Chương hai:
THIỀN ĐỊNH
1. BA KHÍA CẠNH CHÍNH CỦA CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘQuán tưởng sự thanh tẩy
Chúng ta sẽ bắt đầu một thời thiền ngắn để thanh tẩy tâm của
chúng ta và
dĩ nhiên để giúp
chúng ta thu thập được những lời giảng dậy một cách
tốt đẹp.
Mỗi người hãy ngồi theo thế
ngồi thiền quen thuộc thoải mái của mình. Nếu quý vị
cảm thấy ngồi trên ghế sẽ
thoải mái hơn thì cứ ngồi. Việc quan trọng là làm sao
kiểm soát,
theo dõi được tâm. Ngồi thẳng lưng và cân bằng hai vai giúp cho sự
kiểm soát này. Mắt nên mở một chút để ánh sáng vào được, nhưng đừng mở lớn quá sẽ bị
quấy nhiễu.
Nếu không buồn ngủ thì quý vị có thể nhắm mắt.
Chúng ta bắt đầu
quán tưởng đến
muôn vàn chúng sinh đang ngồi chung quanh
chúng ta, cùng nhìn về phía trước. Họ cùng chia sẻ với
chúng ta tất cả những ơn ích, tất cả những
phước đức mà
chúng ta có thể lãnh nhận được từ việc thiền thanh tẩy này. Tất cả
chúng sinh đều mang hình dạng
con người,
chúng ta hãy tưởng tượng
quang cảnh bao la bát ngát chung quanh
chúng ta mọi người cũng đang
ngồi thiền định.
Bây giờ, hãy
quán tưởng trong con mắt của tâm, ở ngay
trước mặt chúng ta, cách khoảng một cánh tay, ngang với đầu
chúng ta, có một tòa mầu vàng rất lớn
trang hoàng đầy
châu báu.
Sự quán tưởng này phải thật
trong sáng, hãy
tiếp tục quán tưởng một đóa sen trắng nở lớn ở giữa tòa này. Đóa sen thật
rực rỡ trong sáng, không một khuyết điểm, trắng tuyết. Ngay trong
hoa sen có vầng trăng và
mặt trời, lồng vào nhau.
Đức Phật Thích Ca ngồi trên đó. Ngài mặc tăng bào. Bàn tay phải của Ngài đặt trên đầu gối phải, ngón tay chạm vào
hoa sen, bàn tay trái đặt trên lòng giữ
bát khất thực. Dù
quán tưởng đến
Đức Phật Thích Ca hay
quán tưởng đến bất cứ gì ngay cả một hạt nguyên tử
li ti thì cái đó cũng phải thật
trong sáng, là ánh sáng
trong suốt.
Hãy nghĩ đến sự
toàn giác, đại
viên mãn của
Đức Phật Thích Ca, Ngài
hoàn toàn trong sáng,
thanh tịnh tuyệt đối, không một chút bợn nhơ, không
nhị nguyên. Ngài là bậc
toàn tri toàn trí, siêu tuyệt. Ngài là đấng
toàn năng có thể hướng dẫn muôn loài
chúng sinh thoát khỏi khổ đau và những
phương pháp của Ngài sẽ dẫn dắt
chúng sinh tu tập đến
giác ngộ,
thành phật.
Lòng từ bi
bao la của Ngài
che chở muôn loài, cả
chúng ta, để
lập tức chấm dứt tất cả khổ đau.
Ngài hằng muốn chỉ cho
chúng ta con đường thoát khổ, nhưng bổn phận của
chúng ta là phải
chuyển hướng tâm của
chúng ta vào
trí tuệ, vào
từ bi và vào
sức mạnh độ trì của Ngài. Vì thế, hãy
quán tưởng càng
trong sáng càng tốt, mỗi một người
chúng ta hãy tự
phát nguyện: “Con
qui y Phật, đấng
toàn năng toàn giác Thích Ca Mâu Ni; con
qui y Pháp, trí
bát nhã và những lời dậy bảo của Ngài; con
qui y Tăng, là những người biết
kiểm soát tâm của họ theo lời dậy của Ngài. Con
qui y và
hoàn toàn nương tựa nơi
Tam Bảo cho đến khi đạt
giác ngộ. Con kính xin Ngài
độ trì con và
muôn vàn chúng sinh. Cho tất cả chúng con nhận được sự chỉ dậy đúng trên
con đường tu tập, từ
vị đạo sư đến sự
chứng đắc cuối cùng của
giác ngộ.”
Bây giờ hãy
quán tưởng ba
chủng tử xuất hiện trên
thân thể của Phật
Thích Ca. Những
chủng tử này có thể là những Tạng ngữ, Anh ngữ hay dưới dạng
ngôn ngữ nào cũng được. Trên trán của Ngài
xuất hiện chủng tử màu trắng OM, ở cổ của Ngài
chủng tử màu đỏ AH, và ở ngực của Ngài
chủng tử màu xanh HUM. Những
chủng tử này cũng là ánh sáng rực chiếu thoát ra
từ trí tuệ siêu tuyệt qua thân khẩu và ý của Phật. Từ những
tia sáng trắng, đỏ và xanh của những
chủng tử này chúng chiếu rọi khắp nơi và
thâm nhập vào tất cả
chúng sinh để thanh tẩy tất cả những
ô trược nghiệp chướng của thân khẩu và ý của
chúng sinh. Khi
tia sáng trắng
thâm nhập vào trán của
chúng ta,
chúng ta hãy nghĩ rằng tất cả những
vọng tưởng, tất cả những
ô nhiễm và tất cả những
xấu xa nghiệp chướng của thân xác
chúng ta đang được tẩy rửa
cho đến không còn một dấu vết nào nữa. Chúng
hoàn toàn bị
xóa bỏ. Cũng giống như vậy, những
tia sáng đỏ và xanh thấm nhập vào cổ và tim của
chúng ta, chúng thanh tẩy tất cả những
ô nhiễm của những
lời nói và
tâm tưởng của
chúng ta, để
chúng ta thoát khỏi nghiệp ác. Trong tiến trình thanh tẩy này,
chúng ta hãy
kinh nghiệm, hãy
chiêm nghiệm sự rỗng lặng của khổ đau và những
tình trạng sai lầm của tâm và hãy cảm nghiệm những
ô nhiễm tâm thần này đang bị
tiêu diệt xóa bỏ toàn diện.
Trong khi những
tia sáng thanh tẩy đang chiếu sáng từ
sự quán tưởng
Đức Phật Thích Ca,
chúng ta hãy dâng lời
cầu nguyện sau đây rồi tụng những
câu mật chú, lặp lại càng nhiều lần càng tốt:
Kính lạy
Đạo sư, người
sáng lập,
Con đường thanh tẩy
hoàn toàn ô nhiễm,
Ngài là Phật, bậc
toàn giác Ngài là đấng chiến thắng,
Là đấng khôn ngoan của dòng
Thích ca ---
Con xin kính lạy Thầy và con xin
qui y,
Con kính xin Ngài nhận
lễ vật của con.
Con kính xin Thầy
độ trì con.
Tayatha om muni muni maha muniye svaha
Khi làm xong lễ
quán tưởng thanh tẩy này,
chúng ta hãy nghĩ rằng
chúng ta đã nhận được
sự độ trì và
trí tuệ từ thân khẩu và ý
thánh thiện của
Đức Phật Thích Ca. Hãy
cố gắng cảm nhận sự
an lạc vô biên này bằng cả
tâm hồn lẫn thể xác và hãy
thường xuyên tập trung vào nó.
Chúng ta đã thanh tẩy, bây giờ bằng cả
tâm hồn và thể xác,
chúng ta hãy ca hát trong niềm
an lạc tự nhiên này. Với sự sửa soạn như vậy,
chúng ta bắt đầu nghe những lời giảng dậy về
Đạo Pháp.
Sự
thực hành tâm linh tối cao Chúng ta đang
đi vào một
lãnh vực thực hành đặc biệt, có thể là
hoàn toàn mới lạ với một số người. Có một vài
sự kiện chúng ta chưa bao giờ gặp,
chưa bao giờ làm trong
cuộc đời của
chúng ta.
Chúng ta đang tìm một
phương pháp thực tế để
giải quyết những
vấn đề, những khó khăn của
chúng ta, để từ đó
chúng ta giải thoát chúng ta khỏi khổ đau, nhưng
phương pháp này
hoàn toàn khác với những
phương pháp mà
chúng ta đã gặp trong
quá khứ. Khả năng tốt nhất mà những
phương pháp khác có thể mang lại cho
chúng ta chỉ là
trì hoãn sự khổ đau; còn tệ hại hơn, chúng lại hướng dẫn
chúng ta, chúng lại đem
chúng ta đến những
bất mãn, những nỗi chán chường to lớn hơn. Ngược lại, ở đây
chúng ta sẽ được dậy bảo, những lời dậy bảo này có khả năng tạo sự tự tin mãnh liệt trong mỗi người
chúng ta,
vô số lượng
chúng sinh trong
quá khứ đã đạt
giác ngộ theo
phương pháp này.
Sự thật này
chắc chắn cũng sẽ xẩy ra cho
thời đại của
chúng ta và cho cả trong tương lai nữa. Đây là
Đạo Pháp, đã được truyền dậy bởi những bậc
toàn giác, bởi
Phật Tổ.
Đạo Pháp không lừa dối
chúng ta. Nó chính là liều
thuốc giải độc, là liều thuốc hóa giải tất cả những sự lừa dối và tất cả những
hiện tượng khổ đau đang diễn ra trong
thế giới luân hồi này,
thế giới này luôn luôn chỉ có
đau khổ và lừa dối
tiếp diễn. Tại sao chúng
tiếp diễn như vậy? Chúng
xuất hiện như thế nào? Nếu
chúng ta không
nhận diện được
tính cách vô thường của chúng hoặc
nếu không hiểu chúng
xuất hiện như thế nào thì
chúng ta chỉ biết nhắm mắt mà
tin theo chúng thôi. Vì bị
u mê say đắm trong sự
xuất hiện của chúng nên
chúng ta đã
hoàn toàn đặt
niềm tin của
chúng ta vào những
quan niệm, vào những
ý niệm sai lầm của những đối tượng trong
luân hồi. Từ đó
chúng ta nhìn sự vật
xuất hiện trong
thế giới này không còn thật như chính chúng là mà đã bị méo mó theo những
vọng tưởng của
chúng ta rồi. Đây chính là những khuôn mẫu của tất cả những
hành vi và
thái độ của
chúng ta đã được
chất chứa từ
muôn vàn kiếp
cho đến ngày hôm nay. Chúng không là gì khác hơn là chỉ hướng dẫn
chúng ta từ
đau khổ này đến những
đau khổ khác.
Dĩ nhiên, nếu
chúng ta thực hành không
đều đặn, chỉ
áp dụng khi có dịp hoặc
lơ là thì
phương pháp thực hành Đạo này cũng chẳng giúp gì được
chúng ta, vì như
chúng ta đã biết những
thói quen đã hằn in dấu vết trong
tâm thức của
chúng ta từ nhiều kiếp rồi. Sẽ chẳng có một chút ơn phước nào, nếu có thì cũng chẳng
tồn tại lâu được vì
chúng ta chỉ
áp dụng trong một vài năm hoặc chỉ trong những dịp đi nghe
thuyết pháp.
Chúng ta cần phải thực hành liên tục trong từng giây phút, ở bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào.
Chúng ta đang sống trong một
thời đại đầy nguy hiểm, từ
thiên nhiên và từ chính
con người làm ra. Chẳng có gì là
chắc chắn vững bền, ngay cả việc
bảo vệ cái thân xác này. Vì thế
chúng ta nên chuyển tất cả những gì
chúng ta làm
trong đời sống hàng ngày vào việc
thực hành Đạo Pháp.
Chúng ta không nên viết đầy trong tập ghi chép của
chúng ta hay chất đầy vào tâm của
chúng ta những gì gọi là
thông minh của những lời dậy bảo. Thay vì thế,
ngay lập tức,
chúng ta hãy
cố gắng dồn tất cả
nỗ lực vào việc
thực hành Đạo Pháp. Như vậy, ngay cả việc đang ngồi lắng nghe bài giảng bây giờ cũng
trở thành hoạt động tinh túy của
Đạo Pháp, mang lại thật nhiều ơn phước. Không
cần phải cầu kỳ về
vật chất hoặc
tinh thần mới có thể
thực hành tâm linh có kết quả.
Không thể lấy những
lợi ích trần gian để đo lường ơn phước trong việc
thực hành Đạo Pháp.
Chúng ta có thể có những phần thưởng hoặc những
lời khen ngợi trong những công việc đòi hỏi nhiều khả năng tài chánh cũng như sự
mạo hiểm, nhưng những sự
thành đạt này
hoàn toàn không có
nghĩa lý gì nếu
so sánh với sự
thực hành tâm linh. Nếu
chúng ta có gom góp ngọc ngà
châu báu trong cả
vũ trụ này lại thì
chúng ta cũng không thể mua được sự
giác ngộ,
sự giải thoát, thanh tẩy
vọng tưởng, sự
bình an thật trong
tâm hồn,
lòng từ bi, tâm
bồ đề, tâm
buông xả, không gì có thể mua được những ơn phước mà
chúng ta có được từ sự
thực hành Phật Pháp.
Đừng
ngạc nhiên khi những
giá trị vật chất không thể mang lại cho
chúng ta những
giải quyết rắc rối trần gian. Tại sao vậy?
Tại vì nếu
chúng ta có
chất chứa, có thâu góp tất cả những gì
chúng ta đã
sở hữu trong kiếp này và trong
muôn vàn kiếp trước vào một nơi thì cả cái
vũ trụ này cũng quá nhỏ bé chật hẹp đối với chúng. Mặc dù
chúng ta có giầu đến độ không thể tưởng tượng nổi thì cũng không thể mua được cái gì có thể thay thế khổ đau của
chúng ta. Tâm của
chúng ta cũng vẫn
rối loạn, cũng vẫn
loạn động, cũng vẫn đòi hỏi để rồi lại tạo ra nhiều
đau khổ hơn nữa cho chính mình và cho những người khác.
Tuy nhiên, qua việc
thực hành Đạo Pháp,
chúng ta có khả năng đạt
giác ngộ và có rất nhiều ơn phước hướng dẫn
chúng ta đến
sự giải thoát tối thượng.
Chúng ta sẽ được
mãn nguyện trong sự
hiểu biết của
chúng ta về tất cả các
hiện tượng ở bên trong tâm của
chúng ta cũng như tất cả những
hiện tượng xẩy ra ở bên ngoài. Hơn nữa, niềm
an lạc của
Đạo pháp sẽ không hề bị mất đi hay
biến thành khổ đau. Nó mang lại
hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạc thú của
luân hồi và
phúc lạc của
Đạo Pháp hoàn toàn khác nhau. Đừng
cố gắng đi tìm
hạnh phúc ở những
giá trị trong cõi
luân hồi, vì không sớm thì muộn những
giá trị này cũng tan biến mất. Hãy nhìn thẳng vào
đời sống của mỗi người
chúng ta,
chúng ta sẽ
tìm ra được rất nhiều bằng chứng
cụ thể về
sự thật này. Ngược lại, sự
thực hành Đạo Pháp sẽ đem
chúng ta đến
giải thoát và
giác ngộ, ngay khi bắt đầu
thực hành chúng ta đã thấy những kết quả khác biệt rồi, niềm
hạnh phúc này không bao giờ
chấm dứt.
Vấn đề chính của
chúng ta là
chúng ta thiếu sự
phân biệt và
trí tuệ để
hiểu rõ những gì
kinh nghiệm của
chúng ta dậy
chúng ta về
thực tính của những
sự kiện xẩy ra trong cõi
luân hồi.
Mặc dầu chúng ta biết những khoái lạc trần gian
chỉ dẫn chúng ta đến
bất mãn và
bất mãn, nhưng
chúng ta vẫn
cố tình quên đi
sự thật căn bản này và vẫn
tiếp tục đuổi theo những
ảo ảnh hạnh phúc. Trong chiều hướng đó, những
hiện tượng trần gian sẽ
lôi cuốn chúng ta vào
cạm bẫy, và hơn thế nữa, chính
chúng ta tình nguyện để bị bẫy.
Tinh túy của sự
thực hành Đạo pháp là
tỉnh thức trong từng hành động của
chúng ta và
học hỏi từng
kinh nghiệm của
chúng ta. Nếu
chúng ta thường xuyên liên tục làm như
vậy thì không có gì có thể
đánh lừa, đánh bẫy được
chúng ta và tâm của
chúng ta sẽ
an trú sâu trong
an lạc,
mặc dầu chúng ta đang sống trong
thế giới của mê mờ
vọng tưởng. Đây là
con đường tích lũy ơn phước chẳng những cho kiếp này mà còn cho tất cả những kiếp trong tương lai nữa.
Phương pháp căn bản,
phương pháp cốt tủy trong việc
chuyển hóa tất cả những
sinh hoạt hàng ngày vào những
hoạt động Đạo Pháp là
kiểm soát tất cả những
động lực, những động năng
thúc đẩy trong
chúng ta. Hãy hiểu rằng tất cả những việc
chúng ta làm đều mang lại ơn phước cho chính
chúng ta và cho những người khác. Nếu có động năng
thúc đẩy tốt thì bất cứ gì
chúng ta thực hiện đều mang lại những kết quả
tốt lành. Đây chính là sự hòa nhập trong
thực tại. Sản phẩm của
tâm không phải chỉ có
đau khổ mà còn có cả
hạnh phúc và
giác ngộ nữa. Tất cả đều khởi phát ra
từ tâm. Vì thế, nếu
chúng ta điều khiển được động năng,
thái độ đúng của tâm, thì bất cứ gì
chúng ta làm đều có thể hướng dẫn
chúng ta đến
giải thoát, đến
giác ngộ, đến
đại lạc.
Thật quý giá khi được mang thân người
Vị
đại đạo sư Tây Tạng Je Songkhapa, người đã đạt sự
toàn tri trong
giác ngộ, nói:
Trong cõi đời này,
Được làm thân người, thật quý giá thay,
Còn hơn cả ngọc ngà
châu báu.
Thực là khó tìm vì nó dễ tàn phai,
Như ánh chớp bay qua bầu trời.
Nghĩ đến
bản tính của
đời sống,
Đạt được tinh túy là điều
cần thiết,
Trong cả đêm lẫn ngày.
Ta, một yogi, đã
thực hành như vậy.
Còn ngươi, kẻ muốn
được giải thoát,
Hãy
cố gắng mà noi theo.
Chúng ta đã biết được mang thân người là một điều
vô cùng quý giá, còn hơn cả ngọc ngà
châu báu. Với thân xác này,
chúng ta có
trí thông minh và đầy đủ
thời giờ để
tu tập thành quả vị phật,
giải thoát chúng ta khỏi
luân hồi sinh tử và hưởng rất nhiều ơn phước mà không có gì có thể mua được, dù
chúng ta là người giầu có
nhất trần gian.
Được mang thân người thật qúy gía, không phải chỉ vì
giá trị của nó mà chỉ vì nó quá hiếm hoi.
Đại đạo sư Je Songkhapa
nhấn mạnh điểm này bởi vì
chúng ta chỉ có thể được
một lần thôi, “trong thời
hiện tại này.” Đây là một việc
vô cùng khó khăn trong sự
kết tập nghiệp qủa để tạo nên một
con người.
Chắc chắn chúng ta đã phải
tích tụ biết bao nhiêu
thiện nghiệp nên mới được sinh ra làm người trong kiếp này, thật là khó khăn thay. Sống
đạo hạnh trong
thời đại này thật là khó khăn, lại càng khó khăn hơn nữa nếu phải ở trong những cõi thấp hơn, cõi mà chỉ có khổ đau. Ở cõi cao hơn thì còn có chút
thời giờ để tạo
thiện nghiệp, bởi vì họ còn biết
lánh xa khoái lạc.
Còn nữa,
chúng ta cần biết
sự thật quan trọng là không phải bất cứ ai cũng được ơn phước này. Phải có rất nhiều
điều kiện khác nhau trước kia mới tạo ra được
hoàn cảnh dẫn đưa đến
mục đích hôm nay. Những lời giảng dậy về
Đạo Pháp đã
thâm nhập vào xứ sở mà
chúng ta đã sinh sống và
chắc chắn phải có những
vị đạo sư đã hướng dẫn
chúng ta, đó là
hoàn cảnh bên ngoài.
Lý do ở
nội tâm là
chắc chắn chúng ta phải thích, phải ước muốn, phải
quyết tâm tìm kiếm đạo và
thực hành đạo. Thêm vào đó,
chắc chắn chúng ta phải được
tự do, phải có đủ
điều kiện trong cả hai
phương diện tinh thần lẫn thể xác để có thể
học đạo và
thực hành đạo. Nó đòi hỏi rất nhiều
tinh thần đạo đức để cho
tình trạng này có thể xẩy ra được và cũng không chắc gì
chúng ta có thể tạo thêm được nhiều
thiện nghiệp nữa để có lại thân người. Vì thế,
đạo sư Je Tsongkhapa khuyên
chúng ta nên
lợi dụng cơ hội
cuối cùng, hiếm có và quí báu này.
Cơ hội hiếm được mang thân người này cũng rất dễ bị mất, nó đi nhanh như “ánh chớp ngang qua bầu trời.”
Chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, trước khi
chúng ta đề cập đến nó. Nếu
chúng ta nhìn vào chính
chúng ta, có thể
chúng ta thầm nghĩ mình sẽ còn sống lâu lắm. Nhưng biết đâu
tử thần đã kề bên mặc dù một ngày chưa qua hết, trong khi niềm
hy vọng sai lầm sống lâu trăm tuổi vẫn còn đang ôm ấp.
Ý niệm sai lầm này là một trong những trở ngại to lớn nhất
ngăn cản sự
tinh tấn trên
con đường thực hành Đạo Pháp, bởi vì nó sẽ tạo ra sự lười biếng và
trì hoãn. Vì tưởng rằng mình sẽ còn sống lâu nên không
quyết tâm tu tập, không
cố gắng thiền định và
không chú tâm thực hành Đạo. “Tôi mệt qúa, người
uể oải qúa, thôi để đến mai hãy thiền, làm gì mà vội... hãy đợi
tuần sau đi, năm sau cũng chẳng sao mà!” Khi nghĩ như vậy,
chúng ta đã tự
đánh lừa mình và làm mất hết những gì đã
học hỏi được.
Có lẽ tất cả
chúng ta đã nghe những lời dậy bảo và đã làm quen với một số
hướng dẫn về thiền định. Nếu
chúng ta không thực sự
áp dụng những sự hướng dẫn này vào
thiền định thì
chúng ta sẽ chẳng đón nhận được ơn ích nào cả. Ngày tháng sẽ đi qua mau, nhưng cơ hội thì không còn, rồi cũng chẳng
chứng nghiệm được gì.
Chúng ta lại
tiếp tục sống với những
thái độ tiêu cực quen thuộc của
chúng ta, rồi cũng sẽ chẳng có một chút
tinh tấn nào trên
con đường tìm hiểu và
thực hành Đạo Pháp. Như vậy, trước khi có thể
nhận biết được nó thì
chúng ta đã chẳng còn sống nữa.
Chúng ta sẽ đánh mất một cơ hội hiếm hoi để
thoát khỏi kiếp luân hồi mà ra đi trong niềm nuối tiếc và
hối hận. Mặc dù có sống cả trăm năm mà không
tinh tấn trong
Đạo Pháp thì cũng uổng phí thôi, vì cái chết sẽ tới nhanh như
ánh lửa lóe lên trong bầu trời.
Một khi
chúng ta thiền định sâu xa về
giá trị, về sự hiếm hoi và dễ tan vỡ của thân xác
chúng ta,
chúng ta sẽ
nhận ra được những
hoạt động trần gian, những
sinh hoạt trong
kiếp luân hồi chẳng còn một chút
giá trị nào, chúng chỉ giống như cái vỏ thóc mà thôi.
Chúng ta càng
thiền định về những
sự kiện này, càng
quán tưởng về
cuộc đời riêng của
chúng ta và những gì
liên hệ đến nó,
chúng ta càng
nhận ra rằng
phúc lạc chân thật chỉ có từ sự
thực hành Đạo Pháp.
Chúng ta chỉ có
thể đạt giác ngộ khi
chúng ta cố gắng chân thành chuyển hóa tâm ta.
Điểm này dẫn
chúng ta trở về với câu hỏi động năng
thúc đẩy. Nhờ
kiểm soát được tâm, nhờ
theo dõi từng
lời nói và hành động của mình,
chúng ta có thể tránh được những
sinh hoạt tiêu cực mà chính nó có thể dẫn
chúng ta đến những kiếp
tái sinh thấp hơn, nhiều
đau khổ hơn. Nhưng, như
chúng ta đã hiểu, mặc dù
chúng ta có sinh lại trong một kiếp
may mắn hơn
chúng ta cũng vẫn
không giải quyết được những
vấn đề của
chúng ta. Có những kiếp sinh ra ít
đau khổ hơn
đau khổ của
kiếp trước nhưng sự
đau khổ của kiếp
hiện tại cũng đủ bao trùm cả cuộc sống rồi. Do đó, nếu
chúng ta muốn
giải quyết toàn diện đau khổ,
chúng ta cần phải tu tập hướng tới sự
chấm dứt nguyên nhân phát sinh ra
luân hồi.
Như vậy, động năng
tu tập để
thoát khỏi đau khổ một mình không phải là động năng
thúc đẩy cao nhất.
Vô lượng chúng sinh đang khát vọng niềm
an lạc và
kinh hãi khổ đau như
chúng ta, họ cũng đang
bị giam trong
luân hồi. Nếu
chúng ta chỉ nghĩ
giải thoát một mình trong khi những người khác đang
u mê và
vô vọng, thiếu thầy chỉ dậy cho
con đường chấm dứt khổ đau của họ thì sao? Do đó, động năng
tu tập, động năng
thực hành Đạo Pháp của
chúng ta không thể thiếu
lòng từ bi,
chúng ta cần phát triển tâm
bồ đề.
Chúng ta tu tập để
giác ngộ,
chúng ta cần
giải thoát chính mình đồng thời cũng phải phát triển
tâm từ và
trí tuệ để có
đủ khả năng giúp đỡ những người khác . Như vậy, những hoạt đôïng như đến đây lắng nghe
Đạo Pháp cũng có thể chuyển
thành sự thực hành đạo một cách
vô cùng hiệu quả nếu
chúng ta hoàn thành với một
tâm nguyện bồ đề.
Phát khởi tâm từ là một
điều kiện vô cùng cần thiết trong việc
tinh tấn tu tập và
tỉnh thức.
Tâm
Hoàn Toàn Buông Xả Nếu phải đề cập đến
tinh túy của
Đạo Pháp thì
chúng ta có thể thâu tóm vào ba
lãnh vực, được gọi là ba nguyên lý
căn bản của
con đường dẫn đến
giác ngộ. Đó là Tâm
Hoàn Toàn Buông Xả, Tâm
Bồ Đề và
Quan Niệm Đúng về
Tánh Không. Nói vắn gọn, chúng như là chất dầu
đặc biệt đẩy phi thuyền của
chúng ta thẳng tới
mặt trăng toàn giác.
Chúng ta sẽ
tìm hiểu chúng trong phần còn lại của bài giảng này. Theo
phương pháp này, có thể sẽ dễ hơn và nhanh hơn để
chúng ta chiến thắng những tính
tiêu cực mà chúng đã
hành hạ chúng ta trong
vô lượng kiếp.
Đạo sư Je Tsongkhapa đã để lại một
bài kệ vô cùng quí gía về ba nguyên lý này, tôi sẽ trình bày nó theo lối viết của ngài Kyabje Pabongka Rinpoche, một
đại hành giả tu khổ hạnh Tây Tạng đã đạt ngọâ theo lối thiền
mật tông Heruka Chakrasamvara.
Cánh cửa mở ra cho tất cả những
con đường tâm linh, từ
sự giải thoát cá nhân đến sự
giác ngộ tối thượng, chính là tâm
hoàn toàn buông xả. Như là một giấy
thông hành, một sự chủng ngừa và một số tiền
độ thân cần thiết cho một cuộc đi du lịch, muốn
tinh tấn trong sự
thực hành Đạo, tâm
cần phải buông xả một cách
toàn diện. Một thiền giả sẽ không
đạt được một sự
tiến bộ nào
nếu không thực tâm buông xả tất cả. Mặc dù họ đang ở nơi
tu tập, đang lắng nghe và đang nhận lãnh những lời dậy bảo về
thiền định, nhưng họ cũng đang
tiếp tục bị
ràng buộc bởi những
chướng ngại thầm kín của cả
tinh thần và thể xác họ.
Sở dĩ nói như vậy bởi vì họ đã không phát triển
sức mạnh của tâm
hoàn toàn buông xả. Cho tới khi nào
sức mạnh của
lòng thành tâm
buông xả tăng lên, thì những
chướng ngại ẩn náu sâu xa kia sẽ tự động sút giảm và kết quả của
sự thiền định sẽ tới ngay. Lúc đó, tâm cũng tự
điều chỉnh để mang lại sự
tinh tấn.
Đức Phật Thích Ca đã
tinh tấn trên
con đường tu tập của Ngài bởi vì Ngài
quyết tâm buông bỏ tất cả. Do đó, Ngài có thể thanh tẩy,
tinh tiến vượt bực, có khả năng
chuyển hóa muôn vàn chúng sinh, hướng dẫn họ sinh vào những cõi cao hơn,
giải phóng họ và giúp họ đạt
giác ngộ,
cho đến ngày hôm nay. Cũng giống như vậy, đại thiền giả
du già Tây Tạng MIlarepa đã
từ bỏ tất cả để
tu tập và Ngài đã
hoàn toàn giác ngộ chỉ trong một kiếp.
Người ta thường nghĩ rằng phát triển tâm
buông xả như vậy sẽ làm
chúng ta bi quan và ngu dốt đi, nhưng
hoàn toàn ngược lại, tất cả những vị thiền giả
tinh tấn trên
con đường thiền định đều
kinh nghiệm được sự
hạnh phúc chân thật và
an lạc ngay trong cuộc sống trần gian này. Nếu
chúng ta nghĩ rằng sự
buông xả sẽ
phá hủy sự hưởng thụ trong cuộc sống này thì
chúng ta đã hiểu sai
ý nghĩa của nó rồi. Khi một người thực sự phát triển tâm
buông xả, họ sẽ có
kinh nghiệm và
thực chứng sâu xa về
hạnh phúc và
an lạc, cả
tinh thần lẫn
vật chất, niềm
hạnh phúc của họ vượt xa những người chỉ biết
quanh quẩn với những thú vui
xa hoa vật chất mà không có
thực chứng.
Chúng ta hãy thử nhìn sâu vào
lãnh vực này
xem sao. Một người
sở hữu tài sản to lớn có thể nói rằng họ đang tận hưởng
cuộc đời, như vậy họ không cần sống đạo, không cần
Đạo Pháp. Họ nói như thế nhưng tâm của họ đang
hờn giận ganh ghét,
vô minh,
kiêu mạn,...
vân vân... Nếu đây là tất cả những gì họ
tin tưởng, thì tại sao
chúng ta lại bảo rằng họ đang khổ, còn
nhà tu hành từ bỏ tất cả kia lại
sung sướng hạnh phúc hơn họ? Câu
trả lời là người đó đang đi tìm
hạnh phúc và sự
an toàn trong
luân hồi, những thứ này đang làm họ mờ mắt, dù họ biết hay không biết,
đau khổ rồi sẽ đến. Để tạm thời
bảo vệ cái tâm trạng của mình, họ từ chối không nhận những điều
bất mãn mà họ đang kinh qua. Hơn nữa, họ không có khả năng nhìn ra được
vọng tưởng đang nằm trong
vấn đề này. Vì thế, điều mà họ cho là đang
hạnh phúc thực ra chỉ là
sai lầm u mê, nói một cách rất
thành thật, họ chẳng
hạnh phúc chút nào. Ngược lại, thiền giả
vượt qua được những
chướng ngại trong tâm chính là nhờ
sức mạnh của tâm
buông xả, làm họ
thoát khỏi những khổ đau của
vọng tưởng mà
tiến tới một đời sống
vững chắc trong sự
an lạc của cả
thể chất lẫn
tinh thần.
Những
vấn đề vật chất đều
phát khởi từ
tinh thần. Còn nữa,
chúng ta thường cho rằng
nguyên nhân tạo ra
đau khổ không phải là kết quả của lòng ganh tị và
ham muốn, mà chỉ có những bệnh tật của thân xác mới đem lại khổ đau.
Thực ra,
nguyên nhân của cái đau phát xuất từ một tâm
tiêu cực và đây chính là cái khổ của chính nó.
Thí dụ như lòng
mê vọng kiêu mạn, khi bị nó
ảnh hưởng chúng ta sẽ không còn
yên ổn mà
vô cùng bực bội.
Chúng ta bị bơm phồng lên như một trái banh. Nếu
kiểm điểm,
chúng ta sẽ
cảm thấy vô cùng khó chịu và sẽ
nhận thấy nhiều
hiện tượng xẩy ra chung quanh mình, thân xác thì run lên
tinh thần thì bấn loạn. Nếu
chúng ta công nhận tình trạng “bất an” này là
đau khổ thì
chắc chắn chúng ta phải
liệt kê kiêu mạn vào trong danh sách này.
Thật là dễ dàng để
nhận ra rằng nóng giận cũng nằm trong danh sách của khổ đau. Chẳng có một chút
thoải mái nào khi ở vào
tình trạng này. Nóng giận gây ra đau tim, mất
bình tĩnh và biết bao nhiêu hậu qủa
xấu xa khác cho
tâm hồn. Nó chẳng mang lại một niềm
hạnh phúc nào ngoài
đau khổ.
Lòng
tham lam là một loại
mê vọng gây
đau khổ khó
nhận ra nhất. Đây cũng chính là một
chướng ngại, một
nguyên nhân mang lại
đau khổ. Hãy tưởng tượng
chúng ta đang ở trong một cửa tiệm, có một món hàng mà
chúng ta rất
thích thú, muốn có cho bằng được. Tâm của
chúng ta liền bị khựng lại khi nhìn thấy món hàng đó, không
thể không mua được, phải mua ngay. Mỗi khi
ý tưởng này
xuất hiện ra trong tâm của
chúng ta,
chúng ta cảm thấy có một cái gì đó
thắt chặt tim ta hoặc như một lưỡi dao nhọn dí vào trái tim ta. Có thể
chúng ta cho rằng đây là một
thói quen rồi
chấp nhận nó như một niềm
hạnh phúc, nhưng nếu nhìn gần hơn, sâu hơn
chúng ta sẽ thấy thực sự đây là một
tình trạng bị gò bó, một sự
thắt chặt.
Cũng như vậy, tất cả những
phiền não tinh thần và những
ảnh hưởng của nó đều mang lại khổ. Rất nhiều người trong
chúng ta không
nhận ra được những tâm trạng
tiêu cực này là
bệnh hoạn mà cứ tưởng rằng họ vẫn khỏe mạnh lắm.
Chúng ta có thể hiểu được
sự thật này qua sự
sử dụng thuốc men. Nhiều khi
chúng ta đi khám bệnh mà không có một
lý do rõ rệt nào, nhưng
bác sĩ lại phát giác ra
chúng ta đang mang một chứng bệnh
hiểm nghèo. Như vậy điều mà trước kia
chúng ta nói rằng
chúng ta chẳng có bệnh gì hết là
sai lầm, nếu khôn ngoan thì
chúng ta nên nghe theo lời
bác sĩ mà chữa bệnh ngay. Do đó một người cho rằng họ không khổ, việc
thực hành Đạo chỉ
để dành cho những người thất bại hoặc những người
bất mãn với
thời cuộc, nếu họ tự
kiểm điểm một cách
sâu xa về những
thái độ tự vệ này thì họ sẽ trở nên khôn ngoan hơn.
Một tâm
hoàn toàn buông xả sẽ dẫn đến
phúc lạc vì những
nguyên nhân gây ra
xáo trộn đã không còn
hoạt động. Phát triển tâm
buông xả không có nghĩa là đi sống biệt lập với
xã hội và rời xa những
sinh hoạt lợi lạc của nó. Nếu nó xẩy ra như
vậy thì chúng ta sẽ không còn khả năng và cơ hội để phát triển tâm
buông xả nữa mà phải đợi
cho đến khi nào rời khỏi xác thân này, vì thân xác cũng là một phần của
thế giới vật chất. Nó cũng không có nghĩa là
chúng ta phải vất đi tất cả những
tài sản của
chúng ta. Trong một khía cạnh nào đó, tâm của
chúng ta cũng là một
tài sản, làm sao
chúng ta có thể
chạy trốn nó được? Vì thế,
buông xả không phải là một hành động tách biệt, chia cắt hoặc
lìa bỏ; nó không là một cái gì đó mà
chúng ta có thể
hoàn thành giống như làm xong một công việc. Đúng hơn, nó là một
hoạt động của tâm.
Vậy thì tâm
buông xả là gì? Đây chính là sự
buông bỏ những
nguyên nhân gây ra
đau khổ, những sự buồn lòng tự chính nó. Mỗi khi
chúng ta loại bỏ được những
nguyên nhân này thì những khó khăn
rắc rối không còn xẩy ra một cách dễ dàng nữa – cho một
cá nhân hay cho cả một
cộng đồng xã hội -- như vậy
tham lam,
giận dữ và
kiêu mạn sẽ không còn làm gì được
chúng ta.
Chúng ta sẽ không còn bị rơi vào những
vấn đề gây ra
buồn phiền hay không
buồn phiền, bởi vì những
nguyên nhân của chúng đã
bị loại bỏ.
Xin
nhấn mạnh điều này,
từ bỏ không có nghĩa là vất bỏ đi tất cả những thú vui trần gian mà
chúng ta đang có. Đã có rất nhiều
vị giác ngộ là những
thương gia giầu có, vua chúa, vân...vân...Đây không phải là sự
sở hữu của
chúng ta mà chính là sự
vô minh của
chúng ta, tất cả những
thái độ bám víu, níu kéo, dính mắc và nuối
tiếc của chúng ta vào chúng
cần phải buông bỏ (Một
vị đạo sư nói: hãy
thưởng thức tất cả những gì có trên đời này nhưng đừng
bám víu vào bất cứ cái gì, đó là nguồn gốc của khổ đau và
hạnh phúc. –Dg ).
Mặc dầu trong
hiện tại chúng ta không
để ý, không
thực tập trên
thái độ này nhưng nếu
chúng ta chỉ
hiểu ý nghĩa thực sự
buông bỏ là gì thì
chúng ta cũng đã bớt được rất nhiều
phiền muộn.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta thực sự
thực hành phát triển tâm
buông xả thì
chúng ta sẽ tiến rất xa trên
con đường giải thoát.
Chúng ta sẽ xử dụng những
của cải của
chúng ta một cách khôn ngoan hơn để không bị chúng
hành hạ.
Chúng ta sẽ biết cách
đối trị những
mâu thuẫn nội tại về
ý nghĩa thật của sự
buông xả, thấu suốt được toàn triệt những
niềm tin nhảm nhí đã dẫn dắt
chúng ta đến khổ đau,
bất hạnh,
yếu hèn như một kẻ ăn xin.
Buông Bỏ Đau Khổ Không có một tâm
hoàn toàn buông bỏ khổ đau thì không có cách nào
thoát khỏi biển
trầm luân.
Chúng ta đã bị chới với trong biển này từ
muôn vàn kiếp và sẽ
tiếp tục chìm lặn trong đó nếu
chúng ta không
quyết tâm ngay từ bây giờ thoát ra khỏi nó. Với
quyết tâm buông bỏ toàn diện như vậy sẽ tạo nền tảng
vững chắc cho
con đường giải thoát đến
giác ngộ, đây chính là những lời dậy bảo trước kia về động năng
thúc đẩy đến
giác ngộ, đây cũng chính là một
quan điểm đúng đắn về
tính không.
Chúng ta không
hy vọng phát triển được tâm
buông xả nếu
chúng ta không hiểu
luân hồi là gì và
đau khổ là gì. Nếu
chúng ta không
nhận thức được
bản tính khổ đau của
luân hồi thì
chúng ta cũng không có một
năng lực nào
thúc đẩy chúng ta tìm
con đường thoát khổ. Vì thế,
chúng ta cứ mãi hoài ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ,
nhất thời, bị
mù quáng và bị cột chặt vào bánh xe khổ đau và
bất mãn.
Chúng ta như những tên tù khờ dại chẳng
hiểu biết gì về nhà tù khốn khổ khi
so sánh với
một đời sống
thoải mái tự do, nên chẳng bao giờ tạo cơ hội mà
trốn thoát. Do đó,
thiền định trên
bản tính của khổ đau là một
việc làm vô cùng quan trọng nếu
chúng ta muốn
tìm kiếm và
theo đuổi con đường giải thoát khỏi
luân hồi.
Có rất nhiều người hiểu sai về
luân hồi. Một số người nghĩ đó là một xứ sở, một nơi chốn, một căn nhà hay là một loại
thức ăn ...vân...vân. Vì
hiểu lầm như vậy nên người ta nói rằng ở
Tây Tạng có những người chuyên môn
phục dịch cho những
lạt ma cao cấp. Những người này ở với
lạt ma cả đời,
phục vụ ông ta và
lo lắng tất cả
mọi việc cho ông ta. Rồi một ngày nào đó họ thay quần đổi áo bằng một bộ
cà sa tu hành.
Một
thời gian ngắn sau họ được gửi đến một vị
lạt ma khác.
Lạt ma này nghĩ rằng chắc ông đã hiểu Đạo
thâm sâu vì đã ở với
cao tăng lâu lắm rồi.
Lạt ma hỏi ông đã
tinh tấn như thế nào trên đường
tu tập. Ông
trả lời: “Con đã
thoát khỏi luân hồi.” Vị
lạt ma có vẻ
hài lòng và hỏi thêm làm sao mà ông ta
đạt được điều đó. Ông
trả lời: “ Dễ thôi, con đã thay quần áo rồi !”
Đó là những kiểu
hiểu lầm về
luân hồi. Lại có những người khác, họ rời bỏ
lối sống thường ngày để
đi vào hang động và rừng sâu để tu, họ nghĩ rằng như vậy là đã
trốn thoát khỏi
luân hồi. Đây cũng là một
hiểu lầm, dù có
lên mặt trăng mà ở,
chúng ta cũng vẫn ở trong
luân hồi.
Luân hồi không phải là một nơi chốn để mà
chạy trốn, nó chính là
tình trạng và
thái độ của tâm
chúng ta.
Luân hồi (samsara) là một danh từ tiếng Phạn (Sanskrit) có nghĩa là “chu kỳ, vòng tròn” hay “vòng
hiện sinh.” Cho tới khi nào
chúng ta chưa
kiểm soát được vòng chết và
tái sinh là
chúng ta còn ở trong
luân hồi. Ngay bây giờ,
chúng ta đang
du hành qua hình dạng
con người. Khi
đời sống này qua đi,
tâm thức của
chúng ta –hoặc,
chính xác hơn, sự
liên tục của
năng lượng tinh thần—sẽ bay theo cơn
gió nghiệp vào
một đời sống khác mà không có quyền
lựa chọn. Như vậy là nó lại cư trú vào một
thân nghiệp khác. Và rồi
đời sống này lại cũng sẽ
chấm dứt,
tâm thức của
chúng ta lại ra đi không có quyền chọn lựa. Trừ khi
chúng ta kiếm ra được một
con đường để thoát
nếu không tiến trình này sẽ
liên tục tự lặp đi lặp lại không bao giờ
chấm dứt.
Cái gì làm
chúng ta lòng vòng trong bánh xe luân hồi? Đó chính là
nghiệp lực được tạo ra bởi chính những hành động của
chúng ta cộng với những
vọng tưởng của
chúng ta thúc đẩy chúng. Hai lực này cột chặt
chúng ta vào những
thân nghiệp khác nhau như những sợi dây cột tù nhân. Điều khác biệt là chính
chúng ta tự trói
chúng ta bằng những sợi dây nghiệp và
vọng tưởng do chính
chúng ta tạo ra, không có một ai khác trói
chúng ta cả.
Cho tới khi nào
chúng ta còn
tiếp tục tái sinh vào một thân xác trong
luân hồi thì
chúng ta còn
tiếp tục bị
phiền não và
bất mãn. Hãy thử nghĩ mà xem, tất cả những khó khăn, tất cả những
vấn đề mà
chúng ta găïp đều chỉ vì
chúng ta mang cái hình
thể hiện tại.
Chúng ta phải cho nó ăn, phải cho nó mặc,
chúng ta phải
săn sóc nó rất
cẩn thận thì mới mong nó được khỏe mạnh.
Chúng ta phải làm việc
cực nhọc để có tiền mà
phục vụ nó, ngay cả
việc phải có một căn nhà để giữ nó ấm. Sau một ngày làm việc
cực khổ, tâm
chúng ta bị
mệt mỏi, chán chường vì thân xác của
chúng ta rã rời và
uể oải. Còn nữa, mặc dù
chúng ta đã
cố gắng hết sức bảo vệ nó, thân xác của
chúng ta vẫn
thường xuyên bị nhiễm trùng và
bị thương. Măïc dù bị như vậy nhưng không một ai trong
chúng ta muốn xa rời cái
nguyên nhân bất an này, dường
như không còn một
con đường nào khác để
trốn thoát nếu không có nó. Sự thiếu
tự do chọn lựa này là một
sự kiện rất
tự nhiên của
luân hồi.
Chúng ta không thể có
tự do sau khi tự tử. Hành động
điên cuồng này, sinh ra trong
tuyệt vọng, chỉ để thay thế một thân xác
bệnh hoạn khác mà thôi. Thay vì như thế, giống như một tù nhân cắt đứt sợi dây trói,
chúng ta cũng phải cắt đứt nghiệp và những
vọng tưởng của
chúng ta. Chỉ có cách này mới
giải thoát chúng ta khỏi
luân hồi. Chỉ có sự
hiểu biết sâu xa và sự
kinh hãi khổ đau đã
kinh nghiệm được trong những
kiếp luân hồi mới tạo nên những động năng mãnh liệt để
thúc đẩy chúng ta vượt
thoát khỏi nó. Như vậy
thiền định trên sự
buông xả cần phải được
đào sâu và phát triển thật nhiều, nhiều hơn nữa.
Có rất nhiều
lý do khiến
chúng ta phải
tìm hiểu càng
sâu xa càng tốt. Trong mỗi một phút
chúng ta tạo ra hàng trăm thứ nghiệp, và,
tùy theo cường độ và sự lặp đi lặp lại của chúng, chúng có thể đẩy
chúng ta vào rất nhiều loại
hiện sinh khác nhau, rất nhiều
hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau. Chỉ cần
thận trọng để ý tâm của
chúng ta mỗi khi nó nổi cơn nóng giận là
chúng ta biết ngay
cảnh địa ngục
chúng ta thường tạo ra như thế nào. Nếu trong khi chết mà
chúng ta mang một tâm trạng đầy
u uất và trầm thống bởi những
vọng tưởng thì thử hỏi cái thân xác nào sẽ
thích hợp với những
tâm thức u uẩn khổ đau đó?
Chắc chắn nó sẽ không mang hình dạng con người!
Nói rộng hơn nữa, mặc dù với một nhãn quan hạn hẹp
chúng ta cũng có thể nhìn thấy được rất nhiều
đời sống khác ngoài
con người, và cũng có rất nhiều hình dạng
con người khác nhau trên trái đất này. Không ai có thể
chứng minh được
đau khổ của loài vật hay của một người bị bệnh
tâm thần không
ảnh hưởng đến
chúng ta, chúng thực sự có
ảnh hưởng đến chúng ta! Vì thế, một tâm
buông xả toàn diện phải được bao trùm trên tất cả mọi cuộc sống, từ chỗ cao nhất đến nơi thấp nhất. Nhờ sự
chuyên cần theo dõi trong
thiền định, không những
chúng ta có thể phát triển được tâm
buông xả mà
chúng ta còn phát triển được
tâm từ bi đến tất cả những
chúng sinh bất hạnh đang
trầm luân trong khổ đau.
Tâm từ bi đó rất quan trọng và
cần thiết,
đặc biệt cho tiến trình
tinh tấn tu tập của
chúng ta.
Đức Phật Thích Ca đã dậy
chúng ta có
ba cõi thấp hơn cõi
con người, mỗi một cõi đều do
nghiệp cấu tạo ra những
tình trạng tương ứng như vậy.
Ba cõi đó là :
cõi Địa Ngục, cõi của khổ đau;
cõi Ngạ Quỷ, cõi của
đói khát và
cõi Súc Sinh, cõi của
sợ hãi.
Tùy theo nghiệp của từng
cá nhân, những
tình trạng khổ đau này sẽ được
thị hiện ra trong mỗi một
hoàn cảnh, nơi chốn
vật chất và
thân thể khác nhau, hay
tác động trên
tâm thức ở mức độ nông sâu khác nhau. Dù ở bất cứ
trường hợp nào, những
đau khổ này đều rất thật đối với những người đã tạo ra nghiệp đó để thực sự
kinh nghiệm nó.
Nhờ
thực hành tâm linh sâu vào những
cõi giới bất hạnh này,
chúng ta mới tạo ra được những
động lực mạnh hầu
buông bỏ những hành động
tiêu cực dẫn
chúng ta vào
tái sinh. Nhờ nếm một chút khổ đau bây giờ trong
thiền định, trong khi còn có cơ hội
chuyển hóa ác nghiệp, còn hơn là cứ giữ mãi
tình trạng khinh thường không
sợ hãi cho đến một ngày phát giác ra mình đang bị sập bẫy. Khi đó thì quá trễ rồi, chẳng còn làm được
gì nữa, chỉ còn chờ cơn
thống khổ đến muôn đời.
Nếu
chúng ta nghĩ được rằng những cõi khổ đau này là do
nghiệp quả mà ra thì rất có thể
chúng ta đã được hưởng nhiều ơn ích trong
cuộc đời lắm rồi.
Thí dụ, có thể
chúng ta thường rất tự hào và có những
hành vi ngạo mạn đối với những cái đáng lý ra
chúng ta nên
hạ mình xuống. Nhưng, nếu
chúng ta hiểu được rằng những ngạo mạn đó sẽ dẫn
chúng ta sinh vào một trong
ba cõi thấp nói ở trên và nếu
chúng ta có
kinh nghiệm về khổ đau trong lúc
thiền định thì tâm của
chúng ta sẽ tự động
thoát khỏi những tâm trạng khổ này. Biết rằng
sợ hãi sẽ làm
khổ tâm cũng đủ để
chấm dứt việc tạo ra những
nguyên nhân gây khổ đau khác, đây không phải là một điều xấu, không phải là một
thái độ tiêu cực. Đó là một ơn ích, một việc rất có lợi. Nếu là
thái độ tiêu cực nó sẽ dẫn đến khổ đau. Do đó, vì sợ tạo ra
ác nghiệp nên sẽ dẫn đến việc
quyết tâm chấm dứt khổ. Đây là một việc tốt, không xấu.
Ngài Shantideva (
Thế Thân), một vị
đại bồ tát người
Ấn độ, đã
dẫn chứng những ơn ích khi thiền về những cõi khổ như sau:
Kẻ nào nhớ đến những khổ đau mà
bực bộiKẻ đó sẽ hết
kiêu căng.
Khi
khám phá ra sự khổ đau của mình
Kẻ đó cũng
khám phá ra khổ đau của người khác.
Đó là cơ hội cho
lòng từ bi khởi phát.
Như vậy, những
chúng sinh bình thường như
chúng ta, là những người luôn luôn tạo ra nghiệp và không thể
kiểm soát được
vọng tưởng, thì thiền trên những khổ đau của
ba cõi giới này là cách tốt nhất để
chúng ta tu tập và phát triển tâm
buông xả toàn diện.
Sáu Nẻo Luân Hồi Cõi
tái sinh thấp nhất là
cõi địa ngục,
chúng sinh ở
cảnh địa ngục.
Chúng ta tạo ra nghiệp và
kinh nghiệm được khổ đau qua nghiệp khi
chúng ta cố tình gây khổ đau và thương tích cho người khác.
Đánh nhau, chém giết nhau, hãm hiếp kẻ khác ...
vân vân... là những hành động không
đạo đức, kết quả là sẽ
tái sinh vào đây.
Cõi địa ngục có thể rất nóng hoặc rất lạnh,
tái sinh vào
cõi giới này thường ở rất
lâu dài. Mang một nghiệp này sẽ bị
tái sinh vào
địa ngục nóng có thể dài tới 9 tỷ năm! (nghĩa là cho tới khi nào
hoàn toàn thanh tẩy hết nghiệp đó, nhưng
chúng ta cũng nên biết rằng trong lúc
chúng ta đang tẩy nghiệp này thì
chúng ta cũng vẫn tạo thêm nghiệp,
thí dụ chúng ta đang thanh tẩy
khẩu nghiệp là không
nói xấu người khác nhưng
chúng ta cũng vẫn thường nói không đúng
sự thật về người khác. Vì thế,
nếu không tỉnh thức thì
thời gian tái sinh có thể còn dài hơn 9 tỷ năm –Dg)
Rất
đau đớn trong từng giây từng phút ở
địa ngục. Có kẻ sẽ phải chiến đấu với
kẻ thù do
chính nghiệp tạo ra. Mỗi khi bị chết, họ sẽ
hồi sinh lại để
đánh nhau tiếp. Cái đau mà
chúng ta cảm như hàng trăm mũi nhọn đâm vào
da thịt chẳng có thể
so sánh được với cái đau của những kẻ
xấu số trong
địa ngục.
Càng đi sâu vào
địa ngục thì càng
kinh nghiệm thêm
đau khổ và cuộc
tái sinh sẽ lại tăng lên gấp hai. Nơi thấp nhất trong
địa ngục nóng là
A-tỳ địa ngục, ở đây
đau khổ triền miên,
liên tục không ngừng, lửa thiêu đốt thân xác không bao giờ tắt, hết ngày này qua ngày khác, hết kiếp này qua kiếp kia.
Nếu vào
địa ngục lạnh thì như trong ngục
tối tăm bao bọc bởi đá băng.
Chúng ta bị ép trong những dẫy núi đóng đầy băng tuyết. Khi những cơn bão tuyết tràn tới, nhiệt độ cứ giảm dần mà thân xác thì như
bị vỡ tan ra từng mảnh. Nghiệp sẽ tạo ra những con trùng nhỏ chui rúc vào những nơi thịt da
rạn nứt mà
chúng ta không thể làm gì được, vì đang trong
tình trạng đông cứng.
Còn có những cảnh
diễn tả khủng khiếp hơn nữa nhưng
chúng ta không thể nói ở đây. Có những cảnh khổ
y như chúng ta cảm nhận được ở trong cõi
loài người (Một người đang trong cảnh cùng cực
cô đơn, với từng cơn ray rứt, buồn tủi,
sợ hãi thì đâu có khác gì đang ở trong
địa ngục lạnh --Dg). Rất nhiều cảnh khủng khiếp này đã được dịch sang Anh ngữ. Khi
chúng ta đọc những cảnh này hoặc khi
chúng ta thiền về những
cõi giới này
chúng ta không nên coi đó chỉ như là những cuốn sách truyện.
Đức Phật Thích Ca đã dậy
chúng ta về những
cảnh giới này theo sự
chứng ngộ của Ngài và do
lòng từ bi của Ngài. Ngài đã nhìn thấy
chúng sinh bị
trầm luân trong những
cảnh giới này và chỉ cho
chúng ta cách thoát ra khỏi những nơi khủng khiếp đó. Nếu
chúng ta coi những cảnh này như là những
câu chuyện cổ tích mà không thay đổi lối
suy nghĩ hoặc thay đổi những
thái độ của
chúng ta thì
chúng ta đã bỏ qua một cơ hội hiếm có, một cơ hội quí báu để
thoát khỏi khổ đau.
Chúng ta sẽ bị rơi vào
tình trạng lười biếng và bị
lôi cuốn đến bất cứ nơi nào mà tâm của
chúng ta bị cơn
gió nghiệp thổi đi.
Cõi
tiếp theo là cõi
Ngạ qủy, ma đói, hồn ma
vất vưởng cực kỳ
đói khát.
Chúng ta có thể cảm nhận sự
đau khổ, sự dày vò của họ qua những hành động
điên cuồng của
mê vọng tham dục, khát khao,
bủn xỉn và
hà tiện. Trong
cõi ngạ quỷ không phải chỉ bị
đói khát mà còn bị lạnh lẽo,
mệt mỏi,
nóng bức và
sợ hãi cùng cực nữa. Nói rộng ra, đây là cõi không bao giờ được
thỏa mãn, không bao giờ được
hài lòng với bất cứ gì mà họ mong muốn,
ước vọng.
Ngạ quỷ lang thang hết năm này qua năm khác, hết kiếp này qua kiếp khác mà không bao giờ tìm được một giọt nước. Nếu nhìn thấy nước, khi
tới gần thì nước lại biến mất. Từ xa họ nhìn thấy hồ nước trong xanh,
mát mẻ, họ vội vã, họ
hối hả chạy lại nhưng họ chỉ thấy
bùn lầy và rác rưởi. Nếu
may mắn tìm được một chút nước thì đó cũng chỉ là
vọng tưởng, là
ảo ảnh, uống vào thì nó lại là một
chướng ngại. Miệng của họ nhỏ hơn con mắt của họ, bao tử của họ lớn hơn cổ của họ, cổ của họ bị thắt lại nên cái bụng to bao giờ cũng đói. Nước thì bị bốc hơi ngay tại cửa miệng hay nó
biến thành nước độc trước khi vào bao tử.
Đời sống trong cõi này thường rất dài, nó được tính từng ngàn năm một. Nơi
cư ngụ của họ trong lòng đất nhưng họ cũng đi lang thang trong cõi
loài người và
cõi súc sinh. Có những người nhìn thấy họ do
duyên nghiệp nhưng hầu hết
chúng ta không nhìn thấy họ. Tất cả
chúng ta đã từng nhìn thấy những người có tính
bủn xỉn,
tham lam vô độ, nhưng thực sự
chúng ta không biết họ thuộc
cõi giới nào.
Cõi
kế tiếp là
cõi súc sinh (
thế giới loài vật).
Tái sinh vào cõi này là kết qủa của
bản tính súc vật mù quáng,
bản năng trì độn tâm đóng kín mít. Nếu
chúng ta phải sinh vào cõi này,
chúng ta sẽ mất hết cơ hội để giúp đỡ chính mình, không còn khả
năng học hỏi.
Cả đời chỉ biết tạo thêm
ác nghiệp và bị
trầm luân trong
đau khổ và
sợ hãi. Nếu có người nào
cố gắng dậy bảo
chúng ta những điều
tốt đẹp mong tẩy xoá đi những
ác nghiệp thì
chúng ta cũng chẳng biết gì cả chỉ biết
gật đầu để
xin ăn.
Hầu như
đau khổ lớn nhất của loài thú là đói, khát và
sợ hãi bị con thú khác lớn hơn
ăn thịt.
Thường thường, khi một con vật bắt được miếng mồi, nó cấu xé, nhai ngấu nghiến như sợ bị cướp mất, đôi
mắt láo liên nhìn chung quanh sợ mình
bị giết bởi con thú khác. Những con thú nuôi trong nhà được
may mắn hơn không sợ con khác bắt như loài thú hoang nhưng lại bị chủ bắt làm những công việc
nặng nhọc hoặc bị xiềng xích như một tù nhân. Thêm nữa, rất nhiều loài thú còn bị
con người săn đuổi và
bị giết, họ giết
thú vật một cách tàn nhẫn không
thương tiếc, còn
dã man hơn là chính loài thú giết nhau.
Chúng ta phải tưởng tượng mới nhìn ra được
đau khổ của cõi điạ ngục và
ngạ qủy nhưng những
đau khổ của
cõi súc sinh thì
chúng ta đã nhìn thấy tận mắt của
chúng ta thường ngày.
Đây chỉ là những
diễn tả ngắn gọn về những cõi
bất hạnh, khổ đau. Còn nữa, có
ba cõi khác được coi là “may mắn” hơn, gọi như thế vì họ được hưởng một số
lạc thú khác nhau trong
luân hồi.
Ba cõi này là: cõi
con người; cõi thần hay
A tu la và
cõi trời, cõi thiên hay còn được gọi là
cõi tiên, có tiên nam và
tiên nữ. Nói chung, được sinh vào
ba cõi này vì đã tạo được rất nhiều ơn phước.
Tuy nhiên, vì được hình thành trong
vô minh và do những
động lực không
thanh tịnh nên
chúng ta vẫn bị
nghiệp lực và
vọng tưởng quăng
chúng ta vào chốn
luân hồi. Những
đau khổ mà
chúng ta cảm nhận trong những
cõi giới này có thể
vi tế hơn ở những cõi
bất hạnh nói ở trên kia, nhưng cũng đủ làm
chúng ta bất mãn, chán chường.
Cõi trời là cõi cao nhất trong
sáu cõi luân hồi, cõi này được hưởng đầy phước lạc. Đây là những tòa lâu đài
tráng lệ, lộng lẫy với đủ loại
lạc thú. Nhưng vì đây là cõi
lạc thú nên họ chỉ biết hưởng lạc mà không còn biết nghĩ đến chuyện tạo thêm
phước đức cho chính mình. Tất cả
thời giờ ở đây chỉ
để dành cho những
nghiệp quả tốt mà họ đã tạo được ở trong
quá khứ nên khi chết họ chỉ còn lại những
nghiệp quả xấu
mang đi với họ, do đó, cuộc
hành trình mới là
đi vào những cõi thấp hơn.
Vào tuần
cuối cùng trong
cuộc đời của một vị tiên (cũng khoảng 350 năm ở
trần thế) họ sẽ
cảm thấy đau khổ hơn những
chúng sinh ở cõi
ngạ quỉ. Họ biết rằng họ sắp chết và họ cũng biết rằng họ sẽ phải sinh vào những cõi thấp hơn. Những người bạn của họ biết rằng họ sắp chết nên rời xa họ. Họ bị
cô đơn, những đóa
hoa tươi mát, óng ả đang từ từ ngục xuống, chờ
chấm dứt một quãng đời
vinh quang.
Cũng
tương tự như vậy, ở cõi thần lúc nào cũng có chiến tranh, họ luôn luôn
tranh giành lẫn nhau. Họ ganh tị với
cõi trời, họ
điên khùng vì ghen tương. Nhưng họ không thể thắng nổi
cõi trời, họ không thể giết được
thần tiên. Sự ganh tị tức tối của họ làm họ không lúc nào
bình an mà hưởng
phúc lạc của
cuộc đời thành ra những
cố gắng của họ chỉ mang lại những chán chường tái tê hơn nữa và hơn nữa.
Cuối cùng là cõi
loài người.
Chúng ta đã
luận bàn nhiều về những khổ đau trong
sinh lão bệnh tử của
con người mà
chúng ta đã gặp trong
cuộc đời,
chúng ta đã từng
thích thú,
vừa lòng,
bất mãn và chán chường tái tê với
cuộc đời. Hơn nữa, trong từng
kinh nghiệm về khổ đau của năm cõi kia đều
tìm thấy ở nơi
con người. Còn rất nhiều
đau khổ khác đã không được nhắc tới,
chúng ta không có đủ
thời giờ để
bàn luận về tất cả mọi thứ khổ đau mà
chúng ta đã
trải qua hay chưa gặp phải.
Một trong những cái làm cho
con người đau khổ nhất mà
chúng ta đã không nhắc đến đó chính là sự
sở hữu, sự
hy vọng hão huyền (
vọng tưởng),
học thức và nhất là
tình trạng hiện tại của
chúng ta.
Chúng ta đã tốn biết bao nhiêu
thời giờ và
công lao để có được những cái
tốt đẹp, nhưng có gì
bảo đảm những cái đó không tàn phai hoặc
chúng ta sẽ không bao giờ mất chúng. Một
sự thật hiển nhiên mà
chắc chắn ai cũng biết là những cái này
không tồn tại mãi mãi, chúng
vô thường, chúng luôn luôn thay đổi và chúng sẽ hư nát.
Chúng ta không nên để chính
chúng ta bị lừa bịp bởi những thứ
hấp dẫn, chúng
quyến rũ chúng ta vào vòng
luân hồi như những
tài sản, thân xác và những vui thú trần gian của
chúng ta. Những
vấn đề, những
rắc rối không nằm trong sự
thưởng thức, trong sự
sử dụng những đồ vật khi
chúng ta sở hữu chúng, nhưng chính là sự bám viú, chính là sự khao khát, chính là những vướng viú
gắn bó vào chúng.
Chúng ta nên nhớ rằng
chúng ta đã từng
sở hữu cả một trời
ham muốn trong những
kiếp trước nhưng có cái nào giúp tâm
chúng ta giải thoát khỏi khổ đau không? Không! Chẳng có cái nào cả.
Chúng ta vẫn
trầm luân trong
luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác mà chẳng nhìn thấy một lối đi ra.
Trong cả
sáu nẻo luân hồi,
chúng ta đã từng bị khổ đau vì phải rời bỏ thân xác của
chúng ta nhiều lần. Đây là bằng chứng của
vô thường. Để hiểu được những
ý tưởng khó khăn này,
chúng ta cần phải tưởng tượng ra rất nhiều, càng nhiều càng hay,
gia phả của
chúng ta – đó là
cha mẹ chúng ta và
cha mẹ của những người khác, ...vv... Bao nhiêu người mà
chúng ta có thể tưởng tượng được là bấy nhiều đời mà
chúng ta đã
trải qua. Đó cũng chính là cách mà
tổ tiên của
chúng ta đã sinh ra, sống một
thời gian, rồi chết, rồi
chúng ta lại sinh ra, lại sinh ra, rồi lại rời bỏ thân xác, rồi lại
đầu thai ...
Ở ngay trong những khoảng
thời gian ngắn của
một đời,
chúng ta cũng kinh qua, cũng tạo ra biết bao nghiệp.
Chúng ta có thể là một người tầm thường, một tổng thống hay một vị vua trong một thời rồi
bị bắt, bị
cầm tù vì chính trị.
Thí dụ, ở
Tây Tạng, có những người giầu họ cứ tưởng là họ sẽ giầu
mãi mãi, nhưng chỉ một
thời gian ngắn, họ mất tất cả
tài sản, có khi còn mất cả mạng sống.
Có lúc
chúng ta buồn khổ vì
cô đơn. Mặc dù
chúng ta có rất nhiều bạn bè, rất nhiều người thân, nhưng
chúng ta luôn luôn phải
đối diện với những cơn khủng hoảng, với những nỗi
tuyệt vọng của
cuộc đời một mình.
Chúng ta sinh ra rồi chết đi mà chẳng có ai chia sẻ được với
chúng ta những nỗi niềm riêng tư
sầu khổ và
lo lắng. Cứ như thế,
chúng ta đi vào sáu nẻo luân hồi đầy khổ đau. Đây không phải vì
bi quan hay vì tin vào
số mệnh khi
chúng ta nói về khổ, mà đây chính là
sự thật.
Tốt hơn,
chúng ta hãy trực tiếp
đối diện với những
vấn đề một cách
thẳng thắn và từ đó
tìm ra một
con đường giải thoát hơn là cứ
chạy trốn nó, cứ lẩn tránh
thực tại để rồi cứ phải
tiếp tục khổ đau.
Cần phải nhấn mạnh là không có một
nghiệp quả nào trong
luân hồi mà không có
nguyên nhân. Chúng không thể
xuất hiện nếu không có người này, vật kia tạo ra, chúng cũng không thể tự
hiện diện. Chính
chúng ta đã tạo ra những
nguyên nhân và
hoàn cảnh cho những
đau khổ xảy ra qua thân (hành động), khẩu (
lời nói) và ý (
tư tưởng) của
chúng ta. Nghiệp của
chúng ta thay đổi theo từng cõi
luân hồi. Không có một khoái lạc nào hay một khổ đau nào trong
luân hồi tồn tại mãi mãi. Chúng
tùy thuộc vào
thái độ của
chúng ta, chúng thay đổi theo
thái độ tinh thần của
chúng ta.
Tuy nhiên, những hành động không
đạo đức mang lại khổ đau và những hành động
đạo đức mang lại
hạnh phúc thì luôn luôn
hiện diện. Vì thế,
chúng ta cần phải tránh những hành động không có
đạo đức và luôn luôn
thực hiện những hành động
đạo đức càng nhiều càng tốt.
Chúng ta không thể
phá hủy bánh xe
luân hồi nếu
chúng ta không
nhận diện được tất cả khoái lạc chỉ là hình bóng khác của khổ đau. Và
chúng ta không thể có được
nhận xét này nếu
chúng ta không phát triển lòng
kinh hãi luân hồi và
đặc biệt là những
bất hạnh của từng cõi trong sáu cõi.
Chúng ta phải hiểu thấu suốt điều này, nếu
chúng ta để bị
lôi cuốn vào những
vọng tưởng thì
hậu quả là
chúng ta sẽ bị mang nghiệp rất nặng trong khổ đau, bây giờ và cả trong tương lai. Trở ngại mạnh nhất
ngăn cản chúng ta không cho
chúng ta nhận ra được
sự thật là
chúng ta cứ
chạy theo những khoái lạc của
luân hồi, của trần gian. Sự
bám víu cũng giống như chất dầu, rất khó mà tẩy được dầu khi nó đã thấm vào giấy. Bụi bậm đất cát đã hòa tan trong dầu nên nó càng làm cho giấy
dơ bẩn hơn nữa. Giống như vậy, chính sự
bám víu đã làm
ô nhiễm tâm ta, nó càng làm tâm ta dễ lấn sâu vào
vọng tưởng. Cách tốt nhất để
chúng ta có thể
thoát khỏi những
vọng tưởng là luôn luôn nhớ đến những khổ đau của
luân hồi để
chúng ta phát triển tâm
buông xả,
tâm từ bỏ những
nguyên nhân của khổ đau.
Nếu
chúng ta sợ bị
ô nhiễm bởi
tham sân si như sợ bị lửa thiêu đốt thì
chúng ta mới có thể
bảo vệ chúng ta khỏi hiểm nguy. Trong những cao ốc người ta gắn những bình chữa lửa, tại sao người ta lại gắn những bình chữa lửa ở đó? Chỉ vì họ sợ sự tàn phá của lửa, chỉ vì họ hiểu lửa nguy hiểm như thế nào. Chính vì sự
hiểu biết này mà
chúng ta tránh được nguy hiểm, chính vì sự
hiểu biết này mà
chúng ta biết cách
bảo vệ đời sống hàng ngày của
chúng ta. Cũng giống như vậy, vì sợ khổ đau và
từ bỏ những
nguyên nhân tạo ra khổ đau nên
chúng ta mới biết
sử dụng thân người
quý báu này một cách tốt nhất.
Hãy tưởng tượng có hai người đang ăn kem. Một người, tâm chưa được huấn luyện, họ ăn ngấu nghiến, ăn
vội vàng và
thèm khát. Hầu như mỗi
một lần cắn một miếng kem, mỗi
một lần nuốt kem vào cổ họng họ đều để lại dấu ấn của nghiệp. Vì tâm đầy ắp những
thèm muốn,
ao ước, chán, khen chê,
bất mãn... nên người này đã không còn biết
thưởng thức những
mùi vị thơm ngon của chất kem. Ngược lại, người bạn của anh ta đã có một chút
kinh nghiệm thiền định về
bản tính của khổ trong những thú vui của
luân hồi nên anh ta ăn một cách từ tốn,
thoải mái. Anh ta không để cho sự
thèm khát, tham ăn khởi lên trong sự
thưởng thức ly kem của anh ta. Do đó tâm anh không bị
ràng buộc bởi những
vọng tưởng,
ô nhiễm, anh còn có thể
chuyển hóa những
sinh hoạt đơn giản này vào sự
thực hành Đạo Pháp. Vì
thế anh ta có thể
kinh nghiệm được cái gì là những thú vui
nhất thời và cái gì là những niềm
hạnh phúc trường cửu mà anh bạn của anh ta thường khen chê và
bất mãn.
Thí dụ này cho
chúng ta biết, tâm
buông xả mang lại cho
chúng ta sự
thưởng thức thật sự, ngay cả
trong đời sống thường ngày của
luân hồi chứ không
cần phải thoát khỏi luân hồi.
Chúng ta tạo ra
luân hồi như thế nào
Chúng ta đã biết
chúng ta bị trôi lăn vào những nẻo
luân hồi là do
nghiệp lực và do những
vọng tưởng của
chúng ta. Và
chúng ta cũng đã được chỉ dạy khi
chúng ta tiếp xúc với những loại
ô nhiễm khác nhau, khi bị
ảnh hưởng bởi những loại
ô nhiễm khác nhau thì nghiệp được
cấu tạo do những
nguyên nhân nào? Tới đây
chúng ta có thể chia sẻ
với nhau một chút về
con đường chuyển tiếp
chúng ta từ kiếp này qua kiếp khác như thế nào.
Đây là một chuỗi
duyên khởi của 12
nhân duyên : (1)
vô minh, ignorance, (2) hành, karmic formations, compositional action (3) thức, consciousness, (4)
danh sắc, name and form, (5)
lục nhập, the six sense faculties, the six sense spheres (6) xúc, contact, impression (7) thọ, feeling, (8) ái, craving, attachment (9) thủ, grasping, (10) hữu, becoming, existence (11) sinh, birth, (12) lão và tử, aging and death. Ngài
Long Thọ, một đại
giảng sư về những lời dậy bảo của
Đức Phật Thích Ca, nói rằng:
Trong 12
nguyên nhân Có 3
nguyên nhân là
vọng tưởng Có 2
nguyên nhân là hành động
Còn lại 7 là những kết quả.
Ba nhân
vọng tưởng là (1)
vô minh, (8) ái và (9) thủ. Hai nhân hành động là (2) hành và (10) hữu. Còn lại 7 nhân là những kết quả đã
kinh nghiệm được để mang sang những
kiếp sau.
Chuỗi
duyên khởi cho
chúng ta biết tiến trình phát sinh từ một
tình trạng đau khổ này qua một
tình trạng đau khổ khác, như vậy nó không thể
hoàn tất được trong
một đời mà phải cần đến hai hay
ba đời.
Thí dụ,
trong đời hiện tại chúng ta là một người,
chúng ta có thể
giải thích tiến trình này như sau:
trong đời quá khứ, dưới sự
ảnh hưởng của (1)
vô minh, vì không biết
chân tính của
thực tại, vì không hiểu
thực tính của sự vật nên
chúng ta đã
thực hiện rất nhiều hành động qua thân khẩu và ý, những hành động này (2) tạo thành nghiệp - gieo
hạt giống - trong (3)
tâm thức của
chúng ta. Trong những hành động này có những hành động tốt tạo ra nghiệp tốt để
chúng ta được sinh ra làm người. Do đó, có những lúc
trong đời đầu tiên này (qúa khứ)
chúng ta đã
hoàn tất một
vọng tưởng, một hành động và một phần nào kết quả.
Chúng ta nói “một phần nào” bởi vì
tâm thức của
chúng ta liên kết cả hai phần:
nguyên nhân và hậu qủa. Trong
thí dụ này, phần đầu là tâm của
chúng ta trong đời qúa khứ nhận dấu ấn của
nghiệp lực trong khi phần sau là tâm của
chúng ta bị liệng vào sự
tái sinh, vào sự
đầu thai mới.
Khi
kiếp trước đi đến chỗ
kết thúc thì
chúng ta đã
kinh nghiệm, đã kinh qua, đã mang trong tâm nhiều sự bất toàn và rất
sợ chết. Vì (8)
luyến ái và (9)
chấp thủ cả thân xác lẫn những vật
sở hữu nên
chúng ta muốn mang chúng qua thân xác mới để thay thế cái thân đang bị
tiêu hủy (chết), như vậy là
chúng ta đang có (10) hữu một hành động tạo tác để
trở thành, lực này hướng dẫn
chúng ta đầu thai vào
cuộc đời mới. Do đó trong lúc chết,
chúng ta đã
hoàn thành hai điều
vọng tưởng (
luyến ái và
chấp thủ) và một hành động (hữu),
sự kiện này
đánh thức những
nhân nghiệp lực để
đầu thai vào cõi
loài người.
Còn lại 7 chuỗi
nhân duyên kia sẽ xẩy ra
trong đời hiện tại. (3) Thức quả (resulting consciousness) của
chúng ta được
nhận định ra trong
tử cung của người mẹ, nơi mà nó
kết hợp với tinh cha (sperm) và huyết mẹ (egg). Sự
liên kết phôi thai này là
thời kỳ của (4)
danh sắc – “danh” là những khả năng khác nhau của thức còn “sắc” là trứng của người mẹ đã
nhiễm sắc thể của tinh cha – ở đây (5)
lục nhập được phát triển khi nó (6)
tiếp xúc với những đối tượng
tương ứng như (7) thọ,
cảm thấy dễ chịu, khó chịu hay
cảm thấy khác nhau giữa những đối tượng. Tất cả mọi
sự kiện đều xảy ra ở đây ngay lúc mà
ý niệm (11) sinh được
liên kết với kiếp này. Từ đây trở đi,
chúng ta bắt đầu lớn lên, già
đi theo những sự thay đổi và khổ đau như đã trình bày ở trên. Vậy, chuỗi
nhân duyên (12) lão và chết đã được
hoàn tất, tất cả còn lại chỉ là đợi ngày ra đi (chết).
Tiến trình này có thể phải cần tới ba kiếp mới
hoàn tất được, phải cần nhiều năm mới
nhận ra được sự
can thiệp giữa hai
nhân duyên đầu. Nên hiểu rằng
chúng ta đang tạo nghiệp ngay trong lúc này. Nó có thể là một
nhân đức nhưng được
hoàn thành trong (1)
vô minh của chính
sự kiện,
thí dụ như ý-thức-tôi qúa mạnh hay chấp tôi qúa mạnh. Sự
vô minh này đang cấy (2)
nghiệp hành vào (3)
tâm thức của
chúng ta để
chúng ta đầu thai vào cõi thần.
Có khi trong lúc chết nghiệp
đầu thai vào cõi thần không đủ mạnh nên lại phải
đầu thai làm con chó vì nghiệp phải sinh làm chó ở một lúc nào đó mạnh hơn. Do đó (8) nhân
luyến ái ,(9)
chấp thủ và (10)
trở thành đáng lẽ sẽ
hợp tác làm việc trong lúc chết thì lại phải nhường cho một
nhân duyên mạnh khác.
Tuy nhiên, nghiệp để
đầu thai vào cõi thần vẫn còn đó, không mất đi. Nó vẫn còn nằm trong
tâm thức của
chúng ta nhưng đã không được kích động mà phải đợi đến
một lần đầu thai khác. Ở ngay kiếp làm chó, bảy chuỗi
nhân duyên còn lại sẽ lại nhập vào con chó.
Tuy nhiên, nghiệp
đầu thai vào cõi thần sẽ đến, ba nhân cùng làm việc trong lúc chết và bảy nhân lại nhập vào trong kiếp
kế tiếp, lại
diễn tiến như đã nói ở trên.
Đây chỉ là sự
giảng giải vắn tắt về
diễn tiến của sự
đầu thai mà thôi, nhưng cũng khá đủ để
chúng ta có thể hiểu được những chuỗi
nhân duyên đã
tác động và
liên tục tác động trong sự
vô minh của
chúng ta như thế nào. Khi
chúng ta gieo
hạt giống trong một cánh đồng, có những cây đã lớn mạnh hơn
chúng ta nghĩ.
Tương tự như vậy, có những hạt “nghiệp” rất nhỏ mà
chúng ta đã gieo trong tâm của
chúng ta lại sản xuất ra những khổ đau to lớn hơn cả nhân của nó. Trong từng giây phút của
cuộc đời từ
muôn vàn kiếp,
chúng ta đã bị
ảnh hưởng, đã bị điều động bởi rất nhiều
vọng tưởng lớn và nhỏ. Vì thế
chúng ta đã
huân tập, đã tạo ra biết bao nhiêu nghiệp để phải
đầu thai vào hết cõi
đau khổ này đến cõi
đau khổ khác.
Chúng ta đã tạo ra ba
nhân duyên đầu (
vô minh, hành, thức) của
vô tận chuỗi
nhân duyên, trừ khi
chúng ta biết
rèn luyện (
ý chí) tâm
chúng ta,
ý thức trong từng
hành vi của
chúng ta và
giải trừ vô minh,
nếu không chúng ta cứ bị chúng kéo vào
luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác. Tâm
chúng ta như một toa xe lửa chứa hàng hóa, cứ bị lôi đi từ chỗ này đến chỗ khác, từ đời này qua đời khác để
chất chứa thêm những kiện “nghiệp” mà một ngày nào đó hàng được giao và được trả.
Luân hồi là một nhà tù mà chính
chúng ta đã tạo ra,
chúng ta bị nhốt trong những bức tường
kiên cố là do chính sự
vô minh và u tối của
chúng ta.
Chúng ta phá được một mắt xích trong 12
nhân duyên, trèo qua được một
cửa ải thì cũng vẫn còn bị bao vây bởi rất nhiều bức tường khác.
Luân hồi không thể tự
chấm dứt.
Chúng ta không có một chút
hy vọng nào vượt
thoát khỏi luân hồi trong khi cứ tạo thêm nghiệp.
Chúng ta chỉ có thể chiến thắng và
được giải thoát nếu
chúng ta quyết tâm phá tan tận gốc
nguyên nhân của
duyên khởi là sự
vô minh của
chúng ta về
bản tính của
sự thật.
Như
chúng ta đã đề cập trước kia, việc phát triển một tâm
hoàn toàn buông xả tùy thuộc vào sự
nhận định của
chúng ta về sự thấm nhập
toàn diện của
đau khổ. Khổ đau vì có một thân xác thiếu
kiểm soát và đầy
ô nhiễm, có một thân xác là có
đau khổ.
Chúng ta không nên nghĩ rằng vì
chúng ta đã sinh ra và vì
chúng ta có
một đời sống không
tiện nghi. Như đã trình bày ở trên về 12
duyên khởi, thì đây chính là tiến trình
đầu thai cùng với
đau khổ.
Tâm thức của
chúng ta nhận dấu ấn của
nghiệp lực rồi
chính nghiệp lực này đẩy
tâm thức đi
đầu thai vào tương lai trong một
tình trạng đầy
bất mãn và khó khăn.
Chúng ta nói
chúng sinh trong
luân hồi có một thân xác đầy
ô nhiễm và
dối trá bởi vì
tâm thức bị đẩy vào thân xác một cách
miễn cưỡng,
chính nghiệp lực và
vọng tưởng đã
lôi thần thức vào đó.
Càng sớm
đi vào đời thì càng mau bắt đầu đi đến cái chết. Có những
chúng sinh đã chết ngay trong bụng mẹ chỉ một
thời gian rất ngắn. Cũng có những người trong
chúng ta đã sống lâu hơn, tạo thêm được một số giây phút. Nhưng
thực ra thêm được giây phút nào thì cũng chính là gần sự chết giây phút đó.
Chúng ta giống hệt như những con cừu bị dẫn vào lò
sát sinh. Bước thêm một bước là gần sự chết thêm một bước.
Nếu
chúng ta học để nhìn thấy
đau khổ của tất cả các
cảnh giới thì
chúng ta sẽ chẳng còn dám
bám víu, luyến tiếc vào những
lợi lạc của trần gian. Đấy là điều
vô cùng quan trọng, vì nó sẽ mở đường cho
chúng ta phát triển những
quan điểm thật
đúng đắn về
tính không, để cắt đứt tận gốc rễ của
luân hồi và
tìm đường giải thoát. Cho dù
chúng ta không tiến được xa trên
con đường này nhưng với tâm
buông xả toàn triệt như vậy cũng
vô cùng hữu ích cho giây phút
đối diện với sự chết. Bởi vì
chúng ta đã
thiền định nhiều về sự chết nên
chúng ta đã có rất nhiều
tư tưởng tốt, nhiều
kinh nghiệm mà sẽ không còn
lầm lẫn và
sợ hãi.
Chúng ta cũng không còn
bám víu vào
luân hồi nên
chúng ta cũng không còn
luyến ái,
chấp thủ một cuộc
đầu thai mới. Vì thế,
chúng ta sẽ không còn phải
đầu thai vào
ba cõi thấp hoặc bất kỳ cõi nào trong
luân hồi. Nếu
chúng ta biết
kiểm soát tâm và tránh khơi dậy bất cứ một sự
bám víu nào hoặc bất cứ một sự
ganh ghét sân hận nào thì
chúng ta sẽ được sinh vào
cõi tịnh độ mà không phải
đầu thai vào bất kỳ một thân xác
ô nhiễm nào. Ở đó
chúng ta sẽ không còn một trở ngại nào cho
mục đích tu tập tiến đến
giác ngộ,
giải thoát (vào
cõi tịnh độ cũng vẫn còn phải
tu tập tiếp thì mới
giải thoát được – Dg)
Vậy có dấu hiệu nào cho
chúng ta biết là
chúng ta đã phát triển được sự
buông xả thật?
Đạo sư Je Tsongkhapa nói:
Nơi nào không còn
thích thú và
bám víu Cho dù chỉ là một giây bám vào
lạc thú của
luân hồi,
Và hằng
khởi tâm mong cầu
giải thoát Trong cả ngày lẫn đêm ----
Kẻ nào đã phát triển
tâm thức này
Kẻ đó đã
tinh tiến trên
con đường buông xả hoàn toàn.
Sự
lợi ích của động năng
giác ngộĐể nói lên sự tương quan giữa phần đã trình bày ở trên và những điều sẽ trình bày ở dưới này,
đạo sư Je Tsongkhapa nói:
Tâm
hoàn toàn buông xả Mà không có động năng
giác ngộ của tâm
bồ đề Thì không thể
trở thành nhân (nguyên)
Cho
con đường hạnh phúc toàn diện,
toàn giác.
Như ngài nói, nếu
chúng ta muốn đạt tới
tối thượng quả vị phật thì tâm
buông xả toàn triệt của
chúng ta phải đi qua
con đường của tâm
bồ đề, đây chính là động năng
thúc đẩy tới
giác ngộ là để
lợi lạc cho tất cả muôn loài
chúng sinh. Có những người lại tin một cách
mù quáng là họ có thể
thực hành tâm
bồ đề mà không cần
buông xả. Đây là một sự
lầm lẫn to lớn, điều này không thể có được. Có thể họ đã nghĩ rằng tâm
bồ đề là một cách
thực hành an lạc mà không
cần phải từ bỏ cái gì, trong khi đó
buông xả nghe như quá khó khăn,
nghiêm khắc và gian khổ. Ngược lại, nó không
hoàn toàn như vậy. Phát triển tâm
bồ đề sẽ giúp rất nhiều trong việc
chuyển hóa, thăng tiến và
tinh tấn của
thiền định.
Thực ra vấn đề này không
đơn giản nếu chỉ nghĩ mà thôi.
Lợi ích của tâm
bồ đề thật là vĩ đại, nó có thể hóa giải bất cứ trở ngại nào. Đây chính là cánh cửa dẫn vào
Đại thừa mà bất cứ một người nào muốn phát triển và
thực hành nó đều xứng đáng được gọi là con của Phật. Nếu
chúng ta có tâm
bồ đề thúc đẩy,
chúng ta sẽ
vượt qua trong chiến thắng,
vượt qua cả các vị
A La Hán, đây là những vị đã
tu tập giải thoát khỏi
luân hồi nhưng chưa
hoàn toàn đạt
giác ngộ. Những vị
A La Hán này có thể đã có những
quyền lực tâm linh mãnh liệt hoặc đã đạt những
thành quả vĩ đại nhưng kẻ nào có tâm
bồ đề – TÂM
BỒ ĐỀ – sẽ vượt xa họ trong tấm lòng
phụng sự và
từ bi.
Ơn phước to lớn của
bồ đề tâm sẽ
xuất hiện khi
chúng ta thật tâm
thực hành Đạo Pháp. Mỗi một hành động
tâm linh mà
chúng ta thực hiện đều mang lại
hiệu quả và
sức mạnh nếu
chúng ta hoàn thành với sự
thúc đẩy của
giác ngộ, của
động lực giác ngộ.
Thí dụ, đưa
thức ăn cho một con chó, nếu đưa cho nó với một tấm lòng
yêu thương (tâm
bồ đề)
chúng ta sẽ nhận được sự
an lành còn hơn là tặng
bảo vật cho một người mà không có một chút
thành thật yêu thương nào. Như vậy, vật cho tự nó không quan trọng, cách cho quan trọng hơn, cách
chúng ta thực hành đạo nói lên sự
tinh tấn của
chúng ta trên
con đường tu tập. Nói cách khác,
thái độ của
chúng ta, tâm trạng của
chúng ta quan trọng hơn bất
cứ sự vật nào khác. Do đó, tâm
bồ đề là một sự
thúc đẩy vĩ đại nhất, nó thánh hóa tất cả những hành động của
chúng ta, nó mở tâm
chúng ta bao la hơn là lòng
ích kỷ của
chúng ta.
Nếu
chúng ta có một tấm
lòng vị tha, luôn luôn nghĩ đến người khác, mặc dù chưa phát triển được tâm
bồ đề, thì đây cũng là động năng rất tốt hướng dẫn
chúng ta trên
con đường thực hành Đạo Pháp. Do đó, bất cứ
chúng ta làm việc gì như giúp người,
tụng kinh,
thắp hương, ăn, nói chuyện, buôn bán...—bất cứ việc gì cũng có thể
trở thành tinh túy trong việc
thực hành Đạo, nếu
chúng ta hướng đến
giác ngộ là
vì lợi ích cho tất cả muôn loài
chúng sinh.
Nghiệp lực xấu cứ đẩy
chúng ta vào
sáu nẻo luân hồi không ngừng nghỉ. Đó là
kẻ thù của
chúng ta, chúng
liên tục dẫn
chúng ta vào
đau khổ.
Bồ đề tâm là
thần lực thanh tẩy tất cả những nghiệp xấu này, nó
giải thoát chúng ta khỏi những
kinh nghiệm của những hành động ác.
Đại bồ tát Shantideva nói:
Nghiệp xấu của năm loại hung ác
Dẫn
chúng ta vào chốn
vô tận của khổ đau trong
A-tỳ địa ngục Nhưng tâm
bồ đề Có khả năng thanh tẩy nghiệp xấu này trong một
thời gian rất ngắn.
Sức mạnh của tâm
bồ đề cũng có thể
điều trị được tất cả những
chướng ngại trên
con đường thực hành đạo của
chúng ta.
Đại bồ tát Shantideva cũng nói:
Nếu
chúng ta điều phục được tâm,
Chúng ta sẽ
điều phục được
Voi, rắn, cả cọp beo
Và sự hung dữ của quỷ.
Đây không phải là những lời thơ
vô nghĩa mà là
sự thật. Đã có biết bao chuyện kể và bằng chứng nói về
sức mạnh của
bồ đề tâm,
sức mạnh của
lòng từ bi
bảo vệ con người khỏi hiểm nguy. Có rất nhiều vị
bồ tát của
Ấn độ và
Tây tạng đã đi qua những khu rừng đầy
thú dữ mà không hề hấn gì. Ngược lại chúng lại rất
thân thiện với các ngài và tỏ lòng
kính trọng các
vị thầy tâm linh. Ngay cả những con thú nhỏ bé như chim, thỏ, nai cũng đến
quây quần chung quanh các ngài. Những chuyện
tương tự như vậy cũng vẫn còn xảy ra với các vị thiền giả ngày nay.
Tóm lại, phát triển tâm
bồ đề là ánh sáng dẫn đưa
chúng ta vào
con đường tu tập mật tông, một
con đường nhanh nhất để đạt
giác ngộ.
Chúng ta cần phát triển tâm
buông xả, cần làm quen với
quan niệm về
tính không trước khi
chúng ta thực sự bước vào mật thừa. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự
thúc đẩy của
bồ đề tâm,
chúng ta cần phải có một động năng mãnh liệt của
lòng từ bi. Không thể nào ngồi nhìn người khác
đau khổ mà
chúng ta không khởi phát
lòng từ bi,
chúng ta cần khởi
phát tâm bồ đề ngay để đạt
quả vị phật càng nhanh càng tốt
vì lợi ích cho
chúng sinh. Nếu
chúng ta bước vào sự
thực hành của
con đường mật thừa với tâm trạng đó thì
chúng ta sẽ
đạt được mục đích chỉ trong một
thời gian rất ngắn.
Nếu không như
vậy thì sự
thành đạt của
con đường mật thừa giống như
mong đợi mặt trăng rơi khỏi bầu trời.
Nếu
chúng ta nghiên cứu về sự
ích lợi và ơn phước của
bồ đề tâm cùng
hiểu rõ đường hướng mà nó sẽ hướng dẫn
chúng ta thì
chúng ta sẽ thấu suốt được sự
thúc đẩy của
con đường giác ngộ chính là môi trường mà tất cả
chúng sinh sẽ gặt hái được
hạnh phúc. Khi một người biết phát triển
lòng từ bi thì họ sẽ
trở thành nguồn
hạnh phúc chân thật cho kẻ khác. Nguồn
phúc lạc này
vô tận, nó không có
giới hạn với bất cứ ai, không thể nào đo được sự
ảnh hưởng của nó trên
chúng sinh. Vì thế, không một
hạnh phúc nào, không một
giá trị nào vĩ đại hơn
sự cố gắng
thực hành thiền định theo động năng
giác ngộ này.
Sự
tinh tấn đều đặn tự nhiên Động năng
thúc đẩy đến
giác ngộ mà từ đó có thể hướng dẫn người khác
thoát khỏi đau khổ được
phát khởi khi
chúng ta biết
trách nhiệm của
chúng ta là phải giúp đỡ người khác càng nhiều càng tốt.
Chúng ta chỉ có thể
nhận ra được điều này khi
chúng ta đã phát triển
lòng từ bi, là mong muốn cho người khác được
thoát khỏi đau khổ. Điều này lại
tùy theo tình yêu của
chúng ta có
trong sáng và lớn mạnh hay không,
chúng ta có mong muốn nhìn thấy người khác
hạnh phúc hay không. Tình yêu này chỉ được khởi phát khi
chúng ta tưởng nhớ đến
chúng sinh như là
cha mẹ của
chúng ta và bây giờ
chúng ta mong được
đền ơn họ. Còn nữa,
chúng ta không thể
nhận ra được
ân nhân của
chúng ta nếu
chúng ta còn đối xử
đặc biệt với người này mà
hiềm khích,
ghen ghét người khác. Do đó
chúng ta cần có
thái độ công bằng,
đồng đều với tất cả
mọi người và
trước tiên là
chúng ta nên
thực tập từ từ, bình thản,
đều đặn tự nhiên cùng với
thiền định.
Có ba đối tượng cho kiểu thiền này: bạn,
kẻ thù và người
xa lạ. Tại sao lại thiền như vậy?
Tại vì chúng ta quá bận rộn với chính mình, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chính mình, đến “cái tôi” của
chúng ta; hầu như lúc nào cũng chỉ
để ý đến thân xác của tôi,
tài sản của tôi, sự
tiện nghi của tôi, “CỦA TÔI...CỦA TÔI... TÔI !” Bất cứ người nào
xâm phạm vào hoặc
xoi bói đến
hạnh phúc của tôi là
ngay lập tức tôi
gán cho người đó là
kẻ thù của tôi. Cũng giống như vậy, người nào làm tăng niềm
hạnh phúc của
chúng ta là
ngay lập tức chúng ta coi họ như bạn,
bạn thân. Còn những người
xa lạ, họ là những kẻ chẳng đem đến cho
chúng ta cái gì, chẳng vui cũng chẳng buồn,
chúng ta sẽ mau chóng quên họ.
Nền tảng của
thiền định một cách
thản nhiên,
thiền tự nhiên là để nhìn ra được tính
vô tri, vô cảm và
ích kỷ đã tạo nên trí
nghi kỵ, kỳ thị của
chúng ta như thế nào. Những
thái độ ganh ghét,
hờn giận, bám viú, dính mắc,
vô minh, tâm đóng kín khởi lên trong tâm của
chúng ta khi
chúng ta nhìn người khác theo một chiều hướng
nhất định “nó phải như vậy.”
Chúng ta gán cho nó một nhãn hiệu cứng ngắc, chính
thái độ này đã làm hại
chúng ta và những người khác. Chính sự ước muốn
tiêu diệt kẻ thù và
bảo vệ bạn là mầm mống tạo ra tất cả những
xung đột trên
thế giới này; từ sự
gây lộn, bất bình giữa hai
cá nhân dẫn đến chiến tranh toàn cầu. Tất cả những nghiệp xấu và tất cả những
đau khổ sẽ
chấm dứt nếu tất cả
mọi người nhìn ra được những
thành kiến này đều không có gốc rễ, không có
căn bản.
Trước nhất,
chúng ta phải
nhận định rằng sự bám viú, sự
ràng buộc và những
định kiến là gốc rễ cho tất cả những
phán đoán của
chúng ta về
kẻ thù, về bạn bè và về những người
xa lạ.
Chúng ta bị dính mắc vào
ý tưởng sợ mất
tài sản, vào những người đã giúp đỡ
chúng ta hay vào chính những
định kiến sai lầm của
chúng ta về những nhân vật quan trọng sẽ đem đến cho
chúng ta một đời sống
tốt đẹp. Những điều tệ hại của
thái độ dính mắc,
thái độ lệ thuộc này đã được trình bày rất
chi tiết ở trên rồi. Nhắc lại ở đây là chỉ để
nhấn mạnh đến việc bám viú, đến sự đeo dính vào “cái tôi”, chính
sự kiện này đã
bóp méo tất cả những
ý niệm của một cái tâm
vô minh.
Thứ hai, không có một cái gì
chắc chắn,
nhất định phải như vậy trong chốn
luân hồi, kể cả ba loại người vừa nói. Không có một cái gì chắc thật để xác định đó là
kẻ thù, người mà lúc nào cũng gây
phiền nhiễu cho
chúng ta và họ luôn luôn
tiếp tục làm như vậy. Hãy nghĩ đến
muôn vàn kiếp trước và những
liên hệ thay đổi không ngừng trong
luân hồi thì
kẻ thù hiện tại của
chúng ta cũng chính là những người
bạn thân thiết của
chúng ta hoặc ngược lại. Cũng chẳng
cần phải tin kiểu
suy luận này về những
sự kiện trong qúa khứ để xác định những thay đổi bạn, thù hay người
xa lạ. Người
bạn thân thời niên thiếu của
chúng ta nay đâu rồi? Cái gì
chúng ta đã có
cảm tình trước kia bây giờ ra sao? Thật là ơn ích biết bao khi
thiền định theo kiểu khảo sát này, hãy tập trung vào những
cá nhân đặc biệt mà
chúng ta vừa
nhấn mạnh trong ba
trường hợp trên rồi
cố gắng nhận định xem tâm trạng,
thái độ của
chúng ta đã như thế nào. Khi
chúng ta đã quen với kiểu thiền này,
chúng ta nên
mở rộng đề tài, nên
mở rộng cách
suy luận,
bao gồm rất nhiều loại
chúng sinh và trải dài ra theo
thời gian. Với cách này,
chúng ta sẽ giải toả được rất nhiều
quan điểm chật hẹp,
sai lầm của
chúng ta trước kia.
Càng lặp đi lặp lại
phương pháp thiền định tự nhiên này càng giúp
chúng ta biết
thận trọng hơn trong việc
chấp nhận những
giá trị mà
chúng ta đã
phán đoán những người khác chỉ vì
chúng ta đã quen
suy nghĩ theo kiểu này. Kết qủa là
chúng ta sẽ tiến
xa hơn trên đường ngăn chặn những
tư tưởng xấu, những
lời nói xấu và những hành động xấu cho người khác trước khi nó
tác hại họ. Càng
thiền định theo
phương pháp này, càng giảm được sự
xung khắc,
đánh nhau,
ích kỷ và những
thái độ thiếu
suy nghĩ đến người khác.
Thí dụ, nếu biết được
chúng ta sắp
bực mình với người nào,
chúng ta có thể giải tỏa được sự giận ghét,
căm hờn của
chúng ta ngay lập tức khi
chúng ta nghĩ đến kiểu
thiền định này. Cũng theo
phương pháp này,
chúng ta có thể tự xác định với chính mình không có một cái gì có gía trị
thường hằng,
vĩnh cửu về những
thái độ,
định kiến của
chúng ta. Chúng chỉ là những sản phẩm của một tâm
vô minh, đóng kín, nhưng với sự
thực hành tâm linh chúng ta có thể giải tỏa chúng,
đối trị chúng,
chuyển hóa chúng để đem lại hoà bình,
an lạc.
Hãy nhớ đến
công ơn của những bà mẹ
chúng ta Có
kinh nghiệm về sự
an lạc nội tại, đó là dấu hiệu của sự
tinh tấn tự nhiên, nhưng đó không phải là ơn phước và
mục đích chính của
sự thiền định
tự nhiên, bình thản. Vì học và tập nhìn tất cả mọi
chúng sinh một cách
bình đẳng, không
thiên vị nên
chúng ta luôn đặt
chúng ta trong
tình trạng biết ơn lòng tốt của tất cả
mọi người mà họ đã dành cho
chúng ta. Nhờ sự
nhận biết này mà
chúng ta vượt thắng được tính
ích kỷ của
chúng ta, ngay cả trong việc
giải thoát cá nhân chúng ta khỏi
luân hồi.
Bất cứ lúc nào
chúng ta gặp hay nghĩ về mẹ của
chúng ta – hoặc bất cứ người nào đã
săn sóc chúng ta – là
ngay lập tức chúng ta xác định được người ấy là ai và
chúng ta liền
cảm thấy có một tình cảm
đặc biệt khơi dậy trong ta. Mỗi khi
chúng ta thực tập phương pháp thiền tự nhiên và nảy sinh
lòng biết ơn về sự
liên tục của
đời sống thì
chúng ta cũng học được cách đối xử với
mọi người như vậy. Họ là
cha mẹ của
chúng ta trong
quá khứ và
lòng tốt của họ không thể đo lường được.
Trước tiên, nghĩ đến người mẹ của
chúng ta trong
hiện tại là cách tốt nhất để phát triển tâm
bồ đề.
Lòng tốt của mẹ cho ta ngay khi
chúng ta còn ở trong bụng mẹ. Với tình yêu
bao la, người đã
chịu đựng biết bao khổ cực,
thiếu thốn, tự
hy sinh để
bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm và mất
tiện nghi. Người đã phải
thận trọng trong miếng ăn,
thức uống,
cách đi đứng, cách
phục sức vì
chúng ta.
Khổ cực nhất là trong lúc sinh
chúng ta, dù khổ cực đến thế nào mẹ
chúng ta cũng không giảm lòng
yêu thương mà chăm sóc
chúng ta. Khi còn
thơ dại, người đã chăm sóc,
nuôi dưỡng chúng ta 24 giờ một ngày và làm bất cứ gì để
bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm. Nuôi
chúng ta không phải dễ,
chúng ta luôn luôn khóc và làm dơ quần áo, nhưng mẹ không bao giờ than mỗi khi đi thu quần áo giặt. Ngay cả khi mẹ đang ăn, mẹ cũng phải
để ý đến
chúng ta. Nếu mẹ kiếm được miếng nào ngon trong đĩa
thức ăn của mẹ, mẹ cũng đút cho
chúng ta. Ngay đến bây giờ,
chúng ta cũng không tự
săn sóc chúng ta được như mẹ đã làm.
Khi mẹ nhìn
chúng ta khôn lớn, mẹ luôn nghĩ đến tương lai của
chúng ta. Trong tận đáy
tâm hồn mẹ, mẹ luôn muốn
chúng ta được
hạnh phúc và
thành công. Mẹ
lo lắng về sự
học hành, mẹ cầm tay chỉ cho
chúng ta viết và đọc.
Thành thật mà nói tất cả những khả năng
chúng ta có thể làm bây giờ cũng không bù đắp được hết những
công ơn của mẹ đã dành cho
chúng ta. Trong cách nhìn
thiển cận của
chúng ta,
chúng ta nghĩ rằng tất cả sự
thành công của
chúng ta đều do
chúng ta tạo ra : “Tất cả những gì tôi có đều do tôi tạo ra.” Còn nữa, mẹ
chúng ta đã không
thiếu sót một ngày nào dành cho
chúng ta khi
chúng ta còn trẻ,
chúng ta không nên tự dối mình,
chúng ta không thể
so sánh với
công ơn của mẹ,
chúng ta không xứng đáng. Ngay bây giờ, khi
chúng ta có
vấn đề, khi
chúng ta gặp khó khăn, không có một người nào giúp
chúng ta như mẹ
chúng ta đã thường làm cho
chúng ta.
Mẹ của
chúng ta cũng là người ngưỡng mộ,
hãnh diện về
chúng ta nhiều nhất, trước nhất. Khi
chúng ta làm điều gì tốt, mẹ
cảm thấy vui và
hài lòng về sự
thành công đó. Người luôn muốn
chúng ta được
nổi tiếng và đôi khi còn
nói dối người khác để
chúng ta được lợi.
Tóm lại, mẹ
chúng ta đã làm rất nhiều việc cho
chúng ta trong
cuộc đời của người và hầu như tất cả những công việc đó đều vì
chúng ta, không có một chút gì dành cho người. Ngoài mẹ ra còn có ai
hy sinh cho
chúng ta như thế?
Nếu
chúng ta trải rộng cách nhìn của
chúng ta về những
kiếp trước thì
chúng ta sẽ biết được đây không phải là lần đầu tiên người là mẹ của
chúng ta. Người đã từng là mẹ của
chúng ta trong nhiều cõi
luân hồi, trong nhiều kiếp, người đã chăm sóc
chúng ta với tất cả
nghị lực,
sức mạnh của người.
Thí dụ, không thể
nghi ngờ được nếu người là con gà mẹ thì
chúng ta là con gà con. Gà mẹ đã ấp ủ đàn con trong ổ ấm bằng đôi cánh của nó, đã đào bới khổ cực để kiếm đồ ăn cho các con. Gà là con vật nhút nhát nhưng nếu nó
cảm thấy con nó bị nguy hiểm, nó sẵn sàng
hy sinh mạng sống để
che chở cho đàn con.
Sự thiền định của
chúng ta về
lòng tốt của mẹ có thể nghĩ rộng ra như
thí dụ ở trên đến tất cả các loài vật. Rồi càng trải rộng ra
chúng ta càng hiểu được trong
muôn vàn kiếp tất cả các
chúng sinh đều là
cha mẹ của
chúng ta, họ đã chăm sóc
chúng ta cũng như mẹ của
chúng ta bây giờ.
Lòng tốt của tất cả các loài không phải chỉ khi họ là mẹ của
chúng ta, nhưng nó trải dài ra trong
mọi nơi, mọi thời. Hãy ôn lại những
sinh hoạt trong một ngày
chúng ta sẽ thấy rằng không một phút giây
thoải mái nào mà không có
liên hệ đến những vật khác, người khác hoặc đến một con thú nào đó. Mỗi một bát cơm mà
chúng ta ăn đều có
liên quan đến sự khổ cực của những bác
nông dân, bác tài xế, người đóng bao và ngay cả kẻ
giữ nhà kho...vv...
Chúng ta cũng không thể quên được tất cả những sinh vật nhỏ
li ti đã phải chết trong lúc trồng tiả hoặc khi gặt hái để có được bát cơm này. Nếu
chúng ta có
thời giờ suy nghĩ thấu đáo về những
sự kiện xẩy ra
trong đời sống,
chúng ta sẽ hiểu được sự
liên hệ, mối tương quan
mật thiết của tất cả mọi sự
mọi vật trong
vũ trụ này.
Sự
thực hành đạo của
chúng ta là để hiểu được
sự thật trong
vũ trụ, đó chính là
lòng tốt của
chúng ta gửi đến những
chúng sinh khác. Tất cả mọi
sự kiện đều
tùy thuộc lẫn nhau, đều có
liên hệ với nhau, từ việc được
đầu thai mang thân người và việc
sử dụng nó một cách khôn ngoan, đến việc khởi phát một tâm
buông xả, tâm
bồ đề và
quan niệm đúng về
tính không. Tại sao lại như vậy? Vì mỗi một
thành quả đều do nghiệp tốt mà
chúng ta đã tạo được và do các
vị giác ngộ đã giảng dậy
Đạo pháp cho
chúng ta. Cả hai
nghiệp quả này đều được tạo ra do duyên (
yếu tố liên hệ,
tùy thuộc – Dg) của cả hai phía.
Thí dụ, sự
tinh tấn trong việc
giác ngộ của một vị phật chính là
sự tích tụ
từ tâm bồ đề của các ngài. Đây chính là
yếu tố tùy thuộc của
lòng từ bi, của tình yêu, ...vv...đến
muôn vàn chúng sinh, được phát triển và lớn mạnh từ
sự thiền định
tự nhiên,
an nhiên. Vì thế, trong từng sự phát triển và
tinh tấn của các ngài, vị phật tương lai, đều
tùy thuộc vào
chúng sinh. Họ
cung cấp cho các ngài mọi cơ hội để các ngài
thực hành lòng từ bi, sự
kiên nhẫn,...vv...và vì thế nó trực tiếp có
liên hệ, có
trách nhiệm đến từng sự
tiến bộ, sự
tinh tấn của các ngài.
Mỗi khi
chúng ta nhớ đến
lòng tốt của các bậc đã
giác ngộ -- các ngài đã chỉ cho
chúng ta con đường chân thật để
chấm dứt khổ đau và nhìn ra khả năng của các ngài khi các ngài
thực hiện những việc đó vì
lòng tốt cho tất cả
chúng sinh -- thì những
lý do làm
chúng ta giận dữ tức bực với người khác sẽ mất đi, sẽ tan biến đi. Làm sao
chúng ta có thể giận ghét được
kẻ thù của
chúng ta, ngay cả
kẻ thù nguy hiểm nhất nếu họ
thực hiện việc đó để mang lại cho
chúng ta cả hai loại
hạnh phúc:
thế tục và tối hậu?
Tương đối và tuyệt đối? Tất cả những
kinh nghiệm về khoái lạc trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai đều có thể qui về họ. Vì thế, mặc dù họ đã có những
cử chỉ hành động xấu đối với
chúng ta,
chúng ta cũng nên dành cho họ
lòng từ bi
yêu thương. Không có
chúng ta, mẹ
chúng ta cũng đã có quá nhiều khổ đau trong cõi đời này rồi, tại sao
chúng ta còn đem thêm
oán hận lại cho người.
Lòng từ bi chỉ có thể là
nhân đức tuyệt hảo của
Đại thừa nếu nó bao bọc, nếu nó được trải rộng ra cho tất cả muôn loài một cách
đồng đều,
bình đẳng.
Chúng ta không thể
tinh tấn trên
con đường phát triển tâm
bồ đề khi
chúng ta chỉ mong muốn cho một
thành phần nào, một số người nào đó
thoát khỏi đau khổ.
Nếu
chúng ta phát triển một cách
kiên trì và
hiểu biết ngay cả với
kẻ thù nguy hiểm nhất của
chúng ta như là những kho tàng đầy
quý báu thì tất cả những điều
lầm lẫn sai lạc nhất ở trong tâm của
chúng ta cũng sẽ bị tan rã.
Giận dữ và
ganh ghét, chuyên
phá hủy những
chủng tử tốt của
chúng ta trong từng giây phút, chúng có thể tạo ra những dấu ấn sâu đậm trong tâm để
xóa bỏ đi những
thiện cảm của
chúng ta với
chúng sinh đã từng là
cha mẹ của
chúng ta. Chỉ có một
con đường duy nhất để biết được
sự thật của lời dậy bảo này là
chúng ta hãy tự
thanh tịnh chúng. Có thể phải
thực hành lâu lắm
chúng ta mới có thể hiểu được mỗi một
chúng sinh là mẹ của
chúng ta, nhưng trước khi
đạt đến tình trạng đó, nhờ
thực hành chúng ta sẽ
kinh nghiệm được một cách rất sâu thẳm ở bên trong về sự
an lạc và
mãn nguyện của tâm. Nếu
tình trạng này xẩy ra, đó chính là sự
thực hành tâm linh một cách
đúng đắn.
Lợi ích cho người khác
Khi
chúng ta cảm nhận và giữ trong tâm
chúng ta những
thiện cảm của người khác thì
chúng ta phải
tìm cách tốt nhất để trả lại họ. Tặng lại họ quần áo và
thực phẩm là điều
quý báu nhưng phải
thực hiện bằng cả
tâm hồn, bằng cả tấm lòng
yêu thương.
Chúng ta không nên
thiếu sót trong
vấn đề mang lại
lợi ích cho người khác.
Tuy nhiên, điều
vô cùng quan trọng phải hiểu là tặng phẩm
vật chất không
đủ sức mạnh để cắt đứt tận gốc rễ của khổ đau. Chúng chỉ có
giá trị nhất thời. Nếu
chúng ta thực sự muốn
trả ơn tấm lòng
bao la của họ,
chúng ta phải
thực hiện ở bên trong bằng
con đường tâm linh. Chỉ có cách đó mới có thể mang lại cho họ kết quả
an lạc và
hạnh phúc thường hằng.
Chúng ta cũng không thể giúp người khác nếu
chúng ta không thanh tẩy tâm bất toàn của
chúng ta. Trở ngại lớn nhất khi làm việc
lợi ích cho người khác là
thái độ ích kỷ đang nằm rất sâu trong tâm của
chúng ta. Nếu thực sự ước muốn đem
lợi ích đến cho người khác,
chúng ta phải
cố gắng đào đi cho hết tâm
ích kỷ này.
Không có một
lý do nào để hỏi tại sao
chúng ta phải đặt sự
ích lợi cho người khác trên
ích lợi của
chúng ta. Trong
ý nghĩa sâu thẳm của
kinh điển mật tông về
Cúng Dường Vị Thầy có viết:
Kính lạy thầy,
Kính xin thầy
độ trì con và mỗi một
chúng sinh,
Vì từ đó con mới có thể
tiếp tục suy nghĩNguyện cho tất cả
chúng sinh được
hạnh phúcVì họ không có một chút gì khác biệt với con
Và cho tất cả muôn loài khác nữa
Từ kẻ không được
thỏa mãnĐến kẻ không đạt điều mong muốn,
Và cho cả người chỉ có một chút khổ đau.
Sự thật là không ai muốn khổ đau,
mọi người đều mong muốn được
hạnh phúc.
Chúng ta luôn nghĩ rằng
chúng ta là người
duy nhất trên
thế giới này
đau khổ. Từ
nguyên thủy chúng ta đã chỉ nghĩ đến
chúng ta, nhưng
sự kiện này đã mang lại cho
chúng ta những gì?
Chắc chắn là không được một cái gì trên
con đường tinh tấn của
tâm linh. Chỉ có một điều
duy nhất mà
chúng ta được là những hành động không
đạo đức, hung hăng và
ích kỷ, và rồi
chúng ta vẫn
tiếp tục kinh nghiệm thêm
nghiệp quả xấu. Vì thế
chúng ta nên khôn ngoan
lợi dụng cơ hội
vô cùng quý báu là được làm người trong kiếp này cộng với những lời
dạy bảo này mà bắt đầu làm
lợi ích cho kẻ khác.
Trong bài
Cúng Dường Vị Thầy cũng còn
diễn tả thêm về sự quan trọng của
thái độ chúng ta khi
an ủi người khác:
Kính xin thầy
độ trì con
Để con có thể hoán đổi con với người khác
Để con có thể đối xử
công bằng với họ
Khi nghĩ về ơn ích và làm tròn bổn phận
Trong sự
thực hành:
Phật chỉ làm cho người khác
Còn kẻ
ích kỷ chỉ làm cho mình.
Ích kỷ chỉ
mang đến diệt vong,
Còn
tình thương gửi đến các bà mẹ của
chúng taLà điều
căn bản của mọi
đức hạnh.
Do đó, nhờ sự
thực hành hoán đổi con với người khác,
Kính xin thầy
độ trì con để con có thể
hoàn thành công việc này.
Vì hoán đổi mình với người khác mà
chúng ta phát giác ra được những sự khó khăn của họ một cách nhanh hơn.
Chúng ta nhớ tất cả những gì họ đã
thực hiện cho
chúng ta trong qúa khứ nên
chúng ta có thể làm dịu bớt được ngay những
đau khổ của họ.
Lòng từ bi và tình yêu của
chúng ta cũng lớn mạnh hơn, không có gì
sung sướng hơn khi nhìn người khác
hạnh phúc và không gì buồn hơn khi biết người khác đang
đau khổ. Mỗi khi
chúng ta có một niềm vui là
ngay lập tức chúng ta mang ra chia sẻ với những người kém
may mắn. Cũng giống như vậy, mỗi khi nhìn thấy ai
đau khổ là
chúng ta mong muốn gánh giùm cho họ. Nếu
chúng ta có thể san sẻ
hạnh phúc và gánh lấy khổ đau cho người khác là một điều
tuyệt hảo.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta không thể làm được thì sự ước muốn này cũng là một
hạt giống chúng ta đã trồng để rồi một ngày nào đó nó sẽ chín trong khả năng của
chúng ta để đem lại
hạnh phúc và
an lạc cho họ. Ngài Shantideva nói:
Một người tốt luôn nghĩ cách chữa
Bệnh nhức đầu cho tất cả
chúng sinh Lòng tốt này tạo ra
muôn vàn công đức.
Còn có ai
quan tâm đến muôn loài
Mong ôm trọn nhức đầu của chúng
Chúc họ tạo được vô vàn nhân đức!
Khi
chúng ta so sánh chúng ta với người khác, điều khác biệt chính mà
chúng ta cần nêu ra ở đây là
chúng ta may mắn được nghe những lời dậy bảo để cải hoá tâm ta. Sau một
thời thực tập nhỏ về
thiền định chúng ta đã
kinh nghiệm được thế nào là
giải thoát khỏi những điều xấu mà trước đây
chúng ta đã vướng vào. Trong khi những người khác không có được những
may mắn này. Họ vẫn bị ngụp lặn trong
vọng tưởng mà không có được một sự
chỉ dẫn nào để thoát ra khỏi những chuỗi khổ đau cứ dồn dập kéo tới.
Mặc dầu họ cũng
ước mong được
hạnh phúc, nhưng mỗi một hành động lại mang thêm khổ đau. Nhờ
tri giác lớn mạnh,
trong sáng và
rực rỡ,
chúng ta phát triển được những
tâm nguyện thanh tịnh để có thể hướng dẫn những người
đau khổ đi vào con đường giải thoát.
Chúng ta sám hối vì những
lỗi lầm trong
quá khứ đã làm người khác
đau khổ mà
cố gắng thực hiện những
con đường đem lại
hạnh phúc cho muôn loài.
Chúng ta hãy bắt chước những đứa trẻ có
trách nhiệm giúp đỡ mẹ nó
vượt qua những thời khó khăn.
Chúng ta phải
từ bỏ ngay những
tư tưởng là người khác phải
đối diện với khổ đau của họ.
Chúng ta phải
hoàn thành một cái gì và chỉ
chúng ta là người có khả năng làm điều đó. Còn nữa, khi
chúng ta nhìn vào bên trong tâm của mình,
chúng ta sẽ
nhận ra một điều là chính
chúng ta phải tự giúp mình, chứ không phải ai khác. Vì thế,
chúng ta phải kiếm cho ra người nào có thể làm được công việc này, hãy nghĩ cách vượt thắng họ. Rồi
chúng ta sẽ thấy rằng đó chính là người
hoàn toàn giác ngộ -- người
theo đuổi con đường tâm linh tới
toàn thiện và
đạt được qủa vị phật, tới
trạng thái hoàn toàn tỉnh thức -- mới có đủ
năng lực để hướng dẫn những người khác
thoát khỏi khổ đau. Khi tất cả những
nhận thức này cùng đến
với nhau và khi
chúng ta quyết tâm chiến thắng chính mình để đạt
giác ngộ vì lợi ích người khác và cho những người mẹ, thì đó chính là phát triển
bồ đề tâm một cách
chân thật, đó chính là động năng
giác ngộ.
Tôi xin
kết thúc đề tài phát triển tâm
bồ đề ở đây,
lãnh vực thứ hai của ba
lãnh vực chính trên
con đường dẫn đến
giác ngộ. Có tạo được ơn phước hay không trong bài giảng này
hoàn toàn có
tính cách cá nhân,
tùy thuộc vào
thái độ đón nhận của từng người ở đây. Nếu có được một chút ơn phước nào,
chúng ta nên
hồi hướng ngay cho chính
chúng ta và cho tất cả
mọi người để cùng đạt
giác ngộ. Bằng cách này, bất cứ một nghiệp tốt nào mà
chúng ta đã tạo được cũng không bị
phá hủy hay bị dẫn dắt
sai lầm bởi nghiệp xấu.
Hãy nghĩ đến tất cả những
nhân đức của
chúng ta trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai, cả đến thân xác
hiện tại cùng
của cải, sức khoẻ của
chúng ta đều được dâng hiến cho những vị đã
giác ngộ, để
mang đến cho họ niềm
an lạc miên viễn. Rồi tất cả những ơn phước
tích lũy này nên
hồi hướng đến muôn loài
chúng sinh mà không dành lại một chút gì cho riêng
chúng ta. Nên biết rằng tất cả những
hồi hướng này là nguồn
nhận thức mà từ đó
muôn vàn chúng sinh có thể
tinh tấn trên
con đường thực hành tâm linh về
Đạo pháp để tiến đến
mục tiêu tối thượng. Rồi tưởng tượng tất cả
chúng sinh đều được
giác ngộ, đều được thanh tẩy mọi
vọng tưởng.
Cuối cùng, hãy
cầu nguyện tất cả những ơn phước mà
chúng ta có được hôm nay đều nhanh chóng giúp
chúng ta tinh tấn trong ba
lãnh vực dẫn đến
giác ngộ này.
Nhận thức Bản tính của
Sự thật Dù
chúng ta đã nghe những lời
dạy bảo thực hành Đạo pháp một lần hay rất nhiều lần cũng chỉ đưa đến một
mục đích: hướng dẫn
chúng sinh có một
quan niệm đúng (
chính kiến) về
chân tính – tất cả các
hiện tượng, các sự vật đều trống rỗng và
vô ngã, không có
tự tính. Nếu
chúng ta phát triển được một sự
hiểu biết không thể
sai lầm, một sự
hiểu biết vững chắc về cách sự vật
xuất hiện, về cách các
hiện tượng sinh khởi thì
chúng ta sẽ
giải thoát chúng ta khỏi tất cả những
đau khổ của bánh xe
luân hồi.
Vô minh là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau,
vô minh là
nguyên nhân số một của vòng 12
duyên khởi, nó đưa
chúng ta vào
luân hồi hết kiếp này qua kiếp khác: sinh ra, chết đi rồi lại
đầu thai, mặc dù
chúng ta không muốn, nó vẫn xẩy ra một cách tự động, một cách rất
tự nhiên. Với
trí tuệ, chỉ có
trí tuệ,
chúng ta mới có thể cắt đứt được
vô minh, từ đó
chúng ta mới
giải thoát chúng ta khỏi tất cả những mắc xích của luật nhân qủa, của nghiệp
chúng ta. Còn nữa, nếu
chúng ta đạt được trí tuệ như vậy cùng với
năng lực bồ đề tâm, chẳng những
chúng ta giải thoát được chính
chúng ta mà còn
đạt đến sự
tỉnh thức tối thượng nữa (
Diệu Quan Sát Trí,
trí tuệ nhận biết nhiều khía cạnh,
nhận biết toàn diện pháp giới. - Dg) Từ đó
chúng ta có đầy
đủ khả năng để hướng dẫn tất cả
chúng sinh trên
con đường chấm dứt mọi khổ đau.
Để hiểu được
tánh không (
tính không,
không tính, shunyata)
chúng ta phải làm quen với đề tài này một cách không
lầm lẫn, một cách
vững chắc. Đề tài này đã được giảng dậy bởi chính
Đức Phật Thích Ca và nó được truyền dạy
cho đến ngày hôm nay một cách
liên tục không
gián đoạn qua các
dòng truyền thừa, các thiền giả và các
học giả lỗi lạc như Ngài
Long Thọ, Chandrakirti, Je Tsong Khapa...Nếu
chúng ta chạy theo những lời giảng dạy cao siêu mà nó
không giải thích được
bản tính của sự vật thì
chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được
bản tính của
sự thật, của
chân tính, không cần biết
chúng ta đã
thiền định đến cỡ nào, bao lâu. Vì thế, điều
vô cùng quan trọng là
chúng ta phải tìm những lời
giải thích đúng, rồi
nghiên cứu,
tìm hiểu sâu xa và
thiền định về chúng một cách
vô cùng thâm sâu (Tiến trình hòa nhập trong
tánh không gồm ba giai đoạn:
tìm hiểu,
kinh nghiệm và
chứng ngộ tánh không. –Dg) Hãy
theo dõi những lời
dạy bảo của các bậc thầy
Ấn độ và
Tây tạng. Ngài Je Tsong Khapa viết:
Kẻ nào nhìn được
nguyên nhân và kết quả
Của mọi
sinh khởi trong
luân hồi và
giải thoát Không còn vướng bận và
tà kiến đã bị
tiêu diệt Kẻ đó đã bước vào
con đường của các vị phật.
Trí tuệ tánh không chính là phương thuốc trực tiếp
đối trị vô minh của
chúng ta về
bản tính của
sự thật. Nếu
trí tuệ này không
hoàn toàn phá bỏ được lối nhìn thông thường về sự vật thì đó không phải là
trí tuệ thật. Bởi vì
vô minh chỉ
nhận thức đối tượng một cách
hoàn toàn sai lạc, nhưng
trí tuệ thì ngược hẳn lại. Vì thế, trước nhất
chúng ta cần phải có
trực giác về các
nhận thức của
chúng ta xem chúng làm việc như thế nào để từ đó
chúng ta biết
chúng ta phải làm gì,
hành sử ra sao.
Tâm của
chúng ta đã quen nhìn
sự kiện, sự vật theo một chiều hướng
sai lầm nên rất khó mà có được một
hình ảnh trong sáng về
sự thật. Bởi vì
trí tuệ của
chúng ta quá hạn hẹp, nó không
đủ sức mạnh để nhận những điều đã
tin tưởng là
sai lầm, nó hầu
như không biết thực trạng của sự vật là gì.
Thí dụ, nếu
chúng ta tự hỏi mình: “Thực sự ‘cái tôi’ mà
chúng ta thường nói đến là gì?”
chúng ta sẽ không
trả lời nổi hoặc rất khó tìm được câu
trả lời. Đó là một
sự thật phũ phàng,
chúng ta đã nghĩ về “cái tôi” quá nhiều, ngay cả trong giấc mơ.
Vọng tưởng của
chúng ta quá dầy đến nỗi
không giải thích nổi những cái mà
chúng ta thường gặp.
Từ
vô thủy muôn vàn kiếp trước trong
luân hồi đến bây giờ
chúng ta đã thường nghĩ đến “cái tôi” của
chúng ta như là một cái gì rất
vững chắc, tự có, tự
hiện diện một cách
độc lập. Nó
xuất hiện mà không có một chút gì
liên hệ đến thân xác, đến
tâm thức hoặc đến bất cứ gì khác của
chúng ta. Hơn nữa, hầu như nó
hoàn toàn tự lập.
Chúng ta đã không
học hỏi sự
tin tưởng sai lầm này;
chúng ta sinh ra, chết rồi lại
đầu thai hoàn toàn theo bản năng. Đây là
sự thật,
lý do mà
chúng ta sinh ra trong một thân xác bất toàn vì tâm của
chúng ta đã quá bận rộn, đã có một
ý niệm tự hữu về “cái tôi,” rồi từ đó
chúng ta mong muốn, vồ chụp, chấp nắm,
bám víu cho sự
an toàn của nó.
Đó là một lối nhìn
quá sức sai lầm.
Thí dụ, khi
chúng ta sợ hãi hay nóng giận,
chúng ta cảm thấy mãnh liệt là “Tôi không muốn, tôi không thích nó một chút nào cả!” khởi phát ra ở trong ta, còn tất cả những cái khác thì không quan trọng. Chỉ có một điều là
chúng ta phải
tìm cách bảo vệ “cái tôi” đang ở trong tim của
chúng ta. Nhưng,
sự thật là không có một “cái tôi” nào đang
hiện diện. Đó
hoàn toàn chỉ là sản phẩm của một
ý niệm mù quáng,
vô minh.
Thực sự
chúng ta có một “cái tôi” theo
qui ước, theo tập tục, nhưng nó chỉ
xuất hiện một chiều, trong khi
chúng ta lại tin rằng nó thật sự
hiện hữu trong tất cả mọi
đau khổ của
chúng ta.
Chúng ta tự lao vào những
vấn đề do chính
chúng ta tạo ra bởi vì
căn bản nhận thức của
chúng ta đặt trên một
quan niệm sai lầm chúng ta là ai. Tất cả những
phán đoán của
chúng ta đều sai và
chúng ta không có khả năng để
đối diện hay
tác động trên những
tình trạng mà
chúng ta đang phải
đối phó. Vì thế
chúng ta không
ngạc nhiên chúng ta luôn luôn gặp những chuyện
bực mình khi
sự kiện xảy ra để rồi
kinh nghiệm toàn là
bất mãn và khó chịu trong kết quả.
Tại sao
cảm thấy “cái tôi”
xuất hiện một cách
độc lập, tự
hiện hữu, lại là một sai lầm? Nếu
chúng ta đối diện với câu hỏi này một cách
thận trọng, nghiêm túc và
thành thật thì câu
trả lời sẽ đến một cách rất
trong sáng. Không thể nghĩ về một “cái tôi” bên ngoài –cũng là nghĩ về-- thân xác hoặc tâm của
chúng ta. Vì thế, nếu “cái tôi” thực sự
độc lập và tự có thì nó phải giống như thân xác và tâm,
hiện diện như vậy, hoặc là một cái gì đó riêng biệt với chúng. Nếu
chúng ta thiền định sâu xa về điều này,
chúng ta sẽ thấy rằng chỉ có thể có hai
sự kiện này mà thôi.
Tuy nhiên, thật
rõ ràng là “cái tôi” không thể
xuất hiện tách biệt khỏi thân hoặc tâm bởi vì không có ”cái tôi” nào để
chúng ta có thể chỉ vào như
chúng ta chỉ vào một
sự kiện tinh thần hoặc
vật chất.
Thí dụ, khi thân xác ngủ,
chúng ta nói, “tôi đang ngủ.” Khi nó đang chăm chú vào
thức ăn,
chúng ta nói, “tôi đang ăn.” Khi nó đang ở trên ghế,
chúng ta nói, “tôi đang ngồi.” Nếu “cái tôi” thực sự
hiện diện mà
chúng ta có thể cảm nhận được – như
chúng ta thường cảm nhận một cái gì đó ở thân và tâm của
chúng ta – thì có thể nó chẳng có
liên quan gì,
ý nghĩa gì đến những
hoạt động của
chúng ta. Nếu “cái tôi” là một cái gì đó
xuất hiện riêng biệt khỏi thân, thì tại sao
chúng ta lại nghĩ, “tôi đang ngồi” khi thân
chúng ta đang ở trong ghế?
Cùng một cách đó khi nói về tâm. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi nào đó tâm
chúng ta có
liên hệ với rất nhiều
hoạt động khác nhau, thường là trái ngược nhau. Khi tâm đang nghĩ, đang ngủ, đang thiền, đang tức giận hay đang mơ,
chúng ta nói, “tôi đang nghĩ,” “tôi đang thiền,” “tôi đang tức,” ...vv... Nếu có một “cái tôi”
hiện diện một cách nào đó ngoài cái tâm, thì nó cũng chẳng có
ý nghĩa gì
liên quan đến những
hoạt động tinh thần trong
danh nghĩa của một “cái tôi”
độc lập và tự có.
Tuy nhiên, hãy cho
quan niệm sai lầm này một chút
công bằng, giả thử có một “cái tôi”
độc lập như thân xác, như tâm hay như một
hình dáng nào đó của nó; dù cho “cái tôi” có được coi như thân xác hay tâm thì nó cũng không thể nào là một
thành phần vật chất hay
tinh thần của
chúng ta mà
chúng ta có thể
chỉ tay vào nó mà xác định rằng “Đây là ‘Tôi.’” Nó không phải là tay của
chúng ta, không phải là tim của
chúng ta hay là bất cứ một
thành phần nào đó của thân xác mà
chúng ta có thể gọi là “Tôi”.
Chúng ta cũng không thể nói cái gì
chúng ta đang nghĩ đang cảm là “cái tôi” của
chúng ta. Cho tới khi nào
chúng ta còn
xác nhận chúng ta với thân xác của
chúng ta, với tâm của
chúng ta hoặc cứ
tiếp tục nghĩ “Đây là thân của tôi” hay “Đây là tâm của tôi” là còn
tiếp tục nhầm lẫn về tất cả mọi sự việc. Những
tư tưởng này có thể
hiểu ngầm là “Đây là thân của thân xác” và “Đây là tâm của tâm,” cả hai đều là
tình trạng vô nghĩa lý. Hơn nữa, có rất nhiều, rất nhiều nguyên tử, vật nhỏ
li ti, những vi thể trong thân xác của
chúng ta và cũng có rất nhiều
tư tưởng đi qua tâm của
chúng ta mà nếu
chúng ta gọi từng cái là “Tôi” thì
chúng ta phải đi đến một
kết luận là
chúng ta đã là một triệu người khác nhau. Cũng
hoàn toàn vô nghĩa lý khi
xác nhận “cái tôi” với một vi thể nào đó hay với một
tư tưởng nào đó, còn những cái khác thì sao? Chúng thuộc về ai đây?
Nếu
chúng ta nghĩ những điểm này một cách có
hệ thống và dùng chúng để kiểm chứng lại tất cả những đường lối mà
chúng ta đã nhìn về
chúng ta thì
chúng ta sẽ thấy rằng không thể có một “cái tôi”
xuất hiện một cách
độc lập. Một “cái tôi” như vậy không
thể hiện diện được, không thể
xuất hiện được nên có nghĩa là không có
tự tính, trống rỗng. Bởi vì tâm
vô minh bảo rằng
chúng ta hiện diện một cách nào đó như một “cái tôi”
hoàn toàn độc lập, còn
trí tuệ tánh không nhìn rất
rõ ràng rằng “cái tôi” không bao giờ có dù chỉ một chút xíu, nên hai
quan điểm này
hoàn toàn trái ngược nhau. Dù
chúng ta có tin một “cái tôi”
sai lầm của
chúng ta hay một “cái tôi” theo
qui ước của
chúng ta thì cũng không thể nào tách chúng ra khỏi thân và tâm của
chúng ta hay bất cứ một phần nào của chúng. Đúng ra, chúng
xuất hiện,
chúng hiện diện
tùy thuộc lẫn nhau (
duyên khởi).
Sự thật có nhiều cấp bậc, mặc dù trong
tương đối hay
tuyệt đối, trong
căn bản hay
qui ước. “Cái tôi”
qui ước xuất hiện ra trong tâm,
chúng ta đã đề cập đến là một “cái tôi”
sai lầm – vì nó cho đó là “cái tôi”
độc lập và tự có – nên nó là một
sự thật tương đối.
Sự thật của “cái tôi”
qui ước (tập tục)
xuất hiện đúng như cách thế của nó, nhưng điều này không thể được
nhận ra bởi cái tâm
vô minh. Chỉ có cái tâm hiểu được
tánh không và
nhận thức trực tiếp được tất cả mọi sự vật, mọi
hiện tượng đều không có
tự tính mới có thể hiểu được
bản tính tuyệt đối,
nhận thức được
chân tính. Tâm
siêu việt đó không hề bị một chút
ô nhiễm nào của những
quan niệm sai lầm, của những
ý niệm sai lầm về
sự thật tương đối nên nó có thể nhìn sự vật, nhìn
hiện tượng như chính nó là, như chính nó
xuất hiện trên cả hai cấp bậc (
nhị đế:
tục đế hay
thế đế là
chân lý của
thế tục và
chân đế hay
thắng nghĩa đế là
chân lý của Phật. – Dg)
Khi
chúng ta phát triển
tâm linh trong
tánh không,
chúng ta sẽ nhìn sự vật
hoàn toàn khác với lối nhìn thông thường của
chúng ta bây giờ.
Mọi vật sẽ như một bóng ma hay một
ảo ảnh. Nhưng không phải là không có gì
xuất hiện.
Cần phải nhấn mạnh rằng “cái tôi” dù không tách biệt với hay không
hoàn toàn giống thân và tâm thì không có nghĩa là nó
hoàn toàn không có. Đây là điều
vô cùng sai lầm và rất nguy hiểm nếu
chúng ta kết luận như vậy. Một người đang
đau khổ vì những
ảo tưởng về một tâm-thức-tôi có thể bắt đầu kiểm chứng những
phiền não “tôi” của họ.
Thất vọng khi đi tìm một “cái tôi”
độc lập, họ có thể
kết luận rằng “cái tôi” của họ
hoàn toàn không có, không
hiện diện. Một khi họ đã tin với lối
nhận thức này, họ dễ dàng đi đến việc chối bỏ mọi sự. Họ không chỉ nghĩ rằng họ không
hiện diện mà họ còn có
cảm tưởng rằng người khác và vật khác cũng như vậy.
Đây là một
quan điểm quá
cực đoan về sự chối bỏ, gọi là
chủ nghĩa hư vô,
chủ nghĩa này có thể dẫn đến những
tình trạng tâm thần nguy hiểm, rất nguy hiểm và cực kỳ khổ đau (bệnh
tâm thần). Do đó, khi kiểm chứng về “cái tôi”
chúng ta phải
vô cùng thận trọng.
Chúng ta phải có khả năng
phân biệt thật
rõ ràng về sự khác biệt của hai
ý niệm về “cái tôi.” Thông thường,
quan niệm sai lầm nhìn nó như là một cái gì
xuất hiện độc lập, riêng biệt. Một khi
quan niệm sai lầm về “cái tôi” đã được
nhận thức, đã bị
bác bỏ, cái gì còn lại chính là
sự thật, lúc đó “cái tôi ” sẽ
xuất hiện một cách
bình thường. “Cái tôi” này
xuất hiện trong một tương quan với (
tùy thuộc) thân và tâm của
chúng ta. Nó có những
hoạt động, tạo nghiệp, rồi
kinh nghiệm được những kết quả theo
luật nhân quả như đã trình bày về 12
duyên khởi ở trên. Một “cái tôi” như
vậy thì chẳng có gì là
độc lập, tự có, nó chỉ là một phần của chuỗi dài
liên tục vô tận của những hành động và
phản ứng,
năng lực và phản
năng lực. Khi
chúng ta có sự
hiểu biết này,
chúng ta sẽ thấy rằng tại sao
chúng ta lại
kinh nghiệm được những gì
chúng ta đã làm.
Chúng ta cũng
nhận thức được
chúng ta có khả năng làm cách nào để
uốn nắn những
kinh nghiệm của
chúng ta trong tương lai do những gì
chúng ta nghĩ,
chúng ta nói và làm ngay bây giờ. Vì thế, khi
trí tuệ của
chúng ta phát triển, lớn mạnh,
chúng ta sẽ
kiểm soát được
định mệnh của
chúng ta.
Nếu
chúng ta phân biệt được một cách thật
rõ ràng về sự
sai lầm, giữa một “cái tôi”
độc lập và một cái thực sự
hiện diện thì
chúng ta sẽ không còn bị nguy hiểm rơi vào
cực đoan của
hư vô.
Nếu không như
vậy thì khi
thiền định về
tánh không chúng ta chỉ làm cho
vô minh càng thêm
vô minh hơn.
Khi
chúng ta thiền định về
tánh không chúng ta sẽ
trải qua rất nhiều
trạng thái của
tâm linh.
Trước tiên chúng ta sẽ
đạt được một cái nhìn
trong sáng,
rõ ràng rằng
chúng ta đã
nhận thức sai lầm về “cái tôi,” – cái
xuất hiện một cách
độc lập -- như thế nào. Rồi, khi
chúng ta đánh phá “cái tôi”
sai lầm này bằng cách phân tích cái nào tách biệt, cái nào là một với thân và tâm của
chúng ta, lúc đó “cái
quan niệm sai lầm sẽ tan biến,” như Je Tsongkhapa đã nói. “Cái tôi” này sẽ bắt đầu tan rã rồi biến mất, tan biến trong
bản tính chân thật của chính nó ( không có
tự tính, trống rỗng.)
Khi không
tìm kiếm được “cái tôi” này,
chúng ta sẽ
kinh nghiệm được một sự trống rỗng rất
sâu xa ở
nội tâm của
chúng ta. Nó giống như
chúng ta đã mất một cái gì qúi gía. Tại lúc này, sự
sợ hãi có thể khởi lên bởi vì
chúng ta không còn “cái tôi” nào để bám vào. Nếu và khi nó xẩy ra,
chúng ta đừng để bị rơi vào
tình trạng cực đoan của
hư vô là chối bỏ mọi sự. Đây là một
sai lầm vô cùng tai hại.
Tốt hơn,
chúng ta nên
kiên trì thiền định rồi
tự nhiên sẽ
chứng nghiệm được
tánh không.
Chúng ta sẽ có khả năng
nhận thức được
bản tính chân thật của “cái tôi” – thiếu vắng sự tự hữu – và
hoàn toàn cảm nhận rằng đó chỉ là những bóng ma,
huyễn ảo trên bình diện rất
tương đối của
sự thật. Như đã được nói đến trong bài
Cúng Dường Vị Thầy:
Cũng không phải một
vi trần trong
luân hồi hay
niết bàn Chẳng có gì như vậy
hiện hữu,
Cũng chẳng có gì
sai lầm khi nói rằng những
vi trần này
Là
duyên khởi của nhân và qủa.
Kinh xin thầy
độ trì con
Để con có thể
chứng nghiệm được đại
chính kiến của Ngài
Long ThọVề sự không
mâu thuẫn, ơn phước
tương hợp của
nhị đế.
Khi
chúng ta đạt tới hai
nhận thức này,
chúng ta mới thực sự bước trên “đường làm
vui lòng chư phật.”
Quan niệm sai lầm mà
chúng ta nhìn “cái tôi” như là một cái gì
độc lập và tự có cũng
sai lầm y như chúng ta nhìn các
hiện tượng.
Thí dụ, khi
chúng ta nhìn cái bàn,
chúng ta không
để ý tới khía cạnh nó
xuất hiện trước
chúng ta chỉ như là một cái tên mà
chúng ta đã đặt cho nó và chính cái tên này, cái nhãn hiệu này là một tập hợp tuỳ thuộc vào nhiều thứ, nhiều
nguyên nhân và nhiều
hoàn cảnh. Thay vì nhìn cái bàn theo chiều hướng
tùy thuộc vào rất nhiều
yếu tố (
duyên khởi)
chúng ta lại nhìn nó theo một chiều hướng quá
đơn giản mộc mạc và
sai lầm. Vì cái
quan niệm sai lầm ràng buộc qúa
sâu xa này mà
chúng ta cảm thấy đối tượng này qúa thật và
độc lập, nó tiến đến
chúng ta từ ngoài kia.
Chúng ta đã quên mất nó là một cái gì mà
chúng ta đã đặt tên cho nó, cho nó một
giá trị, thực sự là nó đã được chế tạo ra.
Một
thí dụ khác, một đôi vợ chồng có con và đặt tên cho nó là Gerald. Dù thật sự họ đã tạo ra cái tên này cho em bé, nhưng chẳng bao lâu sau họ cứ nghĩ con của họ thật sự là “Gerald.” Họ nhìn Gerald như là một cái gì
hiện diện cùng với đứa trẻ,
độc lập và tự có,
xuất hiện ra với họ
như không có
nguyên nhân. Thay vì nhìn đứa bé như là một người
tùy thuộc vào thân xác,
tâm hồn,
tên tuổi và nhiều thứ khác, họ lại nhìn nó như một cái gì thật có, Gerald rất
độc lập, mà chẳng có một chút gì
tùy thuộc vào những cái khác để cho nó được
hiện diện.
Có rất nhiều sách
giải thích làm sao để thiền về sự thiếu vắng của tính tự hữu
độc lập của “cái tôi” và của các
hiện tượng khác. Nhờ đọc những cuốn sách đó về
tánh không mà
chúng ta có thể
tích tụ được nhiều
kiến thức sâu xa. Nhưng điều
vô cùng quan trọng là phải thật sự tự thanh tẩy
chúng ta khỏi những
tà kiến,
vọng tưởng và những
ý niệm sai lầm. Cho tới khi nào
chúng ta còn
vô minh về cái gì là đúng, riêng biệt và cái gì là không đúng, không hợp cách là
chúng ta còn rơi vào
tình trạng nhận thức lệch lạc về
hình ảnh thật của
chân lý, của
bản tính, tất cả sự
hiểu biết của
chúng ta sẽ thiếu vắng chân nghĩa và
chân giá trị. Vì thế,
chúng ta cần phải thanh tẩy tâm của
chúng ta.
Chúng ta phải
cố gắng loại bỏ cả hai thứ
vọng tưởng dầy đặc như
ganh ghét và
bám víu, cái này làm
chúng ta khó tập trung và khó
thâm nhập vào
ý nghĩa của
tánh không. Vì chúng qúa
vi tế và vì
vọng tưởng quá
thâm sâu của
vô minh nên từ đó mọi
vọng tưởng dầy đặc khác lại
phát khởi liên tục. Còn nữa,
chúng ta không bao giờ được
thiếu sót trong việc
quan sát nghiệp của
chúng ta,
con đường thẳng tắp của tất cả mọi hành động là
kiên trì thực hành Đạo Pháp.
Sau cùng,
chúng ta thử hỏi sự
tin tưởng vững chắc ở tính
độc lập tự có này
ảnh hưởng đến tâm của
chúng ta như thế nào? Có những
lễ hội, có những buổi
trình diễn ở những nơi
công cộng hay ở bất cứ đâu, chúng được coi như là những trò chơi
vô lý, những màn kịch
vô duyên, nhưng ở đó
mọi người cùng chia sẻ
với nhau một trò
huyễn ảo.
Mặc dầu nó là kịch,
bi kịch nhưng nó vẫn làm
chúng ta cười. Tiến trình thanh tẩy tâm
ô nhiễm huyễn ảo này có thể phải mất rất nhiều
thời gian mới
hoàn thành được, nhưng nó rất
cần thiết nếu
chúng ta quyết tâm muốn
trốn thoát khỏi khổ đau để chỉ cho người khác
con đường đi đến
tự do,
giải thoát. Do đó,
chúng ta phải
cố gắng thật nhiều, phải
liên tục kiên trì, luôn luôn giữ động năng này càng
thanh tịnh càng hay.
Kết Luận Chúng ta không có đủ
thời giờ để
thảo luận xa hơn nữa về ba
lãnh vực chính của
con đường dẫn đến
giác ngộ. Nhưng những gì đã được trình bày ở trên cũng tạm đủ để
chúng ta ý thức được sự quan trọng của việc phát triển tâm
hoàn toàn buông xả, một động năng
giác ngộ của
bồ đề tâm, một cái nhìn đúng về
tánh không,
chúng ta cần
cố gắng thật nhiều để
lãnh hội những lời giảng dậy này.
Chúng ta nên
tìm kiếm một
vị thầy tâm linh hướng dẫn
chúng ta đi đúng trên
con đường tìm hiểu Đạo Pháp. Còn nữa,
chúng ta nên đọc và
nghiên cứu những
tài liệu, những lời giảng về
Đạo Pháp có
giá trị, nhất là những điểm cốt tủy này. Nhưng điều
vô cùng quan trọng vẫn là
thực hành, thật
tâm chân thành thực hành qua
thiền định về tất cả những gì mà
chúng ta đã học, đã đọc được. Hãy thực sự
áp dụng những gì
chúng ta đã học vào
đời sống hàng ngày. Có như vậy, sự
thực hành của
chúng ta mới thực sự làm
vui lòng các bậc đã
giác ngộ và sau cùng mới mang lại ơn ích cho
muôn vàn chúng sinh khác.
Mỗi khi
chúng ta bắt đầu một buổi thiền về bất cứ khía cạnh nào trên những lời dậy bảo này –
dĩ nhiên, bất cứ lúc nào
chúng ta thực hiện những công việc
đạo đức –
chúng ta cũng phải nhớ thanh tẩy những động năng
thúc đẩy của
chúng ta.
Sự kiện này
bảo đảm tất cả những ơn phước mà
chúng ta có thể có được sẽ hữu ích cho tất cả những công việc
chúng ta làm. Vì thế, hãy
vun trồng những
ý tưởng đó như sau:
Con và muôn loài
chúng sinh đã bị khổ đau trong
luân hồi từ muôn ngàn kiếp đến bây giờ. Bây giờ con vẫn
đau khổ, con đã
mù quáng chấp nhận ý niệm sai lầm con là ai. Con đã lầm
tin tưởng “cái tôi” là tự có và
độc lập nên con đã nhìn những
bất tịnh trong
luân hồi là
thanh tịnh và đáng
mong ước.
Con không muốn làm
nô lệ cho những
vọng tưởng này nữa. Trước khi Phật
Thích Ca đạt
giác ngộ, Ngài cũng
vô minh như con,
cuối cùng Ngài đã
giác ngộ và đạt qủa vị Phật, không có một
lý do nào có thể
ngăn cản con làm điều đó.
Tuy nhiên, con không hoà nhập trong tánh bản nhiên và
giải thoát cho riêng con. Con không phải là người
duy nhất ước muốn
hạnh phúc và
thoát khỏi khổ đau. Nếu chỉ
giải thoát một mình con mà không nghĩ đến người khác là không đúng. Qủa nhiên,
thái độ ích kỷ của con là
nguyên nhân cho tất cả mọi khổ đau của con và của muôn loài, vì thế ngay bây giờ con phải
chấm dứt. Tất cả
chúng sinh, những người mẹ cao qúi cuả con, đã cho con nhiều
hạnh phúc mà con chưa từng có như vậy.
Mặc dầu không có một
ân nhân nào mong muốn
đau khổ nhưng họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để có
hạnh phúc. Làm sao con có thể quên họ được khi họ thật sự cần sự hướng dẫn?
Những người bạn của con không phải là những người
duy nhất bị ray rứt
liên tục trong khổ đau. Ngay cả những con thú, những sinh vật nhìn thấy hay không nhìn thấy trong
vũ trụ này cũng đang ngụp lặn trong
mê vọng. Chúng đã chịu khổ đau từ
muôn vàn kiếp và còn
tiếp tục khổ đau
cho đến khi nào chúng chưa
thoát khỏi vô minh. Con không thể quên những sinh vật
bất hạnh này, vì chúng đã chỉ cho con biết thế nào là
lòng từ ái.
Do đó, khi con
nhận thức được bổn phận của con về sự
lợi ích cho muôn loài, con sẽ
thiền định sâu xa trên
con đường dẫn đến
giác ngộ. Nguyện xin tất cả những ơn ích
phước đức nào mà con có được trong sự
thực hành này sẽ thuần nhuyễn tâm con. Nguyện cho con được
tinh tiến trên
con đường phát triển
tâm linh càng nhanh càng tốt hầu sớm đạt
giác ngộ để mang lại hữu ích cho tất cả những bà mẹ của con. Nguyện xin những lời dậy bảo của các bậc đã
giác ngộ tiếp tục vun tưới và
cung cấp ơn lành cho tất cả.
Cám ơn qúy vị rất nhiều.