NHẤT HẠNH
THIẾT LẬP TỊNH ĐỘ
Kinh A Di Đà Thiền Giải
Lá Bối, Hoa Kỳ 2000 - Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội - 2004
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sinh về cõi Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt ở nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy chưa sanh, đang sanh hay sẽ sanh về đó.’’
Câu kinh này có nhiều người dịch khác nhau, nhưng theo cái hiểu của tôi thì dịch như trên mới rõ nghĩa.Nếu ta tiếp nhận được ý nghĩa của câu kinh này thì ta xúc chạm tới được bản môn.
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về cõi Bụt A Di Đà.’’Ta có muốn sanh về Cực Lạc hay không?Tất cả đều do ta.Ta có hai hoàn cảnh.Một là hoàn cảnh ta đang hệ lụy khổ đau và hai là tuy ta đang ở trong hoàn cảnh ấy nhưng ta đã có tâm muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy.Vì vậy vấn đề là ta có muốn thoát hay không muốn thoát.Nếu ta muốn thoát, thì ta sẽ thoát được.Và nếu ta không muốn thoát, thì ta sẽ không bao giờ thoát.Quý vị đã từng bị lâm vào một hoàn cảnh đau thương và hệ lụy của cuộc đời chưa?Có rồi phải không?Cuộc đời sao mà nhiều khổ đau quá.Nhìn xung quanh, ta thấy người nào cũng khổ, người nào cũng trầm luân, người nào cũng hệ lụy.
Ta cũng hệ lụy, ta cũng chìm đắm như người khác.Bấy giờ tự nhiên ta có ý muốn thoát ra, muốn đi tới một chỗ có an toàn, có giới luật, có chánh niệm, có Tăng thân. Ăn thua là mình đã có ý muốn đó hay không.Nếu có, thì tuy mình đang ở đó, mà mình đã bắt đầu thoát ra khỏi chỗ đó rồi.Quý vị có hiểu không?Tại sao?Tại vì tâm mình không còn vướng mắc vào chỗ khổ đau ấy nữa.
Tuy thân của mình đang ở chỗ đó mà tâm của mình đã vượt ra khỏi chỗ đó và đã đi đến chỗ kia rồi.Nghĩa là ngay lúc tâm mình phát nguyện thì mình đã có mặt ở Tịnh Độ.Nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về nước Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt tới quả vị cao tột, không còn thối chuyển, tức là không còn bị sa đọa.Và tại sao người đó không bị sa đọa?Là do sự quyết tâm từ bỏ cõi uế độ của người đó.Ngay lúc quyết tâm đó, tâm của họ đã sanh vào Tịnh Độ, sanh vào địa vị không thối chuyển.Một khi ta đã sanh vào địa vị không thối chuyển, thì ta không còn sa đọa nữa.Nên kinh nói nguyện sanh Tịnh độ là đã sanh rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh về nước ấy.
Quý vị có thấy câu kinh này mầu nhiệm không?Trong hoàn cảnh hệ lụy đau thương, mà nếu mình có ý muốn thoát ly là mình có thể thoát ly ngay ở trong tâm của mình, và ngay trong tâm của mình đã có cõi Tịnh Độ.Như vậy là tuy còn đứng ngay tại chỗ mà mình đã sanh về Cực Lạc.Và mình có thể quay lại cứu vớt những người đang bị chìm đắm trong khổ lụy.‘‘Khổ hải mang mang hồi đầu thị ngạn.’’Biển khổ tuy là mênh mông, nhưng mà biết quay đầu lại, thì đã thấy đất liền.Vậy vấn đề là ta có muốn quay đầu lại hay không?Trong giáo lý Tịnh độ, tâm nguyện là quan trọng, vì nguyện luôn luôn gắn liền với đức tin.
Có nguyện và có đức tin thì cho dù ta đang ở trong hoàn cảnh khổ đau cùng cực đi nữa, ta vẫn có nẻo để thoát ra, và nẻo thoát ấy là Tịnh Độ, là Tăng thân đang tu học có giới, định và tuệ.Nếu có Tín, có Nguyện và có Hạnh thì sanh về Tịnh độ không phải là chuyện khó đối với ta.Cũng vậy, nếu ta có Tín, có Nguyện và có Hạnh với Đạo tràng Làng Mai, thì việc đi về với Đạo tràng Làng Mai sẽ không khó đối với chúng ta.Chỉ một cú điện thoại cũng đủ giúp ta tới Đạo tràng Làng Mai rồi.Cô thiếu nữ tên là Thục Hiền có ý muốn xuất gia và có quyết tâm xuất gia, thì trong giờ phút quyết tâm xuất gia đó, cô đã thành tựu được hạt giống xuất gia ở trong tâm cô rồi.
Còn vấn đề cạo đầu, mặc áo chỉ là vấn đề hợp thức hóa thôi.Nhìn cho sâu sắc là ta phải thấy như vậy.Tín, Nguyện và Hạnh là tinh hoa của việc tu tập Tịnh Độ.Tín là tin vào một nẻo thoát.Nguyện tức là muốn; muốn một cách tha thiết.Hạnh là sự thực tập Tịnh Độ hằng ngày.Hễ có Tín, Nguyện và Hạnh là lập tức ta sanh về Tịnh Độ, không kể đến sự kiện người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh.Đọc kinh là phải quyết tâm để thấy được chiều sâu của kinh.Phải đọc kinh bằng trái tim, để khi tiếp xúc với tích môn, mình cũng tiếp xúc được với bản môn.
Đức Thích Ca dạy tiếp:‘‘Quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm’’.‘‘Xưng tán’’ vì kinh này có công đức vô lượng và có thể tạo ra nhiều thành tích, nhiều công đức.Và ‘‘hộ niệm’’ là yểm trợ bằng năng lượng chánh niệm của mình.Như vậy tất cả chư Bụt đều khen ngợi sự thực tập của kinh này, và hứa sẽ dùng năng lượng chánh niệm của mình để yểm trợ cho những người nào muốn thực tập.Lý luận có tính cách biện chứng của sự hành trì này là: khi mình để tâm vào bất cứ một vị Bụt nào, thì qua vị Bụt đó, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt khác trong vũ trụ.Và vì vậy danh hiệu riêng của từng Ngài không còn là một vấn đề nữa, vì qua một vị Bụt, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt trên thế giới.Cho nên ta niệm Bụt nào cũng được hết, miễn là ta niệm Bụt cho được nhất tâm.Chính nhờ các vị Bụt trong vũ trụ hộ niệm, mà hành giả sẽ không bị thối chuyển, tức là không bị sa đọa.Thực tập là được giữ gìn để đi tới, chứ không phải đi lui.
Nhìn sâu, ta thấy trong kinh có ý niệm về Tăng thân, và đây là một ý niệm hết sức căn bản và quan trọng.Tại vì Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng đồng của Tăng thân.Không phải chỉ có Tịnh Độ của một vị Bụt.Tất cả các vị Bụt trong vũ trụ đều có Tịnh Độ, và đều yểm trợ cho các cõi Tịnh Độ.Ở bài kinh này ta học được rằng:chỉ cần để tâm niệm của mình hướng về một vị Bụt và niệm Bụt đến chỗ nhất tâm thì mình có cơ hội tham dự vào cõi Tịnh Độ, dù trong lòng mình vẫn đang còn có những hạt giống khổ đau.Trong ta đang còn có những hạt giống khổ đau, nhưng ta vẫn có thể tham dự vào cõi Tịnh Độ.Đây là một điều rất hay, vì ở trong giáo lý Tịnh Độ có ý niệm ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’.‘‘Đới’’ là mang theo, quẩy theo.‘‘Nghiệp’’ là những hậu quả khổ đau do những động tác của cơ thể, của tư tưởng và của lời nói trong quá khứ đem lại.Mình có thể đem những nỗi khổ niềm đau của mình về tham dự vào Tịnh Độ.‘‘Vãng sanh’’ là đến tham dự.‘‘Đới nghiệp vãng sanh’’ nghĩa là đang quẩy nghiệp theo mà vẫn tham dự được Tịnh Độ.