LƯỢC GIẢNG GIÁO NGHĨA PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN
(nguyên tác: Phổ Hiền Đại Sĩ Hạnh Nguyện Đích Khải Thị)
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không - Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, năm 2001)
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn tùy hỷ công đức giả: Sở hữu tận pháp giới, hư không giới, thập phương tam thế, nhất thiết Phật sát, cực vi trần số chư Phật Như Lai, tùng sơ phát tâm, vị Nhất Thiết Trí, cần tu phước tụ, bất tích thân mạng, kinh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số kiếp, nhất nhất kiếp trung, xả bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số đầu, mục, thủ, túc. Như thị nhất thiết nan hành khổ hạnh, viên mãn chủng chủng Ba La Mật môn, chứng nhập chủng chủng Bồ Tát trí địa, thành tựu chư Phật vô thượng Bồ Đề, cập bát Niết Bàn, phân bố xá-lợi.
Sở hữu thiện căn ngã giai tùy hỷ, cập bỉ thập phương nhất thiết thế giới, lục thú, tứ sanh, nhất thiết chủng loại, sở hữu công đức, nãi chí nhất trần, ngã giai tùy hỷ. Thập phương tam thế, nhất thiết Thanh Văn, cập Bích Chi Phật, hữu học, vô học, sở hữu công đức, ngã giai tùy hỷ. Nhất thiết Bồ Tát sở tu vô lượng nan hạnh khổ hạnh, chí cầu vô thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, quảng đại công đức, ngã giai tùy hỷ. Như thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thử tùy hỷ vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục vô hữu gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói tùy hỷ công đức là: Tất cả chư Phật Như Lai nhiều như số cực vi trần trong hết thảy cõi Phật trong mười phương ba đời tận pháp giới, hư không giới, từ sơ phát tâm vì Nhất Thiết Trí (1) mà siêng tu khối phước (2), chẳng tiếc thân mạng, trải các kiếp nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, trong mỗi một kiếp, xả đầu, mắt, chân, tay nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Hết thảy khổ hạnh khó làm như thế, viên mãn đủ mọi môn Ba La Mật, chứng nhập mọi thứ trí địa (3) Bồ Tát, thành tựu vô thượng Bồ Đề của chư Phật, và nhập Niết Bàn (4), phân chia xá-lợi (5). Tất cả thiện căn, tôi đều tùy hỷ. Và tất cả công đức của hết thảy chủng loại thuộc sáu đường bốn loài trong mười phương hết thảy thế giới, thậm chí [công đức nhỏ bằng] một hạt bụi, tôi đều tùy hỷ. Tất cả công đức của mười phương ba đời hết thảy Thanh Văn và Bích Chi Phật, hữu học, vô học (6), tôi đều tùy hỷ. Hết thảy Bồ Tát đã tu vô lượng khổ hạnh khó làm, chí cầu vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, công đức rộng lớn tôi đều tùy hỷ.
Như thế, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, nhưng sự tùy hỷ này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp chẳng hề mệt chán)
“Tùy hỷ chúng sanh” đối trị bệnh ganh ghét. Điều này được đặc biệt nêu ra đối với hàng Pháp Thân đại sĩ, cho thấy ghen ghét không phải là căn bệnh nhỏ, bệnh nhẹ. Thấy chỗ hay của người khác, trong tâm khó chịu, nghĩ cách chướng ngại phá hoại, đó là bệnh rất nặng. Chẳng riêng gì người thế gian mắc chứng bệnh nặng này, người học Phật cũng không tránh khỏi. Bồ Tát cũng chẳng tránh khỏi, thấy người khác có chỗ thù thắng, trong tâm khó chịu. Nếu Bồ Tát chẳng mắc bệnh này, thì mười nguyện Phổ Hiền sẽ chẳng có điều nguyện này.
Sau khi Lục Tổ Huệ Năng được truyền y bát, rất nhiều sư huynh, sư đệ muốn đoạt y bát là vì ghen ghét. Lúc Phật tại thế, Đề Bà Đạt Đa ganh ghét Phật, luôn tìm cách phá hoại chuyện hoằng pháp lợi sanh của Phật, nghĩ cách hại chết Phật. Phật giáo truyền đến Trung Quốc, tổ tổ tương truyền, chúng ta cũng thấy có rất nhiều chuyện ghen ghét chướng ngại. Nghĩ đến bản thân chúng ta, có ý niệm và hành vi ghen ghét hay chăng? Ghen ghét là phiền não bẩm sanh của chúng sanh, chẳng dễ đoạn trừ. Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta tùy hỷ công đức nhằm nhổ tận gốc ghen ghét từ vô thỉ kiếp đến nay. Thấy người khác có thiện hạnh, thiện sự, chúng ta tùy hỷ, họ được công đức rất lớn thì chúng ta cũng được công đức lớn giống hệt như vậy.
Cảnh giới tu nguyện này của Bồ Tát là tột cùng hư không, khắp pháp giới. Học tùy hỷ theo cách nào? Trong kinh có nêu một thí dụ: “Chư Phật Như Lai từ sơ phát tâm vì Nhất Thiết Trí mà siêng tu khối phước, chẳng tiếc thân mạng”. “Phát tâm” là phát vô thượng Bồ Đề tâm (phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề), cũng tức là phát tâm cầu trí huệ viên mãn rốt ráo. Có trí huệ viên mãn rốt ráo thì mới có thể thấu hiểu triệt để chân tướng của nhân sanh vũ trụ. Sau khi phát tâm, phải siêng tu phước huệ. Phật còn được gọi là Nhị Túc Tôn, chữ Nhị chỉ phước và huệ, Túc là trọn đủ, viên mãn. Thành Phật tức là phước đức và trí huệ viên mãn. Vì tu phước và tu huệ bèn chẳng tiếc thân mạng, làm được chuyện khó làm, tu được chuyện khó tu, dũng mãnh tinh tấn, chư Phật Như Lai thành tựu như thế đó. Sau khi thành Phật, rộng độ chúng sanh chẳng ngưng nghỉ, thị hiện trong sáu đường. Nên dùng thân nào để được độ, bèn hiện thân đó, nên dùng thân Phật để độ bèn hiện thân Phật để thuyết pháp.
Phật từ sơ phát tâm thẳng đến khi độ sanh, bao nhiêu công đức chúng ta đều phải tùy hỷ, phải học tập. Ngài làm như thế nào, ta cũng làm theo như thế ấy. Người ta phát tâm được thì ta cũng phát tâm được, người ta tu hành được thì ta cũng tu hành được. Chúng ta chẳng những không ghen ghét mà còn tận tâm tận lực giúp đỡ, thành toàn cho người ta. Mọi người tu trì thì chúng ta có thật sự bị chướng ngại gì chăng? Chẳng chướng ngại gì! Nếu lắng lòng quan sát, [sẽ thấy] chẳng chướng ngại người khác; thật ra, chỉ có mình chướng ngại chính mình mà thôi. Phật từng thí dụ: Ví như có kẻ ngậm nước phun lên trời, có phun được lên trời hay không? Chẳng những không phun được mà trái lại nước còn rớt trúng mặt mình. Phải chuyển đổi ý niệm, thành toàn sự tốt đẹp cho người, người ta có việc gì tốt mình phải giúp đỡ, phải thành tựu cho người ta. Người ta tốt, trong xã hội ai nấy đều tốt, ta cũng hưởng lây, ta cũng tốt luôn. Tinh thần chủ yếu của nguyện này là dạy chúng ta hiểu rõ đạo lý này, nỗ lực tu học, thành tựu công đức chân thật cho chính mình.
Nhìn lại xã hội trước mắt, tùy hỷ công đức phải có trí huệ, chẳng thể làm việc theo tình cảm; nếu không, sẽ thường mắc hại. Nêu một ví dụ thật: Ở Đạt Lạp Tư (Dallas) có một đồng tu đang lái xe thấy một đứa bé đi theo người lớn bị té, do hảo tâm bèn dừng xe đỡ đứa bé dậy, hỏi nó có bị thương hay không. Lúc đó, người lớn chạy tới, đổ hô vị đồng tu ấy xô đứa bé té bị thương, nhờ luật sư thưa ra tòa, bắt bồi thường tám vạn Mỹ kim. Tại Mỹ quốc, trông thấy người già hoặc trẻ con té, lập tức gọi điện thoại báo cảnh sát, kêu cảnh sát đến đỡ người đó.
Nho gia dạy người: “Thành tựu điều tốt đẹp cho người, chẳng thành toàn điều xấu cho người”. Ai làm việc gì bất hảo đối với đại chúng, xã hội, chúng ta đừng giúp đỡ kẻ đó. Còn nếu ai làm việc gì có lợi cho xã hội, cho đại chúng thì chúng ta chớ nên ngăn trở, chướng ngại người ấy, chớ ghen ghét họ mà phải tùy hỷ. Tùy hỷ chẳng phải là trông thấy vui mừng là xong, phải tận tâm tận lực giúp đỡ kẻ đó, khiến cho sự nghiệp của kẻ đó được thành tựu viên mãn. Tận tâm tận lực là tu tùy hỷ công đức viên mãn.
Bản thân mình không có tiền, chạy cơm ba bữa đã là vấn đề, nên về tài lực chẳng thể giúp đỡ người khác được, nhưng chúng ta có thể khen ngợi người khác: “Ông X. đó là người tốt, làm việc tốt. Quý vị có năng lực hãy nên giúp đỡ ông ta”. Đó cũng là tùy hỷ công đức. Cho thấy tùy hỷ công đức là chuyện ai cũng có thể tu được, lúc nào, chỗ nào cũng có thể tu được. Trong cửa Phật, công đức của Phật, Bồ Tát, công đức của tổ sư đại đức, còn trong thế pháp thì công đức của chính phủ (thay thế bá tánh thực hiện sự nghiệp phước lợi), bậc thiện nhân trưởng giả dùng tài sản và năng lực tạo phước cho xã hội đại chúng đều đáng tùy hỷ, khen ngợi. Bồ Tát dạy chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu học, phải niệm niệm tiếp nối, chẳng hề gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp chẳng hề chán mệt.
1.6. Nguyện thứ sáu: Thỉnh chuyển pháp luân
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thỉnh chuyển pháp luân giả: Sở hữu tận pháp giới, hư không giới, thập phương tam thế nhất thiết Phật sát, cực vi trần trung, nhất nhất các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số quảng đại Phật sát. Nhất nhất sát trung, niệm niệm hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số nhất thiết chư Phật, thành Đẳng Chánh Giác. Nhất thiết Bồ Tát hải hội vi nhiễu. Nhi ngã tất dĩ thân khẩu ý nghiệp, chủng chủng phương tiện ân cần khuyến thỉnh chuyển diệu pháp luân. Như thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thường khuyến thỉnh nhất thiết chư Phật chuyển chánh pháp luân vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói thỉnh chuyển pháp luân: Tất cả hết thảy cõi Phật mười phương ba đời cùng tột pháp giới hư không giới, trong mỗi một cực vi trần đều có cõi Phật rộng lớn nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, trong mỗi một cõi Phật, niệm niệm đều có hết thảy chư Phật thành Đẳng Chánh Giác nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hết thảy Bồ Tát hải hội vây quanh. Tôi đều dùng thân ngữ ý nghiệp, mọi thứ phương tiện, ân cần khuyên mời chuyển pháp luân mầu nhiệm. Như thế hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, tôi thường khuyên mời hết thảy chư Phật chuyển chánh pháp luân chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp không có mệt chán)
“Thỉnh chuyển pháp luân” là một đại sự rất trọng yếu. Pháp luân đại biểu cho thuyết pháp lợi sanh. Luân (bánh xe) là tướng trạng viên mãn, biểu thị hết thảy pháp đức Phật nói đều viên mãn rốt ráo, chẳng mảy may khiếm khuyết gì. Hết thảy pháp đức Phật giảng “chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải vô chẳng phải hữu”; Luân rất thích hợp tượng trưng cho những nghĩa này. Luân có hình tròn, tròn trặn khép kín, cũng có cái tâm, nhưng cái tâm ấy không thể lấy được. Hết thảy pháp đức Phật đã nói là Chân Không Diệu Hữu, Diệu Hữu nhưng là Chân Không, Chân Không chính là Diệu Hữu, không - hữu bất nhị. Từ Luân thấy được Không - Hữu bất nhị, Tánh - Tướng nhất như, nên Luân được dùng để tượng trưng cho hết thảy pháp đức Phật đã nói. Nếu Luân bất động thì vô ích, Luân nhất định phải động. Nói cách khác, Phật pháp nhất định phải được hoằng dương, nếu không chúng sanh chẳng được lợi ích. Nhất định phải vì chúng sanh thuyết pháp, thuyết pháp rất giống như xoay bánh xe.
Thỉnh chuyển pháp luân là thỉnh pháp sư đại đức giảng kinh thuyết pháp. Phật tại thế, thỉnh Phật giảng kinh, thuyết pháp, hướng dẫn chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Không có Phật ở đời thì thỉnh vị pháp sư đại đức hữu tu hữu chứng giảng kinh thuyết pháp cho chúng ta. Các đồng tu trẻ tuổi phải thật sự phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tiếp nối huệ mạng của Phật, bất luận xuất gia hay tại gia đều phải học giảng kinh, phát tâm một đời theo đuổi công tác giáo dục của Phật giáo.
Phát tâm giảng kinh là đại sự nghiệp, đại nhân duyên, nhất định sẽ được chư Phật Như Lai gia trì, hộ pháp long thiên bảo hựu. Nếu tự mình đúng theo lời dạy tu hành chân chánh, đem tinh thần thể lực trí huệ của cả một đời cống hiến cho Phật giáo, cho hết thảy chúng sanh, thì sanh mạng một đời này mới không luống uổng, hữu ích khôn sánh. Các đồng tu trẻ tuổi hãy buông bỏ danh văn lợi dưỡng, vứt bỏ ngũ dục lục trần, phát tâm theo đuổi sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh thần thánh, đó là sự nghiệp vĩ đại khôn sánh vậy.
1.7. Nguyện thứ bảy: Thỉnh Phật trụ thế
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thỉnh Phật trụ thế giả: Sở hữu tận pháp giới, hư không giới, thập phương tam thế, nhất thiết Phật sát, cực vi trần số chư Phật Như Lai, tương dục thị hiện bát Niết Bàn giả, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, nãi chí nhất thiết chư thiện tri thức, ngã tất khuyến thỉnh mạc nhập Niết Bàn, kinh ư nhất thiết Phật sát cực vi trần số kiếp, vị dục lợi lạc nhất thiết chúng sanh. Như thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thử khuyến thỉnh vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói mời đức Phật ở lại đời là chư Phật Như Lai mười phương ba đời nhiều như số cực vi trong hết thảy cõi Phật tận pháp giới hư không giới sắp thị hiện (7) nhập Niết Bàn, và các Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến hết thảy thiện tri thức, tôi đều khuyên mời chớ vào Niết Bàn, mà hãy ở lại đời trong số kiếp nhiều như số cực vi trần trong hết thảy cõi Phật vì muốn lợi lạc hết thảy chúng sanh. Như thế hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, sự khuyến thỉnh này của tôi chẳng có cùng tận, niệm niệm tiếp nối không có gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp chẳng hề chán mệt).
Phàm phu rốt cuộc vẫn là phàm phu, nghe giảng kinh thuyết pháp tựa hồ có thâu hoạch, có giác ngộ, nhưng đôi ba ngày sau bèn quên tuốt luốt. Nghe kinh một lần mà khai ngộ tựa hồ chẳng có ai, chỉ có mình Lục Tổ Huệ Năng mà thôi. Chân chánh ngộ nhập là một chuyện khó, nên cần phải thường mời thiện tri thức ở luôn nơi này, ngày ngày giảng kinh thuyết pháp giáo hóa chúng ta, chúng ta ngày ngày được Phật pháp huân tập, thời gian lâu sau sẽ vô hình trung giác ngộ.
Phật pháp thường trụ thế gian thì người thế gian bèn có phước báo. Phật pháp chẳng thường trụ thế gian, người thế gian gặp nhiều tai nạn. Thiên tai, tai nạn tự nhiên thuộc về y báo, y báo chuyển theo chánh báo, cũng là do tâm con người chiêu cảm. Bởi thế, người có phước báo sống nơi phước địa. Chúng ta muốn tu phước hành thiện nhưng rốt cục việc gì là phước, chuyện gì là thiện thường chưa thể phân biệt được. Thiện và phước tầng lớp khác nhau, phạm vi của chúng rộng hay hẹp chỉ có Phật, Bồ Tát mới có thể thấu hiểu triệt để chân tướng sự thật. Bởi thế, quý Ngài có năng lực trí huệ dạy chúng ta, chúng ta mới có thể thật sự biết đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, thế giới này mới hòa bình, nhân dân mới thật sự yên vui.
Thỉnh chuyển pháp luân và thỉnh Phật trụ thế nhìn thì đơn giản, nhưng trên thực tế lại chẳng dễ dàng. Vào thời đại Lương Võ Đế và sư Bảo Chí Công có câu chuyện như sau: Ở Tứ Xuyên có một vị cao tăng thật sự đắc đạo, tên là Bảo Hương thiền sư. Ngài ở Tứ Xuyên rất nhiều năm, dùng đủ mọi pháp phương tiện khuyên người đoạn ác tu thiện. Phong tục xứ ấy mỗi khi gặp dịp tế lễ phải sát sanh; mỗi năm pháp sư khổ công khuyên họ đừng tạo sát nghiệp, chẳng ai thèm nghe, trái lại còn cười nhạo Ngài. Pháp sư khó chịu vô cùng. Có một năm, có một vị cư sĩ lên kinh thành bái kiến ngài Bảo Chí Công, Bảo Chí Công là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Lương Hoàng Sám do ngài Bảo Chí Công soạn. Bảo Chí Công hỏi vị cư sĩ Tứ Xuyên ấy:
- Hương Tứ Xuyên quý hay không?
Vị cư sĩ đáp:
- Hương Tứ Xuyên rất rẻ.
Ý ngài Bảo Chí Công hỏi Bảo Hương thiền sư quý hay không quý, có nghĩa là mọi người có tôn trọng, quý mến ông ta hay không? Ông cư sĩ nghe hỏi, tưởng Ngài hỏi hương để đốt của tỉnh Tứ Xuyên có quý hay không, bèn đáp hương xứ đó rất rẻ. Bảo Chí Công nói:
- Đã rẻ thì sao không đi đi?
Ông cư sĩ nghe không hiểu lời ngài Chí Công. Mấy hôm sau, ông ta trở về Tứ Xuyên, gặp Bảo Hương thiền sư. Thiền sư hỏi ông ta:
- Bảo Chí Công nói những gì?
Cư sĩ đáp:
- Ngài nói hương của tỉnh Tứ Xuyên ta quý hay không, tôi đáp rất rẻ. Bảo Chí Công nói: “Đã rẻ thì sao không đi đi?” Tôi nghe không hiểu gì cả!
Bảo Hương nghe nói vậy, gật đầu. Mấy hôm sau, lại có pháp hội tế lễ. Mọi người vẫn giết nhiều bò dê để cúng tế như cũ. Ngày hôm ấy, Bảo Hương chẳng giống như khi trước, Ngài đào một cái hố rất to, to như cái ao ở cổng chùa, đổ đầy nước. Ngài cũng tham dự pháp hội tế lễ, cũng theo họ ăn cá, ăn thịt. Trước đây Ngài khuyên người khác chớ sát sanh, nay lại theo họ ăn cá ăn thịt, mọi người vô cùng ngạc nhiên. Ăn uống xong, Thiền Sư đến bên cái hố, há miệng, những con cá Ngài ăn vào đều sống lại, được Ngài mửa ra bơi lội trong nước. Những con gà vịt Ngài ăn vào đều sống lại hết. Thần thông vừa hiện, mọi người sững sờ. Mửa hết xong, Ngài bèn đứng vãng sanh. Bậc cao tăng đắc đạo hoằng pháp lợi sanh ở địa phương này, chúng ta chẳng tôn trọng, Ngài đi mất rồi!
Câu chuyện này cảnh tỉnh chúng ta: Thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật tại thế, phải dùng phương pháp nào đây? Trọn chẳng phải vì tiền bạc, hưởng thọ, giả danh. Đem chùa miếu to cúng dường pháp sư để giữ Ngài ở lại được chăng? Chẳng giữ được! Dùng danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần giữ chẳng được! Chỉ có một phương pháp giữ lại được là dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh tiếp nhận sự dạy răn của pháp sư, y giáo phụng hành. Thỉnh pháp sư đến hoằng pháp lợi sanh, giáo hóa chúng sanh một phương thì lại càng phải nỗ lực tinh tấn bội phần, tu hành đúng như lời dạy. Có được cái tâm như thế, cái nguyện như thế, hành trì như thế nhất định có cảm ứng, sẽ cầu được bậc hữu tu hữu chứng ở lại địa phương ấy.
Mười đại nguyện vương tuy có mười điều, nhưng trên thực tế, Phổ Hiền đại nguyện chỉ có bảy điều, bảy điều đã giảng viên mãn. Ba điều sau đều là nói về hồi hướng. Thông thường trong hồi hướng kệ, thường nói đến hồi hướng Bồ Đề, hồi hướng Phật đạo, hồi hướng chúng sanh.
1.8. Nguyện thứ tám: Thường tùy Phật học
Chánh kinh:
Phục thứ, thiện nam tử! Ngôn thường tùy Phật học giả: Như thử Sa Bà thế giới, Tỳ Lô Giá Na Như Lai tùng sơ phát tâm, tinh tấn bất thoái, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng, nhi vi bố thí: bác bì vi chỉ, tích cốt vi bút, thích huyết vi mặc, thư tả kinh điển, tích như Tu Di. Vị trọng pháp cố, bất tích thân mạng, hà huống vương vị, thành ấp, tụ lạc, cung điện, viên lâm, nhất thiết sở hữu? Cập dư chủng chủng nan hành khổ hạnh, nãi chí thọ hạ thành đại Bồ Đề, thị chủng chủng thần thông, khởi chủng chủng biến hóa, hiện chủng chủng Phật thân, xử chủng chủng chúng hội: hoặc xử nhất thiết chư đại Bồ Tát chúng hội đạo tràng, hoặc xử Thanh Văn, cập Bích Chi Phật chúng hội đạo tràng, hoặc xử Chuyển Luân Thánh Vương, tiểu vương quyến thuộc chúng hội đạo tràng, hoặc xử Sát-lợi, cập Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ chúng hội đạo tràng, nãi chí hoặc xử thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng chúng hội đạo tràng. Xử ư như thị chủng chủng chúng hội, dĩ viên mãn âm như đại lôi chấn, tùy kỳ nhạo dục, thành thục chúng sanh, nãi chí thị hiện nhập ư Niết Bàn. Như thị nhất thiết, ngã giai tùy học như kim Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na.
Như thị tận pháp giới, hư không giới, thập phương tam thế, nhất thiết Phật sát, sở hữu trần trung, nhất thiết Như Lai, giai diệc như thị. Ư niệm niệm trung, ngã giai tùy học. Như thị hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thử tùy học, vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp, vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói thường học theo Phật nghĩa là: Như đức Tỳ Lô Giá Na (8) trong thế giới Sa Bà này, từ sơ phát tâm, tinh tấn chẳng lùi, dùng bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng để bố thí: lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích máu làm mực, biên chép kinh điển, chất như núi Tu Di. Vì tôn trọng pháp nên chẳng tiếc thân mạng, huống gì ngôi vua, thành, ấp, xóm, làng, cung điện, vườn, rừng, hết thảy sở hữu và đủ mọi khổ hạnh khó làm. Cho đến ngồi dưới gốc cây thành đại Bồ Đề, thị hiện thần thông, khởi mọi thứ biến hóa, hiện các thứ thân Phật ở trong các chúng hội: Hoặc ở giữa chúng hội đạo tràng của hết thảy các đại Bồ Tát, hoặc ở giữa chúng hội đạo tràng của Thanh Văn và Bích Chi Phật, hoặc ở giữa chúng hội đạo tràng của Chuyển Luân Thánh Vương (9), tiểu vương, và quyến thuộc, hoặc chúng hội đạo tràng của Sát-lợi (10), Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, cho đến chúng hội đạo tràng của thiên long bát bộ (11), nhân phi nhân v.v… Ở trong đủ mọi chúng hội như thế, dùng tiếng viên mãn như sấm rền lớn, tùy lòng ưa thích của mỗi loại mà thành thục (12) chúng sanh, cho đến thị hiện nhập Niết Bàn. Hết thảy như thế, tôi đều học theo như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na ngày nay.
Như thế tận hư không giới, chúng sanh giới, mười phương ba đời hết thảy cõi Phật, trong tất cả vi trần, hết thảy Như Lai cũng đều như thế. Trong niệm niệm tôi đều học theo. Như thế tận hư không giới, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, sự tùy học này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp chưa hề chán mệt).
“Thường học theo Phật” là hồi hướng Bồ Đề. Bồ Đề là Phật. Học Phật muốn thật sự thành tựu nhất định phải có thầy tốt chỉ dạy; lại còn phải có đồng học, đồng tham đạo hữu tốt thường ra sức dùi mài nghiên cứu thảo luận. Ngoài ra, còn phải có những gương tốt khiến cho chúng ta tu học thật sự có mục tiêu. Như Mạnh Tử học Khổng Tử là một thí dụ: Mạnh Tử chiếu theo trước tác của Khổng Tử, tu hành đúng theo lời dạy, có điều gì không hiểu bèn thỉnh giáo đệ tử của Khổng Tử. Thiện tri thức khó cầu, chẳng tìm được thiện tri thức thì cầu nơi cổ nhân. Như Ngẫu Ích đại sư học Liên Trì đại sư: Đương thời Liên Trì đại sư đã vãng sanh, ngài xem Liên Trì Đại Sư Toàn Tập, thờ Liên Trì đại sư làm thầy, nghe theo lời răn dạy của Liên Trì đại sư, tu hành theo đúng lời thầy dạy, bèn thành công, trở thành vị tông sư đương thời.
Thầy Lý Bỉnh Nam dạy tôi lấy Ấn Quang pháp sư làm thầy, dạy tôi đọc Ấn Quang Văn Sao, y chiếu lời Ấn Quang pháp sư răn dạy mà tu hành. Phổ Hiền Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, dạy chúng ta thường học theo Phật, bảo chúng ta học theo Phật. Phật đã tu chứng đến mức viên mãn rốt ráo, chúng ta lấy Phật làm gương hòng un đúc chính mình. Phật dùng tâm như thế nào, dùng thái độ như thế nào để xử sự, đãi người tiếp vật, chúng ta học theo Ngài. Thường nhật Phật sanh hoạt như thế nào, chúng ta cứ học theo Ngài. Quý vị học đức Phật đúng từng bước, từng nét thì xin chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi đấy!
Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta học theo đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai tu học trong thế giới Sa Bà này, nhưng không giới thiệu A Di Đà Như Lai cho chúng ta. Mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, rõ ràng là khuyên chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thân cận A Di Đà Phật, nhưng ở đây thường học theo Phật, Ngài bèn dạy chúng ta học theo Tỳ Lô Giá Na Phật. Nghĩa này phải hiểu như thế nào? Chư vị phải nhớ kỹ: Học Phật tiếp nhận sự giáo dục của Phật, tối khẩn yếu là đừng quên mất gốc. Phổ Hiền Bồ Tát là học trò của Tỳ Lô Giá Na, bởi thế Ngài dạy chúng ta học theo thầy Ngài. Tỳ Lô Giá Na là Báo Thân Phật, Thích Ca Mâu Ni là Ứng Hóa Thân Phật, là thân ứng hóa của Tỳ Lô Giá Na Phật. Đây là lấy Phật làm tấm gương tu hành cho chúng ta. Chúng ta phải học theo đúng như Ngài.
“Từ sơ phát tâm”: Lúc Phật phát tâm tối sơ, chúng ta phải học theo Ngài phát tâm. Sau khi đức Phật đã phát tâm, trong một thời gian dài “tinh tấn chẳng lùi”, chúng ta cũng học làm theo đúng như thế. Thành Phật chẳng phải một hai ngày là đạt được, cũng chẳng phải là một hai đời thành tựu được đâu. Mỗi một vị Phật tu hành chứng quả đều là vô lượng kiếp. Thời gian dài lâu không cách gì tưởng tượng được. Bởi thế chúng ta phải phát tâm dài xa, phải có tâm nhẫn nại, việc này chẳng thể gấp rút được, phải nghiêm túc nỗ lực tu học. Lúc Phật còn tu nhân, sau khi phát tâm, thời gian tu hành dài lâu, phương pháp tu hành vô lượng vô biên.
Ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát nêu ra một thí dụ: “Dùng thân mạng để bố thí”, tức là Nội Tài Bố Thí. Trong truyện ký có ghi lại những chuyện tu hành của Thích Ca Mâu Ni Phật trong đời đời kiếp kiếp, rất đáng để học theo. Lúc còn tu nhân, Phật tu Bồ Tát đạo, vì lưu thông kinh điển, trong chốn núi sâu tìm không ra giấy, Ngài tự lột da mình làm giấy, tách đầu xương làm bút, chích huyết làm mực để biên chép kinh giáo các vị cổ Phật đã nói để lưu truyền cho hậu thế ngõ hầu khỏi bị thất truyền. Đời đời kiếp kiếp tu hành như thế, biên chép kinh điển chồng chất cao như núi Tu Di, đời đời kiếp kiếp chẳng coi trọng nhục thân của chính mình, vị pháp vong thân. Thân thể còn chẳng coi trọng, huống gì vật ngoại thân? Vật ngoài thân càng chẳng để vào mắt. Khổ hạnh khó làm như thế, Ngài làm được. Nghĩ đến bản thân chúng ta học Phật, gặp phải chút khó khăn gì bèn bỏ cuộc ngay; so với Phật lúc tu nhân, chúng ta kém xa quá! Chẳng lạ gì Ngài thành Phật, chúng ta vẫn cứ luân hồi trong lục đạo.
Tôi giới thiệu A Di Đà Phật cùng quý vị đồng tu. Bởi lẽ Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng dễ học, kinh điển của Ngài là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Một ngày niệm tám tiếng, chỉ niệm một lần thôi cũng phải mất nửa tháng [mới niệm xong toàn bộ kinh Hoa Nghiêm]. Chúng ta thờ A Di Đà Phật làm thầy, Thích Ca Mâu Ni Phật, Tỳ Lô Giá Na, mười phương hết thảy chư Phật Như Lai thấy quý vị chọn lựa như vậy mỗi Ngài đều vỗ tay, hoan hỷ rằng quý vị đã chọn đúng. Từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp chúng ta chưa từng chọn lựa đúng, lần này chọn lựa đúng. Chọn đúng thì phải tu hành đúng như lời dạy, một đời này quyết định thành Phật, lẽ nào chư Phật chẳng hoan hỷ, chẳng tán thán?
Đối với chính mình phải có tín tâm, A Di Đà Phật chẳng khó học, kinh điển của ngài là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Hoa Nghiêm là cốt tủy của Đại Tạng Kinh, kinh Vô Lượng Thọ là cốt tủy của kinh Hoa Nghiêm. Quá khứ, Hoằng Nhất đại sư khuyên người học Phật nên nhập môn bằng Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao. Đáng tiếc con người hiện đại chẳng rành văn ngôn cho lắm, đọc Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao chẳng hiểu. Kinh Vô Lượng Thọ nói rõ ràng, gần gũi dễ hiểu, có thể nói là vô cùng khế cơ đối với người hiện thời. Hôm nay tôi khuyên các vị thường học theo Phật là học Phật A Di Đà, tu học theo sự giáo huấn của kinh Vô Lượng Thọ.
Kinh Vô Lượng Thọ phải thường xuyên niệm, phải niệm cho thật thuộc. Niệm Phật, niệm kinh là niệm cho hết vọng niệm, chẳng tạo nghiệp luân hồi sáu nẻo. Kinh điển niệm thuộc thì trong sanh hoạt thường nhật, khởi tâm động niệm đều nghĩ đến những điều kinh giáo huấn: Chúng ta có nên khởi những ý niệm này hay không? Chúng ta có nên nói lời này hay không? Chúng ta có nên làm việc này hay không? Phải tích cực tu học lời Phật A Di Đà giáo huấn, lâu ngày chầy tháng, quý vị sẽ tự nhiên biến đổi. Tâm phàm phu, tập khí phàm phu dần dần giảm thiểu, tập khí A Di Đà Phật ngày dần càng sâu, càng gần với đức Phật. Kinh điển chẳng thuộc, chúng ta khởi tâm động niệm chẳng có tiêu chuẩn; niệm thuộc thì mới có thể thường tùy Phật học.
Phải học phát tâm như Phật, phải học tu trì như Phật, phải học chứng quả như Phật, phải học hoằng pháp lợi sanh như Phật, mọi thứ đều phải học theo Ngài như thế. Cho đến tám tướng thành đạo chúng ta cũng phải học tập theo. Tám tướng thành đạo là diễn kịch, là biểu diễn cho hết thảy chúng sanh xem, chẳng những chỉ có ngôn giáo mà còn có thân giáo. Học A Di Đà Phật là học mười phương ba đời hết thảy Phật; bởi Phật Phật đạo đồng, một tức là nhiều, nhiều chính là một. Biết được đạo lý này, chúng ta bèn rất an tâm, tâm lý yên ổn, chẳng hoài nghi, chẳng lo lắng, dùng tâm chân thành cung kính để học.
1.9. Nguyện thứ chín: Hằng thuận chúng sanh
Chánh kinh:
Phục thứ thiện nam tử! Ngôn hằng thuận chúng sanh giả: Vị tận pháp giới, hư không giới, thập phương sát hải, sở hữu chúng sanh chủng chủng sai biệt, sở vị: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc hữu y ư địa, thủy, hỏa, phong nhi sanh trụ giả, hoặc hữu y không, cập chư mãng mộc nhi sanh trụ giả, chủng chủng sanh loại, chủng chủng sắc thân, chủng chủng hình trạng, chủng chủng tướng mạo, chủng chủng thọ lượng, chủng chủng tộc loại, chủng chủng danh hiệu, chủng chủng tâm tánh, chủng chủng tri kiến, chủng chủng dục lạc, chủng chủng ý hạnh, chủng chủng oai nghi, chủng chủng y phục, chủng chủng ẩm thực, xử ư chủng chủng thôn doanh, tụ lạc, thành ấp, cung điện, nãi chí nhất thiết thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng, vô túc, nhị túc, tứ túc, đa túc, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng. Như thị đẳng loại ngã giai ư bỉ, tùy thuận nhi chuyển chủng chủng thừa sự, chủng chủng cúng dường, như kính phụ mẫu, như phụng sư trưởng, cập A La Hán, nãi chí Như Lai, đẳng vô hữu dị. Ư chư bệnh khổ, vị tác lương y. Ư thất đạo giả, thị kỳ chánh lộ. Ư ám dạ trung, vị tác quang minh. Ư bần cùng giả, linh đắc phục tạng. Bồ Tát như thị bình đẳng, nhiêu ích nhất thiết chúng sanh.
Hà dĩ cố? Bồ Tát nhược năng tùy thuận chúng sanh, tắc vi tùy thuận cúng dường chư Phật. Nhược ư chúng sanh tôn trọng thừa sự, tắc vi tôn trọng, thừa sự Như Lai. Nhược linh chúng sanh sanh hoan hỷ giả, tắc linh nhất thiết Như Lai hoan hỷ.
Hà dĩ cố? Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi thể cố. Nhân ư chúng sanh, nhi khởi đại bi. Nhân ư đại bi, sanh Bồ Đề tâm. Nhân Bồ Đề tâm, thành Đẳng Chánh Giác. Thí như khoáng dã, sa tích chi trung, hữu đại thọ vương. Nhược căn đắc thủy, chi diệp hoa quả tất giai phồn mậu. Sanh tử khoáng dã, Bồ Đề thọ vương, diệc phục như thị. Nhất thiết chúng sanh nhi vi thọ căn. Chư Phật Bồ Tát nhi vi hoa quả. Dĩ đại bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu chư Phật Bồ Tát trí huệ hoa quả.
Hà dĩ cố? Nhược chư Bồ Tát dĩ đại bi thủy nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Thị cố Bồ Đề thuộc ư chúng sanh. Nhược vô chúng sanh, nhất thiết Bồ Tát chung bất năng thành Vô Thượng Chánh Giác.
Thiện nam tử! Nhữ ư thử nghĩa, ưng như thị giải. Dĩ ư chúng sanh tâm bình đẳng cố, tắc năng thành tựu viên mãn đại bi. Dĩ đại bi tâm tùy chúng sanh cố, tắc năng thành tựu cúng dường Như Lai. Bồ Tát như thị tùy thuận chúng sanh, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thử tùy thuận vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói hằng thuận chúng sanh nghĩa là tận pháp giới, hư không giới, mười phương biển cõi Phật, tất cả chúng sanh mọi thứ sai biệt, tức là: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh (13), hoặc có loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà tồn tại, hoặc có loài nương vào không trung và các thứ cỏ cây để tồn tại. Mọi thứ sanh loại, mọi thứ sắc thân (14), mọi thứ hình dạng, mọi thứ tướng mạo, mọi thứ tuổi thọ, mọi thứ tộc loại, mọi thứ danh hiệu, mọi thứ tâm tánh, mọi thứ tri kiến, mọi thứ dục lạc, mọi thứ ý hạnh, mọi thứ oai nghi (15), mọi thứ y phục, mọi thứ thức ăn, sống trong mọi thứ thôn doanh, làng xóm, thành ấp, cung điện, cho đến hết thảy thiên long bát bộ, nhân phi nhân v.v… không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc (16), có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng (17). Với những loài như thế, tôi đều ở nơi đó tùy thuận thực hiện mọi thứ thừa sự (18), mọi thứ cúng dường như kính cha mẹ, như thờ sư trưởng, và A La Hán, thậm chí giống như Như Lai chẳng sai khác. Với những kẻ bệnh khổ, tôi làm lương y. Với kẻ lạc đường, chỉ cho đường đúng. Trong nơi tăm tối, bèn làm quang minh. Với kẻ bần cùng khiến được kho tàng. Bồ Tát bình đẳng lợi ích hết thảy chúng sanh như thế.
Vì sao vậy? Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh thì chính là tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng thừa sự chúng sanh chính là tôn trọng thừa sự Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ chính là khiến cho hết thảy Như Lai hoan hỷ.
Vì sao vậy? Vì chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm thể. Nhân nơi chúng sanh mà khởi đại bi; nhân nơi đại bi, sanh tâm Bồ Đề; nhân tâm Bồ Đề thành Đẳng Chánh Giác. Ví như trong chốn đồng hoang sa mạc (19), có đại thọ vương (20), nếu rễ cây hút được nước thì cành, lá, hoa, quả thảy đều sum suê. Thọ vương Bồ Đề trong chốn đồng hoang sanh tử cũng giống như thế. Hết thảy chúng sanh là rễ cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa quả. Dùng nước đại bi lợi ích chúng sanh thì có thể thành tựu hoa quả trí huệ Phật, Bồ Tát.
Vì sao vậy? Chư Phật, Bồ Tát dùng nước đại bi lợi ích chúng sanh thì có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế Bồ Đề thuộc nơi chúng sanh. Nếu không có chúng sanh thì hết thảy Bồ Tát trọn chẳng thể thành Vô Thượng Chánh Giác.
Này thiện nam tử! Đối với nghĩa này ông nên hiểu như thế. Do tâm bình đẳng đối với chúng sanh nên có thể thành tựu viên mãn đại bi; vì dùng tâm đại bi tùy thuận chúng sanh nên có thể thành tựu sự cúng dường Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như thế hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, sự tùy thuận này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp chẳng có chán mệt)
Nguyện thứ tám là hồi hướng Bồ Đề. Hằng thuận chúng sanh là hồi hướng chúng sanh. Nguyện thứ mười là hồi hướng pháp giới. Trong Đại kinh (kinh Vô Lượng Thọ) đức Phật dạy chúng ta phải đem công đức tu học hồi hướng về ba chỗ: Bồ Đề, chúng sanh, pháp giới. Vì sao phải hồi hướng? Phàm phu chẳng thể thành Phật, thành Bồ Tát là do Ngã Chấp quá nặng, khởi tâm động niệm chỉ nghĩ đến mình. Do đấy, từ vô lượng kiếp đến nay chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành, dù chỉ Sơ Quả cũng chẳng chứng được. Đức Phật dạy chúng ta pháp môn Hồi Hướng chính là dạy chúng ta phải phá Ngã Chấp, khiến chúng ta khởi tâm động niệm chẳng nghĩ đến mình, khởi tâm động niệm chẳng vì tự mình, mà vì Bồ Đề, vì chúng sanh, vì pháp giới, mở rộng tâm lượng. Chỉ có mở rộng tâm lượng thì vọng tâm mới phá trừ, chân tâm mới hiện tiền, có vậy mới có thể vượt thoát tam giới, mới hòng thành Phật, thành Bồ Tát. Bởi vậy, pháp môn Hồi Hướng trọng yếu phi thường.
“Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm tịnh độ Phật,
Trên đền bốn ân nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề,
Hết một báo thân này,
Cùng sanh nước Cực Lạc”.
Đấy là bài kệ hồi hướng chúng ta thường niệm mỗi khi niệm Phật, niệm kinh, giảng kinh xong.
“Nguyện đem công đức này, trang nghiêm tịnh độ Phật” là hồi hướng pháp giới.
“Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ” là hồi hướng chúng sanh. Phật pháp niệm niệm chẳng quên hiếu kính. Tứ Ân: ân thứ nhất là ân cha mẹ. Phật pháp chẳng khéo học tức là bất hiếu. Lên đài giảng kinh, nếu chẳng giảng khéo, giảng sai lầm tức là bất hiếu đối với cha mẹ, bất kính đối với sư trưởng. Người nghe kinh dưới đài, nếu chẳng chú tâm nghe, cũng là bất hiếu bất kính. Ân thứ hai là ân thầy dạy. Phật là thầy của chúng ta, phải báo ân thầy. Ân thứ ba là ân quốc gia. Chính quyền cai trị tốt đẹp, ai nấy đều giữ pháp, người người đều hành thiện, mọi người an cư lạc nghiệp, đấy là ân đức của chánh phủ. Ân thứ tư là ân chúng sanh, tức là ân đức của nhân dân. Cơm ăn áo mặc của chúng ta, hết thảy những thứ cần dùng cho cuộc sống đều phải dựa vào đại chúng trong xã hội, đại chúng trong xã hội có ân đức đối với lẫn nhau. “Hạ tế tam đồ khổ” (Dưới cứu khổ tam đồ): Tế là cứu tế, siêu độ. Tam Đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta nỗ lực tu học hòng có năng lực giúp họ lìa khổ được vui.
“Nếu có ai thấy nghe, đều phát tâm Bồ Đề” là hồi hướng Bồ Đề. Tám câu kệ hồi hướng đủ cả ba thứ hồi hướng. Niệm kệ hồi hướng phải từ nội tâm chân chánh phát nguyện, tâm và miệng tương ứng, công đức vô lượng vô biên. Câu cuối cùng quy kết thế giới Cực Lạc: “Hết một báo thân này, cùng sanh nước Cực Lạc”. Tám câu kệ này viên mãn phi thường.
Đức Phổ Hiền nói: “Tất cả chúng sanh mọi thứ sai biệt”, ở đây nói đến hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới. Các thứ sanh loại: Sanh loại có bốn thứ khác nhau là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh. Các thứ sắc thân: thân thể, diện mạo khác nhau, chỉ nói tóm gọn trong phạm vi nhân loại thôi, màu da đã khác nhau, có người da trắng, người da vàng, người da đen. Các thứ hình dạng: Người thuộc chủng tộc nào, quốc gia nào chúng ta nhìn biết ngay, người Trung Quốc có hình dạng người Trung Quốc, người Ấn Độ có hình dạng người Ấn Độ. Các thứ tướng mạo: Tướng mạo bất đồng. Các thứ thọ lượng: Có kẻ trường thọ, có kẻ đoản mạng. Chủng tộc sai khác, danh hiệu bất đồng, những suy nghĩ trong tâm chẳng giống nhau, kiến giải chẳng tương đồng, tư tưởng sai khác, yêu thích khác biệt, cho đến những tập quán thói quen sanh hoạt cũng bất đồng, thức ăn cũng bất đồng. Bồ Tát dạy chúng ta: “Với những loài như thế tôi đều tùy thuận theo họ”: Đối với các loài chúng sanh sai khác đều phải tùy thuận hết. Tùy thuận như thế nào? Phải nhẫn. Nếu quý vị không nhịn chịu, quý vị chẳng thể tùy thuận được.
“Thường học theo Phật” là đặt nặng Bố Thí. Cái gì Phật cũng buông xuống hết thì trong Lục Độ đó chính là học Xả. “Hằng thuận chúng sanh” là học lấy Nhẫn Nhục trong Lục Độ. Chúng ta nhẫn được như thế, nhẫn được thì sẽ thuận được. Thuận theo chúng sanh, chúng sanh sẽ hoan hỷ. Đặc biệt là người học Phật, nếu chẳng thể nhẫn nại, ắt sẽ bị người trông thấy khinh cười. Nêu một thí dụ nông cạn dễ thấy nhất: Đến xứ nào thuận theo phong tục xứ đó. Anh ăn cái gì, tôi ăn cái đó; chớ đừng tôi thích ăn cái gì, anh phải thay tôi làm cái đó, gây thêm phiền phức cho người ta. Phải thuận theo chúng sanh!
Mình thích nằm giường cứng, đến xứ này, người ta cho quý vị nằm giường lò xo nệm mềm, quý vị cũng phải cam chịu, chẳng thể buộc người khác đổi giường chiếu khác cho quý vị được. Lễ tiết, thù tạc, mọi thứ phải tùy thuận. Đối với người ta phải dùng tâm hiếu kính mà tùy thuận, tùy thuận hết thảy mọi người giống như tùy thuận cha mẹ. Kính hết thảy chúng sanh giống như kính trọng thầy dạy. Tu hành nhất định phải tu cái tâm thanh tịnh của chính mình ngay nơi quảng đại quần chúng sai biệt. Trong hoàn cảnh cực bất thanh tịnh, tâm ta thanh tịnh thì công phu thành tựu rồi; chẳng phải là vào núi sâu hang thẳm tu hành, hoàn cảnh thanh tịnh, nhưng tâm suy bậy nghĩ bạ, tâm chẳng thanh tịnh đâu à! Tâm thanh tịnh phải tu trong chốn hồng trần. Tâm bình đẳng phải tu trong hoàn cảnh cực bất thanh tịnh.
Bình đẳng đối với kẻ oán người thân, không gì là bất bình đẳng cả. Bởi thế, oan gia là thiện tri thức, là thầy tốt, quý vị nhờ đó được bình đẳng. Tu hành như vậy chính là như kinh Hoa Nghiêm dạy: Dùng sự để luyện tâm, phải trải qua đủ mọi sự vật sai biệt, mọi chuyện sai biệt, ở trong đó mới có thể thật sự tu hành đến mức thanh tịnh bình đẳng. Đạt đến thanh tịnh bình đẳng thì Lục Độ của Bồ Tát viên mãn. Lục Độ là nhân, thanh tịnh bình đẳng giác là quả báo.
Phải coi hết thảy chúng sanh như chư Phật, như Bồ Tát. Trong mắt Phật, mọi chúng sanh đều là Phật. Lúc Phật thành Phật, Ngài thấy hết thảy chúng sanh nơi đại địa cùng thành Phật đạo. Điều này cũng như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Tình và vô tình cùng viên mãn Chủng Trí”, không có gì chẳng phải là Phật. Trong con mắt phàm phu, Phật, Bồ Tát cũng là phàm phu. Trong pháp giới có Phật hay chăng? Có phàm phu hay chăng? Không có chi cả! Không có Phật, không có phàm phu, pháp giới là bình đẳng. Vì sao lại có sai biệt?
Là vì tâm tưởng quý vị bất bình đẳng. Bởi thế pháp giới bình đẳng biến thành pháp giới sai biệt. Pháp giới bình đẳng là thật, pháp giới sai biệt là giả, là do vọng tâm phân biệt, chấp trước biến hiện. Học Phật phải trừ khử sai biệt thì cảnh giới bình đẳng thật sự mới hiện tiền. Mười nguyện Phổ Hiền có thể giúp chúng ta đạt đến cảnh giới rốt ráo viên mãn. Trong pháp giới bình đẳng thấy sai biệt là chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi hóa độ chúng sanh, là độ tha viên mãn. Trong pháp giới sai biệt thấy bình đẳng là chính mình tu hành chứng quả, là tự độ viên mãn.
Đối với hết thảy chúng sanh khổ nạn, chúng ta phải tận tâm tận lực giúp đỡ họ. Khổ nạn do đâu mà có? Chẳng tìm được bệnh căn thì chẳng có cách gì để có thể triệt để giúp đỡ họ được. Tất cả hết thảy chúng sanh khổ nạn vốn là do mê hoặc, điên đảo. Nói cách khác, đối người, đối sự, đối vật, nghĩ sai, thấy sai, làm sai. Có lục đạo chúng sanh là do mức độ lầm lạc sâu hay cạn, rộng hay hẹp mà biến thành lục đạo. Trời người cách nghĩ, cách nhìn sai lầm khá cạn, còn súc sanh, ngạ quỷ cách nghĩ sai lầm sâu hơn; chúng sanh trong địa ngục cách nghĩ hoàn toàn lầm lạc. Phải nhờ vào giáo dục của đức Phật mới có thể dạy chúng sanh khôi phục Chánh Tri Chánh Kiến, có cách nghĩ, cách nhìn chánh xác đối với hết thảy sự lý nhân sanh vũ trụ. Muốn cứu vớt chúng sanh khổ nạn thì nhất định phải giúp họ phá mê khai ngộ. Nói cách khác, phải đem nền giáo dục của đức Phật giới thiệu cho họ, giúp họ tu học, tự nhiên họ sẽ giải quyết được vấn đề.
Tại gia cư sĩ làm lụng, buôn bán kiếm lời muốn làm nhiều việc tốt có được hay chăng? Nên làm việc tốt lớn lao là hoằng pháp lợi sanh! Làm bằng cách nào? In kinh sách, in các thiện thư dạy người sửa lỗi, sao chép băng thâu âm, thâu hình giảng kinh tặng người khác, đó là việc tốt nhất định phải làm, đó là hoằng pháp lợi sanh. Cũng có thể dùng danh nghĩa công ty, tên tiệm để in sách, đăng quảng cáo cho công ty trên băng ghi âm, ghi hình, kết duyên các nơi, thì cũng giống như thay cho công ty tuyên truyền quảng cáo, lợi tức nhất định tăng trưởng. Đem băng ghi âm, ghi hình giảng kinh phát trên đài phát thanh hay đài truyền hình, khiến nhiều người mở máy TV, bật radio bèn được nghe giảng kinh, thuyết pháp, công đức càng lớn. Chẳng nhất định phải là người có tiền mới làm được công đức lớn lao; người không tiền chẳng thể tu đại công đức, hiểu vậy là sai. Trong nhà Phật nói đến tu công đức là nói tu từ tâm, cốt sao tận tâm tận lực thì công đức bèn lớn. Tâm lực chưa dốc sạch thì công đức sẽ nhỏ. Viên mãn đại công đức mỗi cá nhân đều có thể tu được, đều có thể thành tựu viên mãn, đó gọi là tâm đại từ bi, là chân chánh hằng thuận chúng sanh. Muốn thật sự giúp chúng sanh giải quyết hết thảy khổ nạn thì phải dựa vào sự giáo dục của đức Phật.
Điểm đặc sắc của hạnh nguyện Phổ Hiền là mỗi một hạnh nguyện đều kiến lập trên cơ sở thanh tịnh bình đẳng quảng đại cung kính; đấy là điểm khác biệt so với hạnh nguyện của các Bồ Tát khác. Bồ Tát có thể bình đẳng lợi ích hết thảy chúng sanh là vì có thể tùy thuận. Tùy thuận chẳng phải là chuyện dễ làm được. Người Trung Quốc nói đến hiếu đạo, bên chữ Hiếu lại thêm chữ Thuận. Chẳng Thuận tức là bất hiếu. Phải có trí huệ cao độ, từ bi chân chánh, thì mới có thể thật sự thuận theo hết thảy chúng sanh.
Phổ Hiền Bồ Tát lại dạy chúng ta: “Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh thì chính là tùy thuận cúng dường chư Phật”. Phật đã nói hết thảy chúng sanh vốn là Phật, do đây biết rằng: Hằng thuận chúng sanh đúng thực là tùy thuận cúng dường chư Phật. Dùng cái tâm lễ kính chư Phật ấy, thái độ ấy để tùy thuận hết thảy chúng sanh thì thật là phi thường; đó chính là tu hành đến nơi đến chốn. Nếu chẳng tu hành đến nơi đến chốn thì vẫn còn có tâm phân biệt, tâm chấp trước. Là Phật hay là Bồ Tát thì ta phải cung kính, nhưng với kẻ phàm phu, người bại hoại ta có phải cung kính hay chăng? Một niệm phân biệt, chấp trước, hạnh Phổ Hiền đánh mất ngay, bởi lẽ chẳng có tâm bình đẳng. Chư Phật coi chúng sanh như cha mẹ đối với con cái. Nếu có thể đối xử với hết thảy chúng sanh hòa mục như người một nhà, Phật tâm bèn hoan hỷ sẽ khiến cho hết thảy Như Lai hoan hỷ. Phật niệm niệm mong trông thấy chúng sanh viên thành Phật đạo. Điều đức Phật thích thấy chúng ta làm nhất là hằng thuận chúng sanh.
“Chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi để làm thể”: Ở đây nói đến chỗ dụng tâm bất đồng giữa ta và Phật. Chúng ta dụng tâm: ý niệm đầu tiên là nghĩ đến mình, chẳng bao giờ nghĩ ngay đến người khác. Dù có nghĩ đến người khác thì kẻ đó phải là người thân thiết của mình, có dính líu đến mình. Người không quan hệ đời nào nghĩ đến! Huống hồ, lại còn súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, nếu quý vị thật sự nghĩ đến họ, còn ăn thịt chúng sanh được sao? Nhất định chẳng thể được!
Hằng thuận chúng sanh: Súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục cũng là chúng sanh, đều phải bình đẳng tùy thuận. Từ chỗ này chúng ta mới thật sự nhận thấy hạnh Phổ Hiền khó tu. Chúng ta nỗ lực tu học, chỉ có thể học được ít phần, một phần trăm, hai phần trăm là cùng; nếu muốn tu được năm mươi phần trăm, chúng ta tu không nổi! Phật dùng cái tâm bình đẳng từ bi, chẳng có phân biệt. Lòng từ bi lìa hết thảy phân biệt chấp trước thì gọi là đại từ đại bi. Đối với hết thảy hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới, Phật đều khởi từ bi, từ Từ Bi xuất sanh Bồ Đề tâm, do từ bi bèn triệt để giác ngộ, giác ngộ hết thảy chúng sanh và mình cùng một thể. Điều này chúng ta không biết được.
Nếu chúng ta biết được, tâm đồng thể đại bi sẽ tự nhiên sanh khởi, bởi lẽ hết thảy chúng sanh và ta là một thể. Đã là một thể, sao còn có thể tàn hại chúng sanh? Bởi vì tàn hại chúng sanh chính là tàn hại chính mình. Trong thế gian há có kẻ nào ngu ngốc đến nỗi chính mình tự hại mình? Biết “hết thảy chúng sanh chính là mình” là điều chư Phật Như Lai đã chứng, là cảnh giới khó thể lãnh hội, rất khó hiểu. Làm sao chúng sanh lại có biến thành chính mình cơ chứ! Trong kinh luận, Phật thường dùng tỷ dụ để thuyết pháp, hy vọng mọi người do tỷ dụ sẽ ngộ nhập cảnh giới ấy.
Ví như người nằm mộng, lúc tỉnh mộng thì vẫn nhớ rất rõ những sự tình, cảnh tượng trong mộng. Trong mộng thấy có chính mình, cũng mộng thấy rất nhiều người, rất nhiều chúng sanh, cũng mộng thấy sơn hà đại địa, cũng mộng thấy hư không, cảnh giới trong mộng phảng phất như cảnh giới hiện tiền, bản thân mình trong mộng ấy nào phải do cha mẹ sanh ra. Người, động vật, sơn hà đại địa, hư không trong mộng do đâu mà có? Toàn thể mộng cảnh đều do tự tâm quý vị biến hiện đó thôi. Tâm ấy chẳng phải là chân tâm mà là vọng tâm, bởi lẽ chân tâm chẳng có mộng. Công phu tu hành đạt đến mức độ tương đương hoặc niệm Phật đến mức Nhất Tâm Bất Loạn sẽ chẳng có mộng. Những người tu hành chứng quả A La Hán cũng không có mộng.
Do đó biết rằng: mộng là vọng tâm. Vọng tâm từ đâu có? Chân tâm và vọng tâm chúng ta đều tìm chẳng ra. Bởi lẽ tâm chẳng có tướng, chỉ là lúc nằm mộng bèn thấy được, lúc nằm mộng tâm biến thành tướng. Mộng cảnh chính là tâm của quý vị, cái tâm của quý vị biến ra mộng cảnh. Tất cả hết thảy cảnh giới trong mộng đều từ quý vị, đều là cảnh giới do cái tâm của chính quý vị biến hiện ra. Trừ chính mình, cái gì cũng chẳng có. Trong kinh luận, Phật thường nói: “Toàn vọng tức chân, toàn chân tức vọng”. Xuyên qua mộng cảnh, lắng lòng suy nghĩ, chúng ta sẽ hiểu đôi phần ý nghĩa hai câu Phật vừa nói trên. Vọng là hiện tượng. Hiện thời sơn hà đại địa, chúng sanh lăng xăng, động vật, thực vật, khoáng vật bày ra trước mắt chúng ta là do đâu mà có? Là do tự tánh của chúng ta biến hiện. Kinh Kim Cang chép: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Tướng Vọng là do tự tánh của chúng ta sau khi bị mê bèn hiện ra tướng cảnh giới. Vĩnh Gia đại sư nói: “Trong mộng rõ ràng có sáu nẻo, tỉnh rồi đại thiên trống rỗng”. Đại triệt đại ngộ, viên mãn thành Phật, đại thiên thế giới chẳng còn nữa, bởi lẽ chân tánh tỉnh mộng.
Mười phương thế giới rốt cục là thật hay giả? Giả hay thật đều chẳng thể nói được. Quý vị nói là thật ư, nó là giả đấy; bảo là giả ư, nó thật có đấy! Bởi thế, chớ khởi nghi tình là thật hay giả, cứ biết chân tướng sự thật là được rồi! Hư không pháp giới do tự tánh biến hiện, hết thảy hữu tình chúng sanh cũng do tự tánh biến hiện. Phật dạy: “Mười phương ba đời, cùng chung một Pháp Thân” là nói đến một sự thật. Phải thành Phật mới thật sự biết được.
Bởi thế, Phật giúp đỡ chúng sanh, vì hết thảy chúng sanh giảng kinh thuyết pháp, giúp họ khai ngộ, giúp họ tu hành chứng quả. Đối với Phật mà nói, đó là nghĩa vụ của Ngài, là chuyện Ngài phải làm. Ngài chẳng kể công, giống như mẹ hiền chăm sóc con thơ, không điều nhỏ nhặt nào lại chẳng quan tâm. Nếu quý vị hỏi Phật vì sao từ bi phổ độ hết thảy chúng sanh? Phật sẽ đáp: “Vì họ đồng thể với ta”. Độ người chính là độ mình. Hiểu rõ chân tướng sự thật mới hiểu hằng thuận chúng sanh chính là cúng dường chư Phật, khiến cho hết thảy chư Phật hoan hỷ. Bởi vậy, Phật do đồng thể đại bi mà xuất sanh Bồ Đề tâm, triệt để giác ngộ. Do Bồ Đề tâm, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đấy chính là con đường quang minh rộng lớn để thành Phật của chư Phật. Bây giờ chúng ta cũng đi theo con đường này, ắt sẽ thành Phật.
Tùy thuận chúng sanh chẳng thiệt thòi đâu. Trước mắt thấy tựa hồ thua thiệt, thật sự chẳng thua thiệt. Nhịn được, nhường được, tùy duyên được thì sẽ thành tựu đức hạnh cho chính mình. Nào ai biết chịu thiệt chính là chiếm tiện nghi. Với pháp thế gian, ta chịu thiệt một tí, nhưng trong Phật pháp ta chiếm đại tiện nghi.
Thế pháp chướng ngại Phật pháp. Với thế pháp, chúng ta lùi một bước, nhường một bước thì chướng ngại đối với Phật pháp bớt được một tầng, liền được đại tự tại. Trong kinh Vô Lượng Thọ, cương lãnh tu hành là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Lìa khỏi hết thảy chúng sanh thì tu hành bình đẳng thanh tịnh ở chỗ nào? Không có chỗ nào để tu cả! Tâm thanh tịnh phải tu nơi nhiễm cảnh, tâm bình đẳng phải tu trong hoàn cảnh cực bất bình thì mới là công phu, mới hòng chân chánh thọ dụng. Ngày nào đó, chúng ta thấy thế giới này, thấy hết thảy chúng sanh tâm thật sự bình đẳng thì tâm đại từ đại bi sẽ hiện tiền.
Phải tu bao lâu mới đạt đến cảnh giới ấy? Mỗi người mỗi khác! Người lợi căn đạt cảnh giới này rất nhanh, kẻ độn căn thì mười năm, hai mươi năm, cũng có khi cả đời tu chẳng thành, nguyên nhân là vì chẳng buông xuống nổi. Muốn thật sự đạt được thanh tịnh bình đẳng thì nhất định phải thấy thấu suốt, buông xuống. Thân tâm, thế giới hết thảy buông xuống hết; pháp thế gian, pháp xuất thế gian cứ hễ còn có mảy may ý niệm, có mảy may chấp trước, nghi hoặc, là quý vị chưa buông xuống được. Phải thấy thấu suốt, buông xuống rồi thì mới có thể dùng tâm đại bi tùy thuận hết thảy chúng sanh, mới có thể được như Phổ Hiền Bồ Tát nói: thành tựu cúng dường hết thảy Như Lai.
1.10. Nguyện thứ mười: Phổ giai hồi hướng (21)
Chánh kinh:
Phục thứ thiện nam tử! Ngôn phổ giai hồi hướng giả: Tùng sơ lễ bái, nãi chí tùy thuận, sở hữu công đức giai tất hồi hướng, tận pháp giới, hư không giới, nhất thiết chúng sanh, nguyện linh chúng sanh thường đắc an lạc, vô chư bệnh khổ. Dục hành ác pháp, giai tất bất thành. Sở tu thiện nghiệp, giai tốc thành tựu. Quan bế nhất thiết chư ác thú môn, khai thị nhân thiên Niết Bàn chánh lộ. Nhược chư chúng sanh nhân kỳ tích tập chư ác nghiệp cố, sở cảm nhất thiết cực trọng khổ quả, ngã giai đại thọ, linh bỉ chúng sanh tất đắc giải thoát, cứu cánh thành tựu vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát như thị sở tu hồi hướng, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã thử hồi hướng vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn; thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
(Lại này thiện nam tử! Nói hồi hướng khắp tất cả là từ sự lễ bái ban đầu cho đến tùy thuận, tất cả công đức thảy đều hồi hướng tận pháp giới, hư không giới hết thảy chúng sanh. Nguyện cho chúng sanh thường được yên vui, không có các bệnh khổ. Muốn làm chuyện ác thảy đều chẳng thành. Tu tập thiện nghiệp đều mau thành tựu. Đóng chặt hết thảy cửa [dẫn vào] các đường ác, mở bày đường chánh: trời, người, Niết Bàn. Nếu các chúng sanh do vì các nghiệp ác tích tập, cảm lấy hết thảy quả khổ rất nặng, tôi đều chịu thay, khiến các chúng sanh đó đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát tu hồi hướng như thế, hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận nhưng sự hồi hướng này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp không hề chán mệt)
Đây là hồi hướng pháp giới, mà cũng là tóm gộp cả chín điều nguyện trước: Từ lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng cho đến tùy thuận chúng sanh, tất cả công đức thảy đều hồi hướng, trong tâm chẳng tiêm nhiễm mảy may, có như thế tâm mới thanh tịnh. Có người tu công đức, chỉ sợ công đức bị người khác lấy mất, chẳng dám hồi hướng; vì tâm lượng nhỏ nhen nên chẳng thể thành tựu. Có người sợ đem công đức niệm Phật hồi hướng cho người khác, chính mình chẳng có công đức. Thật ra, đó là quan niệm sai lầm.
Công đức: Công là công phu tu hành của chính mình, Đức là cái mình thâu hoạch [do công sức tu hành ấy]. Quý vị có một phần công phu, nhất định có một phần thâu hoạch, người khác chẳng lấy được. Quý vị có muốn cho họ, họ cũng chẳng lấy được; còn phước đức có thể cho người khác. Chẳng hạn như của cải của chính mình có thể chia một nửa hoặc toàn bộ cho người khác, người ta có thể hưởng thọ được. Nhà cửa cũng có thể cho người khác ở, họ cũng có thể thọ dụng được. Chỉ có công đức là không cách gì cho người khác được.
Công đức là Giới - Định - Huệ. Hãy nghĩ xem, công đức trì giới có chia cho người khác được chăng? Công đức niệm Phật của quý vị có đem cho người khác được hay chăng? Công phu quý vị tu định có cho người khác được không? Không có cách nào hết. Nếu công đức có thể cho được, chúng ta cần gì phải tu hành nữa, cứ đợi Phật chia cho chúng ta, chúng ta bèn thành Phật. Công đức là ông tu ông được, bà tu bà được, chẳng tu chẳng được, nhất định phải cậy vào chính mình, nhất định chẳng ỷ lại người khác được.
Công đức có thể hồi hướng. Đối với chính mình mà nói, hồi hướng nhằm mở rộng tâm lượng, nhằm quét sạch sẽ tập khí phân biệt chấp trước từ vô thỉ đến nay. Công đức tôi tu tôi đều chẳng cần đến, công đức tôi tu tôi đều nhường cho mọi người hưởng. Chẳng cần đến công đức, công đức càng lớn. Chẳng những công đức không mất đi mà phước đức cũng chẳng mất. Số phận quý vị có một trăm vạn thì quý vị đem một trăm vạn bố thí hết, vài bữa sau, lại có một trăm vạn khác. Vì sao vậy? Là do số phận quý vị có; phận số có thì chẳng bị mất, mạng không có thì có giữ kỹ cũng chẳng giữ được.
Người Tàu Đại Lục thờ tài thần Phạm Lãi, vì ông này là tấm gương kiếm tiền và dùng tiền, vừa có trí huệ vừa có phước báo. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Việt vương Câu Tiễn có hai tay trợ thủ, một là Phạm Lãi, hai là Văn Chủng. Hai mươi năm sau, nước Việt phục hưng, diệt xong nước Ngô. Khi đó, Phạm Lãi biết quốc vương có thể cùng chịu hoạn nạn, nhưng chẳng thể cùng hưởng phú quý, bởi thế bèn đổi tên họ trốn đi, lưu lại một phong thư khuyên Văn Chủng cũng nên bỏ đi. Văn Chủng không tin, quả nhiên mấy ngày sau, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng thanh bảo kiếm, buộc ông ta tự sát. Phạm Lãi đổi tên thành Đào Châu Công, buôn bán giàu có lớn, đem toàn bộ tài sản bố thí, cứu tế bần dân khốn khổ. Tiền tài xài hết, lại buôn bán, chẳng mấy năm, lại phát tài, cũng tán tài giống như cũ, ba lần tài tụ tài tán.
Điều này cho thấy một miếng ăn, một hớp uống không gì chẳng phải là tiền định. Số phận có thì quyết định là có, số phận không có chẳng thể cưỡng cầu, cầu không được đâu! Nếu số mạng đã có thì có bỏ đi cũng chẳng bỏ được. Bởi thế quý vị bố thí của cải sẽ trở lại, lại càng nhiều hơn nữa, giống như lợi tức vậy đó. Biết được sự thật này, quý vị mới can đảm phóng tâm mạnh dạn bố thí. Nhưng chớ có đem lòng cầu may để thử, cứ mong một vốn vạn lời thì vừa thử của cải chẳng còn gì hết. Phải dùng tâm chân thành để bố thí cúng dường, đó là tu phước.
Sở dĩ công đức tu tập của chúng ta hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, càng hồi hướng công đức càng lớn là vì tâm lượng to lớn. Tâm lượng to lớn, công đức cũng chuyển lớn theo, hết thảy tùy tâm chuyển mà! Nếu chẳng hồi hướng, niệm niệm chỉ vì mình, tâm lượng nhỏ nên công đức hữu hạn. Đức Phật dạy chúng ta, chẳng cần biết tu công đức lớn hay nhỏ, thậm chí điều thiện mảy may đều phải hồi hướng Bồ Đề, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng pháp giới. Đấy là mở rộng tâm lượng của chính mình, viên mãn công đức tu hành vậy.
“Nguyện cho chúng sanh thường được yên vui, không có các bệnh khổ”: Trong mỗi niệm, Bồ Đề đều hy vọng chúng sanh thường được yên vui. “Hết thảy chúng sanh” bao gồm động vật. Nếu chúng ta ăn động vật, sát hại động vật, những động vật ấy có bình yên sung sướng được chăng? Kinh Lăng Già nói Bồ Tát chân chánh phát tâm chẳng nỡ ăn thịt chúng sanh. Tuy thế nhà Phật chẳng buộc quý vị trường trai, chỉ khuyên quý vị đừng sát sanh. Hễ nói đến lòng đại từ đại bi thì Phật nói chẳng nỡ ăn thịt hết thảy chúng sanh. Lương Võ Đế đọc đến đoạn kinh văn này, cảm động sâu xa, phát tâm ăn chay trường, đề xướng phong trào ăn chay trong nhà Phật. Thật sự mang lòng thích thấy hết thảy chúng sanh bình yên sung sướng, quý vị sẽ chẳng thể nhẫn tâm tổn hại chúng nó, càng chẳng thể nhẫn tâm ăn thịt chúng.
Mong mỏi hết thảy chúng sanh không có bệnh khổ; bệnh khổ do đâu mà có? Tất cả hết thảy bệnh khổ từ vọng tưởng mà ra. Trừ được vọng tưởng chấp trước khiến cho thân tâm thanh tịnh, khôi phục tự nhiên, thể chất biến đổi, có thể cả đời chẳng sanh bệnh. Y học chỉ trị đằng ngọn chứ không trị gốc, Phật pháp trị liệu tận gốc rễ: Dạy quý vị đừng khởi vọng tưởng. Do đây biết rằng: Phải đem Phật pháp giới thiệu cho hết thảy chúng sanh, phổ cập đến mỗi tầng lớp xã hội thì mới có thể thật sự giúp cho chúng sanh lìa khỏi hết thảy bệnh khổ.
“Muốn làm chuyện ác thảy đều chẳng thành”: Họ có ác niệm, muốn làm chuyện bậy, Bồ Tát, thần Hộ Pháp ngăn trở, khiến họ chẳng thể thành công được. “Tu tập thiện nghiệp đều mau thành tựu”. Động một niệm thiện tâm (tâm lợi ích hết thảy chúng sanh), Phật, Bồ Tát phù trợ quý vị, bởi lẽ điều đó ứng với tâm Phật, tâm Bồ Tát, cảm ứng đạo giao. Nếu chỉ vì chính mình, chỉ vì một nhà, bèn chẳng tương ứng với tâm Phật, Bồ Tát. Tâm Phật rộng lớn không ngằn mé, quý vị cứ quanh quẩn trong phạm vi rất nhỏ chẳng thể khởi cảm ứng được.
“Đóng chặt hết thảy cửa [dẫn vào] các ác thú”: Chữ “ác thú” được nói trong kinh đây phạm vi rất rộng. Ba đường ác, ba đường lành (do vẫn luân hồi trong lục đạo), A La Hán, Bích Chi Phật (dù có thiền định rất sâu, nhưng chưa kiến tánh), Bồ Tát (tuy kiến tánh, nhưng chưa viên mãn) đều là Ác Thú cả. Kinh này để nói với hàng Đẳng Giác Bồ Tát. Nói cách khác, từ Thập Địa trở xuống đều có thể gọi là “ác thú”. Hiện tại chúng ta chẳng thể đặt tiêu chuẩn cao như thế được, chỉ cần biết tam đồ lục đạo đích thật là ác thú, nhất tâm nhất ý phải vượt thoát trong một đời này, như vậy là tốt rồi! Vượt thoát chỉ có một đường duy nhất là đới nghiệp vãng sanh. Đường dẫn vào ác thú phải bít chặt. Bít chặt bằng cách nào? Xa lìa nó.
“Mở bày đường chánh: trời, người, Niết Bàn”: khuyên dạy chúng sanh niệm Phật vãng sanh, bất thoái thành Phật. Do đấy tổ sư đại đức thường nhắc nhở chúng ta chuyên tu Tịnh nghiệp. Niệm Phật kỵ nhất là xen tạp. Nếu xen tạp danh lợi thế gian, ngũ dục, lục trần thì chẳng thể thành tựu. Người niệm Phật niệm rất nhiều loại kinh, lại còn niệm chú thì cũng là xen tạp. Tối trọng yếu là tinh tấn nơi một môn. Ấn Quang đại sư dạy chúng ta: Người chuyên tu niệm Phật chỉ cần niệm một bộ kinh A Di Đà, ba biến chú Vãng Sanh, rồi niệm Phật hiệu. Kỳ thật, công phu đều dồn vào Phật hiệu. Niệm một bộ kinh và ba biến Vãng Sanh chỉ nhằm để định tâm. Nếu tâm chúng ta suy nghĩ lung tung, niệm Phật hiệu sẽ chẳng có cảm ứng. Nếu dùng tâm thanh tịnh để chấp trì danh hiệu thì có cảm ứng.
Nếu tâm quý vị rất thanh tịnh, chẳng có tạp niệm, chẳng có vọng tưởng thì kinh lẫn chú chẳng cần niệm nữa. Thời xưa, tổ sư đại đức một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, chẳng niệm kinh, niệm chú. Không ít người niệm Phật chỉ nhờ một câu A Di Đà Phật này, lúc lâm chung vãng sanh chẳng sanh bệnh, biết trước lúc đi, đứng vãng sanh hoặc ngồi vãng sanh rất nhiều. Đài Loan bốn mươi năm qua, có mười mấy vị đứng hoặc ngồi vãng sanh, quá nửa những người đó là những bà cụ rất già, không biết chữ, kinh lẫn chú đều chẳng niệm, tâm định. Bởi thế, người niệm Phật chẳng đọc sách báo, tạp chí, chẳng xem các kinh sách khác.
Dân Quốc năm thứ nhất (1912), Đàm Hư đại sư truyền giới tại chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân, thỉnh thầy của Ngài là Đế Nhàn Lão Hòa Thượng làm Đắc Giới Hòa Thượng. Trong thời gian truyền giới, có một vị xuất gia tên là Tu Vô đến giới trường giúp việc. Vị này rất dốt nát, trước khi xuất gia làm thợ nề, không biết chữ; gì cũng không biết, chỉ biết niệm A Di Đà Phật. Sư tình nguyện trong thời gian truyền giới sẽ săn sóc những bệnh nhân bị trúng gió, cảm mạo.
Được mấy ngày, Sư xin phép Hòa Thượng cho nghỉ, nói mình cần phải đi. Đàm Hư Đại Sư là người có hàm dưỡng, chẳng trách móc gì. Đương gia sư là Định Tây Pháp Sư tánh tình nóng nảy, nghe nói Sư phải đi, đối với Sư chẳng khách khí gì, nói ngay: “Chúng tôi truyền giới suốt mười ba ngày, vẫn chưa viên mãn, sao giữa chừng lại bỏ đi vậy?” Sư đáp: “Chẳng phải tôi đi qua chỗ khác đâu mà là về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Hai vị pháp sư ngẩn ngơ, hỏi ngày nào Sư đi? Sư nói đại khái không hơn mười bữa nữa, xin chúng thường trụ sắp sẵn hai trăm cân củi khô chuẩn bị thiêu hóa.
Hòa Thượng rất bội phục, trông thấy Sư đầu óc đất sét, cái gì cũng không biết, thân thể khỏe mạnh, cũng chẳng đổ bệnh, biết trước lúc mất. Ngày hôm sau, Sư lại tìm hai vị pháp sư nói ngày hôm nay Sư sẽ đi, xin chuẩn bị gấp cho. Lại xin mấy vị tăng thường trụ đến trợ niệm giùm để đưa Sư đi. Sư trải đệm trong phòng chứa củi, ngồi xếp bằng. Những người trợ niệm tiễn đưa xin Sư để lại một bài kệ làm kỷ niệm, thầy Tu Vô nói một câu: “Năng thuyết bất năng hành, bất thị chân trí huệ” (Nói được làm không được, chẳng phải chân trí huệ). Nói xong bèn im lặng.
Niệm Phật chừng mười lăm phút, Sư bèn đi, ngồi mà vãng sanh. Suốt đời chỉ một câu Phật hiệu, cái gì cũng chẳng biết, thật là niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn. Sư tuy không biết chữ, chẳng thể giảng kinh thuyết pháp, lâm chung biểu diễn một phen, không biết là độ được bao nhiêu chúng sanh nữa! Ngài hiện thân thuyết pháp, làm gương vậy.
Quý vị tu thiện pháp, chư Phật, Bồ Tát nhất định giúp quý vị viên mãn thành tựu. Hết thảy ác pháp chúng ta phải xa lìa, vì hết thảy chúng sanh chỉ dạy con đường lớn niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật.
“Nếu các chúng sanh do vì các nghiệp ác tích tập, cảm lấy hết thảy quả khổ rất nặng, tôi đều chịu thay, khiến các chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ Đề”: Chúng sanh mê hoặc tạo nghiệp, cảm lấy quả báo luân hồi.
Hoặc nghiệp khổ là mê hoặc tạo nghiệp chịu khổ. Khổ là chịu lấy quả báo. Tuy chịu khổ vẫn chẳng giác ngộ, vẫn cứ mê hoặc, nên nghiệp tạo ra càng nặng, đời sau càng khổ. Giống như nước xoáy, càng xoáy càng chìm xuống, chẳng thể trồi lên. Nếu một đời này chẳng thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tiền đồ của chúng ta thật đáng lo ngại, ắt đời này chẳng biết đời sau ra sao, bởi lẽ chúng ta khởi tâm động niệm ác nhiều thiện ít.
Phải hiểu nỗi khổ của chúng sanh do đâu mà có, phải tìm ra căn nguyên; sau đấy mới phát tâm chịu khổ thế cho chúng sanh. Chịu bằng cách nào? Thả chiếc bè từ phổ độ chúng sanh. Chúng sanh nên dùng thân nào để đắc độ, Bồ Tát bèn thị hiện thân phận đó. Quý vị là con người, Ngài cũng mang thân người. Quý vị đọa trong đường súc sanh, Ngài cũng biến thành súc sanh. Đó là chịu khổ thế cho chúng sanh, mục tiêu là giúp chúng sanh khai ngộ. Nói tóm lại, khuyên người niệm Phật, khuyên người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Ngã quỷ, súc sanh cũng có thể độ được. Trong nhà Phật có một cuốn sách nhỏ mang tựa đề Vật Do Như Thử (Loài vật còn như thế) thuật chuyện động vật niệm Phật vãng sanh. Lúc Đế Nhàn pháp sư làm trụ trì chùa Đầu Đà tại Ninh Ba, tỉnh Triết Giang, trong chùa có một con gà trống. Mỗi sáng lúc gà gáy, mọi người thức dậy tụng khóa sáng; gà trống cũng tham gia khóa lễ sáng tối. Lúc đại chúng niệm Phật, nó cũng kêu cục cục niệm theo. Giữa trưa đại chúng thọ trai, nó cũng đến, cơm rau vô ý rớt xuống đất, nó bèn ăn sạch sẽ. Có một ngày tụng kinh khóa tối xong, đại chúng đều đi xuống hết, con gà chẳng đi, vẫn nhiễu Phật. Thầy Hương Đăng xua nó đi, nó mặc kệ thầy, nó đến giữa Phật đường lạy ba lạy: gật đầu ba lần, đứng yên vãng sanh. Gà trống còn có thể vãng sanh, nếu chúng ta không khéo học sẽ chẳng bằng được nó đấy! Đế Nhàn pháp sư theo đúng lễ tiết dành cho người xuất gia chôn gà trống sau núi. Loài động vật này quá nửa phần đời trước là người xuất gia, đại khái lúc lâm chung do một niệm lầm lạc bèn đọa thân súc sanh.
Trong lục đạo, Phật, Bồ Tát thị hiện mọi thứ thân hóa độ chúng sanh, giúp cho hết thảy chúng sanh niệm Phật vãng sanh thành Phật, đó mới là rốt ráo viên mãn. Tu các pháp môn khác, trong một đời chưa thấy có ai có thể chứng quả, chẳng thấy có ai có thể vượt thoát luân hồi lục đạo. Trong cuốn Niệm Phật Luận, Đàm Hư lão hòa thượng viết: “Trong một đời, tôi gặp nhiều đắc Thiền Định, nhưng chưa gặp được ai khai ngộ. Học Thiền nếu chẳng khai ngộ thì chẳng thể liễu sanh thoát tử, chẳng thể thoát tam giới. Đắc Thiền Định chỉ có thể sanh lên trời Tứ Thiền”. Chỉ riêng mình pháp môn Niệm Phật ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng, ai cũng có thể tu được, ai cũng có thể thành tựu. Trong hội Hoa Nghiêm, sau cùng Bồ Tát Phổ Hiền cũng đặc biệt đề xướng pháp môn Niệm Phật.
“Hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh phiền não tận, sự hồi hướng này của tôi chẳng có cùng tận”: Nguyện thứ mười được kết thúc cũng giống như những nguyện trước. Phát tâm nhất định phải dài lâu, tu hành phải “niệm niệm tiếp nối, chẳng có gián đoạn”. Chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”, bốn chữ này là bí quyết niệm Phật. Tịnh là chẳng xen tạp, nếu xen tạp tâm bèn chẳng thanh tịnh. Tối đơn thuần, tối tinh thuần là một câu Phật hiệu. Hiện tại chúng ta phải niệm thêm một quyển kinh là vì tâm chẳng thanh tịnh. Nếu tâm thanh tịnh, tuyệt đối chẳng xen tạp, ngay cả kinh A Di Đà cũng không cần đến nữa. Trong tâm từ sáng đến tối, trong mười hai thời, trừ một câu Phật hiệu ra, không nghĩ đến gì khác, người đó công phu thành phiến, đạt đến Nhất Tâm, đó là chân chánh thực hiện công phu. Đứng mất, đi mất, biết trước lúc mất là công phu đạt đến cảnh giới ấy.
Chúng ta chẳng bằng được những người ấy là vì chúng ta có tạp niệm, Phật hiệu vừa niệm một phen đã gián đoạn. Lúc làm việc, buông xuôi Phật hiệu, hùng hục gắng sức làm việc, làm việc xong, buông bỏ công tác, lập tức đề khởi Phật hiệu, chẳng có một tạp niệm. Lúc niệm Phật trong tâm chớ nên lấn cấn còn nhiều chuyện mình chưa làm, lúc làm việc lại niệm Phật hiệu. Nếu vậy, Phật hiệu niệm cũng không tốt, việc làm cũng chẳng ra gì, đôi bề đều mất cả.
Đến đây là giới thiệu xong mười nguyện. Phần sau, Phổ Hiền Bồ Tát lại có nhiều khai thị trọng yếu, cũng là đem những chỗ khẩn yếu trong mười nguyện đặc biệt chỉ dạy cho chúng ta.
Lược Giảng Giáo Nghĩa Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phần 2 hết
(1) Nhất Thiết Trí là trí thấy rõ tất cả hết thảy pháp trong mười phương pháp giới chỉ thuần là lý tánh Chân Không (gọi là lý tánh Chân Không có nghĩa là lìa khỏi hết thảy những tướng hư giả do cái thấy biết sai lầm, chẳng chấp vào những tướng hư giả ấy, chứ không phải là Ngoan Không, tức phủ nhận toàn bộ vạn hữu).
(2) Khối phước: Dịch chữ “phước tụ”. Tu tập bao nhiêu công đức tích lũy lại nên gọi là “phước tụ”.
(3) Trí địa: Chữ Trí chỉ Nhất Thiết Trí (trí thông hiểu tướng Không của hết thảy pháp, là trí của hàng Thanh Văn, Duyên Giác), Đạo Chủng Trí (hiểu hết thảy đạo pháp sai biệt, là trí của hàng Bồ Tát), Nhất Thiết Chủng Trí (hiểu rõ tổng tướng, biệt tướng, đoạn Hoặc, giác Mê, là trí của Phật). Địa là địa vị. Nói là “các thứ trí địa của Bồ Tát” là vì có đến bốn mươi địa vị.
(4) Nhập Niết Bàn: Tiếng Phạn là Bát Niết Bàn (parinirvana), còn dịch là Diệt Độ. Diệt là diệt phiền não, diệt sanh tử; Độ là độ sanh. Có khi còn dịch là Viên Tịch hay Nhập Diệt.
(5) Xá-lợi: Những phần còn lại của xương đức Phật sau khi thiêu, rất kiên cố, đa phần hình tròn, nhiều màu. Sau khi đức Phật nhập diệt, A Nậu Lâu Đà và Ma Ha Ca Diếp chủ trì việc thiêu kim thân, thiêu xong, thu được rất nhiều xá-lợi. Việc phân bố xá-lợi nhằm tạo cơ hội cho chúng sanh sau khi đức Phật nhập diệt, được gieo duyên đảnh lễ thân Phật. Về sau thường được dùng theo nghĩa rộng để chỉ xương cốt còn lại sau khi thiêu hóa của các vị Tổ Sư, các cao tăng.
(6) Hữu học, vô học: Hữu học chỉ người tu hành còn chưa viên mãn, chưa liễu sanh thoát tử. Vô Học là bậc thánh giả đã chứng quả La Hán trở lên, đã học viên mãn, không còn phải học tập, tấn tu những cách để đoạn trừ phiền não như trước khi chưa chứng quả La Hán.
(7) Thị hiện: Thị là làm cho người khác thấy, Hiện là bày ra. Thị hiện là biến hiện, hóa hiện, làm theo một cách nào đó cho người khác thấy.
(8) Tỳ Lô Giá Na (Vairochana): Hán dịch là Biến Nhất Thiết Xứ, ý nói: quang minh của Phật chiếu thấu khắp hết thảy mọi nơi; hoặc còn dịch là Đại Nhật Như Lai. Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân của Phật Thích Ca, Thích Ca là Ứng Thân của Phật Tỳ Lô Giá Na. Lô Xá Na là Báo Thân. Ngoài ra, còn có mười loại thân:
1) Chúng sanh thân: thân tướng của chúng sanh trong lục đạo.
2) Quốc độ thân: Trong các thế giới khác nhau, vì thích ứng với căn cơ sai biệt của chúng sanh, Lô Xá Na Phật hóa hiện thân tướng khác nhau. Nói đúng ra, Quốc Độ Thân chính là thân Phật. Gọi là sai khác vì tùy theo thân lượng của chúng sanh từng quốc độ mà thân Phật lớn nhỏ, hào quang chiếu xa hay gần, chúng sanh chỉ thấy được Ứng Thân hay thấy được cả Báo Thân.
3) Nghiệp báo thân: Thân cảm ứng do nghiệp báo.
4) Thanh Văn Thân.
5) Duyên Giác thân.
6) Bồ Tát thân.
7) Như Lai thân.
8) Trí thân: thân do trí huệ tu chứng viên minh cảm thành.
9) Pháp Thân.
10) Hư không thân: tướng thanh tịnh lìa cấu, chẳng có hình tướng, nhưng thanh tịnh trọn khắp pháp giới, giống như hư không.
(9) Chuyển Luân Thánh Vương: Vị vua cai quản toàn bộ tam thiên đại thiên thế giới, oai lực rất lớn, hưởng thọ phước báo rất lớn, có ngàn con, có đủ bảy báu vật, một trong số đó là bánh xe báu (bảo luân); luân có khả năng xoay tròn, bay lên hư không, đưa vua đi khắp nơi. Ngôi Luân Vương có bốn loại: Kim, Ngân, Đồng, Thiết. Thiết Luân Vương chỉ cai quản được Nam Thiệm Bộ Châu (Diêm Phù Đề).
(10) Sát-lợi: Giai cấp thứ hai trong xã hội Ấn Độ, gọi đủ là Sát Đế Lợi (Ksatriya), Hán dịch là Điền Chủ hoặc Vương Chủng, giai cấp nắm quyền lực quân sự và chính trị, trực tiếp cai trị xã hội Ấn Độ cổ thời.
Bà La Môn: Hán dịch là Tịnh Hạnh, giai cấp thứ nhất của Ấn Độ, đa phần là người tu hành, nắm giữ đặc quyền tế lễ, biên chép, diễn giải kinh điển Ấn Độ Giáo.
Trưởng giả: Người đạo đức cao, tuổi lớn, giàu có thì gọi là Trưởng Giả.
(11) Thiên long bát bộ: Tám bộ chúng thường theo nghe giảng Phật pháp:
a) Thiên: các hữu tình thuộc hai mươi tám tầng trời.
b) Long: Loài rồng, thường sống trong biển cả, ao, hồ, sông, nước, có thần thông, tánh tình dữ dội nóng nảy.
c) Dạ Xoa: Loài quỷ bay được trên không, thích ăn người.
d) Càn Thát Bà: Nhạc thần của Đế Thích.
e) A Tu La: Người tu phước báo rất nhiều nhưng tâm sân hận quá lớn bèn đọa trong loài này, có phước báo như chư Thiên, nhưng thân hình thô xấu, thích đánh nhau với Đế Thích.
f) Ca Lâu La: Giống chim to, rất hung bạo, thích ăn nuốt rồng.
g) Khẩn Na La: Cũng là nhạc thần của Đế Thích, nhưng chỉ tấu pháp nhạc, diễn giảng Phật pháp.
h) Ma Hầu La Già: Một loại rắn thần lớn.
(12) Thành thục: hiểu theo nghĩa đen là làm cho chín muồi, hiểu theo nghĩa rộng là tác động sự vật gì khiến cho thành công. Kinh dùng với ý nghĩa đức Phật quán sát căn cơ của chúng sanh, biết là đến lúc chúng sanh thành tựu chứng quả, bèn dùng các phương tiện thuyết pháp, giáo hóa, thị hiện khiến cho chúng sanh được thành tựu, chứng đắc đạo quả, công đức viên mãn.
(13) Noãn sanh: loài sanh bằng trứng, như các loài chim chẳng hạn.
Thai sanh: loài sanh con bằng cách mang thai, như thú, người.
Thấp sanh: loài sanh nơi ẩm ướt, như muỗi mòng.
Hóa sanh: loài sanh do biến hóa như chư Thiên, tội nhân trong địa ngục.
(14) Sắc thân: Nói theo quan điểm thế tục là thân có đủ mắt, tai, mũi, lưỡi… Nói theo Phật pháp, các thân do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) hợp thành.
(15) Dục lạc: Các thứ ham thích, ưa muốn.
Ý hạnh: Ý là các thứ suy nghĩ trong tâm, Hạnh là những hành vi biểu hiện ra ngoài.
Oai nghi: Oai là dáng vẻ trang nghiêm, tề chỉnh. Nghi là có nghĩa là lễ mạo, đúng lễ. Oai nghi ở đây thường được hiểu là bốn hành động đi, đứng, nằm, ngồi đều tuân thủ đúng lễ tiết, trang trọng, đúng mực.
(16) Có sắc: thuộc về Sắc Giới. Từ địa ngục lên đến Tự Tại Thiên thuộc về Dục Giới, từ tầng trời phía trên Tự Tại Thiên lên đến tầng trời hai mươi tám (Sắc Cứu Cánh Thiên) thuộc về Sắc Giới. Chư thiên Sắc Giới chỉ có nam nhân, không có nữ nhân, không có ý tưởng dâm dục, có sắc thân có thể trông thấy được, nên gọi là Sắc Giới.
Vô sắc: tức là Vô Sắc Giới, thuộc bốn tầng trời phía trên Sắc Cứu Cánh thiên. Người trong cõi trời này có tâm tưởng, sống bằng Thiền Định, không có sắc thân.
(17) Hữu Tưởng: tức trời Thức Vô Biên Xứ, tầng trời thứ nhất của Vô Sắc Giới. Người cõi này trong năm Uẩn chỉ có Thức và Tưởng,
Vô Tưởng: Vô Sở Hữu Xứ Thiên, chư Thiên cõi này không có tâm phân biệt, vọng tưởng, nên gọi là Vô Tưởng, đã khuất phục được thức thứ bảy (Mạt Na, tức chấp ngã).
Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng: Chư thiên trong cõi trời này công phu tu Định lực rất sâu, chế ngự được thức thứ tám, khiến cho thức thứ tám tưởng chừng như đã diệt nên gọi là Phi Hữu Tưởng, nhưng thật ra thức thứ tám vẫn còn hiện hữu một cách vi tế nên gọi là Phi Vô Tưởng.
(18) Thừa sự: hầu hạ, phụng sự.
(19) Nguyên văn: “Khoáng dã sa tích”, Khoáng là chỗ hoang vu, hiu quạnh. Tích là những khối đá nhỏ. Như vậy, khoáng dã sa tích là chỗ trống trải, hoang vu, đầy những cát đá.
(20) Cái gì to lớn nhất thường gọi là Vương, như núi Tu Di gọi là Sơn Vương; Thọ Vương là cái cây cực to trong các loài cây.
(21) Hồi hướng: Có bốn loại hồi hướng:
1) Hồi Sự Hướng Lý: chuyển hết thảy các sự tướng đã tu về nơi Lý. Chẳng hạn trong nguyện “rộng tu cúng dường”, Tài Bố Thí là sự tướng, tiếp đó nói đến Pháp Cúng Dường tức là Hồi Sự Hướng Lý.
2) Hồi Tự Hướng Tha: đem công đức mình đã tu hồi hướng cho mười phương ba đời hết thảy chúng sanh.
3) Hồi Nhân Hướng Quả: Lúc thoạt đầu tu công đức là để cầu phước báo, nay cái nhân của tu công đức là cầu thành Phật.
4) Hồi Tiểu Hướng Đại: Trước kia tu hạnh Tiểu Thừa nhỏ hẹp, chí nguyện tự độ, nay hướng đến hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sanh.