Thư Viện Hoa Sen

Trao Đổi Với Thầy Chân Pháp Từ. Làng Mai Cần Làm Mới, Và Người Việt Nên Hiểu Đúng Hơn Về Tịnh Độ

28/05/20254:09 SA(Xem: 1434)
Trao Đổi Với Thầy Chân Pháp Từ. Làng Mai Cần Làm Mới, Và Người Việt Nên Hiểu Đúng Hơn Về Tịnh Độ

TRAO ĐỔI VỚI THẦY CHÂN PHÁP TỪ.
LÀNG MAI CẦN LÀM MỚI,
VÀ NGƯỜI VIỆT NÊN HIỂU ĐÚNG HƠN VỀ TỊNH ĐỘ
(Nguyễn Hòa thực hiện)

 

chan phap tu
THầy Chân Pháp Từ

Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.

Nguyễn Hòa: Làng Mai hiện đang được nhiều người trong giới trí thức phương Tây đi theo. Nhưng có vẻ đối với những phật tử Việt Nam thì những người theo Làng Mai là những người Tây học, nói tiếng Anh, Pháp, trí thức , chứ còn phật tử bình dân thì không dính dáng tới Làng Mai, thưa thầy có phải như vậy không?

Thầy Chân Pháp Từ: Điều đó không đúng lắm vì pháp môn của Làng Mai không chỉ dành cho những người trí thức. Pháp môn Làng Mai là một trong những cố gắng của sư ông (thiền sư Thích Nhất Hạnh) để làm sống dậy nền Phật giáo Việt Nam đã có mặt từ thế kỷ thứ ba qua pháp môn tu của thiền sư Khương Tăng Hội. Những pháp môn căn bản như là bài tựa An ban thủ ý mà bây giờ chúng ta còn lại trong đại tạng kinh bằng chữ Hán. Những pháp môn căn bản nhất của Phật tử Đại Việt lúc bấy giờ, vào thời kỳ đầu tiếp nhận Phật giáo, là thở vào, thở ra, và nó đã trải qua nhiều thế hệ, nhiều truyền thống ảnh hưởng Phật giáo, ở những nước phương bắc, hay là bên Ấn Độ đi qua,…

Trong những năm gần đây sư ông Làng Mai (thiền sư Thích Nhất Hạnh) muốn đem cái nền tảng gốc rễ đó để làm sống lại. Dựa trên kinh Tứ niệm xứ, kinh Quán niệm hơi thở, để làm cho tinh thần Phật giáo Việt Nam trở về nguồn. Do một số thói quen truyền thống ở một số chùa chiền (làm) người ta không thấy được điều này, nên người ta nghĩ rằng sư ông Làng Mai làm một tông phái khác biệt, nên có một sự hiểu lầmpháp môn Làng Mai chỉ dành cho một số trí thức, những người tu thiền. Trong quyển Nhật tụng thiền môn (Thích Nhất Hạnh) có đầy đủ ba yếu tố Thiền tông, Tịnh độ tôngMật tông. Đó là bản chất dung hòa của Phật giáo Việt Nam. Người Việt Nam chúng ta (hiện nay) còn có một sự ngăn cách, một ý niệm phân biệt tông phái, thành ra thấy Làng Mai là một sự dị biệt, mà thực ra nó là một sự tiếp nối của Phật giáo Việt Nam, từ cái thuở đầu tiên người Việt tiếp xúc với Phật giáo, với pháp môn tu của đức Thế tôn.

 Nguyễn Hòa: Nhiều chùa Việt Nam theo phái Tịnh Độ tông, đến sau từ phương bắc. Có phải là sự đến sau đó che đi cái phần tinh túy (của Phật giáo Việt Nam) đã có trước hay không?

Thầy Chân Pháp Từ: Thiền tập thì đỏi hỏi con người ta một sự luyện tập công phu, ví dụ như thói quen tập chánh niệm. Đối với một số niềm tin tín ngưỡng của Tịnh độ, thì dạy cho người ta có niềm tin rằng cứ niệm Phật đi rồi có một đức Phật Di đà nào đó đến giúp mình. Điều đó không có gì là sai, nhưng nó không thể hiện đủ bản chất của Phật giáotự lực. Con người mình tự giải quyết những vấn đề nội tâm, những khó khăn. Do vậy trong cái chủ trương niệm Phật để cầu về cõi Tịnh độ nào xa xôi, phù hợp với đại đa số quần chúng nhiều hơn. Còn những người có một chút thâm sâu về Phật giáo không coi cái đó là cái cuối cùng, cái chủ yếu.

Chúng ta cũng nên biết rằng quan điểm của người Việt Nam về Tịnh độ rất là cấp tiến, rất triết học, đầy tư tưởng. Ví dụ như tư tưởng của Trần Thái Tông về Tịnh độ, hay sau này của Trần Nhân Tông, người sáng lập thiền phái Trúc Lâm. Quan niệm của người Việt tổ tiên mình ngày xưa về Tịnh độ rất rõ ràng, Tịnh độ là lòng trong sạch, Di đà là đức sáng soi. Có nghĩa rằng A di đàtượng trưng cho ánh sáng chánh niệmtrí tuệ. Tịnh độ là mảnh đất sạch, mảnh đất nào không có phiền muộn xảy ra, nơi lòng ta thanh tịnh thì nơi đó là tịnh độ.

Nguyễn Hòa: Nghĩa là giữa Tịnh độ và Làng Mai, không có gì mâu thuẫn cả?

Thầy Chân Pháp Từ: Trong kinh tụng hàng ngày của Làng Mai vào chiều thứ sáu, có tụng kinh A di đà.

Nguyễn Hòa: Tức là sự cách biệt giữa những ngôi chùa Tịnh độ Việt Nam bây giờ, và những cách thiền tập trở về với cội nguồn, nằm ở một nguyên nhân khác, chứ không phải là sự khác biệt về tư tưởng?

Thầy Chân Pháp Từ: Trách nhiệm của các vị trụ trì, các vị giáo thọkhông giải thích rõ quan niệm tịnh độ của người Việt, và quan niệm tịnh độ từ Trung Hoa. Quan điểm tịnh độ từ Trung Hoa rất rõ ràng, đó là chỉ cần niệm Phật chăm chú thì mình có thể được bay về cõi tịnh độ. Tịnh độ trở thành một thực thể, một nơi để chúng ta về, và là một lời hứa hẹn sau khi chết ta sẽ được về nơi đó.

Quan niệm của người Việt về Tịnh độ, bắt nguồn từ thế kỷ 13, 14, 15, đặc biệtPhật giáo Lý Trần, thì quan điểm về tịnh độcấp tiến như tôi đã trình bày.

Nhưng đáng tiếc cho người Việt là đầu thế kỷ thức 15, Đại Việt rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hai “cán bộ văn hóa” lớn nhất, Hạ Thanh, Hạ Thì, chịu trách nhiệm thiêu hủy văn hóa Việt Nam. Cho nên thư tịch của người Việt Nam về thời đó, còn lại rất ít. Chúng ta còn lại một vài tác phẩm như là Cư trần lạc đạo, Khóa hư lục, Tuệ trung thượng sĩ lục,… rất ít, nhưng trong đó có lột tả quan điểm của người Việt Nam, mà người Việt chúng ta nên tìm hiểu thấu đáo rõ ràng, và quan điểm đó không khác gì với quan điểm của đức Thế tôn.

Nguyễn Hòa: Thưa thầy, trở lại với Phật giáo nhập thế của sư ông Nhất Hạnh, thì có vẻ như là những người xuất thân từ Làng Mai, như thầy chẳng hạn, trụ trì một ngôi chùa tại Hawaii, và những vị khác nữa rải rác đó đây, phải rời khỏi Làng Mai để có thể đem cái hành trang học vấn của mình, tức là nếu họ vẫn ở trong Làng Mai, thì họ không làm được điều đó?

Thầy Chân Pháp Từ: Thưa rằng vì sư ông có một chủ trương là “đi như một dòng sông”, anh em đi với nhau như một dòng sông, không phải vì một nhu cầu “muốn ra riêng”, làm trụ trì một cõi. Vì có một số quan niệm là khi làm trụ trì sẽ được cúng dường, được người ta tôn trọng, từ đó có cảm giác mình sống như một ông vua ở một cõi. Giống như ta đào một cái ao thả cá, nuôi một số tín đồ trong đó. Sư ông Làng Mai không muốn rơi vào cái cạm bẫy đó, lúc nào cũng mong muốn anh em sống chung với nhau.

Tuy nhiên điều này chỉ phù hợp với hoàn cảnh ban đầu. Ví dụ như một hồ nước trên một đỉnh núi cao, đã tích lũy nước mưa theo năm tháng, rồi đến một lúc nào đó nó đầy, và tràn ra ngoài, tạo thành những dòng suối, dòng sông, chảy ra tới biển thì nó có thể trở thành một con sông vĩ đại.

Nguyễn Hòa: Thầy có thông tin về con số những giọt nước ở khắp các cơ sở của Làng Mai?

Thầy Chân Pháp Từ: Có thể lên đến con số hàng ngàn. Đối với cư sĩ ở địa phương, thì họ có những tăng thân không phải là người xuất gia. Họ có thể là thuộc Phật giáo tiếp hiện (Interbeing, Thích Nhất Hạnh), họ có thể là đại diện cho Phật giáo dấn thân.

Nguyễn Hòa: Có sự khác nhau nào giữa những người vẫn ở trong Làng Mai, và những người đã rời Làng Mai như thầy?

Thầy Chân Pháp Từ: Đối với quan niệm cố chấp thì có một số anh em xem những thành phần đã rời Làng Mai, là không còn nằm trong hệ thống Làng Mai. Nhưng hệ thống chỉ là thủ tục thôi. Anh em huynh đệ gặp nhau vẫn vui được, tuy rằng nó vô tình tạo nên một thói quen phản ứng.

Chẳng hạn bây giờ lên trang mạng Làng Mai, vào từ điển Làng Mai, chúng ta sẽ thấy như là, thầy này không còn trong hệ thống Làng Mai nữa. Câu đó có thể gây ra một sự tổn thương, từ những người ra đi, từ những giọt nước khai nguồn cho những dòng chảy mới. Ví dụ như thầy đang là một dòng chảy mới, các huynh đệ của thầy cũng là những dòng chảy mới.

Làng Mai là một trung tâm tu học, đào tạo, vậy thì đào tạo để làm gì?

Đào tạo để làm gì nếu không tiếp nối sư ông? Chẳng lẽ đào tạo để ngồi yên trong cái hồ nước đó?


Nói như Tản Đà: Nước đi thì lại về nguồn, bảo cho non chớ có buồn làm chi.

Nếu mình nhìn rộng như vậy, thì cái câu chuyện ở trong hay ngoài là thiếu trưởng thành.

Nguyễn Hòa: Tạm dùng các từ ở trong hay ngoài Làng Mai, thì khi ở trong Làng Mai thì chỉ học những gì Làng Mai soạn, không học cả những kiến thức bên ngoài, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Điều đó có đúng không?

Thầy Chân Pháp Từ: Cũng không đúng lắm. Trong Làng Mai không chủ trương đi học ở ngoài, nhưng nhiều anh em đã tốt nghiệp trung học hay đại học bên ngoài. Bên trong Làng Mai thì tinh thần phục vụ rất cao thì việc học ít lại. Cũng có những chương trình cho tăng thân học ở bên trong Làng Mai, nhưng mà sự thiệt thòi chắc chắn phải có. Theo quan điểm của tôi thì sự cọ sát thực tế không còn.

Bây giờ khi sư ông mất rồi, giống như khi người cha mất, thì có những đứa con ở lại giữ từ đường, những đứa khác đi xa. Những anh em rời khỏi Xóm Hạ, Xóm Thượng,… đi xa thì đó là sự dấn thân cụ thể nhất.

Nguyễn Hòa: Thầy nói về những vị xuất gia vào Làng Mai khi đã tốt nghiệp trung học đại học rồi, nhưng có những người như thầy khi xuất gia chưa được đi học, nhưng ra ngoài học đại học rồi có bằng master, thì liệu là chỉ với sự học trong Làng Mai, không ra ngoài, thì liệu có đủ không?

Thầy Chân Pháp Từ: Thầy nghĩ rằng sự ra đi của thầy có một sự thiệt thòi và một sự may mắn. Thiệt thòi là không có những giây phút đầm ấm anh em, nhưng trên con đường du phương cầu học thì mình học hỏi rất nhiều, va chạm rất nhiều, té lên té xuống rồi đứng lên. Cơ hội trực tiếp học với cuộc đời nhiều hơn. Trong Làng Mai thì dễ dàng, ra ngoài mình gặp những ánh mắt khó chịu, những cách khác, những phật tử thế này thế kia. Một số anh em Làng Mai khi rời Làng thì đây là một trở ngại rất lớn.

Nguyễn Hòa: Thưa thầy cái thầy nói là sự va chạm xã hội, nhưng điều tôi muốn nói là những kiến thức bài bản về khoa học tự nhiên, xã hội,… cứ tạm cho đó là kiến thức của thế gian, toán, lý, hóa, khoa học xã hội, những vấn đề về tâm lý,… Nếu tôi nhớ không lầm thì khi cụ Lê Đình Thám chấn hưng Phật giáo vào thế kỷ trước, thì cụ có chương trình cho các vị tăng sĩ trẻ học những chương trình ở ngoài đời như vậy. Liệu cái cách của Làng Mai bây giờ có thỏa mãn được không?

Thầy Chân Pháp Từ: Theo thầy biết thì Làng Mai không thỏa mãn được điều đó đâu. Trong tu viện thì mình tu tập là chính, tự học là chính, chứ không có những trường lớp sư phạm. Sư ông Làng Mai là người tự học không ngừng, nhưng đó là trường hợp cá nhân, vì không phải ai cũng thích học, mà trường lớp có khi lại kích thích sự học. Anh em trong Làng Mai bị thiệt thòi.

Nguyễn Hòa: Thưa thầy điều đó có cần sự cải tổ không?

Thầy Chân Pháp Từ: Tôi nghĩ Làng Mai phải có những phiên bản mới. Bản thân sư ông Làng Mai là người tiến bộ, luôn mong sự mới mẽ, phù hợp với tình hình mới. Sư ông Làng Mai không phải là người khuôn mẫu, thế kỷ này với thế kỷ kia cũng giống nhau.

Nếu anh em Làng Mai không thấy điều này, là đệ tử mà không hiểu tâm tư của thầy mình, thì là một lỗi lớn. Vì như vậy vô tình biến pháp môn của Làng Mai thành những chủ thuyết để thờ phụng, để tự hào.

Dòng tu Tiếp hiện thành lập năm 1964. 60 năm rồi mà những hướng dẫn hoạt động hình như vẫn chưa có, ngoài quyển sách giải thích 14 giới của Tiếp hiện của sư ông Làng Mai viết trong những năm 1990. Cương lĩnh đào tạo, hướng đi, hướng đào tạo, hướng truyền thừa,… đều không rõ ràng, mơ hồ, sư ông chỉ đề nghị một cách chung chung. Trong một khóa tu tại Houston với anh em Tiếp hiện, và phật tử, tôi có đề nghị mình phải làm mới lại phái Tiếp hiện. 

Nội dung giới luật của Tiếp hiện ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh Việt Nam, chiến tranh ý thức hệ. Câu chữ, tư tưởng trong đó phù hợp lúc đó, còn bây giờ ta ở thời bình, phải giải quyết những mâu thuẫn,… thì giáo trình sẽ phải khác hơn, hướng tiếp cận sẽ phải khác hơn.

Những pháp môn tu của sư ông như là đi như một dòng sông, thì đó là thời kỳ đầu, ta chỉ có vài mươi người, ta có cảm giác gầy dựng càng đông càng mạnh, thì điều đó hợp lý, nhưng mà là thời kỳ đầu. Nhưng bây giờ có đến hàng ngàn thì chúng ta không thể ngồi yên trong đó. Làng Mai giống như một vườn ươm, như tên gọi Làng Mai bên Thái Lan là Vườn ươm. Nhưng khi có hàng ngàn cây giống thì đất đâu để sống, nên phải di chuyển đến những nơi khác.

Đây là điều mà ban giáo thọ của Làng Mai cần làm rõ. Và thầy nghĩ rằng nếu anh em trong và ngoài Làng Mai mà không ngồi lại được với nhau, thì đó là một sự thất bại. Một số phật tử, một số thầy trong Làng Mai có ánh mắt hơi kỳ thị là những người rời Làng Mai là không chính thống. Nếu mà không khéo thì các em sau có thể nhìn các ông thầy này là… thành phần “phản động”.

Nguyễn Hòa: Thưa thầy, bây giờ trong nước cũng như cộng đồng người Việt hải ngoại có nhu cầu tâm linh rất lớn, họ cần thầy hướng dẫn mà không có, trong khi trong cái hồ nước như thầy nói, hay là vườn ươm, thì có hàng ngàn cây giống. Nhu cầu của phật tửcung cấp của Làng Mai có vẻ không gặp nhau, có vẻ đó là cách tiếp cận “đi như một dòng sông”?

Thầy Chân Pháp Từ: Cái đó cũng đúng một phần. Đó là nỗi ám ảnh của các thầy các cô đi tu, đến một lúc nào đó thấy hồ nước chật hẹp, muốn có một hướng đi, nhưng không tự tin rời Làng Mai vì bị nhìn bằng một ánh mắt rằng không còn trong hệ thống nữa. Đó là điều thiếu nghiêm túc. Có một số người vừa rời Làng Mai còn không dám chụp hình lưu niệm. Đó là một sự ám ảnh mà thầy nghĩ mình đã từng như vậy, rằng tôi là kẻ lạc loài, người không trung thành với sư tổ.

Nhưng suy nghĩ đó không đúng, vì khi mình rời Làng Mai trách nhiệm không phải là cá nhân, mà là một sự tiếp nối.

Với nhu cầu của cộng đồng mà anh nói, thì vừa rồi có một số vị của giáo hội (trong nước) nói rằng không thể phủ nhận sự đóng góp tuệ giác của pháp môn Làng Mai cho Phật giáo.

Nếu anh em Làng Mai ở lại trong đó chỉ để thưởng thức đời sống của “học sinh suốt đời”, thì đó là khuynh hướng lệch lạc, không phải là engaged Buddhism, đạo Phật dấn thân.

Nguyễn Hòa: Xin trích lời một nhân vật hoạt động Phật giáo rất tích cực nói với tôi, xin lỗi thầy, là khi nhắc về Làng Mai thì anh ấy nói: các vị Làng Mai ích kỷ lắm.

Thầy có thấy điều đó đáng báo động hay không khi một phật tử thuần thành nói về Làng Mai như thế?

Thầy Chân Pháp Từ: Đây là một tiếng chuông chánh niệm cảnh báo rằng việc đi tu không phải là thưởng thức.

Bốn phạm trù (sống) trong Làng Mai là học, chơi, tu và làm việc. Sư ông không muốn mình ra trụ trì để thưởng thức đời sống trụ trì, dù trụ trì cực lắm. Nhưng nếu chỉ ở trong Làng thì ngược lại với tư tưởng dấn thân.

Phê bình của vị phật tử thuần thành đó đúng một phần, phần không đúng là nhu cầu thì lớn mà Làng Mai thực ra bé lắm.Vì vậy tôi nghĩ việc các anh em Làng Mai suy nghĩđào tạo cung cấp giáo thọ cho thời cuộccấp thiết.

Nguyễn Hòa: Thế thì nếu Làng Mai trở thành một trung tâm đào tạo tăng tài thì có phải là mô hình mới?

Thầy Chân Pháp Từ: Điều đó hợp lý. Xin nhắc lại một lần nữa Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nước đi đi mãi lại quay về nguồn chứ không đi luôn. Nghĩ rằng đi rồi đi luôn là một suy nghĩ vụng về. Một trung tâm huấn luyện có những người ở lại giữ bản doanh, những người ra đi xông pha.

Nguyễn Hòa: Thưa thầy một câu hỏi cuối, một mặt sư ông lo ngại khi ra ngoài trụ trì rồi vui thú với sự trụ trì, nhưng mà ở mãi trong Làng thì không còn là Phật giáo dấn thân nữa. Làm sao để cân bằng?

Thầy Chân Pháp Từ: Khi ở lại thì sự dấn thân là trở về để chuyển hóa nội tâm. Khi sự dấn thân cá nhân đó đủ thì ta phải đem hoa trái đó cho người khác.

Vừa rồi, khi làm Phật đản ở Hawaii, thì có những huynh đệ về giúp, thì đó cũng là một dòng sông.

Nguyễn Hòa: Theo thầy thì Làng Mai đã phát triển đủ để vượt qua lo ngại của sư ông?

Thầy Chân Pháp Từ: Tôi nghĩ như vậy. Và điều quan trọng là ta không xem sư ông như là một chân lý bất di bất dịch để thờ phụng.

 

 

 

 

 

 

 

Tạo bài viết
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.