm khó chịu ! Vào một ngày mùa Đông tuyết rơi nhiều , gã tìm đến tịnh thất của Thiền Sư và đứng ở ngoài hiên nói to tiếng vọng vào trong :  

-  Nầy Ông Bankei … Hễ bất cứ ai … ai … đã sẳn lòng kính trọng Ông , dễ thường nghe Ông khuyên bảo và thuyết phục … ! Còn như tôi đây vốn không kính trọng Ông , không muốn bị Ông thuyết phục thì làm sao và như thế nào Ông có thể khuyên bảo hay làm cho tôi vâng theo lời Ông được  chứ ?

Thiền Sư Bankei từ tốn quan sát người “thanh niên dễ mến” rồi kiên nhẫn nói với anh ta :

-  Ô hay … Người bạn trẻ khí khái ! Bạn nói đúng , tất cả những người đã nghe tôi , vì tôi nói những điều họ muốn nghe . Bạn là người không muốn nhận làm sao tôi có thể cho cái gì được ! Nhưng nầy người bạn trẻ , ngoài trời đang đỗ tuyết lạnh , sao bạn không bước vào trong đây , để chúng ta dùng chung trà nóng , rồi tôi sẽ chỉ cho bạn cái thuật làm sao tôi thuyết phục được người ?

tu sĩ kiêu hãnh hiên ngang bước vào trong tịnh thất và đứng trước mặt Thiền Sư . Sư ngó quanh và mở lời mời :

-  Mời bạn bước sang phía bên trái của tôi , chúng ta nói chuyện thích hợp hơn !

tu sĩ kiêu hãnh bước sang bên phía trái của Sư Bankei . Sư khoát tay khuyến khích với giọng ôn tồn :

-  À  không … bên phải thì hay hơn !

tu sĩ kiêu hãnh lại trở bộ bước sang phải . Sư vỗ nhẹ trên vai gã rồi nhẹ nhàng với thân tâm chân thành nói :

-  Nầy người thanh niên dễ mến , bây giờ anh hãy ngồi xuống và nghe tôi nói nhé … !

Minh Uy lắng nghe Ngữ Uyên kể chuyện . Chàng có cảm tưởng thú vị như đang là nhân vật trong câu chuyện vậy ! Bất luận là ai : Thiền Sư Bankei hay gã tu sĩ trẻ tuổi kiêu hãnh và chính ở hiện tại Minh Uy cũng đã và đang nghe cô “ả” Ngữ Uyên yêu kiều luyến thoắng , lắm lời mê thuyết … ! Nàng nói tiếp:

-  Anh thấy không , gã tu sĩ trẻ tuổi kiêu hãnh đã nghe theo lời “phục chúng” của Sư Bankei từ phút đầu tiên ? Khuyên bảo hay chỉ dạy người ở thế thượng phong kiêu mạn , dễ khiến cho người ta nghe theo mình sinh mặc cảm tự ti , thua kém , tủi thân phậnPhương cách của Thiền Sư Bankei quả là tuyệt diệu ! … và đáng để cho “tiểu thư” khuê các “Ta” thuyết phục “các hạ” được chăng … ?

-  Rất là … cải lương kiếm hiệp … ! Uy trêu ghẹo nàng .
-  Hi … hi … hi … !
-  Và bây giờ cô “Bankei nhỏ” sẽ kể cho Anh nghe thêm chuyện gì nữa nè (giọng SàiGòn) … ?
-  Anh cứ ghẹo em “quài” (giọng SàiGòn) …  “cô Hai”  không thèm kể nữa … Anh lém như cuội (giọng Hà Nội - Bắc Kỳ 54) … !

Tuy nói như vậy. Nhưng Uyên vẫn tiếp tục kể chuyện trôi chảy mạch lạc , đôi khi ngắt khoảng ở những đoạn đối thoại gây cấn , hào hứng và cười cợt thích thú như nhập vai , hoá thân vào nhân vật trong chuyện … và thường hay bắt đầu bằng câu hỏi ” Anh biết không” ? Hẳn nhiên Uy biết “tỏng” đi rồi . Nhưng cứ giả vờ như chưa biết và không biết để cho cô “ả” tưởng bở , phụng phịu cho vui với ngày Xuân … ! Và lại nữa :

-  Anh biết không ? Có hai vị Sư : Tanzan và Ekiko là đôi bạn đồng hành đi trên đường từ ngoại thành Kyoto trở về chùa , khi đến vũng lầy , cả hai thấy một cô gái mặc bộ Kimono và chiếc khăn quàng cổ bằng lụa trắng tuyệt đẹp , cô dợm chân định bước qua , rồi ngập ngừng e sợ té ngã lại rụt rè không dám bước qua … ! Lập tức Sư Tanzan bước tới bên cô gái và nói:

-  Này cô bé !  Để tôi giúp cô một tay !

Nói xong , Sư Tanzan tự  nhiên bế nhấc cô gái đi qua vũng lầy rồi để cô xuống an toàn . Cô gái cám ơn rối rít … ! Sư cười hề hà xem như vô sự  ! Đôi bạn tiếp tục cuộc hành trình . Sư Ekiko tuy không bế cô gái , nhưng rất lấy làm ái ngại , khó chịu trong lòng ! Khi cả hai dừng chân tạm nghỉ ở một ngôi đền . Ekiko không thể dằn lòng được nữa bèn lên tiếng trách bạn :

-  Nầy Huynh , chúng ta đồng là nhà Sư tu hành trong Phật Giáogiữ giới luật nghiêm túc … Huynh không nên giữa thanh thiên bạch nhật  bồng nữ giới trong tay … hơn nữa lại là một cô gái đẹp , nguy hiểm lắm … ! Sao Huynh lại làm thế ?

Sư Tanzan mỉm cười tế nhị đáp lời bạn:

-  Tôi đã bỏ cô gái ấy sau vũng lầy . Cớ sao Huynh còn mang theo làm gì ?

Kể xong , Ngữ Uyên có vẻ thích thú , nàng rót chung trà mời Uy và nhâm nhi thưởng thức  hương vị trà Xuân ! Ngoài ngõ nhà ai có tiếng cười nói ồn ào náo nhiệt của lũ trẻ đốt pháo nổ vang đì đùng ,  mùi diêm sinh cháy khét , khói lam bay quyện gió sớm mai lan toả không gian ấm áp ngày Tết đầu năm … !

-  Anh có biết , nếu Em là Sư Tanzan thì chưa chắc đã dám bồng cô gái đẹp ấy trên tay vì  “nam nữ thọ thọ bất thân” mà lỵ , phiền não lắm … lắm … “ngàn xưa cho đến ngìn sau” đều vương vấy phiền não … hi … hi … hi … !

-  Ồ không ,… ”cô Tanzan” xưa rồi , lỗi thời rồi … ! Bây giờ đang là thế kỷ 21 văn minh tân tiến , nên nam thanh, nữ tú “văn vật” hơn xưa rất nhiều … ! Ngài Khổng Phu Tử được thợ đúc , tạc bằng đá , bằng đồng sắt , chân tượng bị kiềng giữ đứng trơ trọi trên bệ thờ ở Văn Miếu không thể bước xuống cuộc đời thực tại , “ngài” chỉ trơ đôi mắt lạc thời thế với hàng lông mày dài che phủ thanh nhãn tí hí nhìn đám hậu sinh văn minh “kính nhi viễn chi”… và đang thời thì ”nam nữ cọ cọ rất thân” thương , vui thú hơn nhiều … !

Biết Minh Uy méo mó chọc ghẹo cho vui , nên cô “ả” Ngữ Uyên “nhường nhịn” không lạm bàn “ăn thua” chí chát … ! Tuy nhiên vẫn có chút thẹn thùng ửng hồng lên đôi má với câu  nói “… cọ… cọ… rất … thân”… và nàng chưa “biết” chuyện vợ chồng ! Uy nhận thấy nàng đẹp và đáng yêu vô cùng ! Tuy yêu nhau đã lâu ... Nhưng đã được mấy khi cận kề bên nhau , nên mỗi lần có dịp được nhìn ngắm  dáng yêu kiều quen thuộc , mái tóc đen mượt thả hờ hững bờ vai , vẻ mặt thanh tú rạng rỡ với đôi mắt đẹp lạ thường khi nàng hướng ánh mắt chợt nhìn vào khoảng không hư vô xa xôi vời vợi như chứa cả trời thăm thẳm viễn phương diễm mộng và buồn như héo hắt ngọn thu phong ! Chính đôi mắt nầy đã khiến Minh Uy xao xuyến tâm hồn và yêu ngay từ giây phút đầu tiên “chạm” mặt trong sân trường đại học có hàng me xanh lá ven đường !

-  Để Anh kể cho Em nghe một chuyện mà Anh thích nhất trong chuyện Thiền Nhật Bản : Tại cổng tam quan của ngôi đền Obaku có chạm trổ ba chữ đại tự Đệ Nhất Đế thật là tuyệt tác , nét thư pháp như phượng múa rồng bay ! Du khách đến viếng ai ai cũng tấm tắc ngợi khen tài ! Những chữ nầy được Thiền Sư Kosen viết trên giấy bản cách đây hơn hai thế kỷ , được phóng lớn và chạm trổ khắc trên gỗ . Tương truyền rằng : Khi Thiền Sư Kosen thảo bút viết có chú tiểu nhỏ là đệ tử của Sư giúp hầu mài mực cho Thầy, chú chăm chú theo dõi như quán xét từng nét thảo của Sư và tự nguyện sẽ mài nhiều nghiên mực cho đến khi nào Sư Kosen viết được một tuyệt tác phẩm mới thôi … và chú luôn phê bình sau mỗi lần Sư viết xong bức thư pháp:

-  Bức thư pháp nầy không đẹp !

Thiền Sư Kosen vui vẻ viết lại bức khác … Chú ngắm xong bèn chê :

-  Cái nầy cũng không được !

Sư Kosen viết lại bản khác với sự dè dặt và cố gắng… Sư bằng lòng và hỏi chú tiểu :

-  Bản nầy được không ?
-  Tệ quá !… xấu hơn cái trước !

Sư Kosen cố bình tâm , cẩn trọng viết lại bản nữa … Rồi hỏi :

-  Bản nầy thế nào ?
-  Đẹp ! Nhưng nét thảo bị gò ép quá , không thoáng , không thoát … !

Thiền Sư Kosen kiên nhẫn viết lại nhiều bản khác , vẫn bị chú đệ tử nhỏ chê là vụng về , chưa chuẩn ! Cả buổi sáng đến giữa trưa , Sư đã viết tới tám mươi bốn bản Đệ Nhất Đế chất thành đống vẫn không được chú đệ tử nhỏ phê “đạt” và đồng ý … ! Sư Kosen thân tháo mồ hôi trán và run tay viết , tâm cảm thấy kém tự tin với tài thư pháp nổi tiếng của mình … ! Chú nhỏ kiên nhẫn mài mực và bình phẩm tiêu cực với với ánh mắt khuyến khích pha lẫn chút “thương hại” tài hoa “vụng về” của Sư Phụ mãi cũng đã chán … ! Bất chợt có tiếng hót của con chim lạ ngoài sân vườn , chú nhỏ nhanh nhẩu chạy ra xem . Thừa dịp , Sư Kosen nhủ thầm : “Bây giờ là lúc ta tránh thoát khỏi đôi mắt cú vọ sắc bén của nó” và Sư lấy lại sự bình thản thân tâm thư thái vô quán ngại , thông dung tự tại , hỷ lạc sinh khởi ,  khinh an nhẹ nhàng thơi thới xuất thần … Sư thảo bút viết lên trang giấy bản như làn gió mơn man phớt đùa nhỡn nhơ trên ngọn cỏ ba chữ Đệ Nhất Đế thanh thoát ! Chú đệ tử nhỏ bước trở vào phòng nhìn thấy tác phẩm , cậu trố đôi mắt tròn xoe đầy vẽ ngạc nhiên rạng rở hiện lên khuôn mặt rồi buột miệng khen :

-  Ồ …  Phật ơi , đẹp quá ! Tuyệt ! Tuyệt tác ! Một kiệt tác phẩm … !

Ngữ Uyên lắng nghe chàng kể chuyện có chút tinh nghịch dễ thương trong lối trình bày câu chuyện lý thú về Chú đệ tử nhỏ tinh tường của hoà thượng Kosen !

Ngữ Uyên để im bàn tay trong tay Uy, nàng cảm nghe hơi ấm lan nhẹ qua thân như thể hạo nhiên khí phách ngang tàng đã hun đúc từ trăm năm , ngàn năm nên vóc dáng hình hàitâm hồn người yêu của nàng ! Ngữ Uyên  cảm thấy hạnh phúc pha lẫn nhịp đập của đôi tim chuyển chở biết bao niềm thương yêu dạt dào … ! Nắng Xuân lên cao ngoài hiên , gió ban mai thổi nhè nhẹ làm lay động những cánh hoa đào khoe sắc thắm phơn phớt vẻ đẹp mơn mở/n như má cô gái Xuân thì thoáng chớm ửng hồng e thẹn ! Uy âu yếm gỡ những sợi tóc gợn bay rối phất phơ trên khuôn mặt dịu hiền của Uyên .  Ngoài ngõ trúc đôi chim Oanh chuyền hót líu lo như mời gọi đất trời thêm hương nhuận sắc ! Uy cảm được tình Xuân từ những chồi lá non , nụ hoa mai vàng rực rỡ , cúc , đào , thược dược và nhiều nữa … mới nở buổi sáng nay và Ngữ Uyên đẹp mượt mà , thướt thaáo dài thêu hoa với bàn tay dịu dàng rót thêm mấy chung trà đầu Xuân.

(Trịnh Khải Hoàng – Xuân)

Tạo bài viết
12/01/2012(Xem: 61571)
18/01/2011(Xem: 89658)
07/02/2015(Xem: 13344)
27/01/2015(Xem: 26535)
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…