VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP
THIỀN SƯ VĨNH MINH - Thích Minh Thành dịch
Nhi đế: là chỉ cho Chân đế và Tục đế. Chân đế là lẽ thật tuyệt đối xuất thế gian. Tục đế là lẽ thật tương đối trong thế gian. Kinh Niết Bàn quyển 13, phẩm Thánh Hạnh nói: Điều thông thường mà người ta có thể biết, đó là Thế đế (Tục đế); điều mà người xuất thế chứng biết, đó là Đệ nhất nghĩa đế (Chân đế). Lại nữa, có danh có thật, đó là Đệ nhất nghĩa đế; có danh không thật, đó là Tục đế.
Thật tế: là chỗ chân thật cứu cánh; chỉ cho sự thực chứng Niết Bàn, lìa hẳn giả dối; còn chỉ cho lý thể chân như. Kinh Kim Cang Tam Muội nói: “Đức Phật bảo: Pháp Thật tế, pháp không có bờ mé (tế), tâm không có bờ mé thì thể nhập Thật tế.
Pháp nhẫn: gọi đủ là Vô sanh Pháp nhẫn, quán xét lý không sanh không diệt của các pháp, thể nhận vững chắc, an trụ chẳng động tâm.
Thập huyền môn: Trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký của Ngài Hiền Thủ, nêu ra mười môn để tóm thâu cương yếu của bộ kinh Hoa Nghiêm.
- Môn “đồng thời đầy dủ các pháp tương ứng”. Nghĩa trong mỗi một pháp nào, đồng thời đều có đủ, bao hàm tất cả các pháp trong vũ trụ..
- Môn “rộng hẹp tự tại không ngại”: nơi một hạt bụi nhỏ biến khắp pháp giới, vạn hữu pháp giới có thể ở trong một hạt bụi. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong một mảy trần, hết thảy cõi nước rộng rãi an trụ”.
- Môn “một và nhiều dung nhau không đồng”: nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật.
- Môn “các pháp tương tức tự tại”: ngoài một pháp không có tất cả pháp, ngoài tất cả pháp không có một pháp, một pháp tức tất cả pháp, tất cả pháp tức một pháp, các pháp dung thông tương tức tự tại.
- Môn “ẩn mật, tỏ rõ đều thành”: nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn thì phương diện này hiện, trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, hai tướng ẩn hiện đồng thời thành tựu.
- Môn “vi tế dung nhau an lập”: Trong một vật cực nhỏ có thể hàm chứa một vật nhỏ nhiệm khác mà không cản trở nhau, không phá hoại tướng của nhau.
- Môn “cảnh giới tướng võng nhơn-đà-la”: nghĩa là trên cõi trời Nhơn đà la có màn lưới bằng bửu châu, mỗi hạt bửu châu chói hiện đến muôn vật, hạt này hạt khác phản chiếu nhau chói sáng lẫn nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, cứ thế cho đến vô cùng tận.
- Môn “nhân sự rõ ràng, sanh trí hiểu biết”: Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý, nhưng khi lý đã rõ thì lý lan rộng làm cho ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác.
- Môn “mười đời cách pháp dị thành”: nghĩa là ba đời mỗi đời có ba (quá khứ, hiện tại, vi lai) hợp lại thành chín đời, nhiếp trong một niệm thành mười đời, pháp pháp dung thông, trước sau cách biệt, nhưng nhờ vậy các pháp được thành tựu.
- Môn “chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn”: khi một pháp là chủ thì pháp khác là bạn, tất cả vạn pháp cũng đều như thế, một pháp viên mãn tất cả công đức nhơn đó gọi là đức đủ tròn sáng.
Lục tướng nghĩa:
- Tổng tướng: nghĩa là cái tướng bao trùm tất cả tướng sai biệt.
- Biệt tướng: nghĩa là các tướng riêng biệt hợp lại thành tổng tướng. Thí như cái nhà là tổng tướng, kèo, cột, ngói, đá…là biệt tướng.
- Đồng tướng: là cái tướng chung đồng, dung hòa lẫn nhau, không ngăn ngại, không chống trái nhau. Thí như: kèo, cột, ngói, đá…hợp chung lại thành cái nhà.
- Dị tướng: là các tướng riêng biệt nhưng vẫn dung hòa thành một thể.
- Thành tướng: là tướng thành tựu. Sự chung cùng để thành tựu, gọi là thành tướng. Thí như kèo, cột, ngói, đá…hợp nhau mà thành nhà cửa, gọi là thành tướng.
- Hoại tướng: là cái tướng độc lập của các pháp. Thí như nhà cửa tuy một, nhưng kèo, cột, tường, mái…vẫn giữ nguyên vị trí của nó không mất.
Nhất hạnh Tam muội: là chỉ chánh định chuyên tâm nơi một hạnh mà tu tập, được chia làm hai : Một là Nhất hạnh Tam muội về mặt lý, là tam muội định tâm quán pháp giới bình đẳng nhất tướng. Vào tam muội này thì biết Pháp thân của tất cả chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng không hai, không có tướng sai biệt, cho nên ở nơi tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm có thể thuần nhất được tâm, chẳng động đạo tràng mà liền thành Tịnh độ. Hai là Nhất hạnh Tam muội về mặt Sự, là Niệm Phật Tam Muội nhất tâm niệm Phật. Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật quyển hạ nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn vào Nhất hạnh Tam muội phải ở chỗ vắng vẻ, bỏ mọi ý tưởng tán loạn, chẳng nắm lấy tướng mạo, buộc tâm nơi một Đức Phật chuyên xưng danh hiệu; tùy theo phương hướng của Đức Phật, thân trang nghiêm hướng về phía ấy, có thể niệm niệm tiếp nối nơi một Đức Phật, tức là trong mỗi niệm thấy được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Mười trí lực:
- Tri thị xứ phi xứ Trí lực: Như Lai đối với tất cả nhân duyên quả báo biết đúng như thật, như làm việc lành nhất định quả báo an vui và ngược lại…
- Tri tam thế nghiệp báo Trí lực: Như Lai đối với nghiệp duyên quả báo, chỗ sanh trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai của tất cả chúng sanh thảy đều biết rõ.
- Tri chư thiền giải thoát tam muội Trí lực: Như Lai đối với các Thiền định tự tại vô ngại, sự sâu cạn thứ lớp của chúng sanh đều biết rõ.
- Tri chư căn thắng liệt Trí lực: Như Lai đối với căn tánh của chúng sanh cao thấp, được quả lớn hay nhỏ, đều biết rõ.
- Tri chủng chủng giải Trí lực: Như Lai đối với mọi sự ưa muốn thiện ác bất động của chúng sanh đều biết rõ.
- Tri chủng chủng giới Trí lực: Như Lai đối với mọi cảnh giới của chúng sanh ở thế gian đều biết rõ.
- Tri nhất thiết chí xứ đạo Trí lực: Như Lai đối với nơi mà do hạnh lữu lậu trong sáu đường dẫn đều và nơi mà do hạnh vô lậu Niết Bàn dẫn đến, đều biết rõ.
- Tri túc mệnh vô lậu Trí lực: Như Lai đối với bao nhiêu đời trước, từ một đời cho đến trăm ngàn đời, một kiếp đến trăm ngàn muôn kiếp, chết nơi đây, sanh nơi kia, chết nơi kia sanh nơi đây, tên họ, ăn uống, vui khổ, thọ mạng thảy đều biết rõ.
- Tri thiên nhãn vô ngại Trí lực: Như Lai nhờ Thiên nhãn biết rõ khi sanh lúc chết, và con đường thiện ác ở đời vị lai của chúng sanh, cho đến những nghiệp duyên thiện ác của sự đẹp xấu, giàu nghèo.
- Tri vĩnh đoạn tập khí Trí lực: Như Lai đối với tất cả hoặc dư tập khí dứt hẳn không sanh đều biết rõ.
<!--[if !supportFootnotes]-->[8]<!--[endif]--> Ba thứ kiên cố: Kinh Bổn Sự quyển 7 đem ba thứ không kiên cố (tài sản, thân thể, tánh mạng) đổi thành ba pháp kiên cố.
- Đem tài sản không kiên cố đổi lấy tài sản kiên cố: nghĩa là tất cả tài vật ở thế gian, bản chất chẳng kiên cố, tụ tán vô thường, không thể bảo đảm lâu dài. Nếu người có thể thực hành bố thí phạm hạnh thanh tịnh, xa thì mong cầu Niết Bàn an lạc vô thượng, hoặc cầu quả vui cõi trời người ở tương lai, tức là tài sản kiên cố.
- Thân không kiên cố đổi lấy thân kiên cố: nghĩa là thân do cha mẹ sanh là tứ đại giả dối hòa hợp, mong manh chẳng thật, bản chất chẳng kiên cố sanh diệt vô thường, chẳng thể tồn tại. Nếu có thể giữ gìn năm giới, trong sạch không nhiễm, tu tập Bồ đề Vô thượng để chứng đắc thân kim cang bất hoại, đó tức thân kiên cố.
- Tánh mạng không kiên cố đổi lấy tánh mạng kiến cố: nghĩa là tánh mạng con người thọ yểu không đồng, đều như mộng huyễn, bản chất chẳng kiên cố, bỗng chốc vô thường, chẳng thể bảo đảm lâu dài. Nếu hiểu được Tứ đế, tu tập chánh pháp, vượt qua sanh tử để tiếp nối tánh mạng trí tuệ thường trụ bất hủ, đó tức là tánh kiên cố.
Thất thánh tài: Kinh Niết Bàn quyển 17 nói: Tín (đức tin), Giới (giữ gìn giới luật), Tàm, quý, Đa văn, trí tuệ, xả là thất thánh tài, giữ được bảy món ấy là thánh nhân.
Bảy đức thanh tịnh: theo Ngài Cưu Ma La Thập giải thích thì bảy đức thanh tịnh là:
- Giới tịnh: là thanh tịnh xuyên suốt trước sau. Tức là những việc làm của thân và miệng không phạm điều ác nhỏ, ý chẳng sanh khởi trần cấu cũng không nắm vào tướng mạo, cũng không mong thọ sanh. Ban cho người sự vô úy, không hạn cuộc một ai.
- Tâm tịnh: tâm chế phục phiền não, tâm đoạn kiết sử của hàng Tam thừa, cho đến tâm lậu tận của hàng Tam thừa, gọi là tâm tịnh.
- Kiến tịnh: là thấy tánh chân thật của các pháp, chẳng khởi vọng tưởng.
- Độ nghi tịnh: là cái thấy hiểu sâu sắc thấu suốt dứt trừ nghi hoặc.
- Phân biệt đạo tịnh: là khéo có thể phân biệt đúng sai, hợp với đạo thì nên làm, không hợp với đạo thì nên bỏ.
- Hạnh đoạn tri kiến tịnh: “Hạnh” là chỉ bốn hạnh: Khổ khó, khổ dễ, vui khó, vui dễ. “Đoạn” chỉ cho đoạn trừ các kiết sử (hoặc). Tức là người chứng được Tận trí, Vô sanh trí của bậc vô học, có thể thấy biết những hạnh mình làm, những kiết sử mình đoạn, thấu suốt rõ ràng.
- Niết Bàn tịnh: đạt đến Niết bàn là chỗ thanh tịnh rốt ráo.
Ngũ vị: chỉ cho năm vị: vị nhũ, vị tô, vị sanh tô, vị thục tô, vị đề hồ. Là các vị được hình thành theo thứ tự trong quá trình chế tạo sữa bò. Các kinh luận thường dùng để ví dụ thứ tự sai biệt của căn cơ mọi người (hoặc giáo pháp). Như kinh Đại Niết bàn quyển 10 nói, Thanh Văn như nhũ, Duyên Giác như lạc, Bồ Tát như sanh tô thục tô, chư Phật Thế Tôn giống như đề hồ.
Tam đức: chỉ cho ba loại đức tướng mà Đại Niết bàn đầy đủ Pháp thân, Bát nhã, Giải thoát. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 18 ghi: Pháp thân là chỉ cho chân như vốn đầy đủ nơi tất cả pháp, hoặc chỉ cho thân do pháp công đức làm nên. Giải thoát là thoát ly sự trói buộc của phiền não. Bát nhã là chỉ cho trí tuệ của sự giác ngộ. Ba thứ này, tuy ba mà là một, tuy một mà là ba. Song khi ở nhân vị thì gọi là Tam Phật tánh; khi ở quả vị thì gọi là Tam đức.
Tam niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Bản tế: là lý thể tuyệt đối bình đẳng. Kinh Viên Giác nói: “Bản tế bình đẳng, tròn đầy mười phương”.
Tứ tất đàn: “Tất đàn” là tiếng Phạn, dịch ý là thành tựu. Đức Phật giáo hóa chúng sanh luôn dùng bốn pháp này để giúp họ thành tựu an lạc giải thoát.
*Thế giới Tất đàn: là thuận theo pháp thế gian mà nói về nghĩa lý nhân duyên hòa hợp, cũng là dùng tư tưởng ngôn ngữ quan niệm thông thường của thế gian để thuyết minh chân lý duyên khởi, khiến phàm phu vui vẻ và được trí tuệ chân chánh của thế gian.
*Vị nhân Tất đàn: là thích ứng theo căn cơ và năng lực khác biệt của mỗi chúng sanh mà nói các pháp thực tiễn xuất thế, làm cho chúng sanh sinh khởi căn lành.
*Đối trị Tất đàn: là nhắm vào những phiền não tham, sân, si của chúng sanh, theo bệnh mà cho thuốc pháp.
*Đệ nhất nghĩa Tất đàn: là phá dẹp tất cả ngôn ngữ luận nghị, trực tiếp dùng Đệ nhất nghĩa tỏ bày lý Thật tướng của các pháp, giúp cho chúng sanh chân chánh thể hội đạo lý.
Viên giáo: theo sự phân định của Tông Thiên Thai giáo pháp Đức Phật, nội dung gồm có bốn loại: Tạng giáo, Tông giáo, Biệt giáo, Viên giáo
*Tạng giáo: gọi đủ là Tam tạng giáo (kinh, luật, luận), chỉ cho giáo pháp Tiểu thừa.
*Thông giáo: chỉ cho các bộ Bát Nhã, nghĩa thông cả Đại và Tiểu thừa, bao quát đạo lý sâu xa và dễ hiểu.
*Biệt giáo: chỉ cho các kinh Đại thừa Phương Đẳng khác, chuyên vì các bậc Đại Bồ Tát mà giảng nói.
*Viên giáo: chỉ cho giáo nghĩa viên mãn của kinh Pháp Hoa.
Mãn tự giáo: Giáo nghĩa Đại thừa viên dung, giống như chữ đã hoàn thành, gọi là Mãn tự giáo. Gọi chung với Bán tự giáo là Bán Mãn nhị giáo. Song, theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển 10, Bồ Đề Lưu Chi thời Bắc Ngụy cho rằng; Những giáo nghĩa Tiểu thừa hữu tướng mà Phật đã nói 12 năm sau khi thành đạo, đều thuộc về Bán tự giáo; 12 năm trở về sau, vì hàng Đại thừa nói năm thời Bát nhã, giảng về lý không vô tướng, đây thuộc về Mãn tự giáo.
Thất khuyến: Bồ Tát hàng Thất địa, ở chỗ này hướng lên trên thì không có Bồ để cầu, nhìn xuống dưới không có chúng sanh để độ, do đó đắm chìm nơi lý vô tướng vắng lặng, có mối lo chẳng thể tu hành, đây gọi là tai nạn đắm chìm vào chỗ không của hàng Thất địa. Khi ấy chư Phật trong mười phương dùng bảy pháp khuyến khích tinh tấn, khích lệ phát khởi dũng khí tu hành để tiến đến Bát địa.
Lục tức Phật: Tông Thiên Thai từ nơi Phật mà phán lập vị thứ “Lục tức”, gọi là “Lục tức Phật”. Theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ Diệu Tông Sao quyển thượng, Lục tức Phật là:
- Lý tức Phật: là chỉ cho tất cả chúng sanh. Bởi vì tất cả chúng sanh vốn đầy đủ lý Phật tánh, không hai không khác với các Đức Như Lai, đều tức là Phật, cho nên gọi là Lý tức Phật.
- Danh tự tức Phật: là chỉ người hoặc từ thiện tri thức nghe biết, hoặc từ trong kinh điển mà thấy được, hiểu rõ danh từ “lý tánh tức Phật” này. Những người ấy nơi danh tự thông suốt, thấu rõ tất cả các pháp đều là Phật pháp nên gọi Danh tự tức Phật.
- Quán hạnh tức Phật: là chỉ người đã hiểu rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, tiến thêm y theo giáo pháp tu hành, đạt đến chỗ tâm quán rõ ràng, lý và tuệ tương ưng, quán hạnh tương tức. Những người này nói thế nào làm thế ấy, lời nói và việc làm nhất trí. Do chứng vị này nên gọi Quán hạnh tức Phật.
- Tương tợ tức Phật: là chỉ cho người ở nơi vị Quán hạnh tức Phật nói trên, càng quán càng sáng, càng dừng (chỉ) càng lặng, được sáu căn thanh tịnh, đoạn trừ kiến tư hoặc, chế phục vô minh. Những người này tuy chưa thể thật chứng lý ấy, nhưng nơi lý dường như thật chứng, cho nên gọi là Tương tợ tức Phật.
- Phần chứng tức Phật: là chỉ đoạn vô minh từng phần mà chứng từng phần Trung đạo.
- Cứu cánh tức Phật: là chỉ cho bậc đoạn trừ nguyên phẩm vô minh (là vô minh rốt ban đầu vi tế nhất, khó đoạn trừ nhất), hiển phát trí giác cứu cánh viên mãn, tức là chứng nhập quả vị Phật Diệu Giác cùng tột.
Sáu vị thứ Phật này, tuy do mê ngộ sâu cạn mà có sáu sự sai biệt, nhưng vì thể tánh không hai, kia đây tức là nhau, cho nên gọi là “tức”.
Mạn: đối với người tu học bằng mình thì chấp rằng chỉ bằng mình; còn đối với người tu học yếu kém thì chấp rằng mình hơn mà sinh khởi tâm cao mạn.
Quá mạn: đối với người tu học bằng mình thì chấp rằng mình hơn; đối với người hơn mình thì chấp rằng mình bằng họ.
Mạn quá mạn: tranh lấy phần hơn, như người ta vốn hơn mình mà chấp rằng mình hơn người mà nói quyết rằng mình hơn.
Bát điên đảo: là tám sự thấy biết sai lầm, mê chấp của phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu chấp pháp hữu vi sanh diệt là thường, lạc, ngã, tịnh. Hành giả Nhị thừa chấp vô vi Niết Bàn là chẳng thường, chẳng lạc, chẳng tịnh.
*Thường điên đảo: đối với pháp thế gian vô thường mà cho là thường.
*Lạc điên đảo: cái vui ngũ dục của thế gian đều là nguyên nhân chuốc lấy đau khổ, phàm phu chẳng rõ lý này, vọng chấp là vui.
* Ngã điên đảo: thân này đều do tứ đại giả dối hoà hợp mà thành vốn không có “ta”, phàm phu chẳng rõ lý này ở nơi tự thân gượng cho là có chủ tể, vọng chấp là ta.
*Tịnh điên đảo: thân mình, thân người đều có năm thứ nhơ nhớp, phàm phu chẳng rõ lý này vọng sanh khởi tham đắm chấp cho là thật.
*Vô thường điên đảo: nơi Pháp thân thường trụ của Như Lai vọng cho là có tướng sanh diệt biến đổi.
*Vô lạc điên đảo: nơi niềm vui Niết Bàn thanh tịnh cho là không vui.
* Vô ngã điên đảo: nơi chân ngã Phật tánh, vọng cho là vô ngã.
*Vô tịnh điên đảo: thân Như Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực, chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân máu thịt, gân xương ràng rịt, hàng Nhị thừa chẳng rõ lý này nên chấp là bất tịnh.
Biến kế sở chấp tánh: tức là sự chấp trước mọi sự vật và lượng định một cách sai lạc, ví như người nhận lầm dây là rắn.
Y tha khởi tánh: là tánh chất nương nơi cái khác khởi hiện, như sợi dây nương nơi xơ gai mà có.
* Mười dạng thọ trì: Ghi chép, cúng dường, bố thí, lắng nghe, xem đọc, thọ trì, diễn thuyết, phúng tụng, tư duy, tu tập.
*Bốn duyên:
(1) Nhân duyên: Tự thể sanh tự quả là nhân, lấy nhân làm duyên.
(2) Đẳng vô gián duyên: Tâm và tâm sở lần lượt không gián đoạn tiếp nối sinh khởi.
(3) Sở duyên duyên: Tâm và tâm sở theo duyên mà sinh, hay là chỗ mà tự tâm duyên lự (nghĩ ngợi).
(4) Tăng thượng duyên: Sáu căn hay soi cảnh vật phát khởi thức, có lực dụng tăng thượng, khi các pháp sinh, chẳng sanh chướng ngại.
*Sáu nhân: Luận về thể của nhân, có sáu thứ: năng tác nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân, dị thục nhân.
* Năm quả: là quả hữu vi, vô vi do sáu nhân sinh ra và từ đạo lực mà chứng được:
(1) Đẳng lưu quả, còn gọi là Tập quả.
(2) Dị thục quả, còn gọi là Báo quả.
(3) Ly hệ quả, còn gọi là Giải thoát quả.
(4) Sĩ phu quả, còn gọi là Công dụng quả.
(5) Tăng thượng quả.
Trong đó, Ly hệ quả thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại đều thuộc về hữu vi.
*Tứ môn Viên giáo: Có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không.
*Sơ môn của Tạng giáo: là phát khởi tứ hoằng thệ nguyện.
*Năm điều sợ hãi: Người chưa thấy đạo có năm điều sợ hãi:
1. Khi bố thí sợ mình không đủ sống nên không thể cho hết.
2. Sợ tiếng xấu nên không thể hòa quang đồng trần.
3. Sợ chết nên không thể bỏ thân vì đạo.
4. Sợ đọa đường ác nên đối trị pháp bất thiện.
5. Sợ uy đức của đại chúng, không thể diễn thuyết tự tại trước họ.
* Ba loại Bồ đề: Chân tánh Bồ đề, Thật trí Bồ đề, Phương tiện Bồ đề.
11-23-2008 11:23:46