TRÍCH LỤC TỪ NGỮ PHẬT HỌC
(Quyển Hạ)
Cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn, đánh máy và trình bày trang sách
Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt
Ma. “Ma” cũng gọi là “ác ma”, có nghĩa là giết hại, phá hoại, chướng ngại, cướp đoạt mạng sống; dùng để chỉ cho những loài quỉ thần hung ác, chuyên cản trở các việc lành. Kinh điển thường nói, thiên ma (hay thiên ma ba tuần) ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại là loại thần hay phá hoại chánh giáo. Ma là một thế lực mạnh, nên cũng được gọi là “ma vương”, hay “ma quân”. Kinh Phật Bổn Hạnh Tập liệt kê có 20 loại ma quân: ma ham muốn, ma không hoan hỉ, ma đói khát nóng lạnh, ma mê đắm, ma ham ngủ, ma sợ sệt, ma nghi hoặc, ma sân hận, ma tranh danh đoạt lợi, ma ngu si, ma kiêu căng ngạo mạn, và ma hại người. Nói chung, tất cả những phiền não, nghi ngờ, mê luyến, v.v... thường nhiễu hại chúng sinh, đều gọi là “ma”. Những thứ nhiễu loạn ấy, nếu từ trong tâm mình phát sinh thì gọi là “nội ma”; nếu từ ngoại giới vướng vào thì gọi là “ngoại ma”. Luận Đại Trí Độ cho rằng, tất cả những gì không phải là thật tướng của các pháp thì đều là “ma”. Luận Du Già Sư Địa phân “ma” làm bốn loại: ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, và ma trời (thiên ma làm chướng ngại đạo giải thoát). Phiền não chướng và sở tri chướng cũng được coi là hai loại ma. Có thể nói tóm tắt một câu: “Ma là tất cả các thế lực vô minh, luôn luôn tìm mọi cách ngăn trở con đường tiến đến giác ngộ giải thoát”. Vì vậy, từ “bố ma” có nghĩa là hùng lực của hành giả làm cho tất cả các thế lực vô minh phải khiếp sợ. Cho nên, đã là đệ tử Phật thì nhất định không vì danh vị, lợi dưỡng mà tán đồng, dua nịnh, thậm chí còn khiếp sợ, phải tự nguyện sống nương nhờ vào các thế lực ác ma.
Ma Đăng Già (Matanga): là tiếng người Ấn-độ dùng gọi chung cho dân hạ tiện phái nam; dân hạ tiện phái nữ thì gọi là Ma Đăng Kì (Matangi). Loại tiện dân này sống bằng nghề quét đường. “Ma Đăng Già nữ” (được đề cập trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm) nghĩa là con gái của nhà Ma Đăng Già, hay nói vắn tắt là “nàng Ma Đăng Già”. Theo pháp sư Viên Anh, trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, “Ma Đăng Già” dịch ra Hán ngữ là “hạ tiện chủng” (dòng hạ tiện), là tên của người mẹ. Con gái của bà tên là Bát Kiết Đề, dịch là “bản tánh”, nghĩa là tuy mang thân làm dâm nữ, nhưng bản tính không mất. Nàng được gọi theo tên mẹ, nên gọi là nàng Ma Đăng Già.
Ma Ha Chỉ Quán: là một bộ luận thuộc pháp điển Trung-quốc, gồm 10 quyển, hoàn thành năm 594, do đại sư Quán Đảnh (561-627) ghi lại các thời thuyết giảng của sư phụ là đại sư Trí Khải (538-597), được thu vào quyển 42 của Tạng Đại Chánh.
Ma Ha Ma Da (Mahamaya) và Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati) là hai chị em, và đều là em ruột của vua Thiện Giác, vương quốc Câu-lị. Sau khi sinh thái tử được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Ha Ma Da tạ thế, lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (cũng gọi là Kiều Đàm Di – Gautami) liền được vua Tịnh Phạn đưa lên ngôi hoàng hậu, và được giao cho nhiệm vụ nuôi nấng thái tử. Bà vừa là dì ruột của thái tử, lại vừa đảm trách nhiệm vụ làm mẹ thái tử, nên bà thường được gọi là “di mẫu” của thái tử.
Ma-kiệt-đà (Magadha): là một trong 16 nước lớn ở lục địa Ấn-độ thời Phật tại thế, kinh đô đặt tại thành Vương-xá (Rajagrha). Tiếng Phạn “Maga-dha” đã được dịch ra Hán ngữ bằng nhiều tên: Ma-yết-đà, Ma-già-đà, Ma-ha-đà, Ma-kiệt-đề, v.v..., nhưng thông dụng nhất là tên Ma-kiệt-đà, nằm phía Nam xứ Bihar ngày nay. Nước này cùng với Kiều-tát-la (Kosala) là hai vương quốc lớn nhất và hùng mạnh nhất trong toàn lãnh thổ Ấn-độ thời Phật tại thế. Ma-kiệt-đà vào thời đó đã được coi là trung tâm của tư tưởng và tôn giáo của người Ấn-độ; riêng đối với Phật giáo, lại càng có quan hệ rất sâu đậm. Đức Thích Ca Mâu Ni, sau khi rời thành Ca-tì-la-vệ (ở phía cực Bắc Ấn-độ) đi xuất gia, đã tiến về vùng Phật-đà-già-da (Buddhagaya) của nước này để học đạo và tu hành cho đến ngày thành đạo. Vua Tần Bà Sa La của nước Ma-kiệt-đà là vị vua đầu tiên trong hàng vua chúa đã trở thành một Phật tử thuần thành, trung kiên của đức Phật, một đại thí chủ của giáo đoàn. Tinh xá Trúc-lâm là một tu viện đồ sộ, qui mô đầu tiên của giáo đoàn cũng đã được xây cất ở ngoại ô kinh thành Vương-xá của nước này. Ba vị tôn giả đệ tử thượng thủ của đức Phật, có khả năng thay Phật lãnh đạo giáo đoàn là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên và Đại Ca Diếp, cũng là dân của nước Ma-kiệt-đà. Ba anh em tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, cùng với 1.000 đồ chúng của họ, là tập thể ngoại đạo đông đảo nhất đã qui hướng và xuất gia theo Phật, cũng đều là dân của nước Ma-kiệt-đà.
Trước khi đức Phật nhập niết bàn, vua Tì Lưu Li (Virudhaka – con của vua Ba Tư Nặc) của nước Kiều-tát-la đã đem quân sang thành Ca-tì-la-vệ giết sạch dòng họ Thích-ca. Trên đường về, ông dừng quân trên bờ sông A-chỉ-la (Aciravati) để nghỉ đêm, đã bị nước lũ từ dưới sông dâng lên thình lình, ông và cả đoàn quân tướng đều bị nước cuốn trôi, chết sạch. Thế là toàn bộ nước Kiều-tát-la và nước Ca-thi (Kasi – thuộc địa của Kiều-tát-la, kinh đô là thành Ba-la-nại) đều được sát nhập vào nước Ma-kiệt-đà, dưới quyền thống trị của vua A Xà Thế (vì ông là cháu của vua Ba Tư Nặc). Sau khi đức Phật nhập diệt được 3 năm, vua A Xà Thế đã đánh chiếm nước Bạt-kì, sáp nhập vào Ma-kiệt-đà. Vậy là, dưới thời vua A Xà Thế, vương quốc Ma-kiệt-đà đã được mở rộng, bao trùm một vùng lãnh thổ rộng lớn từ bản địa cho đến nước Kiều-tát-la ở phía Bắc. Dưới vương triều Khổng-tước (Maurya, khoảng từ năm 317-180 tr. TL), vua A Dục (Asoka) thống nhất gần khắp lục địa Ấn-độ, biến nước Ma-kiệt-đà thành đế quốc A-dục, làm cho thanh danh Ma-kiệt-đà vang dội khắp vùng Trung Á. Sau khi qui y Tam Bảo, nhà vua trở thành một vị hộ pháp đắc lực, đã cho các vị cao tăng sứ giả đem Phật pháp truyền bá rộng rãi, không những trên toàn khắp bán đảo Ấn-độ, mà còn lan ra khắp cả các nước xa xôi, phía Nam đến tận Tích-lan, phía Bắc là các nước vùng Trung Á, Tây đến Hi-lạp, Đông đến Miến-điện... Đến thế kỉ thứ 5 TL, chùa Na-lan-đà được kiến tạo tại Ma-kiệt-đà, thành viện đại học Phật giáo đầu tiên, và cũng là trung tâm của Phật giáo Ấn-độ.
Thế kỉ thứ 7, pháp sư Huyền Trang của Trung-quốc sang tu học ở học viện Na-lan-đà, có thuật vài nét về Ma-kiệt-đà (trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí) như sau: “Nước Ma-kiệt-đà chu vi rộng hơn 5.000 dặm, đất đai mầu mỡ, phong tục thuần phác, sùng tín Phật pháp, có hơn 50 ngôi già lam, tăng đồ hơn vạn người, phần nhiều tu học theo giáo pháp đại thừa; các di tích quan trọng còn thấy như nơi Phật tu khổ hạnh, nơi ba anh em Ca Diếp qui y theo Phật; gần kinh đô Hoa-thị còn thấy các di tích như phiến đá in bàn chân Phật, tháp vua A Dục, chùa Kê-viên, v.v...”
Mã Minh (Asvaghosa - khoảng 100-160): Ngài là người Ấn-độ, sinh trong một gia đình Bà-la-môn, thôn Ta-chỉ-đa, thành Xá-vệ. Gia tộc ngài có quan hệ sâu đậm với vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska - khoảng thế kỉ đầu TL, vua đời thứ ba của vương triều Quí Sương - Kusana, nước Nhục-chi – cũng đọc là Nguyệt-thị – kế thế vua A Dục, cai trị toàn vùng Bắc Ấn-độ). Lúc nhỏ ngài theo học ngoại đạo, sau được cơ hội đàm luận với Hiếp tôn giả (Parsva), bị tôn giả thuyết phục, bèn cảm kích mà xin qui y, thọ cụ túc giới, và được tôn giả phú cho pháp tạng, trở thành vị tổ thứ 12 kế thừa pháp tạng. Ngài tinh tường cả nội ngoại điển, thông suốt ba tạng, được coi là thế hệ tiền phong của nền văn học Phạn ngữ thời kì cổ điển, để lại danh tiếng lớn lao trong văn học sử Phạn ngữ. Ngài đem cuộc đời đức Phật viết thành tác phẩm tự sự Phật Sở Hành Tán (Buddhacarita) bằng thể thơ; lại lấy sự tích tôn giả Nan Đà (Nanda) dứt bỏ tình yêu với người vợ đẹp, viết thành thi phẩm lừng danh Tôn Đà La Nan Đà (Saundara-nanda). Bởi vậy ngài cũng được coi là một đại thi hào Phật giáo. Luận Đại Thừa Khởi Tín là một tác phẩm nổi danh của ngài, rất được mọi người biết đến; trong đó ngài nêu lên các giáo lí trọng yếu, cũng như chỉ bày đường lối tu tập theo giáo pháp đại thừa, mà phần cuối có đoạn khuyên người tu nên chuyên tâm niệm Phật và cầu vãng sinh về cõi Tịnh-độ.
Về niên đại của ngài Mã Minh, có nhiều thuyết nói khác nhau (như sau ngày Phật diệt độ khoảng 300 năm, 400 năm, hoặc 500 năm), không thể xác định rõ ràng. Lại nữa, theo luận Thích Ma Ha Diễn ghi chép, từ thời Phật tại thế cho đến 800 năm sau khi Ngài nhập diệt, có tất cả 6 ngài Mã Minh ra đời (2 ngài cùng thời đại với đức Phật; 1 ngài vào khoảng 100 năm PL; 1 ngài vào khoảng 300 năm PL, 1 ngài vào khoảng 600 năm PL; và 1 ngài vào khoảng 800 năm PL).
Tác giả Shoma Gyokei của sách Ấn Độ Phật Giáo Sử thì xác quyết: “Ngài Mã Minh luận chủ luận Khởi Tín là tác giả tư tưởng thuần Đại thừa thì xuất hiện ở thời đại sau, riêng về ngài Mã Minh kiêm học cả Tiểu thừa và Đại thừa thì xuất thế ở khoảng thời đại giữa tuổi vãn niên của vua Kaniska, cho tới khoảng ngài Long Thọ xuất thế, tức là khoảng 700 năm sau khi Phật diệt độ, hậu bán thế kỷ thứ II Tây lịch.” (Trích trong sách Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Thành Hội Phật Giáo TP HCM ấn hành, năm 1995, tr. 142.)
Trong sách vừa dẫn trên, sau khi nêu ra các tác phẩm của ngài Mã Minh hiện còn lưu truyền, hòa thượng Thích Thanh Kiểm nhận xét:
“Căn cứ vào nội dung giáo nghĩa của các bộ kể trên thì giáo nghĩa của luận Khởi Tín thuộc giáo lý thuần túy Đại thừa, còn các bộ khác hoặc thuộc giáo nghĩa thuần Tiểu thừa, hoặc thuộc giáo nghĩa kiêm cả Tiểu thừa và Đại thừa. Vì vậy, Kyono Tetsu, tác giả cuốn Ấn Độ Phật Giáo Sử Cương (trang 179) đã kết luận: ‘Ngài Mã Minh thuộc tư tưởng Tiểu thừa thì xuất hiện ở khoảng trước hoặc sau thế kỷ thứ I, còn ngài Mã Minh thuộc tư tưởng Đại thừa thì hoàn toàn là người xuất hiện ở thế kỷ sau.’ Như vậy tác giả cuốn sử kể trên nhận có hai ngài Mã Minh ra đời. Nhưng suy luận theo tác phẩm thì có thể chỉ là một ngài Mã Minh, vì lúc đầu ngài tin theo Tiểu thừa, nên trước tác của ngài thuộc về Tiểu thừa giáo, sau ngài chuyển hướng theo Đại thừa nên trước tác của ngài cũng là tư tưởng Đại thừa. Tức là, ngài là bậc kiêm học cả Tiểu thừa và Đại thừa.” (Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, sách đã dẫn trên, tr. 145.)
Mầm cháy hạt mục (tiêu nha bại chủng). Đây là một thành ngữ Phật học, dùng để chỉ cho hàng nhị thừa (Thanh-văn và Duyên-giác), không có khả năng phát tâm vô thượng bồ đề, chẳng khác gì mầm cây bị cháy khô, hay hạt giống bị hư mục. Kinh Duy Ma Cật nói: “Hàng nhị thừa giống như mầm cháy hạt mục, không thể phát đạo tâm vô thượng.”
Mật chú. “Mật chú” (cũng gọi là chú, thần chú, cấm chú, hay chân ngôn) là thứ ngôn ngữ bí mật, có sức linh cảm đặc biệt, mà ngôn ngữ người thường không thể giải thích được. Nguyên thỉ, chữ “chú”, hay “chú thuật”, là những lời được người ta tụng niệm trước các vị thần, hoặc để cầu xin thần phù hộ cho tai qua nạn khỏi, hoặc xin thần giáng họa cho kẻ cừu địch của mình. Thời cổ Ấn-độ, chú thuật đã từng xuất hiện trong kinh điển Phệ Đà. Trong Kinh Trường A Hàm, đức Phật đã từng bài xích chú thuật; nhưng trong Kinh Tạp A Hàm có lúc đức Phật cũng dùng đến chú thuật ở những trường hợp cần thiết (như câu chú “Độc Xà Hộ Thân” do Phật nói, ghi trong Kinh Tạp A Hàm, quyển 9). Điều đó cho thấy, chú thuật vốn đã được phổ biến rất sớm trong khắp lãnh thổ Ấn-độ; và có lúc cũng được Phật giáo dùng đến. Trong các bộ kinh đại thừa thuộc loại “Hiển giáo”, như Bát Nhã, Pháp Hoa, Bảo Tích, Lăng Già, v.v... đều có ghi chép các câu cấm chú, hoặc có nguyên một phẩm về “đà-la-ni”. Nói chung, trong các kinh luật, mật chú được đề cập rất nhiều, Mật giáo lại càng coi trọng mật chú, cho rằng, mật chú biểu thị cho pháp tánh thường trú, nếu chuyên tâm đọc tụng và quán tưởng, sẽ thành tựu được quả Phật. Mật chú có thiện có ác. Thiện chú có thể trị bệnh hoặc hộ thân; ác chú dùng để thư, ếm, hại người. Đức Thế Tôn luôn luôn cấm chỉ các vị đệ tử dùng các loại ác chú, chỉ được dùng các loại thiện chú trong trường hợp cần thiết mà thôi.
Mật thừa. Theo kinh điển Mật giáo, Phật giáo gồm có ba thừa: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim-cương thừa. Với các đệ tử có trí tuệ thấp kém, Phật dạy cho giáo pháp Tiểu thừa; với các đệ tử có trí tuệ trung bình, thêm vào giáo pháp Tiểu thừa, Phật dạy cho giáo pháp Đại thừa; với các đệ tử có trí tuệ cao siêu, sau các giáo pháp Tiểu và Đại thừa, Phật còn dạy cho giáo pháp Kim-cương thừa. Bởi vậy, Kim-cương thừa mới là tối thượng thừa. Mật giáo cho rằng, trong khi giáo pháp Tiểu và Đại thừa chỉ là giáo pháp phương tiện, đã được đức Phật dùng loại ngôn ngữ thông thường để giảng dạy, dễ hiểu, dễ nhận, thì giáo pháp Kim-cương thừa là loại giáo pháp “bí mật”, thù thắng nhất, sâu xa nhất, không thể phát biểu bằng ngôn ngữ thông thường, mà được nói bằng chính ngôn ngữ chân thật (chân ngôn) của Phật; vì vậy, Kim-cương thừa cũng được gọi là Mật thừa, hay Bí-mật thừa.
Mê sự (sự hoặc) - Mê lí (lí hoặc). Mê sự là chỉ cho tư hoặc, là những phiền não tham, sân, si v.v... làm cho tâm ý mê đắm theo sự tướng trần cảnh; trái lại là mê lí, tức kiến hoặc, là các thứ phiền não làm cho thấy biết sai lầm tà ngụy, không thấy được chân lí, không tỏ ngộ bốn sự thật, không có chánh kiến.
Mê tín: là tin tưởng một cách mù quáng, tin mà không cần suy xét xem có đúng với chân lí hay không; như tin vào sự an bài của định mệnh, tin vào sự ban phước giáng họa của thượng đế hay thần linh, tin vào sự sống đời đời ở hỏa ngục hay thiên đàng sau khi chết, tin chết rồi là tất cả đều hư vô, không có nhân quả nghiệp báo, không có sinh tử luân hồi, v.v...
Minh Thắng (?-?). Sự tích của pháp sư Minh Thắng không được tài liệu nào ghi lại rõ ràng, chỉ biết ngài sống và hành đạo cùng thời với đại sư Cát Tạng (549-623); và cả hai cùng là môn nhân của đại sư Pháp Lãng (507-581), một trong những ngôi sao sáng của Tam Luận tông. Đó là thời kì từ giữa thời đại Nam-Bắc-triều (420-581) sang nhà Tùy (581-618), đến đầu nhà Đường (618-907). Trong khi ngài Cát Tạng xiển dương tông Tam Luận ở Nam-địa (Nam-triều) thì ngài Minh Thắng xiển dương tông Tứ Luận ở Bắc-địa (Bắc-triều). Theo Phật Quang Đại Từ Điển (mục “Tứ Luận Tông”) thì Tứ Luận tông nguyên đã được đại sư Đàm Loan (476-531) khai sáng từ thời Bắc-Ngụy (386-534). Ngài Đàm Loan đã kế thừa Không Luận của ngài Tăng Triệu (đệ tử lớn của ngài Cưu Ma La Thập), đem Luận Đại Trí Độ thêm vào Ba Bộ Luận, hoằng dương Không nghĩa, sáng lập Tứ Luận tông.
Mõ: được đẽo bằng gỗ (mộc), có khắc hay vẽ hình con cá (ngư), là có ý cảnh tỉnh người tu hành không nên giải đãi, mà hãy chế ngự tính hôn trầm, luôn luôn tỉnh giác, tinh tấn. Con cá ngày đêm mở mắt, nói lên ý nghĩa đó. Có khi con cá lại được thay bằng con rồng, đó là ý nghĩa “cá hóa rồng” (ngư hóa long); ý nói, do tinh tấn tu tập mà hành giả từ phàm phu tiến lên làm hiền thánh.
Môn đình. Từ “môn đình” được dùng trong thiền môn với nhiều nghĩa: các nơi tòng lâm, đạo tràng của Thiền tông; tông chỉ, tông phong của Thiền tông; pháp phương tiện dùng để dẫn dắt môn đồ ở bước đầu.
Mộng Đông (1741-1810): tức đại sư Tế Tỉnh, vị tổ thứ 12 của tông Tịnh Độ. Ngài họ Mã, tự Triệt Ngộ, hiệu Mộng Đông, lại có hiệu là Nạp Đường, quê huyện Phong-nhuận, tỉnh Hà-bắc. Ngài từ nhỏ đã thông minh hiếu học, năm 22 tuổi bị bịnh nặng, nhân đó mà thấy rõ thân huyễn hóa vô thường. Sau khi khỏi bịnh, ngài đến am Tam-thánh (huyện Phòng-sơn, tỉnh Hà-bắc), lạy hòa thượng Vinh Trì xin xuất gia. Năm sau ngài thọ cụ túc giới với luật sư Hằng Thật ở chùa Tụ-vân. Kể từ năm 21 tuổi, ngài đã học kinh Viên Giác với pháp sư Long Nhất ở chùa Hương-giới, học Duy Thức với pháp sư Tuệ Ngạn ở chùa Tăng-thọ, học Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang với pháp sư Biến Không ở chùa Tâm-hoa, nhờ đó mà thông suốt yếu chỉ của cả hai tông Tánh, Tướng. Năm 28 tuổi, ngài đến chùa Quảng-thông, tham yết thiền sư Túy Như, tỏ ngộ thiền cơ, được truyền tâm ấn, trở thành đệ tử đời 36 của tông Lâm Tế. Năm ngài 38 tuổi, thiền sư Túy Như về an dưỡng tại chùa Vạn-thọ, ngài kế nhiệm trú trì chùa Quảng-thông, hướng dẫn đồ chúng vừa tham thiền vừa tu pháp môn niệm Phật, đề xướng “Thiền Tịnh song tu”, ròng rã 14 năm, tông phong sáng rỡ, danh tiếng vang dội Bắc, Nam. Năm 52 tuổi, ngài dời về chùa Giác-sinh, lãnh đạo đồ chúng tu Tịnh Độ. Ngoài Niệm-Phật-đường, ngài còn lập Niết-bàn-đường để lo việc tống táng, An-dưỡng-đường để nuôi dưỡng người già, và Học-sĩ-đường để đào tạo chư tăng. Do công đức đó mà tiếng tăm ngài càng thạnh, tăng tục các nơi đều qui về y thác. Năm 60 tuổi, ngài lui về ở chùa Tư-phúc (trên núi Hồng-loa, huyện Hoài-nhu, tỉnh Hà-bắc – vùng phụ cận thành phố Bắc-kinh), đồ chúng ngưỡng vọng, lại kéo nhau theo về. Ngài không nỡ bỏ, lại tiếp tục giảng diễn và khuyên tu Tịnh Độ, khiến nơi này trở thành một ngôi đại tòng lâm của tông Tịnh Độ. Năm 70 tuổi, đầu năm ngài về chùa Vạn-thọ, quét tháp tổ Túy Như, khuyên tăng chúng niệm Phật, rồi từ biệt mọi người, trở về núi Hồng-loa. Đến cuối năm, ngài viên tịch. Trước tác của ngài có: Niệm Phật Di Đà, Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục.
Một lẽ chân thật (nhất thật): chỉ cho lí chân thật, tuyệt đối, tức là thật tướng chân như. “Thật” nghĩa là không điên đảo, không hư dối, là thật tướng bình đẳng không hai. Dùng lí thể chân thật để giáo hóa chúng sinh, đem chúng sinh về đạo nhất thừa, gọi là “nhất thật giáo pháp”, “nhất thừa giáo pháp”, hay “nhất thật đế”.
Một và nhiều ở trong nhau (nhất đa tương nhập): cũng tức là “một và nhiều dung chứa nhau” (nhất đa tương dung) là một trong những giáo nghĩa trọng yếu của kinh Hoa Nghiêm. Kinh này có câu: “Một thế giới nằm trong vô lượng thế giới, vô lượng thế giới nằm trong một thế giới.” Nói cách khác: một sự vật có mặt trong tất cả các sự vật, tất cả các sự vật có mặt trong một sự vật. Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó có ra, nhưng đã do tất cả những yếu tố “không phải là sách” hợp lại làm thành (như giấy, mực, máy in, nhân công; rồi những vật liệu làm ra giấy như gỗ, thợ gỗ, nhà máy, nhân công v.v...; rồi những thứ đã làm nên gỗ như hạt giống, đất, nước, ánh sáng mặt trời, không khí v.v...; rồi những thứ đã nuôi sống thợ in, nhân công làm giấy như cơm, thịt, rau, cá v.v...; rồi những gì liên quan đến cơm, thịt, rau, cá ..., nhiều lắm, cùng khắp vũ trụ, không thể nào kể ra hết được). Bởi vậy, giữa cuốn sách và chiếc máy in, mặt trời, người nông dân, con cá v.v... không có gì ngăn cách; trong cuốn sách có tất cả mọi thứ giấy, mực, máy in, thợ gỗ, thợ nề, con bò, hạt gạo, đám mây, không khí v.v...; và đồng thời cuốn sách cũng có mặt trong tất cả mọi thứ kia. Hành giả khi đã đạt được cái thấy này thì tâm ý tức khắc được giải thoát khỏi những ràng buộc, những hạn chế, những chướng ngại của ngã chấp và pháp chấp, chấm dứt đau khổ.
Mục Kiền Liên (Maudgalyayana): là một trong mười vị đệ tử lớn của Phật, và được mọi người tôn xưng là vị có “thần thông bậc nhất” trong tăng đoàn. Tôn giả là con của một gia đình Bà-la-môn, ở làng kế cận làng của tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả cùng với tôn giả Xá Lợi Phất vốn là bạn chí thân, cùng là bậc thông minh tài trí hơn người, lớn lên cùng học một thầy là đạo sĩ San Xà Da, rồi cùng theo Phật xuất gia làm tì kheo. Sau khi chứng quả A-la-hán, tôn giả cũng cùng tôn giả Xá Lợi Phất thường kề cận bên đức Phật để giúp Ngài trong công việc hoằng hóa. Cả hai vị đều là bậc thượng thủ trong tăng đoàn. Tôn giả Mục Kiền Liên, ngoài sở trường về thần thông, còn nổi tiếng là người có hiếu, vì đã cứu được mẹ thoát khỏi cảnh khổ Ngạ-quỉ. Công tác hoằng hóa đặc sắc của tôn giả là việc hóa độ cho thiếu phụ Liên Hoa Sắc (Utpalavarna), từ một nàng kĩ nữ lừng danh trở thành một vị tì kheo ni gương mẫu, chứng quả A-la-hán, có thần thông số một trong hàng ni chúng. Cuối đời, tôn giả đã bị ngoại đạo, vì ganh ghét, đã chận đường và dùng gạch đá gậy gộc hành hung cho đến chết. Chính đức Phật đã cho xây tháp bên cổng tu viện Trúc-lâm để thờ tôn giả. Sự việc này xảy ra chỉ vài tháng trước khi tôn giả Xá Lợi Phất viên tịch.
Mục Kiền Liên Đế Tu: tức là Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Maudgaliputra Tisya), gọi tắt là Đế Tu, vị thánh tăng Ấn-độ, tinh thông Ba Tạng, sống cùng thời đại với vua A Dục. Năm 16 tuổi ngài xuất gia, thọ giới sa di với sa môn Tư Già Bà (Siggava), khi trưởng thành, thọ giới cụ túc với sa môn Chiên Đà Bạt Xà (Candavajji); nhưng lại đắc pháp với sa môn Tư Già Bà, chuyên hộ trì tạng Luật, chứng quả A-la-hán, được vua A Dục tôn làm thầy, giúp nhà vua trong việc giáo hóa nhân dân. Năm thứ 6 sau ngày lên ngôi, vua A Dục đã khuyến khích con mình là hoàng tử Ma Thẩn Đà (Mahinda), theo ngài Đế Tu xuất gia, tham học Ba Tạng. Ba năm sau, ngài Đế Tu vào núi A-hô-hằng-hà (Ahoganga) ẩn tu, giao trách nhiệm thống lĩnh tăng già cho Ma Thẩn Đà. Lúc bấy giờ, vì được sự ngoại hộ nhiệt thành của vua A Dục, mà Phật giáo ở Ấn-độ cực kì hưng thịnh. Nhân đó, rất nhiều ngoại đạo (sách sử ghi con số có tới sáu vạn) đã lợi dụng tình hình này để mưu cầu cơm áo, cũng giả làm tăng để trà trộn vào tăng đoàn, vừa có cơm áo để sống, vừa gây ra nhiều mối phân tranh để phá hòa hợp tăng, phá hoại chánh pháp, đến nỗi, tăng chúng trong chùa A-dục-vương ở ngay kinh thành Ba-liên-phất, trong 7 năm liền đã không hề cử hành lễ bố-tát.
Vua A Dục thấy tình thế như vậy, rất lo sợ cho tiền đồ Phật pháp, liền quyết tâm muốn xác định lại kinh giáo của đức Phật, bèn sai sứ giả vào núi cung thỉnh ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm thượng tọa, trục xuất ma tăng, tịnh hóa tăng đoàn, triệu tập hàng vạn tì kheo để thuyết giới bố-tát. Rồi từ trong đại chúng ấy, 1.000 vị tì kheo thượng trí, thông suốt Ba Tạng, được tuyển chọn để cử hành đại hội kết tập thánh điển, trong 9 tháng thì hoàn thành. Đó là vào năm thứ 17 của vua A Dục trị vì; và Phật giáo Nam truyền gọi đây là kì kết tập kinh điển lần thứ ba. Sau kì kết tập này, ngài Đế Tu đã cho ra đời cuốn Luận Sự (Kathavatthu), nội dung thuyết minh những nghị luận giữa ngoại đạo và Phật giáo. Ngài viên tịch khi pháp lạp được 80. Phật giáo
Mượn cảnh tu tâm: tức là nương vào các hình thức lễ sám, tụng kinh, niệm Phật v.v... mà sửa đổi tính tình, làm cho tâm ý thuần thục, mở mang trí tuệ, thấy được chân lí. (Xem mục “Sự và Lí”.)
Na-do-tha (nayuta): là danh từ chỉ cho số một ức, nhưng “một ức” của Ấn-độ, khi thì chỉ mười vạn, khi thì một trăm vạn, khi thì một nghìn vạn, khi thì một vạn vạn; cho nên “na do tha” là một con số không nhất định, chỉ nên hiểu là rất nhiều.
Na Liên Đề Lê Da Xá (Narendrayasas, 490-589). Ngài người nước Ô-trành ở Bắc Ấn-độ, họ Thích-ca, thuộc dòng Sát-đế-lị, 17 tuổi xuất gia, tinh thông cả đại, tiểu thừa. Ngài thường vân du các nơi để đảnh lễ các di tích của đức Phật. Năm 556 ngài vào Trung-quốc, đến kinh đô Nghiệp-thành của nhà Bắc-Tề, được vua Văn-tuyên đế (550-559) kính lễ, mời trú tại chùa Thiên-bình để dịch kinh. Trong thời gian ngài dịch kinh và hành đạo ở Bắc-Tề thì vua Vũ đế (561-578) của nhà Bắc-Chu (ở phía Tây Bắc-Tề) đang ra sức tiêu diệt Phật giáo. Năm 576, sau khi thôn tính Bắc-Tề, vua Vũ đế của Bắc-Chu lại tiếp tục tiêu diệt Phật giáo ở Bắc-Tề, khiến ngài cùng bao nhiêu vị cao tăng khác phải ẩn trốn vào nơi núi rừng hoặc thôn quê hẻo lánh, khoác áo tục nhưng vẫn âm thầm hành đạo. Đến khi nhà Tùy dựng nước, Phật giáo được phục hưng, ngài đã được Tùy Văn đế mời về kinh đô, cư trú tại chùa Đại-hưng-thiện, cùng với các ngài Đàm Diên v.v... hơn 30 vị, chuyên về công tác dịch kinh. Năm 589 ngài viên tịch, thế thọ 100 tuổi. Trước sau ngài đã dịch được 13 bộ kinh, gồm hơn 70 quyển.
Nam-tông: tức là “Nam-tông thiền”, đối lại với “Bắc-tông thiền”. Thiền phái của Sơ-tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền đến đời thứ năm là Ngũ-tổ Hoằng Nhẫn; ngài Hoằng Nhẫn truyền sang đời thứ sáu thì chia thành hai chi phái, đặt địa bàn hoạt động tại hai miền khác nhau: Ngài Thần Tú (605-706) hoằng hóa ở Hoa-bắc, gọi là Bắc-tông thiền, hay Bắc-tông; ngài Tuệ Năng (638-713) hoằng hóa ở Hoa-nam, gọi là Nam-tông thiền, hay Nam-tông; do đó có một tên gọi chung là “Nam Năng Bắc Tú”. Vì ngài Tuệ Năng được Ngũ-tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát, cho nên đã chính thức trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung-quốc; và dòng thiền Nam-tông cũng được đương nhiên công nhận là dòng thiền chánh tông của Thiền tông Trung-quốc. Dòng thiền này về sau đã phát triển ra nhiều chi phái, được gọi là năm nhà bảy tông (ngũ gia thất tông, gồm có: tông Qui Ngưỡng, tông Lâm Tế, tông Tào Động, tông Vân Môn, tông Pháp Nhãn, phái Hoàng Long, phái Dương Kì). – Đối với Phật giáo Việt-nam, từ “Nam-tông” thường được dùng để chỉ cho Phật giáo Nam-truyền; và từ “Bắc-tông” thì chỉ cho Phật giáo Bắc-truyền.
Nam-triều (420-589): là một thời đại lịch sử của Trung-quốc kế tiếp sau thời đại Đông-Tấn. Thời đại này gồm có bốn vương triều nối tiếp nhau: Lưu-Tống (420-479), Nam-Tề (479-502), Tiêu-Lương (502-557), và Trần (557-589). Sau thời đại Đông-Tấn, Trung-quốc bị chia thành hai miền: Phía Nam sông Trường-giang có bốn vương triều nói trên kế tiếp nhau thống trị, đều đóng đô tại thành Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, nay là thành phố Nam-kinh, tỉnh Giang-tô), sử gọi đó là Nam-triều; phía Bắc sông Trường-giang do các vương triều Bắc-Ngụy, Đông-Ngụy, Tây-Ngụy, Bắc-Tề, và Bắc-Chu thống trị, sử gọi đó là Bắc-triều. Sau đó, nhà Tùy diệt cả Bắc lẫn
Nạn Tĩnh-khang. Tĩnh-khang (1126-1127) là niên hiệu của vua Khâm-tông, tức vị vua cuối cùng của vương triều Bắc-Tống (960-1127). Khâm-tông là con của vua Tống Huy-tông (1101-1125). Trong thời gian tại vị, vua Huy-tông, vì nghe lời nịnh thần cấu kết với đạo sĩ, đã hủy diệt Phật giáo đến cùng tận. Năm 1125, quân Kim đánh Tống rất gấp; sang đầu năm sau (1126), Huy-tông truyền ngôi cho Khâm-tông để làm thái thượng hoàng, rồi bỏ xuống Giang-nam trốn giặc. Vua Khâm-tông vẫn ở Biện-kinh (kinh đô nhà Bắc-Tống) để chống cự với giặc Kim. Sang năm 1127 (tức năm thứ hai niên hiệu Tĩnh-khang), thượng hoàng Huy-tông trở về Biện-kinh. Quân Kim liền đánh thẳng vào Biện-kinh, bắt tất cả từ thượng hoàng Huy-tông, vua Khâm-tông, hoàng hậu, đến thái tử, phi tần, hoàng tộc, tất cả là 3.000 người, lại cướp bóc vàng bạc cùng tất cả con gái trong thành Biện-kinh, đem về miền Bắc (nước Kim). Nạn “Tĩnh-khang” chính là nạn này.
Năm lên ngôi của vua A Dục. Nhiều thuyết nói khác nhau về năm lên ngôi của vua A Dục; nhưng niên đại được nhiều người đồng ý là năm 268 tr. TL (tức Luật Thiện Kiến nói, đó là năm 218 sau ngày đức Phật nhập diệt. – Theo Phật lịch cũ, đức Phật nhập diệt năm 486 tr. TL). Kì kết tập kinh điển lần thứ ba đã được cử hành vào năm thứ 17 kể từ năm vua A Dục lên ngôi (xem mục “A Dục”), cũng tức là năm 235 sau ngày đức Phật nhập diệt.
Năng - Sở. Một động tác thường có hai phần: phần chủ thể gây nên động tác, và phần đối tượng mà động tác ấy ảnh hưởng đến. Trong thuật ngữ Phật học, chữ “năng” được dùng để chỉ cho phía chủ thể; và chữ “sở” được dùng để chỉ cho phía đối tượng. Hai chữ này được dùng rất thường xuyên, tạo thành những đôi thuật ngữ ngắn gọn, xuất hiện rất nhiều trong kinh luận. Ví dụ: “Tâm biết (tri) vật”, thì TÂM gọi là “năng tri”, VẬT gọi là “sở tri”; “mắt thấy (kiến) sắc”, thì MẮT gọi là “năng kiến”, và SẮC gọi là “sở kiến”; “ý thức phân biệt pháp trần”, thì Ý THỨC gọi là “năng phân biệt”, và PHÁP TRẦN gọi là “sở phân biệt”; v.v...
Năng biến: là thuật ngữ Duy Thức Học, chỉ cho 8 thức. Theo tông Duy Thức, vạn pháp là do thức biến hiện, cho nên thức được gọi là “năng biến”. Thức có 8 tác dụng, được gọi là 8 thức, chia ra có 3 loại năng biến: Thức Thứ Tám (a-lại-da) gọi là “sơ năng biến” (năng biến thứ nhất); Thức Thứ Bảy (mạt-na) gọi là “đệ nhị năng biến” (năng biến thứ nhì); Sáu Thức Trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) gọi là “đệ tam năng biến” (năng biến thứ ba). Thức biến hiện ra vạn pháp, đồng thời cũng là tác dụng nhận thức đối với vạn pháp. Trong trường hợp này, vạn pháp là đối tượng nhận thức, được gọi là “sở duyên”; và thức (tức tâm và tâm sở) là chủ thể nhận thức, được gọi là “năng duyên”. Vậy, “năng biến” hay “năng duyên” đều là thuật ngữ Duy Thức Học dùng chỉ cho THỨC, nhưng tùy trường hợp mà gọi tên này hay tên kia.
Năng duyên - năng thủ. Đây là chỉ cho thức. Khi thức duyên cảnh, thì thức được gọi là “năng duyên”. Thức duyên cảnh tức là thức nhận biết, bám lấy, nắm lấy, hay giữ lấy đối tượng, gọi là “thủ”; và trong trường hợp này, thức được gọi là “năng thủ”.
Ngã - Ngã sở. “Ngã” là tự thân; “ngã sở” là tiếng nói tắt của “ngã sở hữu”, là tất cả sự vật ở ngoài thân, được cho là thuộc về tự thân.
Ngã ái. Đã chấp có cái ngã thì đối với cái ngã ấy lại càng sinh tham ái sâu đậm, gọi là “ngã ái”.
Ngã kiến: tức là ngã chấp. Nhục thể và tinh thần của tất cả chúng sinh đều là pháp do nhân duyên sinh, vốn không có thật tánh của ngã tồn tại, nhưng chúng sinh đối với các pháp “phi ngã” này đều vọng chấp là ngã, cho nên gọi là “ngã kiến”.
Ngã mạn. Mạn là kiêu ngạo, tức là cái tâm lí tự cao tự đại, xem mọi người mọi vật đều không bằng mình. Cái tâm lí này là y nơi ngã chấp mà có, cho nên gọi là “ngã mạn”.
Ngã pháp hai không (ngã pháp nhị không). “Ngã không” cũng gọi là “nhân không”, hay “sinh không”, là chân lí về ngã nhân trống không. Kẻ phàm phu cố chấp cho cái thân năm uẩn là ngã chủ tể, do đó mà tạo các nghiệp, phát sinh phiền não. Phật vì họ mà chỉ dạy cái lí lẽ năm uẩn là vô ngã. Hàng nhị thừa nhân đó mà chứng nhập chân lí vô ngã, gọi là “ngã không”. “Pháp không” tức là chân lí về vạn pháp trống không. Hàng nhị thừa tuy chứng đạt ngã không, nhưng vẫn cố chấp cho năm uẩn là những pháp có thật. Phật vì họ mà dạy rằng, tự tánh của năm uẩn đều không. Hàng Bồ-tát chứng ngộ được chân lí đó, gọi là “pháp không”. Ngã không và pháp không, thường được gọi tắt là “hai không”.
Ngã si. Si tức là ngu si, cũng tức là vô minh, hay vô tri, nghĩa là không có tri thức, không có lí trí. Không thấy rõ được thật tướng của ngã, gọi là “ngã si”.
Ngạ-quỉ: là tiếng dịch ý từ Phạn ngữ “Preta”, chỉ cho hoàn cảnh đau khổ đặc biệt do sự đói khát. Ngạ-quỉ (hay Ngạ-quỉ đạo, Ngạ-quỉ thú) là một trong sáu nẻo luân hồi. Lòng tham dục, bỏn sẻn, keo kiệt, ganh ghét, là nghiệp nhân chính của quả báo ngạ quỉ. Kinh điển nói rằng, thế giới của ngạ quỉ thường có ở hai nơi: trong nhân gian và dưới đáy châu Diêm-phù-đề. Loài ngạ quỉ thường bị ba sự chướng ngại về việc ăn uống: 1. Ngạ quỉ thường bị đói khát nên da, thịt, miệng, máu đều khô khốc; đi các xứ kiếm miếng ăn thức uống, nhưng hễ thấy suối ao thì nước đều biến thành máu tanh, không thể uống được. 2. Loài ngạ quỉ, bụng thì rất to lớn, nhưng cổ họng thì nhỏ như cây kim, thấy miếng ăn thức uống thì rất thèm thuồng, nhưng không thể ăn uống được. 3. Loài ngạ quỉ, dù có miếng ăn thức uống trước mặt, nhưng vì do nghiệp lực chiêu cảm, các thức ăn uống ấy đều biến thành lửa, cho nên không thể nào ăn uống được. Với cái nhìn thực tế, cũng giống như địa ngục, các cảnh giới ngạ quỉ cũng hiện hữu nhan nhản khắp nơi trong thế giới loài người.
Ngẫu Ích (1599-1655): tức đại sư Trí Húc, sống vào khoảng cuối Minh đầu Thanh. Ngài họ Chung, tên Tế Minh, tự Ngẫu Ích, hiệu Bát Bất đạo nhân, quê ở huyện Ngô, tỉnh Giang-tô. Thuở nhỏ ngài theo Nho học, quyết hộ vệ đạo Thánh và thề diệt Thích, Lão, bèn viết vài chục thiên “Tịch Phật Luận” để bài xích Phật pháp, trừ khử dị đoan. Năm 17 tuổi, nhân đọc Trúc Song Tùy Bút và Tự Tri Lục của đại sư Liên Trì (1532-1612), mới thấy rõ hành động của mình trước kia là sai quấy; bèn ăn năn sám hối, đem đốt bỏ hết các thiên “Tịch Phật Luận” đã viết. Năm 20 tuổi, trong thời kì tang cha, ngài luôn đọc tụng kinh Địa Tạng, do đó mà phát chí nguyện xuất thế, chuyên tâm niệm Phật. Năm 23 tuổi, một hôm nghe giảng kinh Lăng Nghiêm, vì không hiểu do đâu có “đại giác”, tại sao sinh khởi “hư không và thế giới” v.v..., nên ngài quyết chí xuất gia để tham cứu tận tường những vấn đề “đại sự” này. Năm 24 tuổi, ngài xin xuất gia với đệ tử của ngài Ham Sơn (1546-1623) là pháp sư Tuyết Lãnh, được đặt cho pháp danh là Trí Húc. Năm đó ngài được nghe pháp sư Cổ Đức giảng Duy Thức Luận tại chùa Vân-thê (Hàng- châu), nhân đó mà hiểu rõ tông chỉ của tông Pháp Tướng; nhưng lòng còn nghi hoặc về sự mâu thuẫn giữa Tánh và Tướng. Ngài liền về Kính-sơn (huyện Dư-hàng, tỉnh Triết-giang) dốc lực tham thiền, rồi một hôm bỗng nhiên tỏ ngộ, thấy rõ hai tông Tánh và Tướng vốn không có gì mâu thuẫn. Ngay sau đó ngài thọ giới cụ túc ở trước tháp của ngài Châu Hoằng (Liên Trì). Năm 26 tuổi, sau khi thọ giới Bồ-tát, ngài phát tâm duyệt lại tạng Luật. Năm 28 tuổi có tang mẹ, ngài muốn ẩn cư trong chốn rừng núi, nhưng pháp hữu mời ngài trú tại Tùng-giang ở Giang-tô. Tại đây ngài bế quan và bị bịnh nặng, bèn chuyên tham thiền và niệm Phật cầu vãng sinh. Từ năm 30 tuổi, ngài đi các nơi để giảng Luật. Vừa nhận rõ sự trọng yếu của giới luật, vừa xét thấy tình hình suy thoái trong các tông môn do sự coi thường giới luật, ngài liền phát tâm xiển dương Luật học, nhưng nhất quyết không bao giờ làm hòa thượng truyền giới. Năm 33 tuổi, ngài trú tại chùa Linh-phong ở núi Thiên-mục (huyện Lâm-an, tỉnh Triết-giang); 35 tuổi, xây cất chùa Tây-hồ. Năm 37 tuổi trở đi, ngài chu du khắp các vùng Võ-thủy, Cửu-hoa, Hồ-châu, Thạch-thành, v.v..., tham cứu, chú thích kinh luận, và xiển dương giáo nghĩa các tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp Tướng và Tịnh Độ; đến 51 tuổi trở về lại Linh-phong, tiếp tục trước thuật. Năm 55 tuổi ngài đi Tân-an (Triết-giang); 56 tuổi lại trở về Linh-phong. Ngài bị bịnh, nhưng hễ lúc nào được khỏe là ngài lại viết sách. Người đời xưng ngài là Linh Phong Ngẫu Ích đại sư. Ngài viên tịch vào năm Thuận-trị thứ 12 (1655) đời vua Thanh Thế-tổ (1644-1661), thế thọ 57 tuổi. Ngài suốt đời không ham danh vị, nghiêm trì giới phẩm, hoằng dương Luật tạng; trong thì dung hội giáo nghĩa các tông Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Thiền, Luật, tuy có thiên trọng về Thiên Thai và Tịnh Độ – lại chủ trương Thiền, Giáo, Luật đều qui về Tịnh Độ; ngoài thì chủ xướng tinh thần dung hợp Phật, Đạo, Nho. Người đời sau tôn ngài là tổ thứ 9 của tông Tịnh Độ; đồng thời, ngài cũng được liệt vào một trong “tứ đại cao tăng” đời Minh, gồm: Ham Sơn, Tử Bách (1543-1603), Liên Trì, Ngẫu Ích. Trước tác của ngài rất nhiều và đa dạng: Tướng Tông Bát Yếu Trực Giải, Tịnh Độ Thập Yếu, Duy Thức Tâm Yếu, Viên Giác Kinh Tân Sớ, Lăng Già Nghĩa Sớ, Phạm Võng Hợp Chú, Đại Thừa Chỉ Quán Thích Yếu, Đại Niết Bàn Hợp Luận, Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa, A Di Đà Kinh Yếu Giải, Kim Cang Kinh Phá Không Luận, Chu Dịch Thiền Giải, Tứ Thư Ngẫu Ích Giải, v.v...
Ngẫu tượng. Tất cả những tượng thần, tượng Phật v.v... được nắn, tạc, hay đúc, bằng đất, kim loại, đá, thạch cao, xi măng v.v... để thờ phượng, đều gọi là “ngẫu tượng”.
Nghi quĩ: là những qui định về các cách thức hành trì dùng cho tứ chúng của Mật giáo, như phép tụng trì mật chú và ấn quyết để tiêu trừ nghiệp chướng; phương pháp quán tưởng đức Phật Bổn Tôn; phương pháp tạo đồ hình mạn-đà-la; nghi thức tác pháp quán đảnh; nghi thức sám hối; làm lễ cúng dường; v.v...
Nghi tình: là tâm trạng nghi hoặc, dụ dự, không quyết định. “Nghi” là lí trí suy xét nhưng không nhận rõ được lẽ thật hư, là trạng thái tâm lí không biết chắc rõ ràng, không thể xác quyết là phải hay quấy. Khi có điều nghi ngờ, người ta thường có khuynh hướng dùng triết lí để phân tích vấn đề, hoặc quán sát trực tiếp vấn đề, để mong thấy rõ cái lí lẽ chân thật. Như vậy, đặc tính của “nghi”, khởi đầu là nghi một hiện tượng ngoại giới, rồi dần dần chuyển hướng vào nội giới, hình thành một “khối nghi” – tức là “nghi tình”, làm điều kiện dễ dàng cho trí quán chiếu trực tiếp phát sinh. Bởi vậy, Thiền tông thường nhấn mạnh rằng, cái nghi lớn (đại nghi) chính là cái tuyệt đối cần thiết cho sự tham thiền ngộ đạo. Ví như có vị sư làm mất chiếc áo cà sa duy nhất, tìm không thấy, cứ nhớ mãi trong lòng, niệm niệm không quên, để rồi lại đi tìm, cho đến khi nào tìm thấy mới thôi. Cho nên, “nghi” là điều tối quan trọng của hành giả tập thiền, có nghi mới có chứng ngộ; và cái nghi đó được gọi là “nghi tình”, cũng tức là “chân nghi” (cái nghi chính đáng). Không có cái nghi tình này thì sẽ không hi vọng có ngày chứng ngộ.
Nghỉ ngơi yên ổn (an ẩn tô tức): chỉ cho cảnh giới niết bàn tạm thời, hoặc giống như niết bàn của hàng Thanh-văn, Duyên-giác.
Nghĩa Tịnh (635-713). Ngài họ Trương, tự là Văn Minh, quê ở Tề-châu, tỉnh Sơn-đông (có thuyết nói là huyện Trác, tỉnh Hà-bắc). Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, bẩm tính thông tuệ, theo học khắp các bậc danh đức, đọc khắp các loại kinh sách. Đến 20 tuổi ngài thọ giới cụ túc. Từ năm 15 tuổi, ngài đã ngưỡng mộ cái ý chí “nhập Trúc cầu pháp” của các vị tiền bối như hai ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, nên năm 671 (dưới triều vua Đường Cao-tông), ngài đã rời Quảng-châu, theo đường biển đi đến đảo Sumatra (thuộc quần đảo Nam-dương), rồi đến Ấn-độ. Sau khi hành hương đảnh lễ khắp các thánh tích Phật giáo như đỉnh Linh-thứu, núi Kê-túc, vườn Nai, tinh xá Kì-viên v.v..., ngài đến lưu trú tại chùa Na-lan-đà, chuyên cần tu học suốt 10 năm. Sau đó ngài lại theo đường biển ghé lại
Từ đó ngài dùng hết thì giờ tham gia công tác dịch kinh. Trong suốt 12 năm (699-711), ngài đã dịch được 56 bộ kinh luận, gồm 230 quyển, phần lớn trong đó liên quan đến Luật Tạng. Ngài đã cùng với ba vị khác là Cưu Ma La Thập, Chân Đế và Huyền Trang, được người đời xưng là “bốn nhà dịch kinh lớn” (tứ đại dịch kinh gia). Ngoài công việc dịch kinh, ngài còn chú trọng đến việc dạy luật cho lớp người hậu học. Ngài cũng là người đầu tiên truyền dạy phương pháp ghép vần trong tiếng Ấn-độ. Ngoài ra ngài cũng đã soạn Nam Hải Kí Qui Nội Pháp Truyện và Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Trong hai tác phẩm này, ngài đã ghi lại đầy đủ tất cả các sinh hoạt, phong tục, tập quán của chư tăng ở Ấn-độ cùng các quốc gia trong vùng Nam-hải. Ngài viên tịch năm 79 tuổi, có tháp thờ ở Lạc-dương.
Nghiệp - Nghiệp cảm duyên khởi. “Duyên khởi” là giáo lí cơ bản của Phật giáo. Đó là nguyên lí sinh thành của vũ trụ vạn hữu mà đức Phật tự chứng ngộ được trong đêm Ngài thành đạo. Nguyên lí đó nói rằng, tất cả các pháp (hiện tượng) hữu vi, pháp nào cũng vậy, đều do nhiều điều kiện (nhân duyên – tức là những pháp khác) hợp lại làm thành. Về mặt nguyên nhân, nhiều điều kiện kết hợp để phát khởi một pháp, gọi là “duyên khởi”; về mặt kết quả, một pháp là do nhiều điều kiện kết hợp sinh thành, gọi là “duyên sinh”. Như vậy, duyên khởi hay duyên sinh chỉ là hai cách nói khác nhau, còn ý nghĩa thì hoàn toàn như nhau. Từ giáo lí duyên khởi này mà Phật giáo đã kiến lập một nhân sinh quan và thế giới quan đặc thù, mà không có tôn giáo hay hệ phái triết học nào (trước và sau khi Phật ra đời) có được. Vì là giáo lí cơ bản của Phật giáo, cho nên các tông các phái Phật giáo, dù ở thời đại nào, địa phương nào, cũng đều lấy tư tưởng duyên khởi làm giáo nghĩa căn bản. Trước hết, ở Phật giáo Nguyên-thỉ, thuyết “thập nhị duyên khởi” (tức thập nhị nhân duyên) được thấy xuất hiện đầu tiên trong Kinh A Hàm; sau đó, Đại Chúng Bộ và Hóa Địa Bộ đã liệt pháp duyên khởi là một trong 9 pháp vô vi; kế tiếp, các Kinh Lăng Già, Thắng Man và Luận Đại Thừa Khởi Tín đưa ra thuyết “chân như (như lai tạng) duyên khởi”; các bộ Luận Duy Thức và Du Già Sư Địa thì xiển dương thuyết “a lại da duyên khởi”; tông Hoa Nghiêm thì chủ trương thuyết “pháp giới duyên khởi”; Mật tông thì đề xướng thuyết “lục đại duyên khởi”. Bộ Luận Câu Xá đã đại diện cho các tông phái tiểu thừa, nhất là Hữu Bộ, xương minh thuyết “NGHIỆP CẢM DUYÊN KHỞI”.
Tất cả những quả báo khổ vui trong đời sống, không phải đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên, cũng không phải do ai thưởng phạt, nhưng chính là do những nghiệp nhân thiện ác chiêu cảm mà đến, cho nên gọi là “nghiệp cảm”; nói vắn tắt, những nghiệp nhân thiện ác đã chiêu cảm những quả báo vui khổ, đó là định luật tất yếu của thế gian.
“Nghiệp” nghĩa là tạo tác, tức chỉ cho mọi hành vi, động tác, ý chí, nói chung là mọi hoạt động của thân và tâm. Về thể tánh của nghiệp, theo Luận Câu Xá, một cách tổng quát, có hai loại nghiệp: tư nghiệp (tức hoạt động tư lự, phân biệt của ý chí trong nội tâm) và tư dĩ nghiệp (tức những hành động nơi thân và nói năng nơi miệng). Như vậy, tư dĩ nghiệp có thể đem phân tích thành hai loại là thân nghiệp và ngữ nghiệp; rốt cuộc, từ sự phân tích này mà nghiệp có ba loại là ý nghiệp (tức tư nghiệp), thân nghiệp và ngữ nghiệp (tức tư dĩ nghiệp) – như mọi người thông thường đều biết. Nhưng nếu đi sâu hơn, vẫn theo sự phân tích của Luận Câu Xá, thì thân nghiệp có thể chia thành hai nghiệp: đó là thân biểu nghiệp và thân vô biểu nghiệp; ngữ nghiệp cũng gồm hai nghiệp: đó là ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp. Thân biểu nghiệp là những hành động phát ra rõ rệt nơi thân mà ai cũng trông thấy được; thân vô biểu nghiệp là cái năng lực vô hình (không thể trông thấy được) tiềm ẩn bên trong thân, tồn tại liên tục, ứng theo qui luật nhân quả mà thúc đẩy thân hành động hay không hành động. Ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp cũng tương tự như vậy. Như vậy, từ căn bản là 2 nghiệp (tư nghiệp và tư dĩ nghiệp), phân tích ra thành có 5 nghiệp: ý nghiệp, thân biểu nghiệp, thân vô biểu nghiệp, ngữ biểu nghiệp, và ngữ vô biểu nghiệp; trong đó, ý nghiệp là động cơ căn bản của mọi nghiệp. Ý nghiệp lấy tâm sở tư (suy nghĩ, tính toán, quyết định) làm thể, phát khởi ra hành động và ngôn ngữ gọi là thân biểu nghiệp và ngữ biểu nghiệp. Thân biểu nghiệp lấy hình sắc làm thể, từ đó dẫn khởi ra một năng lực vô hình gọi là thân vô biểu nghiệp; còn ngữ biểu nghiệp thì lấy âm thanh làm thể, từ đó cũng dẫn khởi ra một năng lực vô hình gọi là ngữ vô biểu nghiệp. Hai loại vô biểu nghiệp (thân và ngữ) này đều được phát sinh từ sắc pháp (tức lấy sắc pháp làm thể), nên cũng được gọi là “vô biểu sắc”.
Về tính chất, nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp vô kí (không thiện không ác). Nghiệp thiện thì chiêu cảm quả báo an vui, nghiệp ác thì chiêu cảm quả báo đau khổ, nghiệp vô kí thì không có sức chiêu cảm quả báo; vì vậy trên thực tế, thiện và ác mới là nghiệp, còn vô kí thì không phải là nghiệp. Trong mối liên hệ nhân quả của nghiệp, nghiệp nhân có thể chiêu cảm nghiệp quả ngay trong cùng một đời; nhưng cũng có thể, nghiệp nhân tạo ra từ đời trước mà sang đời này mới chiêu cảm nghiệp quả, hoặc nghiệp nhân tạo ra ở đời này mà sang đời sau mới chiêu cảm nghiệp quả.
Như vậy, tất cả mọi hiện tượng cùng sự lưu chuyển sinh tử (quả báo) của các loài hữu tình trong thế gian, đều do nghiệp nhân của chúng sinh mà sinh khởi. Quả báo ấy của hữu tình chúng sinh gồm có hai loại: chánh báo và y báo. Chánh báo là chính tự thân của hữu tình, có xấu có đẹp, có thông minh có ngu dốt, có khỏe mạnh có bệnh hoạn, có lành lặn có khuyết tật, có sống lâu có chết yểu, v.v... vô vàn sai khác; y báo của hữu tình là hoàn cảnh, môi trường trong đó hữu tình sinh sống, trong đó có đất liền, biển cả, trời trăng, sông núi, cỏ cây hoa lá, v.v... cũng thiên sai vạn biệt. Tất cả những quả báo đó, có khổ có vui, muôn ngàn hình thái, đều do nghiệp lực của chúng sinh chiêu cảm. Với ý, thân và ngữ, chúng sinh đã ngày đêm liên tục tạo nghiệp, nào lành nào dữ, thì chắc chắn phải chiêu cảm quả báo tương ứng, hoặc ngay đời này, hoặc ở đời sau, hình thành vô vàn hiện tượng sai khác trong thế giới này; đó gọi là “nghiệp cảm duyên khởi”.
Ngoại duyên. “Duyên” là điều kiện. Các điều kiện kết hợp, giúp nhau để phát sinh một hiện tượng, một sự vật. Điều kiện chính, trực tiếp để phát sinh một sự vật, gọi là “nội duyên” (cũng tức là “nhân”). Các điều kiện phụ cùng giúp cho nội duyên, có ảnh hưởng gián tiếp trong việc phát sinh một sự vật, gọi là “ngoại duyên”. Trong danh từ “nhân duyên”, chữ “nhân” tức là nội duyên, và chữ “duyên” tức là ngoại duyên. Trong “bốn duyên” thì “nhân duyên” là nội duyên, và “sở duyên duyên”, “tăng thượng duyên”, “đẳng vô gián duyên” là ngoại duyên. Sinh mạng con người có được là do sự kết hợp của nghiệp thức (nội duyên) và tinh huyết của cha mẹ (ngoại duyên). Một chúng sinh được thành Phật, thì chính cái Phật tính sẵn có trong mỗi chúng sinh là nội duyên, và cái công đức lợi tha cứu độ của đức Phật (Phật pháp) là ngoại duyên.
Ngoại đạo. Tất cả các tôn giáo khác với tôn giáo của mình đều được gọi là “ngoại đạo”. Phật giáo gọi Ấn giáo, Hồi giáo, Thiên-chúa giáo, Khổng giáo, Lão giáo v.v... là ngoại đạo. Ngoài ra cũng nên lưu ý, trong Phật giáo, từ “ngoại đạo” còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là “ngoài tâm cầu đạo”. Những người “ngoài tâm cầu đạo” là những người đệ tử Phật nhưng không có lòng tin sâu sắc nơi Tam Bảo, không tinh cần tu tập, chỉ hướng tâm vọng ngoại, tìm cầu những gì trái với giáo pháp; không tự mình tu dưỡng để phát huy trí tuệ, đạt đến giác ngộ giải thoát, mà chỉ biết lợi dụng Tam Bảo, lợi dụng hoàn cảnh đau khổ của người đời để đặt bày những điều mê tín, tệ hại, coi Phật sự như một nghề mưu sinh, cốt cầu lợi dưỡng cho bản thân.
Ngoại giáo: chỉ cho tất cả các học thuyết, giáo phái hay tôn giáo không phải là Phật giáo.
Ngón tay chỉ mặt trăng (tiêu nguyệt chỉ). Nhóm từ chữ Hán “tiêu nguyệt chi chỉ” hay “tiêu nguyệt chỉ” là một thành ngữ Phật học, tỏ ý rằng, tất cả Phật pháp đều chỉ là phương tiện độ sinh của đức Phật, người học Phật phải khéo léo, đừng để bị vướng mắc. Mặt trăng được dùng để ví dụ cho Chân Như; ngón tay được dùng để ví dụ cho Phật pháp. Có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, ta nương theo ngón tay ấy để trông thấy mặt trăng. Khi thấy được mặt trăng rồi thì ta không nên để ý đến ngón tay kia nữa. Người học Phật biết nương theo Phật pháp để thể ngộ Chân Như; và khi đã thể ngộ rồi thì buông bỏ Phật pháp đi, không nên vướng mắc vào ngôn ngữ văn tự của kinh điển nữa.
Ngô-Việt: là một trong 10 nước của thời Ngũ-đại Thập-quốc (xem mục “Ngũ Đại”), do Tiền Lưu kiến lập. Lưu vốn là một viên tướng của triều Đường, vào cuối đời Đường được phong làm Trần-hải tiết độ sứ. Năm 908 ông được nhà Hậu-Lương phong làm Ngô-Việt vương, rồi tự lập quốc, xưng là Ngô-Việt quốc vương, đóng đô ở Hàng-châu. Nước này tồn tại được 75 năm, đến năm 982 thì bị nhà Tống tiêu diệt. Vị vua nước này hết lòng tín phụng Phật pháp, cho nên, mặc dù chung quanh nhiều nơi tao loạn, Phật giáo ở Ngô-Việt vẫn thịnh hành.
Ngộ Đạt (811-883): là vị cao tăng đời Đường, họ Trần, pháp danh Tri Huyền (có nơi nói là Trí Huyền), quê ở Tứ-xuyên. Từ lúc ấu thơ, mỗi lần trông thấy hình dáng chư tăng hay tượng Phật thì lòng mừng rỡ. Năm 7 tuổi, một hôm đến chùa Ninh-di nghe đại sư Pháp Thái giảng kinh Niết Bàn, thì phảng phất như thấy được nguyên nhân đời trước; đêm ấy nằm mộng thấy đức Phật ở chánh điện chùa ấy lấy tay xoa đầu mình. 11 tuổi xuất gia với đại sư Pháp Thái, chuyên học tập kinh Niết Bàn, chỉ hai năm sau, đã vâng lệnh thừa tướng, thăng đường thuyết pháp, thính chúng có đến hơn vạn người, đều khen ngợi là bậc trí tuệ siêu phàm, và tôn xưng là Trần Bồ Tát. Về sau, ngài thọ giới cụ túc với Biện Trinh luật sư, rồi theo học Duy Thức với Tín pháp sư ở chùa An-quốc; và tự mình nghiên cứu kinh sách và các học thuyết của bách gia chư tử. Tiếng nói của ngài vốn phát âm theo làng xóm cũ, rất khó khăn trong việc giảng kinh, cho nên thường lo ngại, bèn trì tụng chú Đại Bi. Một đêm kia nằm mộng, thấy có vị thần tăng thay cho cái lưỡi khác, tỉnh dậy, bỗng thấy tiếng nói của mình thay đổi hẳn. Khoảng năm 30 tuổi, ngài du hành đến kinh đô Trường-an, gặp lúc vua Đường Võ-tông (841-846) đang sùng phụng Đạo giáo, xuống chiếu mời ngài cùng với đạo sĩ tranh luận. Ngài khẳng khái biện luận, nói thẳng mà không sợ hãi, tưởng như có thể bị bắt tội; nhưng, dù nhà vua không chấp nhận luận cứ của ngài, vẫn khâm phục cái kiến thức cao rộng của ngài. Rồi ngài ở hẳn tại đây để tu học và hành đạo. Trong thời gian này, ngài tình cờ được dịp săn sóc cho một vị tăng người Ấn, ở cùng chùa. Vị tăng này bị bệnh ghẻ lở cùng mình, hôi hám, dơ dáy, trong chùa ai cũng xa lánh, nhưng ngài không hề coi thường, mà rất kính trọng, nhẫn nại hầu hạ, săn sóc trong suốt hai năm trời; cho đến khi vị tăng lành bệnh, rời chùa ra đi. Vì cảm kích lòng chân thành của ngài, trước khi đi, vị tăng có dặn ngài: “Sau này thầy sẽ gặp nạn. Lúc đó thầy hãy đến núi Cửu-lũng ở Bành-châu, đất Thục tìm tôi, sẽ được giúp đỡ. Nên nhớ, trên núi, chỗ có hai cây tùng mọc song song, cao ngất.” Đến đời vua Tuyên-tông (847-860), ngài được triệu vào đại nội giảng kinh, được vua ban cho áo cà sa tía, bổ làm thủ tọa cả ba giáo phái (Phật, Khổng và Lão). Đời vua Ý-tông (860-874), ngài được phong làm Ngộ Đạt quốc sư, thỉnh trú trì chùa An-quốc, và ban cho pháp tòa làm toàn bằng gỗ trầm hương, ân lễ vô cùng trọng hậu; nhân đó mà sinh niệm tự mãn, đắc ý; tức thì một mụt ghẻ phát sinh ở phía trên đầu gối. Mụt ghẻ trông giống như mặt người, hôi tanh, đau nhức không thể tưởng tượng được. Các vị danh y trong nước cố gắng chữa trị, kéo dài cả năm trời mà mụt ghẻ vẫn không lành. Bỗng ngài sực nhớ đến lời dặn dò của vị tăng người Ấn mười mấy năm về trước, bèn một mình chống gậy đi về đất Thục. Tại đây, quả nhiên ngài gặp lại vị tăng trong một ngôi chùa tráng lệ trên núi Cửu-lũng, chỗ có hai cây tùng đứng song song, cao ngất. Ngài nghỉ lại qua đêm trong chùa. Sáng sớm hôm sau, chú thị giả của vị tăng dẫn ngài xuống dòng suối “giải oan” ở dưới chân núi, vục nước suối này để rửa mụt ghẻ. Ngài vừa thò tay xuống suối thì mụt ghẻ mặt người liền la lớn: “Hãy khoan rửa! Ngài kiến thức xa rộng, tinh thông cổ kim, nhưng không biết ngài đã đọc truyện Viên Áng - Triều Thố trong sách Tây Hán chưa?” Ngài trả lời: “Tôi có đọc.” Mụt ghẻ nói tiếp: “Nếu đọc rồi, chắc ngài nhớ chuyện Triều Thố đã từng bị Viên Áng giết oan? Ngài tức là Viên Áng; còn tôi đây chính là Triều Thố, đã bị ngài chém ngang lưng ở chợ Đông, oan ức biết chừng nào! Đã bao đời tôi muốn báo thù, nhưng trong cả mười đời vừa qua ngài đều là bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, tôi không thể nào báo thù được. Đời này, vì hưởng được ân sủng của vua mà ngài khởi tâm danh lợi, phước đức bị hao tổn, tôi mới nhân đó mà báo được mối thù xưa. Nay nhờ tôn giả Ca Nặc Ca (Kaniska) dùng nước pháp tam muội tẩy trừ oan nghiệp, khiến cho tôi được giải thoát. Vậy từ nay, oán kết giữa tôi và ngài đã chấm dứt. Tôi đi đây, ngài hãy vục nước mà rửa đi!” Ngộ Đạt nghe thế, vô cùng kinh sợ, lập tức vục nước suối lên rửa. Nước vừa chạm mụt ghẻ, ngài cảm thấy đau đớn tận xương tủy, nằm lăn ra bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì không còn thấy mụt ghẻ đâu nữa, hoàn toàn lành lặn, đi lại bình thường. Ngài muốn lên núi để tạ ân tôn giả Ca Nặc Ca, nhưng nhìn lên đỉnh núi, ngôi chùa tráng lệ hôm qua, cả hai cây tùng cao ngất nữa, đều biến mất, không còn dấu vết. Rồi ngài dựng am tranh ngay trong núi, ở lại tu hành. Từ đó ngài không rời khỏi núi, cho đến cuối đời.
(Câu chuyện trên đây, chúng tôi đã phối hợp giữa Phật Quang Đại Từ Điển, sách Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, và chuyện ngắn “Tùng” của hòa thượng Nhất Hạnh mà thuật lại; nhưng ở đoạn cuối cuộc đời ngài Ngộ Đạt, từ sau khi lành bệnh ở bên bờ suối, trong Phật Quang Đại Từ Điển còn chép rằng: Ngài về cư trú tại ngôi chùa cũ ở núi Đan-cảnh, Bành-châu, đất Thục. Khi vua Hi-tông (874-888) kinh lí đến đất Thục, có ghé thăm ngài, và ban hiệu cho ngài là Ngộ Đạt quốc sư. Sĩ phu trong vùng đều đến giao tiếp với ngài. Thi sĩ Lí Thương Ẩn (813-858), khi về trí sĩ, cũng về ở với ngài một thời gian lâu. Năm 73 tuổi, ngài thị tịch; trước tác có Từ Bi Thủy Sám Pháp, Thắng Man Kinh Sớ, Bát Nhã Tâm Kinh Sớ, và Kim Cang Kinh Sớ.) – Về chữ “ÁNG” trong tên Viên Áng và chữ “TRIỀU” trong tên Triều Thố, xin xem câu chót của mục “Thủy Sám”.
Ngu pháp và không ngu pháp (ngu pháp bất ngu pháp). Hai thừa Thanh-văn và Duyên-giác chỉ ngộ được lí “ngã không” mà vẫn cố chấp là “pháp hữu”, không biết gì về diệu lí “hai không” (tức cả ngã và pháp đều không) của giáo pháp đại thừa, cho nên gọi là “tiểu thừa ngu pháp”. Một lúc nào đó họ hiểu rõ giáo pháp đại thừa, liễu ngộ chân lí “hai không”, rồi hồi tâm hướng về đại thừa, thì gọi là hạng “tiểu thừa không ngu pháp”.
Ngu phu. Thông thường từ này được dùng để chỉ cho người bình dân thiếu học, chưa được khai hóa, trí óc kém mở mang; trong Phật học nó có nghĩa là những người chưa hề biết tu tập theo Phật pháp.
Ngũ câu ý thức: tức là Ý Thức hiện khởi đồng thời với năm thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân thức). Khi năm căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân căn) tiếp xúc với năm trần (sắc, thanh, hương, vị và xúc trần) thì cái biết phát sinh ra, nhưng mới chỉ là thuần túy cảm giác, chỉ khi nào có thêm tác dụng của ý thức thì mới có tri giác, tức là cái biết phân biệt rõ ràng về tốt, xấu, đỏ, trắng, dài, ngắn, trầm, bổng, thơm, hôi, ngon, dở, trơn, nhám, v.v...
Ngũ-đại. Đó là một thời kì lịch sử của Trung-quốc, kéo dài 54 năm (907-960). Sau hơn 300 năm thống nhất dưới hai vương triều Tùy và Đường (581-907), đến đây, Trung-quốc lại bị phân rẽ thành hai miền Bắc và Nam: Lãnh thổ ở phương Bắc thì chỉ có một nước nhưng do 5 triều đại kế tiếp nhau thống trị; trong khi đó, lãnh thổ ở phương Nam thì lại bị chia thành 10 nước nhỏ cùng nhau cai trị. 5 vương triều kế tiếp nhau cai trị ở phương Bắc là: Hậu-Lương (907-923), Hậu-Đường (923-936), Hậu-Tấn (936-946), Hậu-Hán (947-950), và Hậu-Chu (951-960); sử gọi đó là Ngũ-đại. 10 nước chia nhau cai trị ở phương Nam là: Sở (907-951, ở Hồ-nam ngày nay), Tiền-Thục (908-925, ở Tứ-xuyên ngày nay), Ngô-Việt (908-982, ở Triết-giang ngày nay), Nam-Hán (917-971, ở Quảng-đông ngày nay), Ngô (918-937, ở An-huy ngày nay), Nam-bình (924-963, ở Hồ-bắc ngày nay), Mân (933-945, ở Phúc-kiến ngày nay), Hậu-Thục (934-965, ở Tứ-xuyên), Nam-Đường (937-958, ở Giang-tô ngày nay), và Bắc-Hán (951-979, ở Sơn-tây, thuộc miền Bắc); sử gọi đó là Thập-quốc. Vì thời đại này gồm có 5 triều đại (ngũ đại) ở phương Bắc và 10 nước (thập quốc) ở phương Nam, nếu chỉ gọi là thời “Ngũ-đại” thì không chính xác, cho nên các sử gia cận đại đã gọi đây là thời đại Ngũ-đại Thập-quốc.
Nguyên phẩm vô minh: cũng gọi là căn bản vô minh, hoặc vô thỉ vô minh, là mê mờ đối với lí thật tướng trung đạo, là loại hoặc căn bản làm cho lưu chuyển trong dòng sinh tử; đó cũng là tánh mê căn bản từ buổi nguyên sơ của tất cả chúng sinh, cho nên gọi là “nguyên phẩm”, hoặc “căn bản”. Lại nữa, loại vô minh này cùng với chân như đều có từ vô thỉ, cho nên cũng gọi là “vô thỉ”; đoạn dứt nó thì liền thành Phật.
Nguyên Thế-tổ: tức vua Thế-tổ (1215-1294) nhà Nguyên (1271-1368). Ông tên là Hốt Tất Liệt, chủng tộc Mông-cổ, tiêu diệt nhà Nam-Tống, thống trị toàn bộ lục địa Trung-quốc. Tộc Mông-cổ tự xưng là giống người Thát-đát, gồm nhiều bộ lạc Mông-cổ, Hung-nô, Đột-quyết v.v..., sống du mục ở vùng đất bao la phía Bắc Trung-quốc. Từ thế kỉ thứ 12 họ lệ thuộc nước Kim (ở phía Đông Bắc Trung-quốc). Vì bị người Kim ức hiếp quá, vào đầu thế kỉ 13 họ vùng lên đánh lại nước Kim, tự xưng là nước Đại Mông-cổ (Mông-cổ hãn quốc). Năm 1206, một vị tù trưởng của Mông-cổ là Thiết Mộc Chân (1162-1227), đã thống nhất các bộ lạc Mông-cổ, được các thủ lãnh của các bộ lạc tôn lên ngôi hãn (hoàng đế của Mông-cổ), xưng hiệu là Thành Cát Tư hãn, đóng đô ở Karakorum (phía Bắc tỉnh Nội-mông ngày nay). Năm 1210, Thành Cát Tư hãn đánh Kim, bắt nước này phải thần phục, triều cống; rồi quay sang hướng Tây, đánh chiếm các nước vùng Tây-vức, đến tận bờ biển Hắc-hải và xứ
Năm 1251, con trưởng của Đà Lôi (1193-1232, con thứ tư của Thành Cát Tư hãn) tên Mông Kha (1208-1259) lên ngôi hãn, sai em là Hốt Tất Liệt đem quân đi đánh Đại-lí, Thổ-phồn; tự thân ông dẫn quân đánh Tống. Khi ông đánh vào Tứ-xuyên, vì gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Tống, ông đã bị tử thương ngay trong trận. Nghe được tin này, Hốt Tất Liệt liền đem quân quay về
Người (Nhân - nhân loại). Người là một trong sáu loài hữu tình nằm trong ba cõi. Nơi loài người ở được gọi là “nhân gian”, “nhân thú”, “nhân đạo”, hay “thế gian”, là một trong sáu nẻo luân hồi. “Nhân gian” là tiếng dịch từ Phạn ngữ “manusya”, lấy từ ngữ căn “manas” (mạt-na), dịch nghĩa là “tư lương”, hàm ý rằng, con người là loại hữu tình biết suy nghĩ, phân biệt, xét đoán. Trong nguyên ngữ Ấn-độ cũng như Hoa ngữ, từ “nhân gian” hay “nhân loại” bao giờ cũng biểu thị số nhiều, có ý nói rằng, muốn được coi là con người chân chính thì người này phải tiếp xúc với người khác, phải biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Ý nghĩa đó cũng tức là cơ sở của tinh thần Bồ-tát trong đạo Phật. Theo vũ trụ quan Phật giáo, loài Người không phải chỉ có ở Trái Đất này, mà ở khắp Bốn Châu Lớn chung quanh núi Tu-di, gồm có châu Thắng-thân (thân hình thù thắng) ở phía Đông; châu Ngưu-hóa (dùng trâu để trao đổi vật dụng) ở phía Tây; châu Câu-lô (nơi sung sướng nhất trong bốn châu) ở phía Bắc; và châu Diêm-phù (nơi có cây bồ-đào) ở phía Nam. Trái đất của chúng ta đang ở đây chỉ là một phần rất nhỏ thuộc châu Diêm-phù. Bốn châu lớn ở chung quanh một ngọn núi Tu-di, đó mới chỉ là một “thế giới”; một ngàn thế giới như vậy mới là một “tiểu thiên thế giới”; rồi cứ tính dần lên đến một “tam thiên đại thiên thế giới”; rồi mười, một vạn, một triệu tam thiên đại thiên thế giới; đến vô lượng tam thiên đại thiên thế giới..., thì số “nhân loại” nhiều biết bao nhiêu mà kể! Con người sinh ra đời, tất cả dung mạo, thọ yểu, tư tưởng, hành vi, giàu nghèo v.v..., đều là quả báo do nghiệp nhân đã gây ra từ nhiều đời trước; bởi vậy, không ai giống ai cả.
Người mang bảng (đảm bảng hán). Trong Hán ngữ, từ “đảm bảng hán” nguyên được dùng để chỉ cho người phu khuân vác, phải vác một tấm bảng gỗ lớn trên lưng, chỉ thấy được ở trước mặt chứ không thể thấy ở hai bên trái phải. Trong Thiền tông, từ “đảm bảng hán” này đã trở thành một thuật ngữ, dùng để chỉ cho những người chỉ có một loại kiến giải cố chấp, mà không có được cái thấy viên dung toàn thể.
Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (807-883). Ngài họ Diệp, quê ở huyện Phiên-ngung, tỉnh Quảng-đông. Năm 9 tuổi, ngài vào ở chùa Hòa-an, hầu thiền sư Thông; đến 17 tuổi, tự chặt hai ngón tay, lập nguyện xuất gia. Sau đó ngài xin tham học với thiền sư Đam Nguyên Ứng Chân (?-?), ngộ được yếu chỉ của thiền học. Tiếp đó ngài lại đến tham yết thiền sư Qui Sơn Linh Hựu, được truyền tâm ấn. Ngài hầu hạ thiền sư Linh Hựu đến 15 năm, phụ giúp thầy trong việc hoằng hóa, làm vững mạnh tông môn. Sau đó ngài dời sang Ngưỡng-sơn, đại chấn thiền pháp Qui Sơn, lập thành tông Qui Ngưỡng, là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc. Năm 883 (triều vua Đường Hi-tông) ngài thị tịch, thế thọ 77 tuổi, thụy hiệu là Trí Thông thiền sư.
Nhà Đường (618-907): là vương triều thống nhất được thành lập kế tiếp vương triều Tùy. Cuối vương triều Tùy, hào kiệt nông dân dấy binh khởi nghĩa khắp nơi, trong đó, cha con Lí Uyên (566-635) là hùng mạnh nhất. Thời nhà Tùy, Lí Uyên được phong là Đường quốc công, làm lưu thú (tức thái thú) phủ Thái-nguyên (thuộc tỉnh Sơn-tây ngày nay). Năm 617, ông cùng các con là Kiến Thành, Thế Dân và Nguyên Cát, đã khởi binh chiếm thành Trường-an (lúc này vua Tùy Dạng đế đã thiên đô, trước là đến Lạc-dương, rồi sau xuống Giang-đông, tức nay là Dương-châu thị, tỉnh Giang-tô), tôn người cháu của Tùy Dạng đế là Dương Hựu, mới 12 tuổi, lên ngôi, tức Tùy Cung đế (617-618). Năm 618, tại cung điện ở Giang-đông, viên tướng lãnh đạo quân thị vệ là Tư-mã Đức Kham, đã cùng với nhà quí tộc Vũ-văn Hóa Cập, đột nhập vào cung giết Tùy Dạng đế. Tại Trường-an, khi hay tin đó, Lí Uyên liền bắt ép Tùy Cung đế nhường ngôi cho mình. Lí Uyên lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đường, định đô tại Trường-an.
Nhà Hán (Trung-quốc): do Lưu Bang (256-195 tr. TL) kiến lập năm 206 tr. TL, chia làm hai thời kì: 1) Thời kì đầu, sử gọi là thời Tiền-Hán (206 tr. TL - 8 sau TL); 2) Thời kì sau, sử gọi là thời Hậu-Hán (25-220). Tiền-Hán đóng đô tại Trường-an; Hậu-Hán đóng đô tại Lạc-dương. Vì Trường-an nằm ở phía Tây của Lạc-dương, nên sử cũng gọi Tiền-Hán là Tây-Hán, và Hậu-Hán là Đông-Hán.
Nhà Minh (1368-1661): Minh là vương triều Trung-quốc kế tiếp nhà Nguyên, do Chu Nguyên Chương (1328-1398) kiến lập. Chu Nguyên Chương tự là Quốc Thụy, quê ở Hào-châu (tỉnh An-huy), mới 7 tuổi đã mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, bèn xin vào làm tiểu ở chùa Hoàng-giác ngay tại Hào-châu. Ông ở chùa được 7 năm, gặp lúc xã hội tao loạn, quân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi để chống lại triều đình nhà Nguyên, ông bèn trở về làng, hợp các dân nghèo lại để lập đảng khởi nghĩa, rồi sát nhập làm thân binh dưới trướng của Quách Tử Hưng (người cùng làng), dần dần được thăng đến đại tướng; lại được Hưng gả con gái cho. Khi Hưng chết, ông lên thay làm chủ tướng, quân sĩ dưới trướng có đến vài ngàn người. Đảng của ông ngày càng phát triển lớn mạnh, thanh thế tăng cao, nổi bật hơn hết các tổ chức nghĩa quân khác, được nhiều giới sĩ tộc, điền chủ ủng hộ. Thấy thực lực vững mạnh, năm 1356, Chu Nguyên Chương khởi binh vượt Trường-giang đánh chiếm Kim-lăng (Nam-kinh), tự xưng là Ngô quốc công, rồi tiếp tục đánh chiếm hết các tỉnh trù phú miền Đông Nam. Đến năm 1366 thì ông đã làm chủ trọn vẹn miền
Tới đời vua thứ ba là Thành đế (1403-1424), sau khi lên ngôi, đã đổi Đại-đô (tức Yên-kinh) thành Bắc-kinh, và dời đô lên đó; còn Kim-lăng thì đổi tên là Nam-kinh. Từ đó về sau, các đời vua kế tiếp đều giữ đô tại Bắc-kinh. Cuối đời Minh, vua quan thối nát, chính trị suy hoại, đảng phái thi nhau xuất hiện; cuối cùng thì bạo loạn bộc phát. Năm 1644, Lí Tự Thành đem quân chiếm Bắc-kinh, hoàng đế Tư-tông (1628-1644) thắt cổ chết, nhà Minh diệt vong, trước sau tồn tại 277 năm.
Dưới vương triều Minh, Phật giáo được các vua ủng hộ nên rất thịnh hành, có nhiều vị cao tăng xuất hiện, tăng đoàn đông đúc mà nghiêm chỉnh, nền giáo học được chăm lo chu đáo; tuy nhiên, về công tác phiên dịch kinh điển, ngoài một số kinh Mật giáo do lạt-ma Sa La Ba dịch (xem mục “Sa La Ba”), còn thì không thấy để lại dấu vết gì.
Nhà Thanh (1644-1911): là vương triều Trung-quốc kế tiếp nhà Minh, do tộc người thiểu số Mãn-châu kiến lập. Người Mãn vốn là tộc Kim (cũng tức là tộc Nữ-chân), từng lật đổ nhà Bắc Tống (1127) và làm chủ phần Hoa-bắc trên một trăm năm (từ thế kỉ 12 sang thế kỉ 13), đối địch với vương triều Nam-Tống. Khi người Mông-cổ chiếm trọn Trung-hoa thì người Kim bị dồn về ở vùng phía Đông Bắc (vùng Hắc-long-giang), chia thành 3 bộ Kiến-châu, Hải-tây và Đông-hải, chịu lệ thuộc nhà Nguyên. Từ khi nhà Minh lên làm chủ Trung-quốc, người Kim (Nữ-chân) lại tìm cách bành trướng, lan dần xuống phía
Năm 1616 (dưới triều vua Minh Thần-tông, 1573-1620), thủ lãnh của bộ Kiến-châu là Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ khác, tự xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hậu-Kim; đó là vua Thái-tổ nhà Hậu-Kim. Sau đó ông chiếm Thẩm-dương (Phụng-thiên, tỉnh Liêu-ninh) và đặt kinh đô của Hậu-Kim ở đó. Năm 1636, vua Thái-tông (1627-1643) lại đổi quốc hiệu là Đại-Thanh, và đổi tên tộc Nữ-chân thành tộc Mãn-châu. Năm 1644, viên phản tướng của triều Minh là Ngô Tam Quế, đã dẫn quân Thanh tiến vào Bắc-kinh (lúc đó vua cuối của nhà Minh là Tư-tông vừa tự tử chết), thái tử Phúc Lâm (con của vua Thái-tông), lúc đó mới 7 tuổi, được đưa lên ngôi đế, trở thành vua Thế-tổ của vương triều Thanh, tức là vua Thuận Trị (1644-1661). Vua Thanh Thế-tổ tên là Ái Tân Giác La Phúc Lâm, sau khi lên ngôi, đặt niên hiệu là Thuận-trị. Từ đó về sau, các đời vua kế tiếp đều chỉ đặt một niên hiệu, và lấy niên hiệu đó để gọi thay tên, ví dụ: Thuận Trị, Khang Hi, Quang Tự, v.v... Vương triều Thanh chính thức làm chủ Trung-quốc vào năm 1644, nhưng thực sự đã được kiến lập từ năm 1616, và phải đến năm 1662 (năm đầu vua Khang Hi, 1662-1722) mới bình định và thống nhất hoàn toàn lãnh thổ Trung-quốc.
Nhà Thanh (bao gồm Hậu Kim) truyền nối được 12 đời vua, kéo dài gần 300 năm. Cuối năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi thành công, vua Tuyên Thống (1909-1911) thoái vị; đầu năm 1912, Tôn Trung Sơn (1866-1925) tuyên bố thành lập chính thể cộng hòa, chấm dứt triều đại nhà Thanh, đồng thời chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến từng ngự trị trên đất nước Trung-hoa trải mấy ngàn năm.
Dưới vương triều Thanh, Phật giáo truyền thống lẫn Lạt-ma giáo đều được triều đình cực lực ủng hộ, chùa viện được xây cất nhiều, tăng ni đông đảo, nhưng Phật giáo lại ở tình trạng suy vi vì tăng đoàn thiếu phẩm chất, kém học thức, giáo pháp không được hoằng dương. Riêng về công tác phiên dịch kinh điển, cũng như ở triều Minh trước đó, không có sự nghiệp gì được ghi chép để lại.
Nhà Tống (960-1279): tức nhà Triệu-Tống, là vương triều thống nhất được kiến lập kế tiếp thời đại Ngũ-đại Thập-quốc (907-979), bởi Triệu Khuông Dẫn (927-976). Ông nguyên là một viên chiến tướng của triều đình Hậu-Chu (951-960), nhờ chiến công mà được thăng dần đến chức thống lãnh cấm quân điện tiền đô kiểm điểm, kiêm lãnh Tống-châu Qui-đức tiết độ sứ, dưới triều vua Chu Thế-tông (954-959). Năm 960, ông dẫn quân đi chinh phạt tộc Khiết-đan, nhưng vừa tới Trần-kiều thì ông gây cuộc binh biến, được toàn thể quân lính tôn xưng là hoàng đế. Ông lập tức quay trở về kinh đô, bắt ép vua
Đến đời vua Huy-tông (1101-1125) thì triều đình nhà Tống đã quá suy yếu, thường bị rợ Kim uy hiếp. Năm 1126 Huy-tông truyền ngôi cho con, tức là vua Khâm-tông (1126-1127), thì cũng là lúc rợ Kim đã đánh tràn xuống đến Yên-kinh (tức Bắc-kinh ngày nay); sau đó thì vây hãm Biện-kinh (tức kinh đô Biện-lương), vua Khâm-tông phải cầu hòa và xin triều cống. Nhưng năm sau, 1127, rợ Kim lại đánh chiếm Biện-kinh, lập một vị đại thần là Trương Bang Xương làm Sở đế, rồi bắt vua Khâm-tông cùng thượng hoàng Huy-tông, thái tử, hậu phi, hoàng tộc v.v... cả thảy 3.000 người, đem về nước Kim; chấm dứt thời kì đầu của vương triều Triệu-Tống, mà sử thường gọi là nhà Bắc-Tống.
Khi rợ Kim đã bắt vua Khâm-tông và cả hoàng tộc Tống thất đem về nước Kim rồi, Trương Bang Xương tự biết không được mọi người kính phục và hợp tác, bèn cùng triều thần tôn thân vương Triệu Cấu (con trai thứ 9 của vua Huy-tông) lên ngôi hoàng đế tại Nam-kinh (nay là huyện Thương-khâu, tỉnh Hà-nam), tức là Tống Cao-tông (1127-1162); sau lại dời xuống đóng đô tại Lâm-an (nay là phố Hàng-châu, tỉnh Triết-giang), sử gọi là Nam-Tống. Đến năm 1276, quân Mông-cổ (lúc này đã diệt nước Kim) đánh phá kinh thành Lâm-an, bắt toàn bộ vua Tống Cung đế (1275-1276), hoàng thái hậu, tôn thất, quan lại v.v... đem về phương Bắc, triều thần phải chạy sang Phúc-kiến, lập em của Cung đế lên ngôi, tức vua Đoan-tông (1276-1278). Năm 1278, vua Đoan-tông chết tại Quảng-đông, em là Vệ vương (1278-1279) lên ngôi, được triều thần dời ra đảo Nhai-sơn ngoài biển Quảng-đông. Năm 1279, trong một trận hải chiến cuối cùng với quân Mông-cổ, vua Vệ vương đã cùng triều thần nhảy xuống biển tự tử; nhà Nam-Tống bị diệt. Kể cả Bắc và Nam, vương triều Triệu-Tống truyền nối được 18 đời vua, kéo dài 320 năm.
Nhà Trần (557-589): là vương triều chót của thời đại Nam-triều, tiếp theo sau nhà Lương. Trần Bá Tiên (503-559) nguyên là thái thú quận Thỉ-hưng thời nhà Lương, nhân có công dẹp loạn Hầu Cảnh mà được thăng dần đến địa vị tướng quốc, tước phong là Trần vương. Năm 557, Bá Tiên phế vua Kỉnh đế (Tiêu Phương Trí, 555-557) của nhà Lương, tự lên ngôi đế, đổi quốc hiệu là Trần, truyền nối được 5 đời vua, kéo dài 33 năm; đến năm 589 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
Nhà Tùy (581-618). Cuối vương triều Bắc-Chu (559-581) triều đình thối nát, vua Tĩnh đế (Vũ Văn Diễn (579-581) lại còn thơ ấu (lên ngôi mới có 8 tuổi), nên bị thừa tướng Dương Kiên (541-604) chuyên quyền. Năm 581, Dương Kiên đã phế Tĩnh đế, bỏ nhà Bắc-Chu, tự xưng đế (tức Văn đế), đặt quốc hiệu là Tùy, đóng đô ở Trường-an (nay là Tây-an, tỉnh Thiểm-tây), chấm dứt thời đại Bắc-triều. Năm 587, Tùy Văn đế đem binh đánh Giang-lăng (vùng đất cực Nam của Bắc-triều, thuộc tỉnh Hồ-bắc, ở bờ Bắc của sông Trường-giang ngày nay), tiêu diệt nhà Hậu-Lương (555-587), chiếm cứ trọn vẹn miền Hoa-bắc; sang năm 589 lại cất quân đánh Hoa-nam, tiêu diệt nước Trần, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc xuống Nam, chấm dứt 370 năm (220-589) của thời kì tan rã, phân liệt của nước Trung-hoa từ sau thời đại nhà Hán. Dù vậy, vương triều Tùy cũng chỉ truyền nối chính thức được 2 đời vua, kéo dài 38 năm, rồi thì bị nhà Đường tiêu diệt.
Nhai sáp (tước lạp 嚼蠟): dụ cho sự không có lạc thú, như miệng nhai sáp, không có thú vị gì. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ta vốn không có tâm ái dục, chỉ vì đáp ứng người mà làm việc phòng sự, đối với thân thể người để lộ ra đó, ta thấy thật vô vị, giống như miệng nhai sáp.”
Nhậm vận đằng đằng (任運騰騰). Tùy vật tùy sự, thuận theo sự vận động tự nhiên của các pháp, con người không tạo tác thêm vào, gọi là “nhậm vận”. “Đằng đằng” là tuệ chiếu phân minh, ý nói là tâm không rối loạn. Hành giả tuy trọn ngày tiếp người xử việc mà chân tâm vẫn luôn hiện tại, không trôi chảy đổi dời theo ngoại cảnh, gọi là “nhậm vận đằng đằng”, hay “đằng đằng nhậm vận”.
Nhân duyên: là từ gộp chung của hai từ “nhân” và “duyên”. Nhân là nguyên nhân nội tại, trực tiếp dẫn tới sinh ra một pháp; duyên là nguyên nhân ngoại tại, trợ giúp cho nguyên nhân nội tại, gián tiếp dẫn tới sinh ra một pháp. Bởi vậy, nhân cũng còn gọi là “nội nhân”, hay “thân nhân” (親因); và duyên cũng còn gọi là “ngoại duyên”, hay “sơ duyên” (疏緣). Từ đó, ở một ý nghĩa rộng rãi, khi nói “nhân” thì đã bao hàm cả nhân (nội nhân) và duyên (ngoại duyên). Một cách cụ thể, có thể nói, nhân là hạt giống để phát sinh ra một pháp, và duyên là những điều kiện phụ thuộc giúp cho hạt giống ấy phát sinh pháp đó. Vậy, nhân và duyên đều là nguyên nhân; pháp được sinh ra chính là kết quả. Tất cả vạn pháp đều do nhân và duyên hòa hợp mới phát sinh; nhân và duyên không hòa hợp thì không có gì phát sinh; hoặc, nếu một pháp đã sinh, mà nhân và duyên tan rã, thì pháp ấy liền tiêu diệt. Đó gọi là “duyên sinh” hay “duyên khởi”, là một trong những giáo lí căn bản và quan trọng nhất của Phật giáo.
Mặt khác, “nhân duyên” là một duyên trong bốn duyên (tứ duyên), tức bốn loại điều kiện làm phát sinh vạn pháp: nhân duyên, tăng thượng duyên, sở duyên duyên và đẳng vô gián duyên. Một pháp được phát sinh, phải có đầy đủ bốn điều kiện trên; dù thiếu bất cứ điều kiện nào cũng không thành. Trong từ “nhân duyên” ở đây, chữ “nhân” nghĩa là chính, chữ “duyên” nghĩa là điều kiện; “nhân duyên” nghĩa là điều kiện chính, điều kiện chủ yếu. Và ba loại duyên kia là: - tăng thượng duyên: điều kiện phụ giúp; - sở duyên duyên: điều kiện đối tượng của nhận thức; - đẳng vô gián duyên: điều kiện chuyển biến liên tục.
“Nhân Duyên” cũng là tên của một trong mười hai thể loại của toàn bộ kinh điển Phật giáo (mười hai bộ kinh). Đây là loại kinh văn chứa đựng những bài pháp Phật nói do có người thỉnh cầu, do một sự việc nào đó đã xảy ra, hoặc các điều giới Phật chế ra do vì đã có người phạm lỗi. Đối lại với loại kinh văn này là loại “Tự Thuyết”, tức là loại kinh văn chứa đựng những bài pháp Phật tự nói ra vì thấy cần thiết cho sự tu học của tăng chúng, chứ không vì một nguyên nhân nào cả.
Nhân địa. Chữ “nhân” nghĩa là nguyên nhân, ở đây chỉ cho công phu tu tập; chữ “địa” có nghĩa là vị trí, địa vị, hay giai vị, tức là những địa vị chứng đạt trên đường tu tập của hành giả đạo Phật. “Nhân địa” là những địa vị mà hành giả chứng đắc trên đường tu hành từ khi phát tâm cho đến khi đạt được quả vị cuối cùng; có hai loại: 1) Nếu quả vị cuối cùng là Phật quả (Diệu-giác), thì tất cả những địa vị từ bậc Đẳng-giác trở xuống, gọi là nhân địa; 2) Nếu quả vị đó là từ Sơ-địa cho đến Đẳng-giác Bồ-tát, thì những giai vị trước đó (Địa-tiền) như Thập-trụ, Thập-hạnh v.v..., được gọi là nhân địa.
Nhân quả chẳng không (nhân quả bất không). Trong 16 tông phái ngoại đạo thời cổ Ấn-độ, có một phái tên là Nhân Quả Giai Không tông – cũng gọi là Không Kiến luận. Học thuyết của tông này phủ nhận luật nhân quả, chủ trương tất cả vạn pháp đều không có gì cả. Duy Thức học đã đưa ra luận chứng “Nhân quả không phải là không có” (tức “nhân quả chẳng không” – nhân quả bất không) nhằm đánh đổ tà thuyết trên.
Nhân quả hữu lậu và nhân quả vô lậu. Trong giáo lí Tứ Đế, cặp nhân quả khổ (quả) và tập (nhân) trình bày những sự thật trong phạm vi ba cõi, nên gọi là “nhân quả hữu lậu”; cặp nhân quả diệt (quả) và đạo (nhân) nói tới cảnh giới giải thoát niết bàn, nên gọi là “nhân quả vô lậu”.
Nhân sự hiển lí. (Xem mục “Sự và Lí”.)
Nhẫn nhục: nghĩa là chịu đựng. Người tu tập hạnh nhẫn nhục có thể chịu đựng nghịch cảnh lẫn thuận cảnh bất cứ từ đâu tới: chịu đựng được cả những sức tấn công của ái dục, giàu sang, quyền lợi và địa vị; an nhiên trước những thành quả tốt đẹp trong công việc Phật sự, ngay cả đối với sự thăng tiến tâm linh, không tự mãn, không kiêu căng trên đường tu chứng.
Nhập tâm - Trụ tâm - Xuất tâm. Từ Sơ-địa cho đến Thập-địa Bồ-tát, mỗi địa đều gồm ba giai đoạn, gọi là “ba tâm”: - Giai đoạn đầu, nhập tâm: mới bước vào, chưa an trụ; - Giai đoạn giữa, trụ tâm: thời gian an trụ ở địa đó; - Giai đoạn chót, xuất tâm: thời gian cuối cùng, lúc sắp ra khỏi địa đó để bước lên địa bên trên.
Nhất kì vô thường: là chỉ cho một lần sinh tử.
Nhất-lai: nghĩa là một lần trở lại, chỉ cho quả vị Tư-đà-hàm của Thanh-văn thừa. Từ này nên được hiểu rõ như sau: Hành giả (ở cõi người) khi đã chứng được quả Tư-đà-hàm, sau khi viên tịch sẽ sinh lên một cõi trời Dục giới, rồi từ đó lại phải sinh trở lại cõi người một lần nữa để tiếp tục đoạn trừ nốt ba phẩm tư hoặc sau cùng của cõi Dục, và chứng quả A-na-hàm. Sau khi viên tịch (ở cõi người), vị A-na-hàm này sẽ sinh lên cõi trời Tịnh-cư ở cõi Sắc (vĩnh viễn không sinh lại cõi Dục nữa) để tiếp tục tu tập cho đến khi chứng quả A-la-hán.
Nhất thể Tam Bảo. Nói về ý nghĩa cùng bản chất, tuy ba ngôi báu Phật, Pháp và Tăng có ba tên gọi khác nhau, nhưng thể tánh thì chỉ là một: Trong mỗi ngôi báu Phật, Pháp hay Tăng đều có đầy đủ cả ba ngôi báu. Đó gọi là “nhất thể Tam Bảo”, hay “đồng thể Tam Bảo”, hoặc “đồng tướng Tam Bảo”.
Nhất thiết trí trí. Từ này được dùng để chỉ cho tuệ giác siêu việt của Phật, là thứ trí tuệ thù thắng hơn hết trong các thứ trí tuệ. Trí tuệ của hàng Thanh-văn, Duyên-giác biết rõ tổng tướng của vạn pháp là tướng không, gọi là “nhất thiết trí”. Trí tuệ của các vị Bồ-tát lớn biết rõ biệt tướng (mọi tướng sai biệt) của các pháp (nhờ thế mà dùng nhiều phương tiện khác nhau để độ sinh), gọi là “đạo chủng trí”. Trí tuệ của chư Phật thì biết rõ cả tổng tướng và biệt tướng của vạn pháp, gọi là “nhất thiết chủng trí”, hay cũng gọi là “nhất thiết trí trí”. Sở dĩ gọi trí tuệ của Phật là nhất thiết trí trí, là vì để phân biệt với “nhất thiết trí” của hàng Thanh-văn Duyên-giác.
Nhất Thuyết Bộ (Eka-vyavaharika). Sau khi Đại Chúng Bộ được thành lập không bao lâu, một số vị trong đó đã không đồng ý với chủ thuyết căn bản “Hiện tại là chân thật, quá khứ và vị lai không thật có” của Đại Chúng Bộ, bèn tách ra thành lập một bộ riêng, chủ trương rằng, “Tất cả các pháp đều không có thật thể, chỉ có duy nhất cái giả danh”; vì vậy mà gọi là Nhất Thuyết Bộ, cũng gọi là Chư Pháp Đản Danh tông (các pháp chỉ có giả danh). Tông này chủ trương, tất cả các pháp thế và xuất thế gian, hữu lậu cũng như vô lậu, đều chỉ có cái giả danh, không hề có thật thể có thể nắm bắt được. Do đó, chủ thuyết của bộ phái này được coi là tương đương với giáo nghĩa “vạn pháp giai không” của hệ Bát Nhã.
Nhất-xiển-đề (icchantika): gọi tắt là “xiển-đề”, dịch nghĩa là không có đức tin, tức là người không có lòng tin vào Phật pháp. Kinh Niết Bàn nói: “Người nhất xiển đề mất hết mọi căn lành, tâm không duyên được với mọi pháp lành.”
Có hai loại người nhất xiển đề: - 1) Loại người dứt tuyệt tất cả căn lành, không thể nào thành Phật, gọi là “xiển đề đoạn thiện”; - 2) Các vị Bồ-tát với lòng đại bi, vì muốn tế độ chúng sinh nên không muốn thành Phật, gọi là “xiển đề đại bi”. Thật ra, tất cả các pháp hữu vi đều có gián đoạn, còn chân như thì vĩnh viễn không bị dứt tuyệt; cho nên tất cả chúng sinh, cuối cùng rồi cũng sẽ thành Phật, lẽ đó đã thành nhất định. Chẳng qua, đối với kẻ xiển đề, thời kì thành Phật quả là cực kì xa xăm!
Nhị Thập Ức Nhĩ (Sronakotivimsa hoặc Srotravimsa-tikoti): tức Ức Nhĩ La-hán, con của một vị trưởng giả ở nước Y-lạn-noa (Irana-parvata), phía Đông nước Ma-kiệt-đà. Sau khi được Phật cho xuất gia, ông về sống tại thành Xá-vệ. Lúc nào ông cũng ở một mình, tu tập rất tinh cần, sống khắc khổ, ngày đêm không ngủ. Mặc dù hết sức cố gắng, nhưng không thể dứt trừ sạch phiền não, ông chán nản, buồn bực, toan bỏ tu, trở về nhà. Đức Phật biết được, liền gọi ông, hỏi khi còn ở thế tục, ông thích làm gì. Ông trả lời, rất thích gảy đàn. Đức Phật nhân đó mà dạy rằng: Dây đàn nếu căng thẳng thái quá thì tiếng đàn nghe không hay; nếu dùn quá, tiếng đàn nghe cũng không hay. Chỉ khi nào dây đàn căng vừa phải thì tiếng đàn nghe mới hay. Việc tu hành cũng giống như vậy: cố gắng thái quá thì tâm bị nhiễu loạn; cố gắng không đúng mức thì tâm sinh giải đãi. Ông nghe theo lời dạy của Phật mà thay đổi cách thức tu tập, bèn chứng quả A-la-hán. Sau đó tôn giả đi về miền
Nhu thuận nhẫn. Sau một thời gian dài tu tập hạnh nhẫn nhục, tâm ý đã được điều phục, mỗi khi chạm cảnh gặp duyên, sự chịu đựng sẽ phát sinh một cách tự nhiên mà không cần phải ra sức cố gắng; tâm ý hành giả lúc bấy giờ nhu hòa tùy thuận một cách khéo léo, như bụi bay trong ánh sáng, gọi là “nhu thuận nhẫn”.
Nhuận văn: một trong chín vị pháp sư thuộc hội đồng phiên dịch ở Trung-quốc thời xưa (xem mục “Dịch Kinh”), giữ nhiệm vụ tu sức văn từ cho sáng sủa, đẹp đẽ.
Nhục-chi (Kusana): là tên một chủng tộc sống rải rác ở các vùng Tây-Bắc Trung-quốc, Tây-vức, Trung và Tây-Bắc Ấn-độ, cùng các vùng lưu vực sông Hằng và Ngũ-hà, trong khoảng thời gian từ thế kỉ thứ 3 tr. TL đến thế kỉ thứ 5 s. TL. Theo các nhà học giả hiện đại, chủng tộc này bao gồm các tộc Tạng, Mông-cổ, Đột-quyết, Khương, Indo-Scythians v.v... Văn hóa của họ tương đồng với chủng tộc Hung-nô. Theo các sách sử Trung-quốc, chủng tộc Nhục-chi nguyên sống trong vùng Đôn-hoàng và Kì-liên sơn, phía Tây-Bắc Trung-quốc. Vào đầu nhà Hán, vì ẩn tránh tộc Hung-nô ở phía Bắc, họ đã di cư về hướng Tây, chiếm đất của tộc Tắc (Saka) và Ô-tôn, đánh bại Đại-Hạ (Bactria, một cổ quốc ở lưu vực sông Amu, vùng Trung-Á, nằm phía Tây-Nam cao nguyên Pamir, bao trùm nước A-phú-hãn ngày nay), chiếm cả vùng đất phía Bắc sông Qui (tức sông Amu, ở biên thùy phía Bắc nước A-phú-hãn ngày nay), lập thành nước Đại Nhục-chi. Số còn lại vẫn giữ vùng đất Kì-liên sơn, gọi là Tiểu Nhục-chi.
Sau khi đã ổn định tình thế, nước Đại Nhục-chi đóng đô tại thành Lam-tử ở phía
Sau khi Khâu Tựu Khước chết, người con là Diêm Cao Trân (Wema Kadphises II) nối ngôi, lại tiếp tục chiếm miền Bắc nước Thiên-trúc, cho tướng trấn giữ nước Kiền-đà-la (Gandhara); đó là thời kì toàn thịnh của đế quốc Đại Nhục-chi (tức Quí-sương). Trong thời gian tại vị, vua Diêm Cao Trân đã giao thiệp rộng rãi với các nước lân bang, nhất là La-mã, gây nên sự dung hợp giữa hai nền văn hóa Đông và Tây; từ đó mà hình thành nền mĩ thuật Kiền-đà-la, tức là nền mĩ thuật Phật giáo mang hình thức Hi-lạp, đã ảnh hưởng sâu xa đến nền mĩ thuật Phật giáo ở các nước Á-châu về sau này. Ông cũng đã cho lấy vàng trong nước để đúc tiền, làm cho kinh tế phát triển, các thành phố và nền thương nghiệp rất phồn thịnh, đặc biệt là “con đường tơ lụa” đi ngang qua địa vức của đế quốc, đã trở thành yếu lộ giao thông kinh tế giữa Âu-châu và Á-châu.
Đến đời vua thứ ba của vương triều là Ca Nị Sắc Ca, thì thế lực của đế quốc Quí-sương lại càng rộng lớn hơn nữa. Ông dời kinh đô của đế quốc đến thành Bố-lộ-sa-bố-la (Purusapura) của nước Kiền-đà-la. Ông tín ngưỡng Phật pháp rất kiền thành, nên đã hết lòng bảo hộ Phật giáo, xây cất rất nhiều chùa tháp, quan trọng nhất là ông đã phát tâm bảo trợ cho đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư của 500 vị A-la-hán tại nước Ca-thấp-di-la (Kasmira). Trong lịch sử Phật giáo Ấn-độ, công nghiệp ủng hộ Phật giáo của ông được sánh ngang bằng với vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL). Các vị đại luận sư của Phật giáo như Mã Minh, Long Thọ, v.v... đều ra đời trong triều đại của ông.
Lại nữa, với địa thế bao trùm từ Tây sang Đông ấy, nước Đại Nhục-chi đã trở thành môi giới quan trọng cho sự giao lưu văn hóa giữa Ấn-độ và Trung-quốc; và cố nhiên, sự giao lưu văn hóa đó đã có tầm ảnh hưởng lớn lao đến việc truyền bá Phật pháp từ Ấn-độ và Tây-vực đến các nước ở Đông-độ như Trung-quốc, Việt-nam, v.v...
Sau triều đại của vua Ca Nị Sắc Ca là các vua Ngõa Tây Sắc Ca (Vasisca), Phất Duy Sắc Ca (Huvisca), Ngõa Tô Đề Bà (Vasudeva), kế tiếp nhau nối nghiệp. Dưới triều đại vua Ngõa Tô Đề Bà, vương triều Tát-san (Sasan) của Ba-tư và vương triều Cấp-đa (Gupta) ở Trung Ấn-độ đều quật khởi, phía Bắc lại bị áp lực mạnh mẽ của Hung-nô, cho nên quốc thế trở nên suy sụp. Đến hậu bán thế kỉ thứ 5 TL thì Đại Nhục-chi bị tộc Áp-đạt tiêu diệt.
Nhục thân - Bồ-tát nhục thân. “Nhục thân” tức là cái xác thân hiện có của con người, do tinh huyết của cha mẹ sinh ra, được hợp thành bởi bảy yếu tố: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Hành giả, ngay ở nhục thân này mà tu tập hạnh Bồ-tát thì gọi là “Bồ-tát nhục thân”.
Như. Pháp tánh của các pháp thật khó dùng ngôn ngữ văn tự mà hình dung, cho nên mượn chữ “như” làm đại biểu. Pháp tánh tức thật tướng, thật tướng tức là “như”, tức là không hai, không khác, không biến, không động; chân diện mục của vạn pháp đều đồng một tướng, cho nên gọi là “như”.
Như huyễn hữu. Chữ “hữu” là chỉ cho mọi sự vật đang hiện hữu, tồn tại trong thế gian, mà tâm thức con người có thể biết được. Chữ “huyễn”, hay “ảo”, nghĩa là biến hóa, không có thực, giả tạo mà trông giống như thực – tức trò ảo thuật. “Như huyễn” nghĩa là như trò ảo thuật, là một trong mười loại thí dụ (được ghi rõ trong Kinh Đại Phẩm Bát Nhã) thường dùng trong kinh luận Phật giáo, dùng để nói lên cái bản chất không chân thật của mọi hiện tượng tồn tại. Ví như một ảo thuật gia dùng xảo thuật giả tạo một cách khéo léo, biến hóa ra các vật, như biến hóa cái khăn thành ra con chim; cái li trống bỗng có đầy nước; một người đang đứng đó bỗng biến mất; người bị chặt đứt nhiều đoạn mà vẫn trở lại nguyên vẹn như thường v.v...; những cảnh tượng ấy hoàn toàn là không có thật, nhưng khán giả ngồi xem vẫn thấy y như thật. Cũng giống như thế, vạn pháp vốn là không có thật, chỉ vì cái thấy, cái nghe, cái biết phân biệt thành ra tướng nọ tướng kia, mà sinh ra cái ảo tưởng là vạn vật đang hiện hữu; cho nên kinh luận Phật giáo nói vạn pháp chỉ là “như huyễn hữu”, hay “như huyễn giả hữu”, tức là vạn pháp vẫn hiện hữu đó, nhưng sự hiện hữu ấy chỉ là hư giả, tạm bợ, không có thật thể. – Như vậy, “như huyễn hữu” cũng tức là “không”, theo giáo lí Bát Nhã.
Như Lai. Là một trong mười danh hiệu của Phật. Theo con đường chân như đến thành chánh giác, đến trong ba cõi thương xót hóa độ chúng sinh, gọi là “Như Lai”.
Như lai tạng: là một thuật ngữ Phật học chỉ cho tự tánh thanh tịnh bản lai vốn ẩn tàng trong cái thân phiền não nhiễm ô của tất cả chúng sinh. Cái tánh như lai tạng này tuy bị che giấu trong phiền não lâu ngày, nhưng không bao giờ bị phiền não làm cho ô nhiễm, mà vẫn đầy đủ bản chất thanh tịnh sáng suốt tuyệt đối, vĩnh viễn không biến đổi. Như lai tạng cũng tức là pháp thân. Khi thể tánh chân như còn bị che lấp trong phiền não thì gọi là như lai tạng; khi thể thánh chân như thoát khỏi sự ràng buộc của phiền não thì gọi là pháp thân.
Như lí trí - Như lượng trí. Trí tuệ của các bậc thánh xuất thế gian, được phân làm hai loại: như lí trí và như lượng trí. Như lí trí là trí tuệ soi rõ chân lí đệ nhất nghĩa đế. Loại trí tuệ này không dùng để phân biệt, suy tìm, hay khảo sát sự vật. Nó vận hành tự nhiên, soi sáng bản thể các pháp, khế hợp chân lí vũ trụ. Vì vậy, nó cũng được gọi là “căn bản trí, chân trí, hay như thật trí”. Như lượng trí: là loại trí tuệ soi rõ sự khác biệt muôn hình vạn trạng của sự vật tục đế. Nó thấy rõ tính huyễn hóa, tính y tha khởi của vạn pháp hữu vi. Vì vậy, nó cũng được gọi là “hậu đắc trí, quyền trí, hay phương tiện trí”.
Như như: tức là “như”, cũng là “chân như”, hay “như thật”, tức là bản tánh chân thật bất biến của vạn pháp. Tất cả các pháp, tuy mỗi mỗi đều có thuộc tánh khác nhau, như đất thì cứng, nước thì ướt, lửa thì nóng v.v..., nhưng những thuộc tánh ấy không phải là tánh chân thật, mà tất cả đều lấy tánh không làm thể tánh chân thật; cho nên gọi thật tánh là “như như”. Như như là bản tánh của vạn pháp, cho nên cũng được gọi là “pháp tánh”.
Như thật: nghĩa là thật tướng chân như. Không phải giả gọi là “chân”; không thay đổi gọi là “như”; không hư dối gọi là “thật”. “Chân như” tức là tự tính thanh tịnh của tất cả chúng sinh; cũng gọi là “pháp thân, như lai tạng, pháp tánh, Phật tánh” v.v... Tự tính chân như này hoàn toàn không hư vọng, là tướng chân thật, cho nên nói là “thật tướng chân như”, hay nói tắt là “như thật”. Vì thật tướng chân như xa lìa tất cả mọi vọng nhiễm, xa lìa tất cả mọi tướng sai biệt, giống như hư không, không dính một hạt bụi nào, cho nên cũng gọi là “như thật không”. Vả lại, thật tướng chân như là thể tính thường hằng bất biến, tuy không còn vọng nhiễm, không dính một hạt bụi nào, nhưng lại có đầy đủ hằng sa công đức diệu dụng, không có tịnh pháp nào là không hàm chứa ở trong nó, cho nên cũng được gọi là “như thật bất không”.
Niệm. “Niệm” nghĩa là giữ cho ý thức có mặt trong giây phút hiện tại; nhưng không phải là ở trạng thái rỗng không, mà phải luôn luôn là “niệm cái gì”. Như vậy, “niệm”, phải nói cho đầy đủ, là có ý thức về một đối tượng. Mặc dù vậy, “niệm” cũng chỉ mới là phần đầu của công phu thiền tập, chỉ có công năng đình chỉ loạn tưởng. Mục đích của thiền tập là phát sáng trí tuệ. Trí tuệ phát sáng mới dứt trừ được vô minh và các phiền não tham, sân, si, v.v... Muốn thắp sáng trí tuệ thì tiếp theo tu “niệm”, phải tu “quán”. “Quán” là quán chiếu, tức là nhìn sâu vào lòng đối tượng để thấy và hiểu rõ bản chất của nó. Nhờ cái thấy và cái hiểu đó, hành giả sẽ hóa giải được vô minh, phiền não, diệt trừ được sợ hãi, điên đảo, đạt được giải thoát, an lạc. Vậy, NIỆM và QUÁN là một toàn bộ của công phu thiền tập; bởi đó mà chúng ta có thuật ngữ “QUÁN NIỆM”. Và “quán niệm” chính là nội dung của thiền tập.
Niệm Phật. Chữ “niệm” nghĩa là nhớ, nghĩ đến một đối tượng, cũng tức là làm cho đối tượng đó có mặt trước tâm ý trong giây phút hiện tại. Trái lại là “thất niệm”, tức là quên lãng. Đối với người tu học Phật, NIỆM có tác dụng ngăn chận vọng tưởng, khiến cho tâm được an tĩnh, không loạn động. Để đạt được mục đích đó, tâm ý phải thường tập chú (niệm) vào mười đối tượng sau đây:
1) Niệm Phật: chuyên tâm quán tưởng về thân tướng hảo và các công đức của Phật.
2) Niệm pháp: Quán tưởng đến giáo pháp của Phật cùng những qui tắc tu hành.
3) Niệm Tăng: Quán tưởng đến đức hòa hợp, thanh tịnh, cùng công hạnh hành đạo của tăng đoàn và chư vị thánh chúng.
4) Niệm giới: Quán tưởng về công đức trì giới có công năng ngăn ngừa nghiệp ác, thành tựu đạo hạnh.
5) Niệm thí xả: Quán tưởng công đức bố thí diệt trừ được tâm xan tham, sinh trưởng quả phúc, lợi ích chúng sinh, mà lòng không cầu mong báo đáp.
6) Niệm thiên: Quán tưởng chư thiên thành tựu thiện nghiệp, được thân tướng tốt đẹp, phước đức đầy đủ; mình cũng tu tập thiện nghiệp để được phước đức như vậy.
7) Niệm hưu tức: Quán tưởng đến chỗ ở tịch tĩnh, cắt đứt mọi hệ lụy, chuyên tu tập thánh đạo.
8) Niệm an ban: Theo dõi hơi thở dài ngắn, đếm hơi thở vào ra, nhiếp tâm vắng lặng, diệt trừ vọng tưởng.
9) Niệm thân vô thường: Quán tưởng thân này do nhân duyên giả hợp mà thành, tất cả các bộ phận trong ngoài, không có gì là chân thật, thường còn vĩnh viễn.
10) Niệm tử: Quán tưởng đời người như mộng ảo, chỉ một thời gian ngắn là tiêu hoại.
Ở đây xin được nhấn mạnh đến đối tượng thứ nhất của tâm niệm, là đức Phật. “Niệm Phật” tức là tâm niệm về pháp thân Phật (pháp thân niệm Phật); quán tưởng đến thân tướng và công đức của Phật (quán tưởng niệm Phật); miệng niệm danh hiệu Phật (khẩu xưng niệm Phật). Niệm Phật là một trong những công hạnh cơ bản của người tu học Phật. Trong truyền thống Phật giáo Nam-truyền, niệm Phật chỉ chuyên chú vào đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi; còn trong truyền thống Phật giáo Bắc-truyền, niệm Phật là niệm vô số Phật trong khắp mười phương ba đời. Riêng những người tu tập theo pháp môn Tịnh Độ thì đối tượng chuyên nhất là đức Phật A Di Đà. Niệm Phật là biểu thị lòng nhớ nghĩ, qui kính, tán thán, lễ bái; có công năng dứt trừ tham sân si và vô số phiền não khác, được sinh về các Phật độ mà thành tựu chánh giác. Đáng lí ra, niệm Phật là một pháp môn tu tập chung cho tất cả mọi hành giả, nhưng từ khi tông Tịnh Độ được phát huy cường thịnh, hễ nói tới “niệm Phật” là người ta nghĩ ngay đến việc tu Tịnh Độ, và niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc.
Niệm trụ đại bi (đại bi niệm trụ). Đức Phật dùng tâm đại bi để nhiếp hóa chúng sinh, nhưng vẫn luôn luôn an trụ trong chánh niệm; có 3 trường hợp, gọi là “đại bi tam niệm trụ”:
1) Chúng sinh tin Phật, nhưng Phật không sinh tâm vui mừng, mà luôn an trụ ở chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ nhất.
2) Chúng sinh không tin Phật, Ngài cũng không sinh tâm phiền muộn, mà luôn an trụ trong chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ nhì.
3) Cùng một lúc có chúng sinh tin và có chúng sinh không tin, đức Phật biết rõ nhưng không sinh tâm vui mừng, cũng không sinh tâm phiền muộn, mà luôn an trụ trong chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ ba.
Niên đại thống nhất của Phật. Các nước theo Phật giáo trên thế giới, trong cuộc hội nghị của tổ chức Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới tại Nhật-bản vào năm 1952, đã thống nhất lấy năm Phật nhập niết bàn làm năm thứ nhất Phật lịch. Theo đó, các niên đại quan trọng trong cuộc đời đức Phật được công nhận như sau: Đức Phật nhập niết bàn năm -544 (Phật 80 tuổi); thành đạo năm -589 (35 tuổi); xuất gia năm -595 (29 tuổi); và đản sinh năm -624.
Niết-bàn (nirvana): là trạng thái đã dập tắt mọi phiền não, hoàn toàn vắng lặng; bởi vậy, nó đồng nghĩa với các từ “giải thoát”, “trạch diệt”, “li phiền”. Nguyên lai, từ “niết-bàn” được dùng để chỉ cho trạng thái “lửa tắt” (hay “củi hết lửa tắt” – nghĩa là, con người khi thân xác và trí năng đều nguội lạnh thì tức là đã chết, giống như củi hết lửa tắt); về sau mới chuyển ra để dùng chỉ cho sự tận diệt lửa phiền não thiêu đốt và đạt tới trí tuệ siêu việt. Đó là cảnh giới giác ngộ, vượt thoát sinh tử, là mục đích thực tiễn tối hậu của Phật giáo. Như vậy, nguyên ý của từ niết-bàn là chỉ cho sự thành đạo của đức Thế Tôn, nhưng về sau thì nó được dùng để chỉ sự chết của Ngài. Phật chết thì gọi là nhập niết bàn, nhập diệt, diệt độ, hay viên tịch. Gọi như vậy cũng không có gì mâu thuẫn, vì thật ra, “niết-bàn” có hai loại:
1) Hữu dư (y) niết bàn: tức là vô minh phiền não đã hoàn toàn đoạn diệt, chứng nhập đạo quả giải thoát giác ngộ trọn vẹn, nhưng vẫn còn nương vào nhục thể như là một phương tiện cụ thể, cần thiết và hữu hiệu để độ sinh; đó là trường hợp đức Phật từ lúc thành đạo cho đến trước giờ phút nhập diệt.
2) Vô dư (y) niết bàn: tức là khi cơ duyên hóa độ đã mãn, Phật lìa bỏ nhục thân tứ đại, nhập vào cảnh giới hoàn toàn vắng lặng của pháp thân thường trú, lìa hết mọi tướng sinh, tử, phiền não, bồ đề v.v...; đó là lúc Phật nhập diệt. Trạng thái niết-bàn của các vị thánh tăng cũng vậy.
Điều đó cho thấy, niết-bàn không phải là một cảnh giới vô hình ở một nơi bí mật xa xăm nào đó, dành cho những người tu hành đắc đạo, sau khi chết sẽ sinh về đó để sống an vui vĩnh viễn. Niết-bàn là trạng thái tâm linh của người khi đã đoạn trừ phiền não. Trong đời sống hằng ngày, nếu một người dứt trừ được tâm tham lam, người đó liền có được cái trạng thái niết bàn nho nhỏ. Nếu dứt trừ được thêm tâm sân hận, trạng thái niết bàn liền lớn hơn một tí... Nếu tham sân si vắng mặt được một phút thì hành giả có niết bàn được một phút... Cứ thế, phiền não càng ít đi thì niết bàn càng lớn lên; phiền não vắng mặt càng thường xuyên thì niết bàn có mặt càng thường xuyên; phiền não vắng lặng hoàn toàn và vĩnh viễn thì niết bàn sẽ trọn vẹn và vĩnh cửu. Trạng thái niết bàn ấy ra sao, chỉ có người chứng nhập cảnh giới ấy mới biết được; không thể diễn tả bằng ngôn từ, không thể hình dung bằng suy tưởng, cũng không thể trao truyền hay chia sẻ cho nhau cùng hưởng.
Niết bàn tịch tịnh. Trong cảnh giới niết bàn, tất cả những nỗi khổ sinh tử đều tiêu diệt, hoàn toàn tĩnh lặng, cho nên nói niết bàn là tịch tịnh. Câu nói này là một “pháp ấn” trong Phật giáo. (Xem mục “Pháp Ấn”.)
Nói pháp bất tịnh (bất tịnh thuyết pháp - tà mạng thuyết pháp): tức là, dù giảng diễn chánh pháp, nhưng với tâm niệm bất chánh, thì gọi là nói pháp bất tịnh; ví dụ như những trường hợp sau đây:
1) Giảng thuyết với mưu đồ riêng, nói lời hư vọng nhằm quyến rũ người ta tin tưởng mình;
2) Không nói Phật pháp mà chỉ nói chuyện thế sự;
3) Uống rượu, ăn năm vị hôi, hành dâm xong liền mặc pháp y vào Phật đường thuyết pháp, làm ô uế Tam Bảo;
4) Phỉ báng người có đức hạnh để đề cao cá nhân mình;
5) Không tỏ ngộ pháp chân thật nhất thừa, khiến phải bị mắc lầy trong pháp phương tiện trước tướng;
6) Thuyết pháp với tâm tham cầu lợi dưỡng;
7) Thuyết pháp vì muốn tranh hơn với người khác;
8) Nói toàn những điều trái ngược với ý nghĩa kinh điển.
Tất cả những trường hợp như thế đều gọi là nói pháp bất tịnh.
Nội điển: chỉ cho tất cả giáo điển của Phật giáo; trái lại, tất cả sách vở ở thế gian, không thuộc Phật giáo, đều được gọi là “ngoại điển”.
Núi Chế-đa (Chế-đa sơn – Caitya-giri): cũng gọi là núi Chi-đề, là một ngọn núi ở đảo quốc Tích-lan (tên cũ là Ceylon, tên mới là Sri Lanka), nay tức là núi Mihintale, cách thành phố Anura-dhapura (kinh đô thời cổ của Tích-lan, tọa lạc ở miền duyên hải phía Đông-Bắc đảo Tích-lan) khoảng 13 cây số về hướng Đông. Theo Luật Thiện Kiến, vào khoảng giữa thế kỉ 3 Phật lịch, tôn giả Ma Thẩn Đà (Mahendra - Mahinda, con của vua A Dục) đã vâng mệnh vua A Dục đến Tích-lan hoằng truyền giáo pháp, và từng cư trú tại núi này. Vị quốc vương đương thời của đảo quốc là Thiên Ái Đế Tu (Devanampiyatissa) rất kính mộ, từng đến núi này nghe tôn giả thuyết giảng Phật pháp. Tôn giả đã xây chùa Chi-đề-sơn ngay trong núi này. Sau đó không lâu, em gái của tôn giả là ni sư Tăng Già Mật Đa (Samghamitra), đã mang một nhánh cây bồ đề (chiết từ cây bồ đề mẹ ở Bồ-đề đạo tràng, nơi đức Thế Tôn thành đạo) sang trồng tại chùa này. Từ đạo tràng Chi-đề (tức Chế-đa), hai anh em tôn giả đã hợp sức hoằng dương Phật pháp, dùng ngay ngôn ngữ Tích-lan để giảng dạy Ba Tạng Ba-li. Họ thành lập giáo đoàn gồm cả tì kheo và tì kheo ni, đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo Thượng Tọa Bộ tại Tích-lan.
Tuy nhiên, không thấy có tài liệu nào nói rõ, núi Chế-đa này có phải là nơi đã sản sinh ra bộ phái Chế Đa Sơn thuộc Đại Chúng Bộ hay không. Mặc dù vậy, y cứ vào một số sử liệu, chúng ta có thể xác định, bộ phái Chế Đa Sơn đã được thành lập tại miền
Thứ nữa, theo Phật Quang Đại Từ Điển ghi chép, trong sách Luận Sự Chú (Kathavatthup-pakarana-atthakatha) của ngài Phật Âm (Buddha-ghosa), có nói tới một bộ phái tên Án Đạt La (Andhaka), đặt căn cứ địa tại xứ Án-đạt-la (Andhara) ở Nam Ấn-độ. Bộ phái này gồm có 4 bộ phái nhỏ xuất hiện rất muộn: Đông Sơn Trú Bộ, Tây Sơn Trú Bộ, Vương Sơn Trú Bộ, và Nghĩa Thành Bộ. Các sách Đảo Sử và Đại Sử của Phật giáo Nam-truyền có nói: “Sau khi 17 bộ phái phân rẽ trong 200 năm sau ngày Phật nhập diệt, đã sản sinh 6 bộ phái nữa, trong đó có Vương Sơn Trú Bộ, Nghĩa Thành Bộ, Đông Sơn Trú Bộ, và Tây Sơn Trú Bộ”. Trong tác phẩm Dị Bộ Tông Tinh Thích của ngài Thanh Biện (Bhavya) cũng có nêu ra bốn bộ phái thuộc Đại Chúng Bộ là Đông Sơn Trú Bộ, Tây Sơn Trú Bộ, Vương Sơn Trú Bộ, và Nghĩa Thành Bộ. Trong Dị Bộ Tông Luân Luận của ngài Thế Hữu có chép: “200 năm sau ngày Phật nhập diệt, Đại Chúng Bộ có tì kheo Đại Thiên, cư trú tại núi Chế-đa, cùng với tăng chúng thuộc Đại Chúng Bộ, tranh luận về ‘Năm Việc Dư Sở Dụ v.v...’, đã đưa đến sự phân rẽ thành ra Chế Đa Sơn Bộ, Tây Sơn Trú Bộ và Bắc Sơn Trú Bộ.”
Đem đối chiếu các sử liệu vừa nêu trên, ba bộ phái Vương Sơn Trú, Đông Sơn Trú và Tây Sơn Trú (được nêu trong Luận Sự Chú, Đảo Sử, Đại Sử và Dị Bộ Tông Tinh Thích) có thể xem là tương đương với ba bộ phái Chế Đa Sơn, Bắc Sơn Trú và Tây Sơn Trú (được ghi trong Dị Bộ Tông Luân Luận). Lại nữa, trong Đại Đường Tây Vực Kí (quyển 10) cũng có ghi: “nước Đại-án-đạt-la, phía Đông kinh thành có núi Đông-sơn; phía Tây kinh thành có núi Tây-sơn; phía Nam kinh thành có núi Đại-sơn; già lam có 20 ngôi; tăng đồ có hàng ngàn người, phần nhiều tu học theo giáo pháp Đại Chúng Bộ.” Điều này cho thấy, núi Đại-sơn có thể chính là Vương-sơn trong Luận Sự Chú và Đảo Sử; và cũng là Chế-đa-sơn trong Dị Bộ Tông Luân Luận. Chúng ta có thể nghĩ rằng, Thế Hữu là người nước Kiền-đà-la, ở phía Tây-Bắc Ấn-độ, cách Đại-án-đạt-la ở phía
Núi Chung-nam (Chung-nam sơn): tên cũ là Trung-nam sơn, gọi tắt là Nam-sơn, nằm ở phía Tây huyện Trường-an, tỉnh Thiểm-tây, là một ngọn thuộc dãy Tần-lĩnh sơn. Trên núi có nhiều thắng cảnh, nhiều cổ tích của tự viện, của các bậc danh tăng thạc đức, nên hàng năm số người lên núi du lãm rất đông. Cũng như Lô-sơn ở tỉnh Giang-tây, núi Chung-nam này cũng có nhiều liên hệ mật thiết đối với Phật giáo Trung-quốc. Từ cuối thế kỉ thứ 5, đã có rất nhiều danh tăng vân tập về núi này cư trú. Năm 573 (thời Bắc-Chu), ngài Pháp Tạng (546-629) lên núi này, một mình dựng thiền phòng ở ngọn Tử-cái. Ngài Tĩnh Ái (534-578), vì chống lại sự kì thị và âm mưu tiêu diệt Phật giáo của vua Chu Vũ đế, đã dẫn đồ chúng vào núi này ẩn cư, xây dựng đến 27 ngôi chùa. Khi vua Chu Vũ đế chính thức hạ lệnh tiêu diệt Phật giáo (năm 574), hàng trăm chư vị danh tăng đã lên núi ẩn cư lánh nạn. Đời nhà Tùy, ngài Trí Tạng lên núi lập chùa Phong-đức; ngài Đạo Phán lập chùa Long-trì; ngài Tịnh Nghiệp lập chùa Ngộ-chân; v.v... Đời nhà Đường, vị sơ tổ của tông Hoa Nghiêm là Pháp Thuận (tức Đỗ Thuận), vì ẩn cư ở núi này mà người đời xưng ngài là Chung Nam Pháp Thuận; ngài Pháp Lâm lập chùa Long-điền; ngài Trí Nghiễm hoằng dương tông Hoa Nghiêm tại chùa Chí-tướng, được người đời xưng ngài là Chí Tướng đại sư; ngài Thiện Đạo của tông Tịnh Độ ở tại chùa Ngộ-chân chuyên tu niệm Phật, được người đời xưng là Chung Nam đại sư; ngài Đạo Tuyên ở tại chùa Phong-đức hoằng dương Tứ Phần Luật và thành lập Nam Sơn Luật tông.
Núi Hi-mã-lạp (Hi-mã-lạp sơn -
Núi Linh-thứu (Linh-thứu sơn - Grdhrakuta): tức núi Kì-xà-quật. “Kì-xà-quật” là dịch âm từ tiếng Phạn; “Linh-thứu” là dịch ý. Núi này nằm ở phía Đông Bắc, và là ngọn núi lớn nhất trong năm ngọn núi bao quanh thành Vương-xá (nước Ma-kiệt-đà). Chóp núi trông giống như đầu chim thứu (tức chim kênh kênh, thích ăn xác chết), nên núi có tên là Linh-thứu. Lại nữa, trên núi này có rất nhiều chim thứu ở, nên núi được gọi là Linh-thứu. Cảnh trí trên núi rất đẹp đẽ, có khe suối chứa nhiều nước trong lành, có nhiều hang động kín đáo, rất thuận tiện cho sự tu tập của tăng chúng. Tu viện Trúc-lâm vẫn là đạo tràng chính ở thành Vương-xá, nhưng khoảng mười lăm năm sau ngày thành đạo, mỗi khi trở về đây hoằng hóa, đức Phật thường ngự trên núi Linh-thứu. Từ đó, núi này trở thành một đạo tràng nổi tiếng của đức Phật. Trên đỉnh núi có đàn nói pháp, có tịnh thất của Phật và của các vị đệ tử lớn của Ngài. Vua Tần Bà Sa La đã cho xây mấy trăm bậc cấp bằng đá suốt từ chân lên đến đỉnh núi. Các thung lũng nhỏ được san bằng. Các khe suối thì vua cho bắc cầu để đi qua. Đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy khắp thành Vương-xá. Các bậc cấp dẫn lên núi ngày nay vẫn còn. Các di tích khác từ thời Phật như nền đá của đàn nói pháp, các thạch thất của Phật và của các vị đệ tử, nơi Phật bị mảnh đá văng (do Đề Bà Đạt Đa từ trên cao xô xuống để hại Phật) làm chảy máu chân, v.v... hiện nay vẫn còn.
Núi Thiên-thai (Thiên-thai sơn): là tên một dãy núi ở tỉnh Triết-giang, Trung-quốc. Núi này cũng có tên là Thiên-thê, hay Thai-nhạc, nằm ở huyện Thiên-thai, cao 1.136 mét, gồm 8 ngọn lớn và nhiều ngọn nhỏ, với nhiều hang động, khe, suối, đầm, hồ, ao, từng nổi danh từ thời cổ, được rất nhiều đạo sĩ, ẩn sĩ chọn làm nơi ẩn cư. Tương truyền, Phật giáo đã bắt đầu khai thác núi này vào khoảng niên hiệu Xích-ô (238-251) thời Đông-Ngô, mà chùa Thanh-hóa là ngôi pháp vũ đầu tiên được xây cất trên núi này. Rồi những ngôi chùa khác trên núi cũng dần dần được kiến tạo vào những thế kỉ kế tiếp. Đến năm 575 (đời Trần, thời Nam-triều), đại sư Trí Khải (538-597) đã lên núi này, kiến lập chùa Tu-thiền (sau đổi tên là chùa Thiền-lâm) ở ngọn Phật-lũng để làm nơi tu thiền. Và chính tại nơi đây, ngài đã sáng lập tông Thiên
Núi Tu-di (Tu-di sơn). “Tu-di” là dịch âm từ Phạn ngữ “Sumeru”, dịch nghĩa ra Hán ngữ là “diệu cao”, “diệu quang”, “thiện tích”, v.v... “Tu-di” nguyên là tên một ngọn núi trong thần thoại Ấn-độ, Phật giáo đã lấy nó đặt vào trong vũ trụ quan của mình, và coi nó là ngọn núi cao vót, đứng sừng sững ở địa vị trung ương của một tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, với tám núi lớn và tám biển lớn thứ lớp bao bọc chung quanh, làm thành một thế giới (cũng được gọi là thế giới Tu-di). Vũ trụ quan Phật giáo nói rằng, vũ trụ là do vô số thế giới cấu thành. Cứ một ngàn thế giới là một “tiểu thiên thế giới”; một ngàn tiểu thiên thế giới là một “trung thiên thế giới”; một ngàn trung thiên thế giới là một “đại thiên thế giới”; hợp tiểu thiên, trung thiên và đại thiên lại, gọi là “ba ngàn đại thiên thế giới” (tam thiên đại thiên thế giới). Đó là cảnh giới giáo hóa của một đức Phật.
Nước Sư-tử (Sư-tử quốc): tức nước Tích-lan, một đảo quốc ở Ấn-độ dương, cách bán đảo Ấn-độ khoảng 32 cây số về hướng Đông-Nam, là một trong những căn cứ địa chủ yếu của Phật giáo Nam-truyền Thượng Tọa Bộ. Tích-lan, vốn tên tiếng Phạn là Simhala, dịch âm Hán Việt là Tăng-già-la, dịch ý là sư tử. Ngày xưa người Trung-quốc thường gọi đó là nước Sư-tử, cũng gọi là đảo Đồng-chưởng, hay đảo Lăng-già; người Âu-châu gọi là nước
Ở trong ba cõi (giới nội). Chữ “giới” ở đây là tiếng gọi tắt của từ “tam giới” (ba cõi); và chữ “nội” nghĩa là ở bên trong. “Giới nội” là ở trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô-sắc; cũng tức là trong vòng sinh tử luân hồi. Ba cõi là thế giới của phiền não, khổ đau, là nơi các loài chúng sinh phàm phu qua lại. Trong khi đó, các vị Bồ-tát lớn và chư Phật đều dứt tuyệt phiền não, giải thoát khỏi ba cõi, ở ngoài ba cõi, gọi là “giới ngoại”. Kinh Thắng Man phân tích có hai loại sinh tử: phần đoạn sinh tử và bất tư nghị biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là sự sinh tử của các loài chúng sinh ở giới nội, do phiền não, nghiệp lực mà luân hồi trong sáu đường. Bất tư nghị biến dịch sinh tử là sự sinh tử của chư Phật và Bồ-tát, tuy đã thoát khỏi vòng luân hồi (giới ngoại), nhưng vì bi nguyện độ sinh mà còn phải qua lại trong ba cõi để thực hiện hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Phá. Chữ “phá” được dùng trong các bộ Luận vốn là một thuật ngữ thuộc Nhân Minh Luận, có nghĩa là đả kích, bài xích, đánh đổ những lập luận sai lầm, không đúng chân lí trong các luận thuyết ngoại đạo; chữ “phá” trong các từ “phá tà”, “phá chấp”, “phá tướng” v.v... là nằm trong ý nghĩa này. Trong Luật, chữ “phá” có nghĩa là không tuân giữ giới luật, không thi hành đúng qui trình đã định, như các từ “phá giới”, “phá trai”, “phá hạ”; cũng có nghĩa là làm cho sứt mẻ, làm mất sự toàn vẹn, như câu “phá hòa hợp tăng”, v.v... Trong Kinh, chữ này được dùng với ý nghĩa phỉ báng, hủy hoại, diệt trừ, hàng phục, như các từ “phá pháp” (phỉ báng chánh pháp), “phá hữu” (chấm dứt sinh tử), “phá tội nghiệp” (dứt trừ tội chướng), “phá ác, phá hoặc, phá vô minh” (tiêu trừ phiền não, vô minh), “phá ma quân” (hàng phục ma quân), “phá địa ngục” (thoát li cảnh giới khổ đau), v.v... Trong Thiền tông, chữ “phá” còn được dùng với những ý nghĩa đặc biệt, như nói “phá nhan vi tiếu” (đổi sắc mặt nghiêm nghị mà mỉm cười - chỉ cho trường hợp tôn giả Đại Ca Diếp mỉm cười trong pháp hội Linh-sơn khi đức Thế Tôn đưa cành hoa lên trước đại chúng), “phá môn” (chỉ cho người đệ tử bị thầy đuổi ra khỏi chùa), “phá phàm phu” (chỉ cho thiền sinh tâm tánh quá ám độn), v.v...
Phá bản tham: là cái cửa ải đầu tiên mà các thiền giả phải vượt qua. Theo Thiền tông, có ba loại cảnh giới tham thiền từ thấp lên cao, mà hành giả Thiền môn phải thấu suốt, thuật ngữ Thiền học gọi là “tam quan” (ba cửa ải).
1) Cửa ải đầu tiên, hành giả phải diệt trừ hết mọi phàm tình, thấy rõ các pháp là hư vọng không chân thật, tỏ ngộ được tâm tính bản nguyên của mình (tức là bản lai diện mục). Đạt được cảnh giới này, gọi là “phá sơ quan” (tức vượt được cửa ải đầu tiên), hoặc cũng gọi là “phá bản tham” (tức vượt được cảnh giới tham thiền căn bản), và đó cũng tức là giai đoạn “kiến tánh”.
2) Cửa ải kế tiếp, sau khi đã kiến tánh, tiếp tục dụng công tu trì, không những không bị cái “hữu” làm cho chướng ngại, mà cả cái “không” cũng không bị vướng mắc. Đạt được cảnh giới này, gọi là “thấu trùng quan” (đã vượt suốt hai lớp cửa).
3) Cửa ải sau cùng, hành giả tiếp tục dụng công mài luyện, cho đến khi đạt được cảnh giới tịch chiếu (vắng lặng và sáng soi) không hai, không có vô ngại, ngũ dục lục trần đầy dẫy trước mắt mà không nhiễm ô, cứ sử dụng tự tại mà không mất bản tánh thanh tịnh; đó là giai đoạn “mạt hậu lao quan” (cửa ải khó khăn sau cùng), cùng với chư Phật không khác.
Phá hòa hợp tăng. Chúng tăng hòa hợp để tu tập và thực hiện các Phật sự. Nếu dùng thủ đoạn để li gián, khiến cho họ phải phân tán, rối loạn mà bỏ phế Phật sự, hoặc cưỡng chiếm chùa miếu, áp bức họ phải hoàn tục, đều là phá sự hòa hợp của tăng đoàn. Vì cắt đứt tuệ mạng của người, dứt tuyệt duyên lành giải thoát của người, cho nên tội rất nặng, và quả báo cũng cực kì thảm khốc.
Phái Dương Kì (Dương Kì phái): là một chi phái của tông Lâm Tế, và cũng là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Dương Kì Phương Hội (996-1049) khai sáng. Ngài Phương Hội, ban đầu tham học với ngài Sở Viên (986-1039) ở thiền viện Sùng-thắng, núi Thạch-sương (tỉnh Hồ-nam), được cử giữ chức giám viện. Ngài cùng với ngài Tuệ
Phái Hoàng Long (Hoàng Long phái): là một chi phái thuộc tông Lâm Tế, và cũng là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069) khai sáng. Ngài Tuệ Nam là đệ tử đắc pháp của vị tổ đời thứ 7 của tông Lâm Tế là thiền sư Thạch Sương Sở Viên (986-1039); từ năm 1036 (dưới đời vua Nhân-tông của vương triều Bắc-Tống) ngài trú tích hoằng hóa tại núi Hoàng-long (tỉnh Giang-tây), sáng lập ra phái Hoàng Long. Chi phái này thịnh hành cho đến thời đại Nam-Tống (1127-1279) thì bắt đầu suy vi. Năm 1186, vị tăng Nhật-bản là Vinh Tây đã sang Trung-quốc thọ học thiền pháp của phái Hoàng Long này, sau khi về nước đã thành lập tông Lâm Tế tại Nhật-bản.
Phàm phu. Chữ Phạn “prthag-jana”, cựu dịch là “phàm phu”, tân dịch là “dị sinh”. Phàm phu là người bình thường; đối với Phật pháp thì đó là hạng người trí thức còn thiển cận, chưa thấy rõ được đạo lí bốn sự thật. Phàm phu còn bị vô minh chi phối, tâm ý khởi nhiều tà kiến, sinh nhiều phiền não; còn tạo nghiệp và theo nghiệp mà thọ quả báo, không được tự tại. Do tạo nhiều nghiệp nhân khác nhau mà phải thọ nhiều quả báo khác nhau; từ đó mà sản sinh ra nhiều loài chúng sinh khác biệt nhau, cho nên, các nhà tân dịch đã theo ý nghĩa đó mà dùng từ “dị sinh” để dịch chữ Phạn “prthag-jana”. Dị sinh cũng có nghĩa là sinh vào các loài không phải thánh nhân. Vì vậy, tất cả chúng sinh chưa bước vào bốn địa vị thánh nhân là Thanh-văn (từ quả Dự-lưu trở lên), Duyên-giác, Bồ-tát (từ Sơ-địa trở lên), và Phật, đều là phàm phu; theo đó, phàm phu gồm có sáu loài là trời, người, a-tu-la, súc-sinh, ngạ-quỉ, và địa-ngục; hay nói cách khác, tất cả hữu tình trong ba cõi sáu đường, còn trôi nổi chìm đắm trong sinh tử luân hồi, đều là phàm phu.
Phàm phu bác địa (bác địa phàm phu). Chữ “bác” nghĩa là rộng, nhiều. Chúng sinh ở địa vị phàm phu rất nhiều, nên gọi là “phàm phu bác-địa”. Từ “bác địa” (博地) vốn được nói là “bạc địa” (薄地), có ý chỉ cho hàng phàm phu thấp kém, phước mỏng, luôn bị phiền não bức bách làm cho đau khổ triền miên.
Phạm âm (hay phạm thanh, hoặc phạm âm thanh): là âm thanh vi diệu thanh tịnh của chư Phật và Bồ-tát. Kinh luận thường diễn tả rằng, âm thanh của chư Phật và Bồ-tát có đầy đủ năm đức tính như âm thanh của thiên vương Đại Phạm: - âm thanh nghe sâu thẳm như tiếng sấm vang; - âm thanh trong trẻo và vang xa, người nghe đều cảm thấy vui vẻ; - âm thanh làm cho người nghe sinh tâm kính yêu; - người nghe nếu để ý lắng nghe thì sẽ hiểu rõ dễ dàng; - nghe hoài mà không cảm thấy nhàm chán.
Phạm chí. Người bà-la-môn Ấn-độ có chí cầu pháp Phạm Thiên, gọi là “phạm chí”. Phạm thiên nghĩa là tịnh, lấy tịnh hạnh lập chí, cho nên gọi là “phạm chí”.
Phạm Cổ Nông (1881-1952): hiệu là Kí Đông, biệt hiệu là Huyễn Am, bút hiệu là Hải Thi đạo nhân, quê huyện Gia-hưng, tỉnh Triết-giang, Trung-quốc. Thuở nhỏ ông từng du học ở Nhật, sau khi về nước, đem hết tâm lực hoằng dương Phật pháp. Năm 1931, ông được cử làm tổng biên tập cho Phật Học Thư Cục ở Thượng-hải, viết Hải Triều Âm Văn Khố, Phật Học Bách Khoa Tòng Thư, cùng phát hành Kinh Tạng bản đời Tống, chỉnh lí nền văn hiến Phật giáo. Năm 1935, ông làm chủ bút Nhật Báo Phật Giáo. Năm 1951, ông làm hội trưởng hội Cư Sĩ Lâm của Phật giáo thế giới. Trước tác của ông có Huyễn Am Văn Tập, Cổ Nông Phật Học Vấn Đáp, và Phát Thú Luận (dịch).
Phạm hạnh 1: là một trong năm hạnh của hàng Bồ-tát. “Phạm” là trong sạch. Các vị Bồ-tát không vướng mắc vào hai cực đoan có và không, gọi là trong sạch; đem sự trong sạch ấy mà vận dụng tâm từ bi để cho vui và vớt khổ cho chúng sinh, gọi là “phạm hạnh”.
Phạm hạnh 2: là hạnh trong sạch. Vì Phạm Thiên đoạn trừ dâm dục, cho nên sự xa lìa dâm dục được gọi là “phạm hạnh”. Cuộc đời một người Bà-la-môn được chia làm bốn thời kì, thời kì đầu tiên gọi là “thời kì phạm hạnh”; đó là thời kì mà trong sinh hoạt hằng ngày phải giữ giới bất dâm và chuyên học các kinh điển Phệ Đà và lễ nghi tế tự. Trong Phật giáo, các hành giả tu tập phải giữ không những giới bất dâm mà còn bao nhiêu giới luật khác nữa, cho nên gọi là “phạm hạnh”. – Hàng cư sĩ tại gia không giữ giới bất dâm (mà chỉ là bất tà dâm) thì không được gọi là phạm hạnh; nhưng nếu họ cũng hành trì hạnh không dâm dục như tăng sĩ thì vẫn được gọi là phạm hạnh. – Nói rộng ra, các hành giả tu thiền, đạt được đầy đủ tám bước giải thoát (bát giải thoát); tu tập thuần thục tám sự hành trì chân chánh (bát chánh đạo); tu tập trọn vẹn bốn tấm lòng rộng lớn (tứ vô lượng tâm); biết rõ bảy pháp lành (thất thiện pháp); v.v..., đều gọi là “phạm hạnh”.
Phạm tăng. Từ “Phạm tăng” được dùng để chỉ chung cho chư tăng từ Ấn-độ và các nước vùng Tây-vực (Trung-Á) từng tới Trung-quốc truyền giáo.
Phạm Võng giới: tức giới luật của hàng Bồ-tát, được ghi chép trong kinh Phạm Võng, gồm có 10 giới trọng và 48 giới khinh, cả hai chúng xuất gia và tại gia đều có thể thọ trì.
Phạn bản: tức là kinh điển bằng ngữ văn Ấn-độ.
Pháp. Phật giáo dùng chữ “pháp” để chỉ cho mọi hiện tượng tâm lí, sinh lí và vật lí trong vũ trụ. Danh từ Phật học Hán ngữ có một định nghĩa rất thông dụng về chữ “pháp” là: “Nhậm trì tự tánh, quĩ sinh vật giải” – có nghĩa: “Pháp” là bất cứ hiện tượng gì, nó giữ gìn được bản tánh và khuôn mẫu của nó, khiến cho người ta nghĩ đến, nhìn thấy, nghe thấy, v.v... thì biết ngay là nó. Vì vậy, “pháp” là tiếng chỉ bao gồm tất cả mọi hiện tượng cụ thể (như núi, sông, cây cỏ, con người, v.v...) lẫn trừu tượng (như tư tưởng, đạo đức, chân lí, v.v...). Các pháp trong vũ trụ không thể đếm hết được, cho nên thường chỉ nói tổng quát là “vạn pháp”. Vạn pháp có thể được phân làm hai loại theo tính chất đối đãi nhau của chúng, như pháp sắc và pháp tâm, pháp thiện và pháp bất thiện, pháp ô nhiễm và pháp thanh tịnh, pháp hữu lậu và pháp vô lậu, pháp thế gian và pháp xuất thế gian, pháp hữu vi và pháp vô vi, v.v... Kinh điển Phật giáo gọi những lời dạy của Phật là Phật pháp, giáo pháp, chánh pháp, hay pháp bảo; kết tập tất cả lời dạy của Phật lại, gọi là pháp tạng. Nói chung, có rất nhiều từ Phật học ghép với chữ “pháp” để chỉ cho những sự việc liên quan đến giáo pháp (như pháp nhãn, pháp nghĩa, pháp hải, pháp tử, pháp môn, pháp thí, v.v...). Tóm lại, chữ “pháp”, ngoài ý nghĩa tổng quát chỉ cho mọi sự vật cụ thể và trừu tượng trong vũ trụ, Phật giáo còn dùng nó để chỉ riêng cho lời Phật dạy và tất cả những gì liên quan đến Phật pháp.
Pháp ái. Chữ “pháp” ở đây là nói về pháp lành. Người mới chứng ngộ thường sinh tâm yêu thích thiện pháp; theo tông Thiên Thai, như thế vẫn chưa gọi được là chứng ngộ chân thật – vì tâm “ái” vẫn còn, dù là ái thiện pháp! Phải hoàn toàn diệt trừ cái tâm “pháp ái” ấy thì mới thực sự chứng ngộ.
Pháp ấn. Chữ “pháp” ở đây là chỉ cho Phật pháp; chữ “ấn” ở đây nghĩa là cái ấn, con dấu, phù hợp, tiêu chuẩn, chân thật, không thay đổi. Con dấu dùng để ấn chứng một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin tưởng. “Pháp ấn” là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là chân lí, là điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi Bậc Giác Ngộ (tức là đức Phật). Tất cả kinh luận, giáo lí nào phát biểu đúng với nội dung của những pháp ấn này, tức đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức, phát biểu nào không phù hợp với những pháp ấn này, tức đều là ngụy ngữ, tà pháp.
Trong các kinh luận thường nêu ra có ba pháp ấn, bốn pháp ấn hoặc năm pháp ấn.
- Ba pháp ấn là:
1. Nhất thiết hành vô thường (tất cả vạn hữu đều biến đổi không ngừng)
2. Nhất thiết pháp vô ngã (tất cả vạn hữu đều không có bản ngã chân thật)
3. Niết bàn tịch tịnh (bản thể của vạn hữu là vô phân biệt, lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm)
Trong ba pháp ấn trên, hai pháp ấn 1 và 2 (vô thường và vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn pháp, pháp ấn 3 (niết bàn tịch tịnh) nói lên bản thể của vạn pháp.
- Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết hành thị khổ” (tất cả vạn pháp là khổ) vào ba pháp ấn trên thì gọi là bốn pháp ấn. – Pháp ấn “khổ” này cũng nói lên tướng trạng của vạn pháp.
- Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết pháp không” (tất cả vạn hữu đều không có tự tánh) vào bốn pháp ấn trên thì gọi là năm pháp ấn. – Cùng với pháp ấn “niết bàn tịch tịnh”, pháp ấn “không” này cũng nói lên bản thể của vạn pháp.
Đặc biệt, theo Kinh Pháp Ấn thì có ba pháp ấn như sau:
1. Không: Bản thể của vạn pháp là không.
2. Vô tướng: Bản thể của vạn pháp không thể nhận biết được bằng khái niệm hay nhận thức phân biệt, mà chỉ hiển lộ trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt.
3. Vô tác (hay vô nguyện): Trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt, sẽ không còn có sự phân biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể chứng đắc và đối tượng chứng đắc.
Nhưng theo giáo nghĩa rốt ráo của đại thừa thì chỉ có một pháp ấn, đó là pháp ấn “nhất thật tướng”, tức là lí chân thật, xa lìa các tướng hư vọng, không hai, không khác. Tất cả kinh điển đại thừa do Phật nói đều lấy lí chân thật để ấn chứng, khiến cho các học thuyết ngoại đạo không thể trộn lẫn vào, mà tà ma cũng không thể xuyên tạc, phá hoại. Những kinh luận nào phát biểu đúng với pháp ấn nhất thật tướng này đều phù hợp với giáo pháp của Phật, nếu không thì chỉ là tà thuyết.
Pháp Chiếu. Các sử liệu đều không ghi rõ các chi tiết về niên đại cũng như quê quán của ngài; chỉ biết rằng, ở thời đại nhà Đường, dưới triều vua Đại-tông (762-779), ngài thường vân du ở vùng Đông-Ngô, nhân đó mà ngưỡng mộ đạo phong của đại sư Tuệ Viễn (đã viên tịch từ lâu) ở Lô-sơn, bèn vào núi xin theo tu tập pháp môn “niệm Phật tam muội”. Sau đó ngài đến núi Nam-nhạc, xin thờ đại sư Thừa Viễn (712-802, tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) làm thầy. Năm 767 ngài đến cư trú tại chùa Vân-phong ở Hành-châu. Một hôm ngài trông thấy trong bát cháo của ngài hiện rõ đám mây năm sắc, trong đám mây ấy lại có hình ảnh ngôi chùa Đại-thánh Trúc-lâm. Một hôm khác, cũng lại ở trong cái bát ấy, ngài trông thấy hình ảnh các chùa ở núi Ngũ-đài cùng các thắng tướng của cảnh giới Tịnh-độ. Mùa hạ năm 769 ngài đến chùa Hồ-đông (cũng ở Hành-châu), mở đạo tràng tu “ngũ hội niệm Phật”, và cảm nhận được sự hiện diện của đức Phật A Di Đà cùng chư vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền. Năm sau ngài đến chùa Phật-quang ở núi Ngũ-đài, bỗng có hai vị đồng tử xuất hiện dẫn đường, ngài mới thấy rõ các cảnh vật đã từng thấy trong bát cháo mấy năm trước; lại được hai đức Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền trao truyền yếu môn niệm Phật.
Ngài là người đã mô phỏng theo tiếng gió lay động cành cây phát ra năm thứ âm thanh, được diễn tả trong Kinh Vô Lượng Thọ, mà sáng lập ra pháp môn tu gọi là “ngũ hội niệm Phật”. Ngài thường qua lại các địa phương trong khoảng từ núi Ngũ-đài cho đến kinh thành Trường-an để hoằng dương Phật pháp, nhất là hướng dẫn tu tập pháp môn niệm Phật do ngài sáng lập. Sau khi viên tịch, ngài được vua ban thụy hiệu là Đại Ngộ hòa-thượng. Người đương thời cho rằng, ngài chính là hậu thân của đại sư Thiện Đạo (613-681). Trước tác của ngài có Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi và Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán.
Pháp Dung (594-657): là vị thiền sư đời Đường, khai tổ của tông Ngưu Đầu, người đời xưng là Ngưu Đầu Pháp Dung. Ngài họ Vi, quê ở Nhuận-châu (huyện Trấn-giang, tỉnh Giang-tô), 19 tuổi đã bác thông kinh sử, tình cờ được xem kinh Bát Nhã, bèn kính tin Phật pháp; liền vào núi Mao xin xuất gia với pháp sư Quế. Trải 20 năm tinh cần tu tập không giải đãi, được thể nhập pháp môn đại diệu. Năm 643 ngài lập riêng thiền thất ở núi Ngưu-đầu, chuyên tu thiền quán, học lữ các nơi qui tụ theo học có đến hơn trăm người. Tổ Đạo Tín nghe tiếng, thân hành đến nơi trao cho pháp môn đốn giáo đã từng được tổ Tăng Xán truyền cho. Từ đó, núi này trở thành trung tâm của một pháp hệ Thiền tông, gọi là tông Ngưu-đầu, truyền thừa được sáu đời thì suy vi. Ngài thị tịch năm 657, thế thọ 64 tuổi.
Pháp giới. “Pháp” tức các pháp, “giới” tức ranh giới; các pháp đều có tự thể và ranh giới khác nhau, gọi là “pháp giới”. Vì vậy, mỗi một pháp gọi là pháp giới, mà gọi tổng quát vạn hữu cũng là pháp giới.
Pháp giới duyên khởi: cũng gọi là pháp giới vô tận duyên khởi, thập huyền duyên khởi, hay nhất thừa duyên khởi, là nội dung của pháp giới “sự sự vô ngại”, một pháp tu quán thuộc giáo nghĩa của tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm chủ trương rằng, trong cách hình thành của pháp giới, từ tất cả pháp mà khởi sinh một pháp, và từ một pháp mà hình thành tất cả pháp. Cho nên, một pháp có mặt trong tất cả vạn pháp trong vũ trụ (nhất tức nhất thiết), và tất cả vạn pháp trong vũ trụ cũng có mặt trong một pháp (nhất thiết tức nhất); như thế cũng có nghĩa, một pháp và tất cả pháp cùng là chủ và cùng là phụ thuộc của nhau, một trong tất cả và tất cả trong một, một là tất cả và tất cả là một, viên dung vô ngại, trùng trùng vô tận, đó gọi là “pháp giới duyên khởi”.
Pháp Hải. Tên họ và tuổi tác của ngài đều không rõ, chỉ biết ngài là người tỉnh Quảng-đông, lần đầu gặp tổ Tuệ Năng thì hỏi ngay ý nghĩa “tức tâm tức Phật”, Tổ chỉ dạy một lời thì liền liễu ngộ. Từ đó chuyên theo hầu Tổ để ghi chép lại tất cả những lời giảng dạy của Tổ. Kinh Pháp Bảo Đàn là một trong các tác phẩm thuộc loại này, và cũng được coi là tác phẩm cương yếu của Thiền tông Trung-quốc.
Pháp hạnh. Ý nghĩa chung của từ “pháp hạnh” là y theo giáo pháp của Phật mà tu hành; đại khái, bao gồm mười phương diện: 1) Biên chép và quảng bá Kinh Luật Luận. 2) Tôn kính, cúng dường bất cứ nơi nào có kinh điển, có chùa, tháp Phật. 3) Giáo hóa quần chúng bằng cách giảng dạy chánh pháp, bố thí kinh sách, v.v... 4) Chăm chú lắng nghe người khác đọc tụng kinh điển. 5) Tự mình siêng năng đọc tụng kinh điển. 6) Chuyên tâm thọ trì giáo pháp, ghi nhớ không quên. 7) Dùng mọi phương tiện, tùy cơ thuyết pháp, giúp người nghe phát khởi lòng tin và hiểu rõ Phật pháp để tu hành. 8) Đọc tụng và tuyên dương kinh điển, làm cho người nghe sinh niềm hỉ lạc. 9) Dùng trí sáng suốt để suy nghĩ, tìm hiểu rõ ràng nghĩa lí lời dạy của đức Phật. 10) Tinh cần tu tập, thực hành những lời dạy của đức Phật trong đời sống.
Mặt khác, từ “pháp hạnh” cũng dùng để chỉ cho tất cả các pháp môn mà hành giả phải tu tập từ buổi ban đầu mới phát tâm cho đến khi thành tựu quả vị cứu cánh (A-la-hán đối với Thanh-văn thừa; Bích-chi Phật đối với Duyên-giác thừa; và Diệu-giác [Phật] đối với Bồ-tát thừa).
Pháp Hỉ: là tên Hán dịch của ngài Đàm Ma Nan Đề (Dharmanandi, ?-?). Ngài là người Tây-vức, xuất gia hồi còn nhỏ, thông minh mẫn nhuệ, học thông Ba Tạng, đặc biệt chuyên về Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm, rất được người đời kính trọng. Năm 384 ngài đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), cùng với hai ngài Đạo An và Trúc Phật Niệm, đã dịch hai bộ kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm ra Hán văn. Đó là lần đầu tiên Kinh Đại Bộ được phiên dịch. Hai bộ kinh này về sau được ngài Tăng Già Đề Bà hiệu đính, và lưu truyền đến ngày nay. Ngài được người đời trọng vọng, lại được vua Tiền-Tần là Phù Kiên dùng lễ mà đãi ngộ. Khi Phù Kiên bị Diêu Trành giết để lập nên nhà Hậu-Tần, ngài vẫn tiếp tục ở Trường-an để dịch kinh. Trong thời gian này ngài đã dịch A Dục Vương Tức Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, Tam Pháp Độ Luận, và Tăng Già La Sát Tập Kinh. Đó là theo sự ghi chép của sách Lịch Đại Tam Bảo Kỉ; nhưng trong sách Lương Cao Tăng Truyện lại ghi rằng, trong lúc Diêu Trành đang đánh vào lãnh thổ Tiền-Tần thì ngài liền rời Trường-an trở về Tây-vức, rồi không biết về sau ra sao.
Pháp Hiển (340?-?): là vị cao tăng sống vào thời đại Đông-Tấn (317-419). Ngài họ Cung, quê ở Vũ-dương (Sơn-tây). Có người nói ngài sinh năm 340 (triều vua Tấn Thành đế), nhưng không chắc chắn lắm. Ngài xuất gia từ năm mới lên 3 tuổi. Có chuyện lạ trong gia đình ngài. Song thân ngài đã có ba người con trai, đều bị chết yểu. Ngài là người con thứ tư. Vì sợ ngài bị chết yểu nữa, nên vừa lên 3 tuổi, song thân ngài đã cạo tóc cho ngài làm chú tiểu, hi vọng nhờ Phật gia hộ mà được thoát tai nạn (người Trung-quốc lúc đó, ai cũng tin tưởng như vậy). Tuy cạo tóc làm tiểu, nhưng song thân vẫn giữ chú ở nhà. Và rồi chú lại bị bệnh nặng, suýt chết, song thân đành phải tức tốc đem chú lên cho ở hẳn trong chùa; thế là chú lành bệnh. Từ đó chú phát tâm xuất gia luôn, không muốn trở về nhà nữa. Song thân nài nỉ thế nào chú cũng nhất quyết không trở về nhà. Vì quá thương nhớ con, thân mẫu ngài phải cất một cái chòi lá nhỏ bên cạnh chùa để ở, cho tiện thăm nom. Ngài lên 10 tuổi thì thân phụ qua đời. Ông chú ngài lại viết thư khuyên ngài về nhà sống với mẹ, nhưng ngài vẫn cương quyết từ chối, trả lời rằng: “Không phải vì cha mẹ mà cháu đi tu, mà chỉ vì muốn từ bỏ mọi dục vọng và tránh xa những chuyện thế tục.” Năm 20 tuổi ngài thọ giới cụ túc. Ngài được người đương thời ca tụng là người thông minh, nhanh trí, tính khí can đảm, đầy đủ đức vô úy, một lòng vì đạo. Khi tuổi đã cao, vì thấy kinh luật ở Trung-quốc còn quá thiếu thốn, giới luật trong đời sống tăng đoàn quá kém cỏi, vào năm 399 (thời vua Tấn An đế, lúc đó ngài khoảng 60 tuổi), ngài đã rủ bốn vị đồng môn là Tuệ Cảnh, Đạo Chỉnh, Tuệ Ứng, Tuệ Ngôi, cùng đi sang Thiên-trúc, trước là chiêm bái đảnh lễ Phật tích, sau là thỉnh kinh luật Phạn văn đem về Trung-quốc. Tâm nguyện của ngài là cố gắng xiển dương Luật Tạng để chấn chỉnh nếp sống qui phạm cho tăng đoàn Trung-quốc lúc bấy giờ. Ngài đã phát xuất từ Trường-an (lúc ấy là kinh đô nước Hậu-Tần), theo đường bộ về hướng Tây, qua Đôn-hoàng, Vu-điền v.v... hơn 30 nước, với biết bao sa mạc hãi hùng, những sơn đạo cheo leo hiểm trở, những đỉnh núi cao tuyết phủ quanh năm... trước khi đến được Ấn-độ. Ở Ấn-độ, ngài đã đi hết khắp nơi để chiêm bái thánh tích của Phật; rồi ở lại thành Ba-liên-phất 3 năm để tu học; và ở lại vùng hạ lưu sông Hằng thêm 2 năm trước khi rời Ấn-độ để đi sang nước Sư-tử (đảo Tích-lan). Ngài ở lại nước Sư-tử 2 năm, rồi theo đường biển sang Nam-dương, rồi từ đó, cũng theo đường biển trở về Trung-quốc (năm 414); tổng cộng thời gian xuất du của ngài là 15 năm. Kinh sách ngài mang về Trung-quốc, chủ yếu là thuộc Luật Tạng (như Luật Ma Ha Tăng Kì của Đại Chúng Bộ, Luật Thập Tụng của Nhất Thiết Hữu Bộ v.v...), ngoài ra còn có một bộ luận quan trọng của Đại Chúng Bộ là Tạp A Tì Đàm Tâm Luận, và các kinh thuộc bộ A Hàm. Sau khi về nước, ngài trú tại chùa Đạo-tràng ở Kiến-khang (tức Nam-kinh, lúc đó là kinh đô của vương triều Đông-Tấn), chuyên việc dịch kinh. Tại đây ngài đã cùng với ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch chung các bộ Luật Ma Ha Tăng Kì, Kinh Đại Bát Nê Hoàn, Kinh Tạp Tạng, Luận Tạp A Tì Đàm Tâm. Ngài cũng đã đem tất cả các việc mắt thấy tai nghe trong suốt cuộc hành trình đi Ấn-độ, Tích-lan, ghi chép lại, làm thành tác phẩm Phật Quốc Kí, cũng gọi là Cao Tăng Pháp Hiển Truyện; trong đó, quan trọng nhất là phần ngài trình bày về sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo ở Ấn-độ và Tích-lan vào thế kỉ thứ 5. Ngài ghi nhận rằng, tăng đoàn ở các nơi đó hành trì giới luật Phật chế rất nghiêm cẩn, được cả vua chúa và dân chúng kính ngưỡng cúng dường. Năm viên tịch của ngài không ai biết rõ, chỉ biết là ở trong khoảng những năm từ 418-423. Thế thọ của ngài, có người nói là 82, có người nói là 86 tuổi.
Pháp hoa tam muội. Tông Thiên Thai lập ra bốn loại tam muội (Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, Phi hành phi tọa tam muội), trong đó, Bán hành bán tọa tam muội lại chia làm hai loại: Phương đẳng tam muội và Pháp hoa tam muội. Pháp hoa tam muội cũng gọi là Pháp hoa sám pháp, nói tắt là Pháp hoa sám; tức là pháp môn tu hành y cứ vào Kinh Pháp Hoa và Kinh Quán Phổ Hiền mà lập nên. “Tam muội” nghĩa là chuyên thực hành một pháp môn để điều phục tâm ý. Pháp tu Pháp hoa tam muội này lấy 21 ngày làm một kì hạn, chuyên hành đạo, tụng kinh. Hành giả hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, tư duy quán chiếu lí thật tướng trung đạo. Pháp môn này lấy việc sám hối diệt tội làm chủ yếu; cho nên, trong cả 6 thời (sáng sớm, giữa trưa, chiều, đầu đêm, giữa đêm, khuya) của một ngày đêm, hành giả đều phải tinh cần tu 5 phép sám hối (ngũ hối), gồm có: 1- sám hối: sám hối tội lỗi; 2- khuyến thỉnh: cung thỉnh chư Phật mười phương thường chuyển pháp luân cứu độ chúng sinh; 3- tùy hỉ: khen ngợi những người làm việc thiện; 4- hồi hướng: đem công đức lành hồi hướng về quả vị bồ đề vô thượng; 5- phát nguyện: phát nguyện nhất tâm thành Phật cứu độ chúng sinh.
Pháp Hộ (Dharmapala, 963-1058). Ngài là người nước Ca-thấp-di-la ở Bắc Ấn-độ, họ Kiều-thi-ca, nguyên thuộc dòng Bà-la-môn. Thuở nhỏ học thông bốn kinh Phệ Đà cùng các kí luận. Về sau ngài xuống vùng Trung-Ấn xuất gia theo Phật giáo, theo học cả tiểu lẫn đại thừa với nhiều vị cao tăng. Năm 1004 ngài sang đến Biện-kinh, dâng tặng vua Tống Chân-tông xá lợi Phật cùng kinh bản chữ Phạn, được vua ban cho cà sa tía và mời tham gia công tác phiên dịch kinh điển; lại được vua ban hiệu là Truyền Phạn đại sư. Trước sau ngài đã dịch được 35 bộ kinh luận, gồm 270 quyển. Ngài viên tịch năm 1058 (dưới triều vua Tống Nhân-tông (1023-1063), thụy hiệu là Diễn Giáo tam tạng.
Pháp nạn ba vua Võ một vua Tông (tam Võ nhất Tông pháp nạn). Thuật ngữ này được dùng để chỉ cho bốn vị hoàng đế Trung-quốc đã bách hại Phật giáo một cách nghiêm trọng, gây ra bốn thời kì pháp nạn trong lịch sử Phật giáo Trung-quốc ở thời đại quân chủ:
1) Vua Thái-võ đế (424-452) nhà Bắc-Ngụy (386-534), vì tin lời gièm pha của đạo sĩ Khấu Khiêm Chi và quan tư đồ Thôi Hạo mà bách hại Phật giáo. Năm 446, nhà vua hạ lệnh giết hại tất cả quí vị sa môn ở khắp nước, phá hủy hết kinh điển và đồ tượng, khiến cho Phật giáo Bắc-Ngụy bị tiêu diệt. Phải đến đời vua sau là Văn-thành đế (452-465), Phật giáo mới được khôi phục.
2) Vua Võ đế (561-578) nhà Bắc-Chu (559-581), tin dùng luận thuyết của hai đạo sĩ Trương Tân và Vệ Nguyên Tung, có ý phế bỏ Phật giáo. Nhờ có quí vị tôn đức nổi danh đương thời như Chân Loan, Đạo An, Tăng Miễn, Tĩnh Ái, v.v... ra sức biện hộ, mà Phật giáo tạm thời được yên. Bỗng dưng, năm 573, nhà vua hạ lệnh phế bỏ cả Phật giáo và Đạo giáo, hủy hoại kinh tượng, bắt tất cả quí vị sa môn và đạo sĩ đều phải hoàn tục; tuyển lựa 120 vị danh đức an trí tại Thông-đạo quán. Năm 577, vua Võ đế diệt nhà Bắc-Tề (550-577), tuy có ngài Tuệ Viễn hết sức chống đối, nhà vua vẫn cương quyết thi hành chính sách tiêu diệt Phật giáo trên khắp lãnh thổ Bắc-Tề. Năm sau nhà vua băng, hai tôn giáo Phật và Đạo mới được khôi phục.
3) Vua Võ-tông (841-846) nhà Đường (618-907), từ nhỏ đã không thích Phật giáo, sau khi lên ngôi (năm 840) liền thờ đạo sĩ Triệu Qui Chân làm thầy, sùng tín Đạo giáo. Qui Chân cậy thế được vua sủng ái, lại được tể tướng Lí Đức Dụ hậu thuẫn, mỗi lời nói ra đều bài xích Phật giáo, cho Phật giáo là tôn giáo ngoại lai, làm hại sinh linh, phải nên tận diệt. Năm 845, nhà vua hạ lệnh phế bỏ Phật giáo, cho phá hủy hơn 4.600 ngôi chùa và hơn 40.000 tăng xá vãng lai trong toàn quốc, bắt 260.500 tăng ni phải hoàn tục, tịch thu hàng ngàn vạn đám ruộng của các chùa, đốt kinh, hủy tượng, lấy hết các tượng đồng và chuông khánh đem nấu để đúc tiền, tượng bằng sắt thì đem nấu làm nông cụ, các tư gia có các tượng bằng vàng, bạc, v.v... đều phải đem nộp cho chính quyền. Qua năm sau, nhân uống kim đan của đạo sĩ, nhà vua bị trúng độc mà băng.
4) Vua Thế-tông (954-959) nhà Hậu-Chu (951-960), năm 955 bắt đầu thi hành chính sách tiêu diệt Phật giáo. Nhà vua hạ lệnh phá bỏ 30.336 tự viện, hủy hết tượng Phật, đem nấu tất cả các pháp khí bằng kim loại để đúc tiền. Lúc bấy giờ ở Trấn-châu có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm bằng đồng, tiếng đồn rất linh ứng, dù có lệnh vua, không ai dám đến gần. Nhà vua nghe thế, liền tự mình đến nơi, lấy búa đập nát mặt và ngực của tượng, những người chứng kiến đều run sợ. Bốn năm sau, một hôm, đang trên đường Bắc chinh, trên ngực nhà vua bỗng nổi một mụn nhọt, rồi băng.
Pháp nhĩ: là một thuật ngữ Phật học. Chữ “nhĩ” (爾) ở đây có nghĩa là tự nhiên như vậy, không do ai tự ý đặt ra. “Pháp nhĩ” nghĩa là các pháp tự nhiên như vậy, tự chúng là như thế, không do ai tạo tác cả. Về phương diện tồn tại thì các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, dù nước có sâu tới đâu, dù lửa có cao tới đâu, vẫn là việc tự nhiên như thế. Về tính chất, đất đá thì rắn chắc, nước thì lưu nhuận, lửa thì nóng, gió thì giao động, các pháp tự nhiên như vậy. Về bản thể chân như, thể tánh các pháp vốn thường hằng bình đẳng như vậy.
Pháp Tạng: tức là ngài Hiền Thủ, là vị tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm (xem mục “Hiền Thử”).
Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka). Theo Dị Bộ Tông Luân Luận thì bộ phái này đã tách ra từ Hóa Địa Bộ, vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 PL; nhưng theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh và một số sử liệu khác thì bộ phái này đã tách ra từ Thượng Tọa Bộ, hoặc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Pháp Tạng là tên của vị bộ chủ, nguyên là đệ tử của ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, thường đi theo thầy và ghi nhớ tất cả những lời thầy đã nói. Sau khi thầy viên tịch, Pháp Tạng bèn đem kinh điển chia thành năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Chú, Bồ-tát; vì thế mà biệt lập thành một bộ. Nhưng theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh thì sáng tổ của bộ phái này chính là ngài Mục Kiền La Ưu Ba Đề Xá (tức Mục Kiền Liên Tử Đế Tu). Vì bộ phái này rất chú trọng đến hai tạng Chú và Bồ-tát, nên đã được coi là đầu mối của Mật giáo (đại thừa) về sau này.
Pháp tánh: tức thể tánh hay bản tánh chân thật của các pháp. Bản tánh này không sinh không diệt, không biến đổi, thường hằng. Do đó, “pháp tánh” là một tên gọi khác của “chân như”; nó không phải là “hành”. Nó không thể nhận biết bằng ý thức phân biệt của phàm phu, mà chỉ thể nhập bằng tuệ giác vô phân biệt của các bậc thánh giả.
Pháp thắng-nghĩa (thắng nghĩa pháp) và pháp pháp-tướng (pháp tướng pháp). Theo bộ Luận Câu Xá, chữ PHÁP được định danh một cách chính xác là “lí pháp” và “quả pháp”. Lí pháp tức là lí tứ đế (khổ tập diệt đạo) và quả pháp tức là quả niết bàn. Lí pháp tứ đế chính là tánh và tướng của vạn pháp, nên được gọi là pháp pháp-tướng; quả pháp niết bàn có tánh thiện, thường hằng (thắng) và có thật thể (nghĩa), nên được gọi là pháp thắng nghĩa.
Pháp thân: là một trong ba thân của Phật. Đó là cái thân chân thật của Phật, lấy chánh pháp làm thể, cho nên gọi là “pháp thân”.
Pháp-thân Đại-sĩ: tức là Bồ-tát Pháp-thân. (Xem mục “Bồ Tát Pháp Thân”.)
Pháp thế gian và pháp xuất thế gian (thế gian pháp, xuất thế gian pháp). “Pháp thế gian” là tất cả các pháp có tình thức và không có tình thức trong ba cõi. Các pháp này đều do hoặc nghiệp, nhân duyên sinh ra, biến chuyển vô thường. Tất cả các pháp thế gian đều làm cho chúng sinh lưu chuyển mãi trong vòng sinh tử luân hồi, cho nên chúng là “pháp hữu lậu”. Trong Bốn Sự Thật thì khổ và nguyên nhân của khổ (tập) thuộc về pháp thế gian. Trong tất cả các pháp thế gian, có tám thứ được đặc biệt gọi là “tám pháp thế gian” (bát thế gian pháp, hay bát pháp): 1) Những gì có lợi ích cho mình (lợi); 2) Những gì gây tổn hại cho mình (suy); 3) Những lời chê bai, hủy báng mình (hủy); 4) Danh tiếng của mình trong xã hội (dự); 5) Những lời tán dương, ca tụng trước mặt mình (xưng); 6) Những lời khiển trách, chỉ trích, nhục mạ mình (cơ); 7) Những duyên xấu, những nghịch cảnh làm cho mình khổ đau (khổ); 8) Những duyên tốt, những thuận cảnh làm cho mình vui thích (lạc). Tám pháp này luôn luôn làm lay động lòng người, khiến khởi lên mừng, giận, thương, ghét v.v...; cho nên thuật ngữ Phật học gọi chúng là “tám ngọn gió” (bát phong).
Đối lại với pháp thế gian là “pháp xuất thế gian”. Đó là các pháp siêu việt khỏi thế gian, không còn bị ràng buộc bởi các pháp hữu lậu; là các pháp vô lậu, giải thoát niết bàn. Phật pháp có công năng diệt trừ hoặc nghiệp, đưa chúng sinh thoát khỏi ba cõi sinh tử; cho nên Phật pháp chính là pháp xuất thế gian. Do đó, trong Bốn Sự Thật, thì tịch diệt (diệt) và pháp môn tu tập (đạo) thuộc về pháp xuất thế gian.
Pháp Thiên (Dharmadeva, ?-1001). Ngài người Trung Ấn-độ, xuất thân từ chùa Na-lan-đà ở nước Ma-kiệt-đà. Năm 973 (dưới triều vua Tống Thái-tổ) ngài đến Trung-quốc. Mới đầu ngài trú tại Lộc-châu (nay là huyện Thủy-tế, tỉnh Sơn-tây), dịch được bộ Thánh Vô Lượng Thọ Kinh và Thất Phật Tán. Đến năm 980, ngài được các quan viên địa phương dâng sớ tiến cử lên vua Tống Thái-tông. Vua mừng lắm, cho mời ngài về kinh đô. Nhân đó, nhà vua cho xây Dịch-kinh viện tại chùa Thái-bình-hưng-quốc. Năm 982, viện Dịch-kinh xây xong, nhà vua ban sắc mời ngài, cùng với hai ngài Thi Hộ và Thiên Tức Tai, đều vào cư trú tại Dịch-kinh viện để chuyên việc dịch kinh. Ngài đã dịch được bộ Đại Thừa Thánh Cát Tường Trì Thế Đà La Ni Kinh, được vua ban hiệu là Truyền Giáo đại sư. Năm 1001 (dưới triều vua Tống Chân-tông, 998-1022) ngài viên tịch, thụy hiệu là Huyền Giác đại sư. Từ năm 980 đến năm 1000, ngài đã dịch cả thảy 46 bộ kinh, gồm 71 quyển.
Pháp Thời (tức Đàm Ma Ca La, Dharmakala, ?-?). Ngài là người Trung Ấn-độ, thiên tư mẫn tuệ từ thuở nhỏ, thông hiểu Tứ Phệ Đà, tự cho văn lí trong thiên hạ đều chứa hết trong bụng mình. Về sau, một hôm đọc được bộ A Tì Đàm Tâm Luận, thì lòng dạ ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả, bèn thỉnh một vị tì kheo nhờ giảng giải cho. Nghe xong bỗng nhiên tỏ ngộ, thấy rõ diệu lí nhân quả suốt cả ba đời. Từ đó ngài bỏ hết lạc thú thế tục, xuất gia theo Phật giáo, tinh tấn tu học, chẳng bao lâu thông suốt kinh điển đại tiểu thừa, lại vững vàng cả giới luật. Năm 222 đời vua Ngụy Văn đế (220-226), ngài đến Trung-quốc, ở tại kinh đô Lạc-dương của nước Tào-Ngụy. Ngài quan sát, thấy tăng chúng Trung-quốc chỉ cạo đầu và đắp y trơn (y của sa di), chứ không có luật pháp gì để hành trì, bèn phát nguyện hoằng truyền giới luật. Năm 250 (đời vua Ngụy Tề vương, tức Tào Phi) ngài dịch xong bộ Tăng Kì Luật Giới Bản, bèn thỉnh 10 vị Phạn tăng tác pháp yết ma, truyền trao giới luật. Tương truyền, vị tăng Trung-quốc đầu tiên được thọ giới là Chu Sĩ Hành (204-282 – Xem mục “
Pháp Thượng Bộ (Dharmottariyah) - Hiền Trụ Bộ (Bhadrayanika) - Chánh Lượng Bộ (Sammatiya) - Mật Lâm Sơn Bộ (Sandagari-ka). “Pháp Thượng” nghĩa là pháp đáng được tôn kính, cũng có nghĩa, đối với chúng nhân trong thế gian, pháp là tối thượng; đó là tên của vị tổ sáng lập ra Pháp Thượng Bộ. “Hiền Trụ” nghĩa là hàng hậu duệ của A-la-hán Hiền. “Chánh Lượng” nghĩa là thẩm định phải quấy, chân ngụy một cách chính xác, không sai lầm. Có thuyết nói Chánh Lượng Bộ là các đệ tử của A-la-hán Đại Chánh Lượng, nên cũng có tên là Chánh Lượng Đệ Tử Bộ; hoặc cũng có thuyết nói, vị tổ của bộ phái này tên là Sammata, nên bộ phái này được đặt tên là Sammatiya, tức Chánh Lượng Bộ. “Mật Lâm Sơn” nghĩa là núi có rừng cây rậm rạp; đó là nơi cư trú của vị sáng tổ, nên bộ phái được đặt tên như vậy.
Cả bốn bộ phái ấy đều tách ra cùng lúc từ Độc Tử Bộ, vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 PL. Vì cùng có nguồn gốc từ Độc Tử Bộ, nên giáo nghĩa của bốn bộ phái này đều giống với Độc Tử Bộ; nhưng vì trong khi giải thích một bài tụng trong A Tì Đàm Luận của tôn giả Xá Lợi Phất, thấy ý tứ không rõ ràng, bèn đem ý nghĩa của kinh mà bổ túc, rồi do ý kiến bất đồng mà chia rẽ ra thành bốn bộ phái như trên. Trong bốn bộ phái ấy, giáo nghĩa của Chánh Lượng Bộ dần dần chiếm ưu thế, hơn hẳn các bộ phái khác – ngoại trừ Hữu Bộ. Giữa thế kỉ thứ 7 Tây lịch, lúc pháp sư Huyền Trang sang Ấn-độ, đó chính là lúc Chánh Lượng Bộ đang rất thịnh hành, truyền bá khắp các vùng Trung, Tây, Đông và Nam Ấn-độ, địa vị và thanh thế chỉ đứng sau Hữu Bộ. Vì vậy, Hữu Bộ và Chánh Lượng Bộ đã có thời được coi là hai bộ phái trọng yếu nhất của Phật giáo tiểu thừa.
Pháp tính vô sinh. Bản tính của các pháp tức là thật tướng chân như, vốn không sinh diệt, cho nên nói là “pháp tính vô sinh”.
Pháp trần - pháp cảnh: là cảnh sở duyên của ý căn. Ý căn đối với các cảnh sở duyên của năm căn trước, phân biệt tốt xấu mà khởi lên các pháp thiện ác, gọi là pháp trần (hay pháp cảnh); những động tác thường ngày của chúng ta, tuy đã trở thành quá khứ, nhưng những ảnh tượng của trần cảnh vẫn được ghi nhớ, đó cũng tức là pháp trần; những hình ảnh hoàn toàn do tưởng tượng, không có trong thực tế (như lông rùa, sừng thỏ), chỉ có trong ý thức, cũng là pháp trần; cho đến những tư tưởng không có ảnh tượng gì cả, cũng đều là pháp trần.
Pháp tự (法嗣): là người thừa kế tông chỉ của thầy tổ, môn phái. Sự truyền pháp của thầy tổ cho đệ tử kế thừa, gọi là “tự pháp”.
Pháp tướng: tức tướng trạng cùng ý nghĩa nội dung của các pháp. Tướng trạng của các pháp thì do nhân duyên sinh diệt, muôn vàn sai khác, biến chuyển trôi chảy không ngừng; ý nghĩa nội dung của các pháp tùy căn cơ, trình độ hiểu biết, thiên kiến v.v... của mỗi chúng sinh, cho nên không đồng nhất. Có thể nói, “pháp tánh” và “pháp tướng” là hai mặt không thể tách rời của vạn pháp; về mặt bản thể của vạn pháp thì gọi là “pháp tánh”, về mặt hiện tượng của vạn pháp thì gọi là “pháp tướng”.
Pháp vô vi và pháp hữu vi. Luận Câu Xá chia vạn pháp làm hai loại tổng quát: hữu vi và vô vi.
a) HỮU VI nghĩa là có tạo tác. Tất cả các hiện tượng (các pháp) do nhân duyên hòa hợp mà sinh thành, do con người làm ra, đều mang tính chất sinh diệt biến đổi, đều bị chi phối bởi bốn tướng thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt, hay sinh lão bệnh tử, đều là pháp hữu vi. Theo đó, trong 75 pháp do Luận Câu Xá thuyết minh, thì 72 pháp thuộc 4 nhóm (vị): sắc pháp (11 pháp), tâm pháp (1 pháp), tâm sở pháp (46 pháp) và tâm bất tương ưng hành pháp (14 pháp), đều thuộc pháp hữu vi. – Trong khi đó, tông Pháp Tướng thì phân tích các pháp hữu vi có cả thảy 94 pháp, gồm trong 4 nhóm (vị): tâm pháp (8 pháp), tâm sở pháp (51 pháp), sắc pháp (11 pháp), và tâm bất tương ưng hành pháp (24 pháp).
b) VÔ VI nghĩa là không tạo tác. Trái lại với pháp hữu vi, các pháp không do nhân duyên sinh, không sinh diệt biến đổi, không bị chi phối bởi các tướng thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt, hay sinh lão bịnh tử, đều là pháp vô vi. Theo Luận Câu Xá thuyết minh, có 3 pháp thuộc về loại pháp vô vi:
1) Hư không vô vi: Bản tính của hư không là không chướng ngại. Hư không trải khắp mười phương thế giới mà không làm chướng ngại cho bất cứ một sự vật nào, cũng không bị bất cứ sự vật nào làm cho chướng ngại. Trong hư không, mọi vật sinh ra thì có mặt, tiêu diệt thì mất đi; tuy hiện tượng tùy thời gian mà biến hóa, tùy không gian mà thay đổi vị trí, nhưng hư không vẫn thường trụ bất động, không hề biến hóa chuyển di, cho nên nói hư không là vô vi. Cũng cần để ý, cái hư không trong quan niệm thông thường, cái khoảng không chúng ta thấy trước mặt, không phải là hư không vô vi mà Luận Câu Xá nói ở đây. Nó cũng là một loại sắc pháp (hữu vi) hiện hữu trong không gian mà thôi, có sinh có diệt, có thay đổi biến hóa, vẫn nằm trong khái niệm của con người; hư không vô vi vượt ra ngoài khái niệm, chúng ta không thể dùng ý thức của con người mà biết được.
2) Trạch diệt vô vi: Do dùng trí tuệ quán chiếu để diệt trừ mọi sự ràng buộc của phiền não vô minh mà hiển bày cảnh giới không tịch (niết bàn). Cảnh giới không tịch này xưa nay vốn hằng hữu, bất sinh bất diệt – cho nên gọi là vô vi; nhưng chỉ vì vô minh phiền não che khuất mà chưa hiển lộ ra được; nay nhờ tuệ giác quét sạch vô minh mà nó lại hiện rõ ra, cho nên gọi là “trạch diệt vô vi”.
3) Phi trạch diệt vô vi: Đây là pháp vô vi không cần phải dùng trí tuệ tiêu diệt vô minh mới hiển bày, mà là thể tính không tịch vốn có hiển nhiên. Tất cả mọi vật đều sinh ra từ lúc chúng chưa có – tức là từ vị lai. Bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ cũng phải sinh khởi theo lịch trình thuận tự: từ vị lai để đi đến hiện tại (có sinh), rồi từ hiện tại đi về quá khứ (có diệt). Không có vật nào mà không đến từ vị lai, và đó chính là sự sinh khởi của pháp hữu vi. Nhưng cũng có những pháp không có nhân để phát sinh, hoặc có nhân mà thiếu duyên thì cũng không thể sinh khởi được; như thế có nghĩa là, những pháp ấy phải dừng lại ở vị lai, không tiến đến hiện tại – tức không sinh – được. Nếu vĩnh viễn thiếu duyên thì pháp ấy vĩnh viễn không sinh; đã không sinh thì tất nhiên cũng không diệt. Pháp không sinh không diệt là pháp vô vi. Pháp vô vi này không phải do dùng trí tuệ dứt trừ lậu hoặc để chứng đắc, nên gọi là “phi trạch diệt vô vi”.
Trong khi đó, theo tông Pháp Tướng thì có 6 pháp vô vi, tức là, ngoài 3 pháp vô vi nói trên, còn có: bất động vô vi (thể tính của niết bàn là như như, tĩnh lnặg), thọ tưởng diệt vô vi (trạng thái của sự tận diệt mọi tư tưởng và cảm thọ) và chân như vô vi (bản thân của vạn pháp).
Pháp xứ sở nhiếp sắc. Tông Pháp Tướng chia vạn pháp trong vũ trụ thành năm nhóm tổng quát – thuật ngữ Duy Thức học gọi là “ngũ vị”, trong đó có nhóm Sắc pháp (là các pháp thuộc về vật chất, có hình sắc, có tính chất ngại, biến hoại). Nhóm Sắc pháp bao gồm 11 pháp, tức là 5 căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), 5 cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), và pháp xứ sở nhiếp sắc. Chữ “xứ” ở đây có nghĩa là trưởng dưỡng (tức sinh trưởng và dưỡng dục); có ý chỉ cho những gì có thể trưởng dưỡng tâm và tâm sở của chúng ta, lại cũng là nơi để cho tâm và tâm sở phan duyên, nương tựa. Những gì được gọi là “xứ” đó, có cả thảy 12 thứ mà thuật ngữ Duy Thức học gọi là “mười hai xứ”, gồm có 6 căn và 6 cảnh: nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, sắc cảnh, thanh cảnh, hương cảnh, vị cảnh, xúc cảnh, và pháp cảnh. (Nếu thay những chữ “căn” và “cảnh” bằng chữ “xứ”, chúng ta sẽ có 12 xứ là: nhãn xứ, nhĩ xứ, tị xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ, sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc, và pháp xứ.) Vậy, PHÁP XỨ tức là PHÁP CẢNH. Nhưng chỗ khác nhau là, khi dùng từ “pháp cảnh” là có ý nhấn mạnh rằng, đó chính là đối tượng khách quan của tác dụng nhận thức phát khởi từ chủ thể ý căn; còn khi dùng từ “pháp xứ” là có ý nói rõ rằng, chính nó và 11 xứ kia là những gì có thể trưởng dưỡng tâm và tâm sở, lại cũng là nơi để cho tâm và tâm sở nương tựa, phan duyên. Tất cả những gì nằm trong phạm vi sắc pháp, hễ thống thuộc vào pháp xứ, thì gọi là “pháp xứ sở nhiếp sắc”.
Vậy, pháp xứ sở nhiếp sắc bao gồm những gì? Theo A Tì Đạt Ma Tạp Tập Luận và Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (do Phật Quang Đại Từ Điển trích dẫn), pháp xứ sở nhiếp sắc bao gồm 5 lĩnh vực như sau:
1) Cực lược sắc: tức sắc pháp cực vi, là tất cả mọi thứ vật chất có tính chất ngại như 5 căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), 5 cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và 4 đại (địa, thủy, hỏa, phong), đem chia chẻ ra cho tới lúc đạt được đơn vị nhỏ nhất (cực vi).
2) Cực hồi sắc: cũng gọi là tự ngại sắc, là những loại hiển sắc không có tính chất ngại, như hư không, ánh sáng và bóng tối, đem chia chẻ ra cho tới đơn vị cực vi.
3) Vô biểu sắc: là loại sắc pháp vô hình trong tự thân, được phát sinh bởi hai nghiệp thiện ác do thân miệng phát động, không biểu hiện ra ngoài để có thể trông thấy; ví như do sự hành trì giới luật, dẫn tới sự sinh khởi trong tự thân một loại tác dụng tinh thần có tính “ngừa sai quấy, ngăn xấu ác” (phòng phi chỉ ác). – Vì nó được xem là do bốn đại trong tự thân tạo thành, cho nên được liệt vào sắc pháp.
4) Biến kế sở khởi sắc: Ý thức duyên năm căn và năm cảnh mà phát sinh tác dụng kế độ, phân biệt một cách hư vọng, rồi biến hiện thành các ảnh tượng trong tâm; đó là loại sắc pháp này. Nói tóm tắt, biến kế sở khởi sắc là loại sắc pháp chỉ gồm toàn các ảnh tượng trong ý thức (tức pháp cảnh), không có thực chất.
5) Định tự tại sở sinh sắc: nói tắt là định sở sinh sắc, chỉ cho các cảnh như sắc, thanh, hương, v.v... do định lực biến hiện ra. Những loại sắc pháp này, vì do định lực thù thắng, biến hiện một cách tự tại đối với tất cả các sắc, nên gọi là định tự tại sở sinh sắc. Nhưng, cả phàm và thánh đều có thể biến hiện các loại sắc pháp như vậy, cho nên cần phải phân biệt chân giả. Nếu do định lực của phàm phu biến hiện thì đó là giả sắc, không thể sử dụng; nếu do định lực của bậc thánh nhân (Bồ-tát ở địa thứ tám trở lên) với đầy đủ uy đức thù thắng biến hiện, thì đó là thật sắc, có thể sử dụng – như biến hiện đất cát thành ra vàng bạc cơm nước, v.v... để cứu giúp chúng sinh.
Theo cái nhìn của Duy Thức Học đối với năm loại sắc vừa kể trên, bốn loại đầu (cực lược sắc, cực hồi sắc, vô biểu sắc, biến kế sở khởi sắc) đều là “giả sắc”; còn loại sau cùng (định sở sinh sắc) thì vừa là giả, vừa là thật; bởi vì, định lực của thánh nhân có đầy đủ uy đức thù thắng, đó là loại định lực vô lậu, cho nên những sắc pháp từ đó biến hiện ra đương nhiên đều là “thật sắc”. Nhưng, nếu cứ theo quan điểm của các bộ phái tiểu thừa, như Hữu Bộ chẳng hạn, thì cả năm loại sắc ở trên đều là thật sắc.
Phát lồ: tức là thú thật trước đại chúng những tội lỗi mình đã phạm.
Phát tâm: là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là phát tâm nguyện cầu đạo bồ đề vô thượng, tức là phát khởi nguyện vọng giải thoát sinh tử, nguyện cầu thành Phật để cứu độ chúng sinh. Đối với tông Tịnh Độ, phát khởi tâm nguyện cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc, cũng gọi là “phát tâm”.
Phát Tư Ba (1239-1280): cũng gọi là Bát Tư Ba, dịch âm của Tạng ngữ “Chos-rgyal-hphags-pa”, là một vị lạt-ma Tây-tạng. Ngài là vị tổ thứ 5 của phái Sakyapa, một trong 4 phái Mật-tông thuộc Hồng-mạo phái ở Tây-tạng. Năm 15 tuổi ngài đã làm thầy truyền giới, đồng thời làm cố vấn cho vua Mông-cổ Hốt Tất Liệt. Năm 19 tuổi, ngài đã dùng quan điểm Phật giáo để phê phán sách Lão Tử Hóa Hồ Kinh và đả kích đạo sĩ Lão giáo. Năm 1260, Hốt Tất Liệt (bấy giờ đã thống trị hơn một nửa nước Trung-hoa) đem ngài sang kinh đô Kara-korum của Mông-cổ, tôn làm đế sư (quốc sư), thống lãnh Phật giáo toàn đế quốc (trong đó có phần lãnh thổ của Trung-quốc). Uy quyền của ngài thật là lẫm liệt, mỗi khi tới chốn cung đình, ngài được trên từ hoàng đế, xuống đến công khanh, bách quan, tất cả đều ra tận cửa điện để nghênh tiếp. Năm 1269, vâng mệnh vua, ngài đã lấy văn tự Tây-tạng làm cơ sở, sáng chế ra văn tự Mông-cổ để sử dụng riêng cho dân Mông-cổ, gọi là “Bát-tư-ba văn” (tức văn tự Mông-cổ). Bởi thế, ngài càng được vua trọng đãi, và được ban hiệu là Đại Bảo pháp vương; lại được ban cho ngọc ấn.
Năm 1276 (có thuyết nói 1274), vua Hốt Tất Liệt lại đưa ngài trở về Tây-tạng, ủy thác cho ngài trách nhiệm vừa làm vua cai trị Tây-tạng, vừa lãnh đạo Phật giáo Tây-tạng; đó là vị “vua sư” đầu tiên của vương quốc Tây-tạng. Ngài đã xúc tiến việc giao lưu văn hóa giữa Tây-tạng và Trung-quốc, đem các kĩ thuật về ấn loát, nghệ thuật và kịch nghệ của Trung-quốc truyền vào Tây-tạng, và đem các kĩ xảo về kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật của Tây-tạng hội nhập vào Trung-quốc. Năm 1280 ngài viên tịch, thế thọ 42 tuổi. Vua Hốt Tất Liệt rất mến tiếc, tặng cho ngài thụy hiệu “Đại Bảo Pháp Vương, Tây Thiên Phật Tử, Đại Nguyên Đế Sư”. Nhà vua còn cho dựng chùa Đế-sư ở các nơi và tạc tượng ngài để thờ.
Phân biệt y - Nhiễm tịnh y - Chủng tử y. Chữ “y” nghĩa là nơi nương tựa, căn cứ, hoặc phương tiện giúp cho một sự việc nào đó sinh khởi. - Thức thứ sáu (ý thức) có khả năng phân biệt, phán đoán, là nơi y cứ để năm thức trước (nhãn, nhĩ, v.v...) phân biệt rõ ràng trần cảnh, nên được gọi là “phân biệt y”; - Thức thứ bảy (mạt-na thức) là nơi y cứ, từ đó mà các thức khác trở thành ô nhiễm hay thanh tịnh, nên được gọi là “nhiễm tịnh y”; - Thức thứ tám (a-lại-da thức) là nơi chứa giữ chủng tử của các thức khác và cả vạn pháp, để từ đó, các thức khác và vạn pháp được hiện hành, nên được gọi là “chủng tử y” – cũng gọi là “căn bản y”. Đây thuộc giáo nghĩa của tông Duy Thức.
Phần biệt giải thoát. Chỉ có chư Phật mới đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo; tất cả còn lại, từ hàng Bồ-tát trở xuống, sự giải thoát chỉ đạt được từng phần (không rốt ráo) mà thôi, gọi là “phần biệt giải thoát”.
Phần đoạn sinh tử. Tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường, do chiêu cảm các nghiệp lành dữ mà mạng sống đều có phần hạn (phần), thân hình đều có tướng trạng, kích thước (đoạn) khác nhau, cho nên sự sinh tử của chúng sinh được gọi là “phần đoạn sinh tử”.
Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra, 359-429): dịch ra Hán ngữ là Giác Hiền. Ngài là người Bắc-Ấn, họ Thích, vốn là hậu duệ của Cam Lộ Phạn vương ở thành Ca-tì-la-vệ. Ngài xuất gia khi lên 17 tuổi, tinh cần tu học, thông thuộc mọi kinh điển, nhưng đặc chuyên về Thiền và Luật. Sau ngài sang nước Kế-tân, nhập môn học Thiền với ngài Phật Đại Tiên (Buddhasena). Tại đây ngài gặp ngài Trí Nghiêm (350-427) từ Trung-quốc sang, cũng đang học Thiền với ngài Phật Đại Tiên, bèn đáp ứng lời mời của ngài Trí Nghiêm, năm 408, cùng về đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), chuyên truyền bá Thiền học. Lúc ngài đến thì nơi đây đã có ngài Cưu Ma La Thập đang dạy đồ chúng ước khoảng 3.000 người, tiếng tăm lừng lẫy. Hai ngài có tiếp xúc với nhau và bàn luận về Pháp Tướng học, nhưng sau đó, vì môn hạ của hai ngài không dung hợp nhau, nên ngài đã dẫn hơn 40 đệ tử đi về phương Nam, nhận lời mời của ngài Tuệ Viễn, lên núi Lô-sơn, dịch bộ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh. Ở đây vài năm, đến năm 415, ngài rời Lô-sơn để đi Kiến-khang, trú tại chùa Đạo-tràng, chuyên việc phiên dịch, cho đến khi viên tịch.
Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, ?-?): là vị cao tăng chuyên dịch kinh ở Trung-quốc vào thời đại Đông-Tấn. Ngài người nước Kế-tân, 13 tuổi xuất gia, đến 15 tuổi thì mỗi ngày có thể tụng hai, ba vạn câu kinh, 27 tuổi mới thọ giới cụ túc. Ngài thông hiểu khắp các kinh luận đại, tiểu thừa, chuyên cần đọc tụng, không biết mệt mỏi. Khi ngài Cưu Ma La Thập còn vân du tham học, từng thờ ngài làm thầy. Năm 408 (tức năm thứ 10 niên hiệu Hoằng-thỉ của nhà Hậu-Tần), đáp ứng lời thỉnh cầu của La Thập, ngài đã đến Trường-an để giúp ngài La Thập dịch Kinh Thập Trụ. Ngài cũng đã cùng với ngài Trúc Phật Niệm dịch các bộ Luật Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật, và Kinh Trường A Hàm. Sau đó ngài trở về lại nước Kế-tân, tìm được bản Phạn ngữ của Kinh Hư Không Tạng, bèn gửi cho những người khách buôn đem sang tặng chư tăng ở Lương-châu (tỉnh Cam-túc). Về sau không biết ngài ra sao.
Phật Đà Thập (Buddhajiva, ?-?): là vị sa môn người nước Kế-tân, sống vào thế kỉ thứ 5. Từ nhỏ ngài xuất gia với tăng đoàn của bộ phái Di Sa Tắc, chuyên cần học Luật, lại thông cả Thiền học. Năm 423 (thời Lưu-Tống) ngài đến Trung-quốc, được Lang Da vương thỉnh ở chùa Long-quang tại kinh đô Kiến-khang, và đã dịch bộ Luật Di Sa Tắc tức bộ Ngũ Phần Luật hiện hành). Hành trạng của ngài sau đó không thấy tài liệu nào ghi chép.
Phật độ: là quốc độ có Phật trụ thế. Một Phật độ (cõi Phật) là một khu vực giáo hóa của một đức Phật, bao gồm 3 ngàn đại thiên thế giới.
Phật giáo truyền vào Tây-tạng. Từ thời Hán, người Trung-quốc vẫn gọi Tây-tạng là nước Thổ-phồn, nhưng ngày nay, Thổ-phồn là nước
Theo lời đức Đạt Lai Lạt Ma, trong cuốn hồi kí Nước Tôi và Dân Tôi (My Land and My People – Hồng Hà dịch), nước Tây-tạng được thành lập vào năm 127 tr. TL, và vị vua đầu tiên là Nya-Tri-Tsenpo. Vị vua thứ 28 là Lha-Tho-Ri-Nyen-Tsen đã nhận được một cuốn sách về giáo lí đạo Phật, và Phật giáo đã được truyền bá ở Tây-tạng bắt đầu từ đó. (Tuy nhiên, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã không cho biết tên cuốn sách giáo lí ấy là gì, do từ đâu, và sự việc đó đã xảy ra vào năm nào.) Từ vị vua thứ 28 ấy trở về trước, tôn giáo chính của Tây-tạng là đạo Bon (sùng kính thần linh, chuyên dùng chú thuật, phù phép, bói toán) và nhiều thứ tín ngưỡng mê tín khác thật kì quái. Đến đời vua thứ 33, Song-Tsen-Gampo (sinh vào năm 629 TL), ông bộ trưởng Thumi-Sam-Bhota được phái sang học tại Ấn-độ; khi trở về, ông đã dựa vào chữ Phạn (Sanskrit) mà sáng chế ra chữ viết Tây-tạng. Vị vua này, ngoài ba bà vợ bản xứ, còn cưới thêm hai bà vợ ngoại quốc, là công chúa của hai nước láng giềng Nepal và Trung-hoa; hai bà công chúa này đều sùng tín Phật giáo, nhờ vậy mà Phật giáo Nepal và Phật giáo Trung-hoa đã có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo Tây-tạng. Vua thứ 37 là Thi-Song-Deu-Tsen (sinh năm 790), đã mời được hai nhà bác học Ấn-độ, Khen-Bodi-Sattawa và Lopon-Pema-Samba, sang Tây-tạng. Các học giả Ấn-độ và những người Tây-tạng giỏi Phạn ngữ, bắt đầu dịch kinh điển từ Phạn ngữ ra Tạng ngữ. Dưới triều vua thứ 41 là Lang-Dar-Ma (lên ngôi năm 901), Phật giáo bị bách hại đến diệt vong, phải hàng trăm năm sau mới khôi phục trở lại được.
Theo lời thuật của đức Đạt Lai Lạt Ma thì không thấy đề cập gì tới mật chú và pháp thuật, nhưng những thứ này lại thuộc về Mật giáo, là giáo phái chính thức của Phật giáo Tây-tạng; và các niên đại do ngài ghi ra thì khác nhiều so với các sử liệu của Phật giáo Trung-quốc. Về Mật giáo ở Tây-tạng, theo sử liệu của Phật giáo Trung-quốc cũng như các tài liệu khảo cứu của các học giả Nhật-bản và Tây-phương, vào năm 747, vua Tây-tạng là Khri-Sron-Lde-Btsan (742-797) đã cho sứ thần sang Ấn-độ thỉnh ngài Tịch Hộ (Santa-raksita, 700-760, ở học viện Na-lan-đà, là sáng tổ của phái Du Già Trung Quán) vào Tây-tạng hoằng dương giáo pháp Trung Quán. Nhà vua lại nghe lời khuyên của ngài Tịch Hộ, thỉnh được ngài Liên Hoa Sinh (Padma-sambhava, ?-?) đến Tây-tạng cùng trong năm 747. – Ngài Tịch Hộ cùng với các đệ tử thì truyền bá Hiển giáo; trong khi đó, ngài Liên Hoa Sinh cùng với các đệ tử thì truyền bá Mật giáo Kim-cương thừa. Nhà vua đã xây ngôi chùa lớn Samyas tại kinh đô
Ngài Liên Hoa Sinh vốn là một vị đại học giả của phái Kim-cương thừa Mật giáo Ấn-độ, có gốc từ ngôi đại tự Vikramasila. Vì vậy, sau khi tới Tây-tạng, ngài đã hết sức truyền bá tư tưởng Mật giáo, và được coi như là vị sáng tổ của Mật giáo Tậy-tạng. Từ đó, mỗi thời kì đều có nhiều cao tăng từ Ấn-độ tới, từ từ họ di chuyển toàn bộ kinh điển Mật giáo Ấn-độ vào Tây-tạng. –Do đó mà ngày nay chỉ có nước Tây-tạng là có đầy đủ tất cả kinh điển Mật giáo; không nước nào có đầy đủ như vậy, kể cả Trung-quốc.– Vua thứ 41 của Tây-tạng là Lang-Dar-Ma (đức Đạt Lai Lạt Ma nói nhà vua này lên ngôi năm 901, nhưng Phật Quang Đại Từ Điển và các tài liệu khác thì nói ông ở ngôi từ năm 836-841), sau khi lên ngôi đã tiêu diệt Phật giáo; nhưng ông chỉ ở ngôi được 6 năm thì bị ám sát. Phật giáo Tây-tạng đã lấy thời đại trị vì của vị vua này làm cái mốc để phân chia lịch sử truyền bá Phật giáo ở Tây-tạng làm hai thời kì chính: Từ vua Lang-Dar-Ma trở về trước là thời kì “sơ truyền”; và từ đó trở về sau là thời kì “hậu truyền”.
Phật giáo tuyệt tích ở Ấn-độ. Từ triều đại A Dục vương (thế kỉ thứ 3 tr. TL), Phật giáo bắt đầu phát triển và bành trướng rộng rãi trên gần khắp lục địa Ấn-độ. Từ đầu kỉ nguyên Tây lịch cho đến tiền bán thế kỉ thứ 7 (dưới triều đại Giới Nhật vương - Shiladitya, hay Harsa, lên ngôi khoảng năm 610), có thể coi đó là thời đại hoàng kim của Phật giáo, chiếm địa vị độc tôn, lấn át cả Ấn giáo và Kì-na giáo trên khắp lãnh thổ Ấn-độ. Nhưng từ giữa thế kỉ thứ 7 trở đi, Ấn giáo (tức hậu thân của Bà-la-môn giáo) bắt đầu quật khởi và lấn át, làm cho Phật giáo đi dần vào giai đoạn suy thoái. Đến thế kỉ thứ 9, Phật giáo chỉ còn có mặt tại vài khu vực ở Trung, Đông và
Phật Kim Túc: là một đức Phật đời quá khứ, mà theo truyền thuyết, là tiền thân của cư sĩ Duy Ma Cật. Truyền thuyết này rất được thịnh hành từ xưa tới nay. Có người nói rằng, truyền thuyết này đã phát xuất từ kinh Phát Tích và kinh Tư Duy Tam Muội, nhưng hai kinh này đến nay chưa ai tìm thấy.
Phật lịch: là niên lịch Phật giáo, được tính bắt đầu từ năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Các tài liệu về niên đại nhập diệt của đức Phật, xưa nhất là thuyết “Chúng thánh điểm kí” của Phật giáo Nam-truyền. Theo thuyết này, sau khi Phật nhập diệt, tôn giả Ưu Ba Li kết tập Luật tạng. Vào cuối mùa an cư, ngày Rằm tháng Bảy, sau lễ tự tứ, tôn giả Ưu Ba Li đã dùng hương hoa cúng dường Luật tạng, rồi chấm xuống một chấm trước nơi đặt Luật tạng. Từ đó về sau, cứ mỗi năm, khi mùa an cư hoàn mãn, chư thánh tăng đều nối tiếp nhau chấm một chấm như vậy, để ghi số năm trôi qua sau khi Phật nhập diệt. Công việc này vẫn được tiếp nối sau khi Phật giáo truyền vào Trung-quốc. Đến niên hiệu Vĩnh-minh thứ 8 nhà Tề, thời đại Nam-triều, Trung-quốc (tức năm 490 TL, một năm sau khi ngài Tăng Già Bạt Đà La dịch bộ Luật Thiện Kiến Tì Bà Sa), vào nửa đêm ngày Rằm tháng Bảy, mùa an cư vừa hoàn mãn, một chấm nữa được chấm xuống; đến đây, cộng lại từ chấm đầu tiên sau khi Phật nhập diệt, được cả thảy 975 điểm. Từ đó mà suy tính thì đức Phật nhập diệt 486 năm tr. TL.
Đây là tài liệu trọng yếu để nghiên cứu Phật lịch, nhưng không chắc chắn là chính xác. Ngày nay, Phật giáo Nam-phương Thượng Tọa Bộ thường dùng niên đại Phật nhập diệt là 543 hoặc 544 năm tr. TL. Từ năm 1950, các nước Phật giáo trên thế giới đều thống nhất công nhận niên đại Phật nhập diệt là năm 544 tr. TL, và lấy năm đó làm năm thứ nhất Phật lịch.
Phật sự. Tất cả các công việc nhằm hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật pháp và giáo hóa chúng sinh, đều được gọi là “Phật sự”. Riêng trong Thiền tông Trung-quốc, từ “Phật sự” được dùng để chỉ cho các công việc nhất định trong thiền môn như an vị Phật, khai nhãn, niêm hương, thượng đường, nhập thất, khai thị, phổ thuyết v.v... Ngày nay, Phật giáo Trung-quốc thường dùng từ này để gọi chung cho các nghi thức được cử hành trước Phật, kể cả nghi thức tụng kinh cầu siêu cho các vong linh; và từ Phật sự ở đây cũng được gọi là pháp sự, hay pháp hội.
Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya-muni) : là vị Giáo Tổ của Phật giáo. Ngài nguyên là thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha Gautama), con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana Gautama) và hoàng hậu Ma Ha Ma Da (Mahamaya) ở thành Ca-tì-la-vệ (Kapila-vastu) của vương quốc Thích-ca (Sakya), ở phía Bắc bán đảo Ấn-độ thời cổ đại (nay là miền Nam của nước Nepal). Ngài đản sinh trong vườn Lam-tì-ni (Lumbini – phía Đông thành Ca-tì-la-vệ, nay thuộc lãnh thổ nước Nepal), vào ngày trăng tròn tháng Vesaka (lịch Ấn-độ – nhằm ngày trăng tròn tháng 5 dương lịch, tức ngày Rằm tháng Tư âm lịch) năm 624 tr. TL. Sau khi sinh thái tử được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da từ trần. Vua Tịnh Phạn bèn giao thái tử cho bà di mẫu (mà cũng là kế mẫu) của thái tử là hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha-prajapati) nuôi dưỡng và dạy dỗ thành người. Thái tử cực kì thông minh, lại được vua cha cho học hành chu đáo. Các môn như văn học, lí học, số học, nghệ thuật, thiên văn, v.v... kể cả võ nghệ, môn nào ngài cũng học mau chóng và xuất sắc, trội hẳn các vương tử khác trong hoàng tộc, làm cho các vị giáo sư đều phải kinh ngạc, bái phục.
Năm chín tuổi, thái tử được theo phụ vương đi dự lễ cày ruộng đầu năm (tức lễ “hạ điền”). Chính trong buổi lễ này, thái tử đã chứng kiến thảm cảnh con người phải đổ bao mồ hôi nước mắt để có miếng ăn; trâu bò vừa phải kéo cày, vừa phải chịu những lằn roi đau điếng trên lưng; những con trùn bị lưỡi cày cắt đứt nhiều đoạn, đau đớn quằn quại trên luống cày; các loài chim thú rình rập, cắn xé ăn thịt nhau... Đây là lần đầu tiên thái tử thấy tận mắt, cảm nhận được nỗi đau khổ của đời sống, và bắt đầu tư duy về cảnh khổ của cuộc đời.
Ở tuổi trưởng thành thái tử càng học giỏi. Ngoài những môn học thường thức về văn học, võ nghệ v.v..., thái tử còn đặc biệt chăm chú đến những tư tưởng hàm chứa trong các kinh Vệ Đà (Veda), Phạm Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) – tất cả đều là sản phẩm của đạo Bà-la-môn. Tuy còn trẻ tuổi, thái tử đã có những suy nghĩ chín chắn, sâu sắc đối với những tư tưởng này. Thái tử thấy rõ những điều vô lí, bất công hàm chứa trong giáo lí ấy. Bởi vậy, trong tâm tư thái tử đang có khuynh hướng không chấp nhận các giáo điều căn bản của đạo Bà-la-môn, cũng không chấp nhận cái trật tự xã hội với bốn giai cấp đầy bất công đã được xây dựng bằng luật Mã Nỗ (Manu) của Bà-la-môn. Từ những ý tưởng ấy, cộng với những hình ảnh đau thương đã mục kích trong ngày lễ hạ điền năm xưa, thái tử đã ấp ủ trong lòng một hoài bão, làm thế nào để tìm ra một con đường mới mẻ, có thể giúp cho mọi người và mọi loài thoát khỏi những nỗi khổ đau, bất hạnh triền miên trong cuộc sống. Nỗi bận tâm đó đã làm cho thái tử thường có dáng vẻ trang nghiêm, nét mặt lúc nào cũng trầm ngâm tư lự.
Thấy thái độ ấy của thái tử, vua Tịnh Phạn cũng đoán biết được tâm ý thái tử đang nghĩ ngợi gì, cho nên rất lấy làm lo lắng. Đức vua cho tổ chức thường xuyên các cuộc vui như hòa nhạc, vũ hội, du ngoạn v.v..., cho thái tử vui chơi. Đồng thời, thái tử cũng được phụ vương hướng dẫn thực tập chính trị để sẵn sàng kế vị sau này. Và một việc vô cùng quan trọng khác là chuẩn bị cưới vợ cho thái tử. Với tất cả những việc làm đó, nhà vua đều nhằm tạo các mối dây ràng buộc quấn chặt thái tử, để tránh việc thái tử “có thể bỏ nhà đi tu”. Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề đều đã có ý chọn công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), con của vua Thiện Giác (Suprabuddha) và hoàng hậu Cam Lộ (Pamita) của nước láng giềng Câu-lị (Koliya), làm chánh phi cho thái tử. Nàng là một công chúa nhan sắc diễm lệ, cốt cách đoan trang, dáng vẻ thùy mị, tính tình lại ôn nhu, giản dị, không kiêu kì, có lòng bao dung, hay thương người nghèo khó, bệnh tật. Và rồi đám cưới của thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La đã được tổ chức trọng thể trong niềm hân hoan của cả triều đình và dân chúng khắp vương quốc Thích-ca. Riêng vua Tịnh Phạn thì rất lấy làm thỏa mãn, vì tin tưởng rằng mình đã dùng được sợi dây tình ái để cột chân thái tử vĩnh viễn nơi hoàng cung.
Thái tử được ở trong cung điện cao sang lộng lẫy với đầy đủ mọi thứ dục lạc của cuộc sống đế vương. Mặc dù vậy, nhân những lần ra khỏi hoàng cung để du ngoạn phố phường làng xóm đó đây, được trực tiếp nhìn thấy nhiều hơn nữa những thực trạng đau khổ của kiếp người như già nua, bệnh tật, chết chóc, thái tử càng thấy xót xa cho thân phận con người. Trong lúc tâm tư thái tử còn đang rối bù với thân phận bất hạnh của con người, thì đứa con đầu lòng của thái tử và công chùa Da Du Đà La, hoàng tôn La Hầu La (Rahula), ra đời. Ái tình đã là một sợi dây ràng buộc, vương vị là một sợi dây ràng buộc khác, và bây giờ đây, với bé thơ La Hầu La, thì lại thêm một dây ràng buộc khác nữa. Đến lúc này thì thái tử phải quyết tâm tháo gỡ những ràng buộc ấy.
Một hôm, khi vừa nhìn thấy hình bóng thanh thoát của một vị sa môn, thái tử liền cảm thấy tâm thần rúng động. Trong phút chốc, chàng thấy rõ con đường đi chính đáng của mình. Ý tưởng xuất gia tìm đạo giải thoát vụt sáng trong lòng thái tử.
Thái tử xin phép phụ vương cho đi xuất gia học đạo. Đức vua cương quyết chối từ. Nhưng ý chí đã quyết, nhân một đêm khuya trăng sáng, mọi người trong cung đều đã ngủ say, thái tử bảo người đánh xe trung thành là Xa Nặc (Channa), thắng yên cương cho con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka), rồi hai thầy trò cùng yên lặng ra khỏi hoàng thành, giục ngựa thẳng về phương Nam. Thái tử đã cương quyết xa lìa vợ đẹp con yêu, cha mẹ họ hàng, từ bỏ nếp sống vương giả và cả một tương lai rực rỡ nơi cung vàng điện ngọc, để đi xuất gia tìm đạo giải thoát. Năm đó thái tử được 29 tuổi.
Thái tử phi ngựa suốt đêm không nghỉ, đến sáng hôm sau thì tiến vào địa phận vương quốc Mạt-la (Malla). Sau khi vượt qua sông A-nô-ma (Anoma), thái tử dừng lại, xuống ngựa, lấy kiếm tự cắt tóc, rồi giao kiếm, áo bào và mớ tóc cho Xa Nặc đem về hoàng cung báo tin thái tử xuất gia cho hoàng gia biết. Xa Nặc đi rồi, thái tử đổi chiếc áo quí giá đang mặc trên mình để lấy tấm vải màu chàm của người thợ săn, khoác lên người, một mình đi vào rừng sâu... Từ đây, thái tử tự nguyện sống đời tu sĩ, biến mình thành sa môn Cồ Đàm, chấp nhận nếp sống kham khổ về vật chất, không tiền bạc, cửa nhà, đầu không đội nón, chân không dầy dép, chỉ có một quyết tâm dũng mãnh là tìm thầy học đạo giải thoát.
Trước tiên sa môn Cồ Đàm theo học với các vị đạo sĩ lừng danh đương thời như A La Lam (Arada-kalama) ở gần kinh thành Tì-xá-li (Vaisali) của vương quốc Lê-xa (Licchavi), và Uất Đầu Lam Phất (Udraka-ramaputra) ở gần kinh thành Vương-xá (Rajagrha) của vương quốc Ma-kiệt-đà (Ma-gadha). Không bao lâu, Ngài đã thấu triệt giáo lí vi diệu nhất của các vị này, và chứng đắc quả vị cao nhất ngang bằng với họ, nhưng vẫn không thấy thỏa mãn, vì đó chưa phải là quả vị giải thoát rốt ráo, giác ngộ cùng tột, niết bàn tịch tịnh. Vì vậy, Ngài đã từ tạ các vị này ra đi, không theo học với vị đạo sư nào nữa, mà một mình nỗ lực để tự phát huy ánh sáng giác ngộ nơi chính bản tâm mình. Ngài dừng lại ở một khu rừng bên bờ sông Ni-liên, cạnh thôn Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva), thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà. Tại đây, cùng với năm vị đạo sĩ bạn hữu, Ngài đã thực hành phép tu khổ hạnh, tự khép mình trong nếp sống cực kì kham khổ, ròng rã gần sáu năm trường, hình vóc khô gầy, nhưng rồi vẫn không có một tia hi vọng nhìn thấy chân lí. Một ngày kia, Ngài suy nghĩ, lối tu khổ hạnh chắc chắn không đem lại lợi ích gì, mà còn làm cho mỏi mệt tinh thần, giảm suy trí tuệ. Ngài bèn dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia Ngài đã từ bỏ nếp sống đế vương. Ngài quyết định dùng vật thực tối thiểu để giữ cho thân thể có sức khỏe thì tinh thần mới sáng suốt được. Ngài lần ra bờ sông, thọ nhận bát sữa do một thôn nữ cúng dường. Sức khỏe hồi phục nhanh chóng, Ngài xuống sông tắm rửa rồi trở lại rừng, tìm một gốc cây để bắt đầu cuộc phấn đấu mới. Năm người bạn cùng tu, thấy Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, bắt đầu ăn uống, cho rằng Ngài đã thối chí, trở lại con đường lợi dưỡng, bèn cùng nhau bỏ Ngài mà đi sang vườn Lộc-dã (Mrgadava), phía Bắc thành Ba-la-nại (Ba-ranasi) thuộc vương quốc Ca-thi (Kasi). Biết là họ đã hiểu lầm mình, nhưng Ngài vẫn giữ im lặng. Còn lại một mình, Ngài quyết tâm tu tập thiền quán, vì, bằng những kinh nghiệm đã có của chính mình, Ngài nhận định rằng, chỉ có thiền quán mới là con đường dẫn đến giác ngộ. Ngài bèn chọn một cây tất-bát-la (pippala) to lớn, cành lá sum sê ở gần bờ sông để thiền tọa. Ngài lập lời thề mạnh mẽ, nếu không thấy được đạo giác ngộ thì nhất quyết sẽ không rời khỏi cội cây này. Thế rồi, trải qua 49 ngày suy niệm chân lí, quán chiếu thực tại, cuối cùng, buổi khuya hôm ấy, khi sao mai vừa mọc, thì tâm trí Ngài chợt bừng sáng, màn vô minh che lấp từ lâu đời, nay đã hoàn toàn bị quét sạch. Ngài đã dứt sạch mọi tham ái, ô nhiễm, chứng nhập thật tướng của vạn pháp. Ngài biết rõ là mình vừa tìm thấy được đạo lớn, thành quả giải thoát giác ngộ trọn vẹn từng ôm ấp bấy lâu, nay đã đạt được. Ngài đã trở thành một bậc Tối Chánh Giác, một đấng toàn giác, một đức Phật, trong thế gian không có ai sánh bằng. Cây tất-bát-la từ đó cũng được gọi là cây bồ-đề. Năm đó Ngài được 35 tuổi đời.
Sau khi thành đạo, đức Phật đã lưu lại tại cây bồ-đề 49 ngày nữa để an hưởng sự tịnh lạc của hương vị giải thoát, và chiêm nghiệm lại những chân lí vừa khám phá được. Rồi Ngài quán sát căn tánh chúng sinh. Biết rằng đã đến lúc phải trở lại với xã hội loài người, phải cho bánh xe chánh pháp chuyển động để gieo rắc hạt giống giải thoát giác ngộ cho chúng sinh, Ngài bèn từ giã cây bồ-đề để ra đi. Trước tiên Ngài đến khu vườn Nai (Lộc-dã), nói pháp Bốn Sự Thât để hóa độ cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài lúc trước. Họ đều chứng quả A-la-hán, giải thoát khỏi ba cõi. Họ trở thành những vị tì kheo và cũng là những thánh tăng đầu tiên trong giáo đoàn của Phật; đó là các vị: Kiều Trần Như (Ajnata-Kaundinya), A Thuyết Thị (Át Bệ, A Xả Bà Thệ - Asvajit), Bà Sa Ba (Thập Lực Ca Diếp - Baspa), Ma Ha Nam (Ma Ha Nam Câu Li, Ma Nam Câu Li - Mahanama) và Bạt Đề (Bhadrika). Chính nơi vườn Nai này, ngôi Tam Bảo đã xuất hiện lần đầu tiên ở thế gian: đức Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo, giáo pháp Bốn Sự Thật là Pháp Bảo, và năm vị tì kheo là Tăng Bảo. Cũng tại vườn Nai này, sau đó đức Phật đã độ cho công tử Da Xá (Yasa) cùng 54 người bạn của Da Xá, đều trở thành những vị tì kheo chứng quả A-la-hán. Như vậy, trong vòng hai tháng đầu tiên sau ngày thành đạo, đức Phật đã có tổng cộng 60 vị đệ tử thánh tăng. Cha, mẹ và vợ của Da Xá cũng qui y, và trở thành những vị đệ tử tại gia đầu tiên của đức Phật đã thọ lễ qui y với đầy đủ Ba Ngôi Báu. Với 60 vị A-la-hán đầu tiên của thế gian, đức Phật đã thành lập Giáo hội Tăng già – đó là giáo hội của những tu sĩ độc thân xưa nhất của lịch sử nhân loại, vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Nửa năm sau đó, Ngài đi về thăm lại thôn Ưu-lâu-tần-loa, và đã hóa độ cho ba anh em đạo sĩ Ca Diếp (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp - Uruvilva Kasyapa, Na Đề Ca Diếp - Nadi Kasyapa, và Già Da Ca Diếp - Gaya Kasyapa) cùng một nghìn đệ tử của họ, đều chứng quả A-la-hán và trở thành tì kheo. Rồi Phật tiến về kinh thành Vương-xá. Vua Tần Bà Ta La (Bimbisara - trị vì nước Ma-kiệt-đà) đã xin qui y Tam Bảo, trở thành vị đệ tử tại gia đầu tiên của Phật trong hàng vua chúa. Nhà vua đã xây tinh xá Trúc-lâm (Venuvana-vihara) gần thành Vương-xá để cúng dường Phật và giáo đoàn. Đó là năm thứ hai sau ngày Phật thành đạo. Trong thời gian này, đức Phật cũng đã thu nhận hai vị đệ tử lỗi lạc là các tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputra) và Mục Kiền Liên (Moggallana).
Sau mùa an cư, đức Phật trở về thăm cố hương Ca-tì-la-vệ. Vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công chúa Da Du Đà La, hoàng tôn La Hầu La, các hoàng thân, vương tử, triều thần và nhân dân trong thành đều được Phật giáo hóa và thấm nhuần chánh pháp. Trong dịp này, người thợ cạo Ưu Ba Li (Upali), hoàng tử Nan Đà (Nanda – em cùng cha khác mẹ của Phật), hoàng tôn La Hầu La, và các vương tử Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), A Nan Đà (Ananda), A Na Luật (Anuruddha), v.v... đều theo Phật xuất gia. La Hầu La trở thành chú sa di đầu tiên và nhỏ tuổi nhất của giáo đoàn. Nửa năm sau, Ngài trở lại tu viện Trúc-lâm; và trong mùa an cư kế tiếp, Ngài lại thu nhận một vị đệ tử lỗi lạc khác nữa, là tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakassapa), con một thương gia giàu có vào bậc nhất của nước Ma-kiệt-đà.
Sau mùa an cư này, đức Phật nhận lời thỉnh cầu của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika, tức Tu Đạt - Sudatta) lên mở đạo tràng hoằng hóa tại tu viện Kì-viên ở kinh thành Xá-vệ (Sravasti) của vương quốc Kiều-tát-la (Kosala); và vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) và hoàng hậu Mạt Lị (Mallika) của nước này đã trở thành những Phật tử thuần thành của Phật trong hàng vua chúa.
Năm thứ năm sau ngày thành đạo, đức phật về quê hương Ca-tì-la-vệ lần thứ hai trước khi vua Tịnh Phạn băng. Sau tang lễ của vua, đức Phật thu nhận lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cùng một số đông mệnh phụ phu nhân trong dòng Thích-ca, làm đệ tử xuất gia phái nữ, thành lập giáo đoàn tì kheo ni. Quí bà đều chứng quả A-la-hán. Công nương Da Du Đà La cũng được Phật nhận cho xuất gia sau đó, và cũng chứng quả A-la-hán. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo Ấn-độ mà phái nữ được tham dự trực tiếp vào các sinh hoạt tôn giáo, và cũng là đoàn thể nữ tu sĩ độc thân đầu tiên của nhân loại mà ngày nay vẫn còn tồn tại.
Đến đây thì danh tiếng của Phật đã vô cùng lừng lẫy, giáo đoàn của Ngài gồm đủ mọi thành phần xã hội, đủ mọi lứa tuổi, cả phái nam lẫn phái nữ, có mặt khắp mọi nơi, từ hang núi, rừng sâu, đến thôn quê, thành thị, không chỗ nào là không có chư tăng hành đạo. Trừ miền Nam Ấn-độ ra, còn thì các vương quốc từ miền Trung đến miền Bắc, từ miền Đông đến miền Tây, nơi nào cũng có đạo tràng tu học và hành đạo của giáo đoàn. Cứ như thế, bước chân của Phật trải khắp mọi nẻo đường, không ngừng nghỉ, suốt 45 năm ròng rã. Sức hoạt động của Phật, từ trước tới nay chưa có vị đạo sĩ nào sánh kịp. Tăng đoàn của Phật đông hàng vạn, mà số thánh chúng chứng quả cũng không phải là ít. Đệ tử tại gia của Phật thì nhiều không kể xiết. Cho đến một hôm, khi cảm thấy không còn bao lâu nữa mình sẽ xả bỏ báo thân, tại tu viện Trùng-các (Kutagarasala) ở ngoại ô thành Tì-xá-li, đức Thế Tôn đã thông báo quyết định nhập niết bàn của Ngài cho chư tăng ni biết. Rồi đó, có hai tôn giả A Na Luật và A Nan Đà hầu cận, Ngài cùng với khoảng 300 vị tì kheo, đã rời thành Tì-xá-li đi về phương Bắc. Phật vừa đi vừa nghỉ lại tại nhiều thị trấn, nơi nào Ngài cũng thuyết pháp và dặn dò những lời cuối cùng cho chư tăng ni địa phương. Buổi chiều nọ, Ngài và chư tăng đi đến thành Câu-thi-na (Kusinagara, thuộc vương quốc Mạt-la) thì dừng lại. Ngài cảm thấy người đã yếu lắm, bèn dẫn chư tăng vào trú trong khu rừng cây ta-la ở ngoại ô kinh thành. Đêm ấy, sau khi đã dạy những lời cuối cùng cho chư tăng, Ngài an nhiên vào thiền định, rồi nhập niết bàn. Năm đó Ngài được 80 tuổi đời.
Phật thừa (Nhất Phật thừa - Nhất thừa). Phật thừa, hay Nhất Phật thừa, hay Nhất thừa, là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn, siêu việt, tối thượng của chư Phật; cũng gọi là giáo pháp liễu nghĩa thượng thừa, hay đệ nhất nghĩa đế.
Phép quán sáu hành (lục hành quán). Sáu hành là sáu tính chất, gồm: thô trọng (thô - cõi Dục chẳng hạn, năm dục làm cho tâm tham đắm, thân thể chúng sinh chứa đầy các chất dơ bẩn); khổ đau (khổ - tâm chúng sinh dẫy đầy tham dục, thân phải chịu bao nhiêu khổ đau như đói khát, bệnh tật, bạo động, v.v...); chướng ngại (chướng - phiền não che lấp chân tính, thân bị chất ngại, không được tự tại); tịch tĩnh (tĩnh - cõi Sơ-thiền chẳng hạn, đã xa lìa năm dục của cõi Dục, bỏ được cái thân dơ dáy, tâm không còn loạn động, mà được định tĩnh trong thiền định); vi diệu (diệu - đã xa lìa tâm tham dục và các thứ phiền não, thoát khỏi các cảnh khổ đau của cõi Dục, hưởng niềm vui vi diệu); và xuất li (li - phiền não bớt che lấp, thoát khỏi cái thân bị chất ngại ở cõi Dục, thân được tự tại, có được năm phép thần thông). Phép quán sáu hành là: quán thô, quán khổ, quán chướng, quán tĩnh, quán diệu, và quán li. Ý nghĩa của phép quán như sau: Ba cõi, nếu chia nhỏ ra thì có chín địa. Nếu đem so sánh giữa hai địa với nhau, thì tính chất của địa ở dưới là thô, khổ và chướng; còn địa ở trên là tĩnh, diệu và li. Người phàm phu tu tập, dùng trí tuệ hữu lậu quán sát thấy được ba tính chất thô, khổ và chướng của địa dưới, rồi sinh tâm nhàm chán (gọi là “chán dưới”); lại quán sát thấy được ba tính chất tĩnh, diệu và li của địa trên, rồi sinh tâm vui thích (gọi là “vui trên”); cứ như thế, tuần tự quán sát, tu tập, chán dưới vui trên, diệt trừ phiền não của địa dưới mà tiến lên từng địa một, đó là “phép quán sáu hành”.
Phép tu tôn trọng (tôn trọng tu): cũng gọi là phép tu cung kính (cung kính tu), là một trong 4 phép tu nhân chung cho tất cả các hành giả tu hành Phật đạo để cầu thành Phật. Thực hành phép tu này, hành giả luôn luôn cung kính tôn trọng những gì mình học tập, không có niệm ân hận tiếc nuối, cũng không sinh tâm kiêu mạn. Theo cách giải thích đặc biệt dành cho người chuyên tu pháp môn Tịnh Độ, như đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) giải thích trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, phép tu tôn trọng tức là cung kính lễ bái, nghĩ nhớ đến đức Phật A Di Đà và chư thánh chúng ở cõi Cực-lạc.
Phép tu trường thời (trường thời tu): là một trong 4 phép tu nhân chung cho tất cả các hành giả tu hành Phật đạo để cầu thành Phật. Bắt đầu từ lúc mới phát tâm, liên tục trải qua 3 a-tăng-kì kiếp, tu hành không mệt mỏi; còn ngay trong kiếp hiện tại, từ lúc phát tâm tu hành mãi cho đến hết cuộc đời, lấy đó làm thời kì tu tập, không mệt mỏi, gọi là “phép tu trường thời”. Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Ngài Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ), trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài, đã nói về phép tu này rằng: Hành trì ba phép tu kia (tôn trọng, vô dư, vô gián) cho đến hết đời, thề không bỏ dở nửa chừng.
Phép tu vô dư (vô dư tu). Luôn luôn tu tập đầy đủ hai thứ tư lương là phước đức và trí tuệ (phúc tuệ song tu), không lúc nào thiếu sót, gọi là “phép tu vô dư”; đó là cách tu nhân chung cho tất cả hành giả tu hành Phật đạo, để cầu thành Phật (như trong Câu Xá Luận có đề cập tới). Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) đã đứng trên giáo nghĩa của pháp môn tu Tịnh Độ mà giải thích “phép tu vô dư” là: Chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chuyên niệm tưởng đến các thánh chúng cõi Cực-lạc, không xen lẫn phép tu nào khác.
Phép tu vô gián (vô gián tu): là luôn luôn tinh tấn dũng mãnh tu tập, không lúc nào để cho gián đoạn; đó là cách tu nhân chung cho tất cả hành giả tu hành Phật đạo, để cầu thành Phật. Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ), trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài, đã giải thích “phép tu vô gián” là: Cung kính lễ bái đức Phật A Di Đà, xưng danh tán thán, ức niệm quán sát, hồi hướng phát nguyện v.v..., niệm niệm tiếp nối, không để cho việc gì khác làm cho gián đoạn, không để cho các phiền não tham sân v.v... xen vào làm cho gián cách.
Phệ Đà (hay Vệ Đà - Veda): là kinh điển căn bản của đạo Bà-la-môn. Khoảng 1.500 năm trước TL, giống dân du mục Arya từ miền Trung Á tràn vào vùng Tây Bắc Ấn-độ. Họ đã chiến thắng dân bản xứ (Dravida), chiếm cứ vùng đất rộng lớn từ Punjab (cũng viết là Panjab) xuống đến lưu vực sông Hằng. Họ tự đặt mình ở địa vị chủ nhân ông, và biến người dân bản xứ thành hàng nô lệ. Sau khi mọi việc đã được bình định, giai cấp lãnh đạo tinh thần của giống Arya là các giáo sĩ Bà-la-môn, đã sưu tập lại tất cả những bài ca tán tụng thần thánh đã có từ trước và trong suốt thời kì chinh phục Ấn-độ, làm thành bộ thánh thư xưa nhất của Ấn-độ là Vệ Đà, gồm có bốn tập:
1) Lê Câu Vệ Đà (Rigveda): gồm những bài ca nói về sự sáng tạo vũ trụ, giải thích về số mạng dài ngắn của con người, cùng các cách tu dưỡng để bảo tồn tính lành.
2) Sa Ma Vệ Đà (Samaveda): gồm những bài ca dùng trong việc tế tự, cầu đảo chư thần linh.
3) Dạ Nhu Vệ Đà (Yajurveda): gồm những bài kệ dùng trong các việc như cưới gả, chôn cất, tiệc tùng v.v..., cùng đề cập đến các cách bói toán, binh pháp, quân trận.
4) A Thát Bà Vệ Đà (Artharvaveda): gồm những thần chú dùng để giải trừ tai nạn.
Trong bốn tập trên thì Rigveda được thành hình sớm nhất, khoảng từ thế kỉ 14 đến thế kỉ 11 trước TL, được coi là cuốn thánh thư tối cổ của nhân loại; ba tập sau xuất hiện trong mấy thế kỉ kế tiếp. Bốn tập Vệ Đà này đã là nền tư tưởng và học thuật căn bản và dành riêng cho giới thượng lưu (Bà-la-môn, vua chúa, công hầu khanh tướng) của Ấn-độ trước khi Phật giáo xuất hiện; và theo truyền thống, chỉ có các giáo sĩ Bà-la-môn mới có quyền giảng giải các thánh thư ấy mà thôi. Sau đó, trong khoảng từ thế kỉ thứ 7 đến thế kỉ thứ 4 tr. TL (tức trong khoảng thời gian Phật giáo xuất hiện), lại có thêm Phạm Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) ra đời. Nội dung của Phạm Thư gồm những bản “anh hùng ca”, được xem là phần nối dài của bộ Vệ Đà. Trong khi đó thì nội dung của Áo Nghĩa Thư hàm chứa những giáo lí cực kì uyên áo của đạo bà-la-môn, mà các triết thuyết về “tự ngã”, “không hai”, “nghiệp báo luân hồi” và “giải thoát” là những đặc điểm vô cùng quan trọng, ảnh hưởng không ít đến tư tưởng của Phật.
Phi hành phi tọa tam muội: cũng gọi là Giác ý tam muội, hay Tùy tự ý tam muội (một trong 4 loại tam muội do tông Thiên Thai chế lập: Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, và Phi hành phi tọa tam muội), tức là loại tam muội tùy ý mà tu tập; đi, đứng, nằm hay ngồi đều tu tập được, thân thể không bị hạn cuộc vào một tư thế nào, cũng không có một hạn kì nhất định nào; bất cứ sự vật gì cũng là đối tượng để quán chiếu, giờ khắc nào cũng là giờ khắc quán chiếu.
Phi nhân: là chỉ cho các loài chúng sinh không phải loài Người, như 8 bộ chúng (Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già) và Ác quỉ; hoặc chỉ chung cho quỉ thần.
Phi phạm hạnh. Chữ “phạm” nghĩa là thanh tịnh; dứt bỏ dâm dục thì gọi là “phạm hạnh”. Vậy, “phi phạm hạnh” tức là hạnh bất tịnh, chỉ cho sự dâm dục. Trái lại, “bất phi phạm hạnh” (không phi phạm hạnh) tức là “bất dâm” (không dâm dục). Người tại gia, trong thời gian thọ trì tám giới trai, dù là người phối ngẫu, cũng không được hành dâm, huống chi không phải là người phối ngẫu.
Phiền não: là tiếng gọi tổng quát chỉ cho những hiện tượng tâm lí xấu xa, sai lầm, là động lực thúc đẩy con người gây nên mọi điều tội lỗi về cả ba nghiệp thân, miệng và ý; khiến cho thân tâm lúc nào cũng vọng động, lầm lạc, đau khổ, lo buồn, xao xuyến, bất an. Phiền não có những tên gọi khác là: sử (đeo đuổi, sai khiến, thôi thúc chúng sinh gây nghiệp ác), lậu (làm cho chúng sinh lọt vào vòng sinh tử luân hồi), kết (thắt buộc, kết tụ), hoặc (sai lầm), cấu (dơ bẩn), nhiễm (ô uế), tùy miên (đeo dính khiến chúng sinh lúc nào cũng ở trong trạng thái hôn muội trầm trọng), triền (quấn chặt, trói buộc), cái (che lấp), thủ (giữ chặt), bạo lưu (cuốn trôi), trần cấu (bụi bẩn). Mục đích tối cao của người tu học Phật là giác ngộ giải thoát; vậy, tất cả những gì làm cho chúng sinh bị chướng ngại trên bước đường tiến tới đạo quả giác ngộ giải thoát, đều được coi là phiền não.
Phần nhiều các kinh luận cho rằng, tham sân si là ba thứ phiền não độc dữ nhất (tam độc), là cội nguồn sinh ra bao thứ phiền não khác. Các vị luận sư chuyên về tâm lí học Phật giáo (như hai tông phái Câu Xá và Duy Thức) thường chia phiền não làm hai loại tổng quát: phiền não căn bản và phiền não chi mạt (tức tùy phiền não). Đi vào chi tiết thì giữa Câu Xá và Duy Thức có những trình bày khác nhau. Những chi tiết sau đây được trình bày theo tông Duy Thức:
- Căn bản phiền não rất khó đoạn trừ, gồm có 6 thứ: tham, sân, si (vô minh), mạn, nghi, kiến (ác kiến); ác kiến lại chia làm năm thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến. Tổng cộng có 10 phiền não (cũng gọi là mười tùy miên, mười sử). Năm thứ phiền não tham, sân, si, mạn và nghi, được gọi đặc biệt là “năm độn sử” (khó đoạn trừ); năm thứ ác kiến được gọi đặc biệt là “năm lợi sử” (dễ đoạn trừ). (Xem mục “Phiền Não Căn Bản”)
- Tùy phiền não là các phiền não phụ thuộc của các phiền não căn bản ở trên, dễ diệt trừ hơn, gồm có 20 thứ: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. (Xem mục “Phiền Não Tùy Thuộc”)
Duy Thức Học còn nói rằng: Thức thứ bảy (mạt-na thức) có bản chất là chấp ngã, vì luôn luôn có bốn thứ phiền não căn bản đeo dính bên mình, đó là: ngã si (tức là si), ngã kiến (tức là ác kiến), ngã mạn (tức là mạn) và ngã ái (tức là tham).
Thật ra, con người ở thời đại ngày nay, nếu quán chiếu kĩ vào nội tâm, chúng ta sẽ thấy số lượng các “tùy phiền não” còn nhiều hơn gấp bội so với hai mươi thứ như tông Duy Thức vừa trình bày trên.
Phiền não căn bản (căn bản phiền não). Tất cả mọi đau khổ của chúng sinh đều do sáu thứ phiền não gốc rễ sau đây gây nên: 1) Tham: thấy gì vừa ý thì tham, muốn chiếm đoạt; 2) Sân: gặp điều không vừa ý thì oán giận; 3) Si: vô minh, không sáng suốt; 4) Mạn: tự cao, kiêu mạn; 5) Nghi: ngờ vực, do dự; 6) Ác kiến: thấy biết sai lạc, không đúng sự thật. Sáu thứ phiền não gốc rễ này rất khó đoạn trừ.
Phiền não tùy thuộc (tùy phiền não). Đây là các thứ phiền não phụ thuộc của sáu loại phiền não căn bản (xem mục “Phiền Não Căn Bản”), dễ diệt trừ hơn, gồm có 20 thứ: 1) Phẫn: nóng giận, cộc cằn, bực tức; 2) Hận: oán hờn; 3) Phú: che dấu tội lỗi; 4) Não: buồn phiền, bứt rứt, ẩn ức không yên; 5) Tật: ganh ghét; 6) Xan: keo kiệt bỏn sẻn; 7) Cuống: dối gạt; 8) Siểm: nịnh hót, gièm pha; 9) Hại: có ý làm tổn hại người; 10) Kiêu: khoe khoang, tự kiêu, tự phụ; 11) Vô tàm: làm lỗi mà không biết tự xấu hổ; 12) Vô quí: tài đức không bằng người mà không biết tự thẹn; 13) Trạo (điệu) cử: chao động không yên; 14) Hôn trầm: mê muội, dật dờ, trì trệ; 15) Bất tín: đa nghi, không tin tưởng; 16) Giải đãi: biếng nhác, bê trễ; 17) Phóng dật: buông lung, buông trôi; 18) Thất niệm: lãng quên, không có chánh niệm; 19) Tán loạn: xao xuyến, rối loạn; 20) Bất chánh tri: hiểu lầm, biết không chính xác.
Phó Nghị (?-90 s. TL): Tự là Vũ Trọng, quê ở Phù-phong (thuộc địa phận tỉnh Thiểm-tây ngày nay), thời đại Đông-Hán. Ông làm quan thái sử (chép sử, coi thiên văn, làm lịch) triều vua Minh đế (58-75). Dưới triều vua Chương đế (76-88), ông làm Lan-đài lệnh-sử (như thư viện trưởng ngày nay), cùng với Ban Cố trông coi thư khố ở nội phủ. Năm đầu vua Hòa đế (89-105), ông được Xa-kị tướng quân Bảo Hiến mời làm Kí-thất lệnh-sử (như chánh văn phòng ngày nay); năm sau Bảo Hiến được thăng làm đại tướng quân thì ông cũng được thăng làm tư mã (chức quan võ, thời Hán là thuộc cấp của đại tướng quân). Theo sách sử Phật giáo Trung-quốc, do ông đoán mộng cho vua Hán Minh đế mà nhà vua đã cử một phái đoàn gồm 18 quan viên triều đình đi sang Tây-vực tìm cầu Phật pháp đem về Trung-quốc. – Có sách viết tên ông là “Truyền Nghị”; có lẽ vì tự dạng chữ Hán của hai chữ “phó” (傅) và “truyền” (傳) trông giống nhau, nên vị này đã đọc nhầm.
Phóng sinh. Các loài vật như chim cá v.v... bị người ta bắt để ăn thịt, chúng ta xin hoặc mua lại, chim thì đem thả vào rừng, cá thì thả xuống sông, hồ, trả lại mạng sống cho chúng, gọi là “phóng sinh”. Những loài vật dù nhỏ hay lớn đang bị mắc nạn mà mình cứu chúng nó khỏi chết, cũng tức là “phóng sinh”. Như vậy, hạnh tu phóng sinh của người Phật tử đã xuất phát từ lời Phật dạy cấm giết hại chúng sinh để ăn thịt được ghi trong kinh luật, và tiến thêm một bước tích cực hơn là cứu hộ, bảo vệ mạng sống của muôn loài. Hồi còn tại thế, đức Phật đã từng dạy chư tăng luôn luôn phải lọc nước trước khi uống. Khi lọc nước, nếu có các sinh vật nhỏ bé thì hãy bỏ chúng vào một cái “bình phóng sinh” (phóng sinh khí), rồi đem thả ở sông, hồ. Có thể xem đó là khởi thỉ của hạnh tu phóng sinh trong Phật giáo. Trong kinh Phạm Võng có dạy: Tất cả chúng sinh trong sáu đường đều có thể là cha mẹ mình, cho nên người Phật tử phải dùng lòng từ bi mà tu hạnh phóng sinh, nếu thấy người đời giết các loài súc sinh thì nên tìm mọi cách để cứu hộ chúng. Có rất nhiều cách để thực hiện hạnh phóng sinh, như Kinh Kim Quang Minh chép: Trưởng giả Lưu Thủy, đi đường thấy một đàn cá rất đông, ở chỗ nước gần cạn hết, sắp chết. Ông bèn dùng túi đựng nước đổ xuống, nhờ đó mà cá thoát chết. Ông lại nói pháp cho chúng nghe. Sau khi mạng sống đã hết, cả đàn cá ấy đều được sinh lên cõi trời Đao-lợi. (Xem thêm các mục: “Bầy Lươn Báo Mộng”, “Cắt Thịt Cho Chim Ưng Ăn”, “Chim Xây Mộ Cho Người Phóng Sinh”, “Chồn Cứu Mạng Ân Nhân”, “Con Chết, Mẹ Đứt Ruột”, “Cứu Chim Sẻ, Bốn Đời Quí Hiển”, “Cứu Rắn Trở Thành Danh Y”, “Cứu Sống Ba Ba, Được Chữa Lành Bệnh”, “Cứu Sống Bầy Kiến Mà Thọ Mạng Kéo Dài”, “Cứu Sống Bầy Kiến Mà Trở Thành Thủ Khoa”, “Cứu Sống Cá Chép Được Tăng Tuổi Thọ”, “Cứu Sống Ruồi Nhặng, Được Minh Oan”, “Di Ái”, Đại Sư Liên Trì Cứu Rết, “Đức Nhân Của Vua Thành Thang”, “Phóng Sinh Được Phong Hầu”, “Phóng Sinh, Được Sinh Lên Thiên Giới”, “Quan Huyện Cấm Sát Sinh”, “Rùa Cứu Mạng”, “Tào Khê Giữ Lưới Thợ Săn”, “Thả Cá Phóng Sinh, Bệnh Mụt Nhọt Được Chữa Lành”, “Thí Thân Cho Cọp Đói”, “Thúc Ngao Đập Rắn”, “Tùy Hầu Cứu Rắn, Được Đền Ơn Trọng Hậu”, “Vì Cứu Sinh Vật Mà Cầu Mưa”.)
Ở Trung-quốc, từ các vương triều Nam-Tề (479-502), Tiêu-Lương (502-558), thuyết chủ trương “không ăn thịt” rất được thịnh hành; vua Lương Vũ đế (502-549) đã từng xuống chiếu cấm chỉ các hành động sát sinh, hủy bỏ tục giết súc vật cúng tế quỉ thần ở các đền miếu. Đời Tùy, đại sư Trí Khải (538-597) ở núi Thiên-thai, đã từng khuyên bảo dân chúng ở vùng ven biển không nên làm nghề đánh cá; chính ngài thì đào ao phóng sinh, cùng khuyên mọi người lập hạnh phóng sinh. Năm 759, vua Đường Túc-tông (756-762) xuống chiếu cho quốc dân đào 81 ao phóng sinh. Vào triều đại vua Tống Chân-tông (998-1022), năm 1019, đại sư Tuân Thức (964-1032) của tông Thiên Thai, đã tâu vua, xin lấy hồ Tây ở Hàng-châu làm ao phóng sinh, vua chuẩn cho; đại sư sáng tác bài “Phóng Sinh Từ Tế Pháp Môn”, mỗi năm vào ngày Phật Đản đều cử hành lễ hội Phóng Sinh. Tất cả những sự việc trên đều nhằm mục đích bảo vệ mạng sống các loài chúng sinh của tín đồ Phật giáo, tức là thực hiện hạnh tu phóng sinh vậy. Ở Việt-nam, hạnh tu phóng sinh cũng được thực hành phổ biến trong khắp các chùa viện, vào những dịp đại lễ hằng năm (như Phật Đản, Vu Lan v.v...), là một trong những sinh hoạt truyền thống của Phật giáo Việt-nam từ ngàn năm xưa cho đến bây giờ.
Có điều nên lưu ý: Phóng sinh tuy là việc thiện, nhưng chỉ cứu cái sắc thân của chúng sinh, mà không thể cứu cái huệ mạng của chúng sinh; cho nên không thể giúp chúng sinh chấm dứt sinh tử, thoát ra khỏi ba cõi. Nếu trong lúc phóng sinh, lại còn vì chúng mà niệm Phật, tụng kinh; đem công đức ấy hồi hướng và cầu nguyện cho chúng được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, vãng sinh về cõi Phật; như vậy mới là hành động triệt để.
Phóng sinh được phong hầu (truyền thuyết Trung-quốc). Khổng Du vốn là một quan chức nhỏ, cũng đã từng phóng sinh một con rùa. Rùa nổi lên mặt nước, ngoảnh đầu lại nhìn Du mấy lần rồi mới lặn xuống nước. Sau, vì có công mà ông được phong hầu. Khi đúc ấn, cái quai ấn khắc hình con rùa, và tự nhiên, đầu con rùa quay lại ngó ra sau. Người thợ bỏ đi, đúc lại mấy lần, đầu rùa nơi cái khuôn vẫn hướng thẳng phía trước, nhưng đầu rùa trên chiếc ấn cứ quay ngó ra sau. Viên quan trông coi việc đúc ấn kinh dị vô cùng, liền đi báo cho ông biết. Ông bỗng nhớ lại lúc thả con rùa, nó ngoái đầu ngó lại ông mấy lần. Thì ra, việc ông được phong hầu chính là quả báo của hành động phóng sinh.
Phóng sinh được sinh lên Thiên giới (truyền thuyết Trung-quốc). Đời Tống, có viên quan đề hình họ Trương, thường đến các lò sát sinh, mua những súc vật còn sống thả đi, khỏi bị giết. Về sau, lúc lâm chung, ông nói với người nhà: “Ta nhờ phóng sinh mà có nhiều phước đức. Nay thiên chúng đến đón ta lên trời.” Nói xong, an nhiên nhắm mắt.
Phổ Quang (?-?): là một vị cao tăng sống vào đời Đường, quê quán và tuổi tác đều không rõ. Ngài tư chất thông minh, ở chùa Từ-ân, thờ pháp sư Huyền Trang làm thầy, tuy học ít nhưng chứng nhập nhiều, được pháp sư Huyền Trang âm thầm ấn khả. Trong 20 năm (645-664) pháp sư Huyền Trang dịch được 75 bộ kinh luận, đa phần do ngài bút thọ. Năm 654, khi pháp sư Huyền Trang dịch xong bộ Luận Câu Xá, trước tiên trao cho ngài. Nhân đó ngài đã soạn bộ Câu Xá Luận Kí, gồm 30 quyển, trở thành một trong những điển tịch chủ yếu của tông Câu Xá. Ngoài ra ngài còn soạn Câu Xá Luận Pháp Tông Nguyên, Bách Pháp Minh Môn Luận Sớ v.v... Người sau đã công nhận ngài là đệ tử chánh truyền của pháp sư Huyền Trang về môn học Câu Xá.
Phù trần căn (浮塵根). Chữ “phù” (浮) nghĩa là nổi, lộ ra bên ngoài. Trong năm căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), mỗi căn đều gồm có hai phần: phần vi tế nằm sâu kín ở bên trong, mắt thường không thể thấy được (như thần kinh mắt), gọi là “tịnh sắc căn”; và phần thô phù nổi lộ ra bên ngoài, mắt nhìn thấy được (như con mắt, cái mũi, v.v...), gọi là “phù trần căn”. Chữ 浮 cũng được viết bằng chữ 扶 (cũng đọc là phù), có nghĩa là phụ giúp; và trong trường hợp này, “phù trần căn” (扶塵根) có nghĩa là căn phụ giúp. Sở dĩ gọi là “phù trần căn” – hay gọi tắt là “phù căn” – vì phần này không thể phát sinh tác dụng nhận thức, mà chỉ làm điều kiện phụ giúp cho “chánh căn” (căn chính yếu) nhận thức ngoại cảnh. Chánh căn được gọi là “thắng nghĩa căn”, là tên gọi khác của “tịnh sắc căn”, là phần chính yếu của các căn, nằm sâu kín ở bên trong, có khả năng phát sinh tác dụng nhận thức, biết cảm giác đối với ngoại cảnh. Tóm lại, phù căn chỉ có nhiệm vụ làm chỗ y cứ cho chánh căn, không có tác dụng nhận thức. (Xem mục “Tịnh Sắc Căn”.)
Cũng cần lưu ý: Chỉ có năm căn là có bộ phận bên ngoài (tức bộ phận lộ rõ ở bên ngoài, ai cũng có thể thấy được, sờ mó được) mà thôi; còn ý căn là một căn đặc biệt, tuy cũng có hai phần, nhưng cả hai phần đều không lộ ra bên ngoài, không thể trông thấy, sờ mó được. Phù trần căn của nó là phần vi tế ẩn trong não bộ (vẫn còn nằm trong lĩnh vực sinh lí), nhưng thắng nghĩa căn, phần chính yếu của nó, thì hoàn toàn thuộc lĩnh vực tâm lí – nó chính là một thức, tức mạt-na thức, cho nên không có bộ phận bên ngoài như năm căn kia.
Phú Lâu Na (Purna): đó chỉ là tên gọi vắn tắt, tên đầy đủ phải là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purnamaitraya-niputra), là vị giảng sư tài giỏi nhất trong tăng đoàn, được liệt vào hàng “mười vị đệ tử lớn” (thập đại đệ tử) của đức Phật. Tôn giả sinh trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương nghiệp chủ, ở vương quốc Kiều-tát-la (Kausala). Vì sớm chán đời sống thế tục, muốn cầu giải thoát, nên tôn giả đã rủ ba mươi bạn hữu cùng vào núi tu tập, do chuyên cần tinh tấn, chứng được Tứ-thiền. Khi biết tin đức Thích Ca đã thành đạo và đang thuyết pháp tại vườn Nai, tôn giả liền về đó, xin Phật cho xuất gia, và chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán.
Phúc tuệ song tu. Bỏ ác làm lành, ngay cả dứt trừ trọn vẹn mười nghiệp ác và tu tập đầy đủ mười nghiệp lành, thì cũng chỉ đủ tạo phúc đức để được hưởng quả báo sung sướng cùng tột ở các cõi trời mà thôi. Đó vẫn là thứ phước báo hữu lậu, không đủ khả năng giúp cho người tu hành phá vỡ vô minh, thoát li ba cõi, dứt tuyệt sinh tử luân hồi. Muốn giải thoát sinh tử để chứng nhập niết bàn, hành giả, ngoài việc tu tạo phúc đức, còn phải nỗ lực phát huy trí tuệ, bằng cách tu tập thiền định, suy nghiệm chân lí, cho đến khi tuệ giác bừng sáng, vô minh phiền não hoàn toàn tiêu diệt. Con đường tu tập như vậy, trong Phật giáo gọi là “phúc tuệ đồng tu” (phúc tuệ song tu). Đức Thích Ca Mâu Ni, đã từng trải bao đời kiếp tu tạo công đức lành, nhưng phải đợi đến kiếp cuối cùng, do công phu tu tập thiền định một cách triệt để trong bốn mươi chín ngày dưới cội cây bồ đề, mới đạt được quả vị giác ngộ viên mãn, thành bậc Tối Chánh Giác. Bởi vậy, lời chúc “Phúc Tuệ Viên Thành” được coi là lời chúc đầy đủ ý nghĩa nhất mà người tu hành thường dùng để chúc nhau.
Phục nhẫn. Các hành giả mới phát tâm, muốn chịu đựng được trước những cảnh thuận hay nghịch, trước hết phải điều phục tâm ý, gọi là “phục nhẫn”.
Phương đẳng. “Phương” là ngay thẳng, cũng có nghĩa là rộng; “đẳng” là bình đẳng, cũng tức là lí trung đạo; có nghĩa là, đã ngay thẳng, lại sinh tính bình đẳng của Phật. Tất cả kinh giáo đại thừa đều nói lên cái lí trung đạo, cho nên đều được gọi chung là giáo lí “phương đẳng”. Trong thời thuyết giáo thứ ba, đức Phật đã nói bốn loại pháp môn tạng, thông, biệt, viên một cách rộng rãi, đem lại lợi ích đồng đều cho cả mọi căn cơ cao thấp, cho nên gọi đó là thời “Phương Đẳng”.
Phương Đẳng tam muội. Thiên Thai đại sư đã y cứ vào Kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni mà chế lập phép hành trì Phương Đẳng tam muội, cùng với Pháp Hoa tam muội, đều thuộc loại bán hành bán tọa tam muội trong bốn thứ tam muội (xem mục “Pháp Hoa Tam Muội”). Trong Luận Chỉ Quán và sách Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, có ghi rõ về nghi thức tác pháp. Hành trì phép tam muội này, lấy 7 ngày làm một hạn kì, hành giả ở trong đạo tràng, tụng trì Đà-la-ni chú; vừa đi nhiễu vừa tụng. Đi nhiễu được 120 vòng thì ngồi xuống tư duy quán chiếu về lí thật tướng. Hết ngồi quán tưởng thì lại đứng dậy đi nhiễu... Cứ tiếp tục hành trì như thế cho đến 7 ngày là dứt một hạn kì.
Phương tiện: là một thuật ngữ Phật học, chỉ cho những hành động, cử chỉ và ngôn ngữ khéo léo mà người tu tập hạnh Bồ-tát sử dụng trong công việc giáo hóa chúng sinh. Chân lí là pháp chân thật, chỉ có thể chứng nghiệm, thể nhập, chứ không thể suy nghĩ hay nói năng. Bởi vậy, muốn cho chúng sinh thể nhập pháp chân thật, chư Phật và Bồ-tát phải quán sát căn cơ của chúng sinh, tùy mỗi hạng mà bày ra những phương pháp (pháp môn) khác nhau để chỉ bày, hướng dẫn, hóa độ. Tất cả mọi pháp môn đó (thường nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn) đều được gọi là “phương tiện”. Cũng vậy, tuệ giác của chư Phật là trí tuệ bát nhã, chân thật, bình đẳng, không phân biệt; nhưng trong công việc hóa độ chúng sinh, chư Phật và Bồ-tát phải dùng thứ trí tuệ quyền tạm để quán chiếu những hiện tượng sai khác của đời sống chúng sinh, để tùy cơ giáo hóa. Thứ trí tuệ quyền tạm ấy được gọi là “trí phương tiện”. Tóm lại, tất cả mọi pháp môn tu hành để đạt tới tuệ giác siêu việt, đều là “phương tiện”. – Ngay như việc phân chia có hai thứ trí tuệ chân thật và quyền tạm, cũng vẫn là “phương tiện”.
Quả địa: tức quả vị, là địa vị đạt được do công phu tu nhân. Nếu tu Bồ-tát thừa thì quả địa là Diệu-giác, hay Phật quả; nếu tu Duyên-giác thừa thì quả địa là Bích-chi Phật; nếu tu Thanh-văn thừa thì quả địa là A-la-hán v.v...
Quả đức: tức là công đức của quả vị chứng đạt được do sự tu tập; như quả vị niết bàn có bốn đức là thường, lạc, ngã và tịnh. Từ này cũng dùng để chỉ cho công đức vô lượng của quả vị Phật.
Quả pháp. Pháp bảo (trong Tam Bảo) được chia làn bốn pháp: giáo pháp, lí pháp, hành pháp, và quả pháp; gọi là “bốn pháp bảo” (tứ pháp bảo). “Giáo pháp” là những lời dạy của chư Phật ba đời; “lí pháp” là nghĩa lí được giảng giải từ giáo pháp; “hành pháp” là y theo lí pháp mà tu hành các pháp môn giới, định, tuệ, v.v... để gây nhân; “quả pháp” là chứng quả niết bàn tịch tịnh khi đã tu nhân viên mãn. Chư Phật ba đời y theo bốn pháp này mà tu hành, đoạn sạch phiền não, chứng quả vô thượng bồ đề. Chư Phật cũng dùng bốn pháp này để dắt dẫn chúng sinh tu hành, thoát li sinh tử, đến bờ giải thoát. Vậy, những quả vị mà hành giả tu chứng như A-la-hán, Bích-chi Phật, Thập-tín, Thập-trụ, v.v... đều là quả pháp.
Quả quyết định và quả không quyết định. Theo định luật Nhân Quả, hễ tạo Nhân thì phải nhận Quả. Nhưng nhân quả là một qui luật tự nhiên rất sinh động và phức tạp, không đơn giản như chúng ta thường nói “trồng dưa được dưa; trồng đậu được đậu”. Mà ngay như trong cái đơn giản “trồng dưa được dưa” ấy, cũng vẫn là một quá trình nhân quả phức tạp, chứ không đơn giản tí nào. Đâu phải chỉ cần gieo nhân là chắc chắn có kết quả? Mà từ lúc gieo nhân còn phải có bao nhiêu trợ duyên, duyên thuận, duyên nghịch, duyên tăng, duyên giảm, bao nhiêu biến đổi..., cho tới lúc thọ quả; thậm chí, có thể có quả mà cũng có thể không có quả, hoặc lúc gieo nhân thì cái nhân rất tốt, nhưng đến lúc có quả thì cái quả lại rất xấu, v.v... vô cùng phức tạp! Bởi vậy, khi gieo nhân mà chắc chắn có quả, thì cái quả ấy được gọi là “quyết định quả” (quả quyết định); và khi gieo nhân mà kết quả không chắc chắn đến, thì cái kết quả ấy được gọi là “bất quyết định quả” (quả không quyết định). Chữ “quyết định” có nghĩa là nhất định, chắc chắn phải như vậy, không thể thay đổi; “bất quyết định” có nghĩa là không nhất định, không chắc chắn phải như vậy, có thể thay đổi. Những nghiệp nhân (thiện hay ác) chắc chắn sẽ chiêu cảm quả báo (lạc hay khổ) nhất định, gọi là “định nghiệp”; những nghiệp nhân không chắc chắn sẽ chiêu cảm quả báo gọi là “bất định nghiệp”.
Theo Du Già Sư Địa Luận giải thích, định nghiệp tức là trọng nghiệp (nghiệp nặng). Nghiệp nặng (thiện hay ác) thì chắc chắn phải nhận quả báo (lạc hay khổ), gọi là “quyết định quả”; nghiệp nhẹ thì không chắc chắn nhận quả báo, gọi là “bất quyết định quả”. Có ba loại nghiệp được gọi là nghiệp nặng:
1) Các loại phiền não độc dữ (tham, sân, si, v.v...) làm động cơ tạo nghiệp ác; hoặc do thiện tâm mạnh mẽ thúc đẩy tạo nghiệp thiện: đó là nghiệp nặng.
2) Một hành động (thiện hay ác) được làm thường xuyên, không dừng lại, quyết tâm thực hiện cho bằng được: đó là nghiệp nặng.
3) Đối tượng tạo nghiệp thuộc loại “công đức điền” (ruộng công đức) như Tam Bảo và cha mẹ, nếu tôn kính cúng dường là nghiệp thiện, nếu xúc phạm là nghiệp ác; cả hai loại nghiệp đều nặng.
Ba loại nghiệp nặng này đều là “định nghiệp”, và chắc chắn sẽ chiêu cảm kết quả, gọi là “quyết định quả”. Trái lại là nghiệp nhẹ, gọi là “bất định nghiệp”, không chắc chắn sẽ chiêu cảm kết quả, gọi là “bất quyết định quả”. Lại nữa, theo đại sư Trạm Nhiên (711-782), trong tác phẩm Pháp Hoa Văn Cú Kí, thì “định nghiệp cũng có thể chuyển đổi”! Theo thuyết này, định nghiệp tất phải thọ quả báo, định nghiệp mà ác thì tất phải chịu quả báo đau khổ; nhưng nếu chúng sinh cảm nhận được công đức sâu dày của chư Phật và Bồ-tát, chuyên tâm niệm Phật, lòng không do dự hồ nghi, phát nguyện tu hành tinh tấn, thì ác báo trong đời này và cả ở đời sau, nhờ thần lực chư Phật và Bồ-tát mà định nghiệp được chuyển đổi, sẽ không bị quả báo khổ đau, mà còn chứng được đạo quả.
Quan huyện cấm sát sinh (truyền thuyết Trung-quốc). Phan huyện lệnh ra luật cấm nhân dân không được bắt cá ở sông hồ. Ai phạm sẽ bị tội. Về sau, khi ông nghỉ việc, dưới nước vang lên tiếng kêu khóc rất lớn. Người nghe đều lấy làm lạ.
Quan trai giới. Chữ “quan” nghĩa là đóng; ở đây có nghĩa là đóng các cánh cửa giác quan lại, bớt tiếp xúc với các trần cảnh, để ngăn chận phiền não, tội lỗi, gây ra bởi trần cảnh. Chữ “giới” tức là giới luật, có công năng phòng hộ thân khẩu ý, không để chạy theo trần cảnh mà gây các nghiệp xấu. Chữ “trai”, nghĩa rộng là làm cho thân tâm thanh tịnh; nghĩa hẹp là ăn đúng giờ ngọ. “Quan trai giới” tức là một loại giới pháp (gồm có tám giới điều) được lập ra để giúp cho người cư sĩ tại gia có cơ hội sống 24 giờ (một ngày đêm) trong chùa, theo nếp sống li dục, thanh tịnh của người xuất gia.
Chữ “TRAI” ở đây cũng cần được nói thêm. “Trai”, chữ Phạn là “uposadha”, dịch âm chữ Hán là “bố-tát”, nguyên là một phép tế lễ của Ấn-độ thời cổ. Cứ mỗi 15 ngày thì các đạo sĩ nhóm họp một lần, mỗi người tự mình sám hối tội lỗi, để cho thân tâm thanh tịnh. Trong ngày ấy họ hoàn toàn nhịn ăn. Đến thời đại của Phật, các phái ngoại đạo, như Ni Kiền Tử, vẫn giữ phép tế lễ đó. Đức Phật thấy tập tục đó cũng giúp ích cho việc tu hành, nên cho phép tăng đoàn áp dụng; đó là nguyên ủy của lễ “bố tát”. Theo đó thì thấy, chữ “trai”, ý nghĩa nguyên thỉ là làm cho thanh tịnh; nhưng dần dần về sau nó biến nghĩa thành ra là ăn đúng giờ ngọ, hay không ăn quá giờ ngọ. Gìn giữ phép tắc ăn đúng ngọ này thì gọi là “trì trai”. Thức ăn dùng trong thời gian “trì trai”, gọi là “trai thực” (tiếng Việt nói là “ăn chay”). Ngoài ra, vật thực cúng dường chúng tăng trong các pháp hội, cũng được gọi là “trai” (đồ chay); và loại pháp hội như vậy, được gọi là “trai hội” (hội chay). Vào các thời kì Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái, từ “ĂN CHAY” được đặc biệt chỉ cho giờ ăn, tức là bữa ăn vào giữa ngày, hay giờ ngọ; ăn sau giờ ngọ là không đúng pháp, tức không phải ăn chay. Đến thời kì Phật giáo Phát triển (đại thừa), lòng từ bi được đề cao trong tinh thần giữ giới, thì sự ăn chay không chú trọng vào giờ ăn nữa, mà chú trọng vào chất thể của thức ăn; vì vậy, ĂN CHAY có nghĩa là chỉ ăn các loại thực vật (rau đậu), mà không ăn thịt các loài động vật (thịt cá). Truyền thống ăn chay này vẫn được hành trì nghiêm túc ở các nước Phật giáo Phát triển, như Trung-quốc, Việt-nam, Nhật-bản, Đại-hàn, v.v..., và ngày nay thì lan tràn cả các quốc gia Âu, Mĩ, Úc; riêng Phật giáo Tây-tạng (cũng theo truyền thống Phật giáo Phát triển), vì hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, việc ăn chay này vẫn không được đặt thành vấn đề. Nói chung, cho đến hôm nay, những người theo truyền thống Phật giáo Nguyên thỉ (Phật giáo Nam truyền), thì “ăn chay” chỉ có nghĩa là ăn đúng giờ ngọ (không chú trọng đến thức ăn là rau đậu hay thịt cá), sau giờ ngọ không được phép ăn; cho nên, nếu vì lí do gì đó mà giờ ngọ không ăn được, thì phải chịu nhịn đói cho đến giờ ngọ ngày hôm sau. Trong khi đó, những người theo truyền thống Phật giáo Phát triển (Phật giáo Bắc truyền – ngoại trừ Phật giáo Tây-tạng) thì “ăn chay” có nghĩa là chỉ ăn các loại rau đậu (các loài thực vật), không ăn thịt các loài động vật; còn giờ ăn thì có thể du di, nếu do hoàn cảnh bắt buộc mà không ăn đúng giờ ngọ được, thì cũng có thể ăn sau giờ ngọ. Hành trì phép ăn chay như vậy, gọi là “trì trai”; đáng lẽ nên ăn chay mà lại bỏ ngang, gọi là “phá trai”. Đã ăn chay thì tất giữ giới, cho nên trong Phật giáo có thuật ngữ “trai giới”. Mục đích của sự hành trì “trai giới” là làm cho thân tâm được thanh tịnh, để tiến tu đạo nghiệp. Hành trì trai giới là sự phát nguyện lớn lao của người Phật tử. Đã phát nguyện mà không hành trì, thì bị coi là “phá trai phạm giới”, thiện căn sẽ mất hết.
Quán (tì-bát-xá-na - vipasyana): nghĩa là dùng trí tuệ để quán sát các sự lí. Khi tâm đã đình chỉ (chỉ) mọi suy nghĩ để chỉ chuyên chú vào một sự lí, hành giả hãy dùng trí tuệ để quán sát (quán) sự lí ấy.
Quán đảnh. “Quán đảnh” nghĩa là dùng nước rưới trên đầu; đó là một nghi lễ được tổ chức trang trọng để thăng tiến một người (đã được chọn lựa) lên một địa vị nhất định; hay nói chính xác hơn, quán đảnh là lễ “rưới nước”, một nghi thức quan trọng của Mật giáo, trong đó, một vị a-xà-lê sẽ “truyền thọ” cho một Phật tử để người này trở thành một tín đồ chính thức của Mật giáo. Thật ra, lễ quán đảnh đã từng được dùng ở triều đình các vua chúa Ấn-độ thời cổ, tiếng Phạn gọi là “abhisekha”. Nghi thức này là phần quan trọng nhất trong lễ đăng quang của vua và lễ lập thái tử. Khi cử hành nghi thức này, một vị đạo sĩ Bà-la-môn danh tiếng, đạo cao đức trọng – thường là vị quốc sư của triều đình – sẽ dùng nước lấy từ bốn biển, rưới lên đầu vua hay thái tử để chúc phúc; đối với vua thì có ý nghĩa rằng, kể từ lúc ấy, ông đã được công nhận là vị chúa tể của cả thần dân; đối với vị thái tử thì có ý nghĩa rằng, kể từ lúc ấy, ông đã được công nhận là người thừa kế chính thức để sẽ trở thành vị chúa tể của thần dân. Tương tự như thế, trong Mật giáo, người tín đồ khi thọ nhận lễ quán đảnh, cũng được thừa nhận sẽ trở thành một vị chủ tể của một thế giới tâm linh, tức là một đức Phật. Trong lễ quán đảnh này, vị a-xà-lê dùng nước từ năm bình (tượng trưng cho năm trí của Phật) rưới lên đầu của đệ tử, biểu thị ý nghĩa rằng, đó là người thừa kế địa vị Phật-đà.
Do vì có nhiều nghi thức khác nhau với ý nghĩa khác nhau mà lễ quán đảnh trong Mật giáo cũng có nhiều loại khác nhau; nhưng ba loại sau đây được xem là chủ yếu:
1. Kết duyên quán đảnh: tức lễ quán đảnh được tổ chức rộng rãi cho mọi người, nhằm kết mối duyên lành với Mật giáo, trước khi trở thành tín đồ chính thức. Trong lễ này, mỗi người tham dự (bất luận tăng tục hay căn cơ cao thấp) đều được bịt kín mặt bằng một mảnh lụa, cầm một bông hoa ném trên đồ hình mạn-đà-la. Bông hoa ấy rớt xuống trúng vào hình đức Phật hay Bồ-tát nào, tức là mình có duyên lành với đức Phật hay Bồ-tát ấy, và lấy đức Phật hay Bồ-tát ấy làm vị “Bổn Tôn” của mình. Lúc đó, vị a-xà-lê (tức thọ giới sư) xướng danh hiệu đức Phật hay Bồ-tát ấy, dùng nước trong bình rảy lên đầu ba lần, rồi truyền cho một loại “ấn quyết” và một câu thần chú để thọ trì.
2. Đệ tử quán đảnh: tức lễ quán đảnh chỉ được tổ chức cho người Phật tử đã trải qua lễ “kết duyên quán đảnh”, đã có vị “Bổn Tôn” của mình, và đã được truyền cho ấn, chú. Người Phật tử này (bất luận tăng tục), như vậy là đã có tâm thành muốn tu học theo Mật giáo, cho nên sau lễ quán đảnh này, người đó sẽ được vị a-xà-lê chính thức công nhận là đệ tử của Mật giáo, và được truyền dạy cho giáo pháp bí mật của Mật giáo. Chưa được công nhận là đệ tử chính thức mà học tập Mật giáo là phạm trọng tội – giống như tội nghe trộm chư tăng bố tát.
3. A-xà-lê quán đảnh: cũng gọi là truyền pháp quán đảnh, tức lễ quán đảnh được tổ chức để trao chức a-xà-lê cho một hành giả Mật giáo. Đây là lễ quán đảnh cao cấp nhất trong Mật giáo. Vị hành giả Mật giáo, sau một thời gian dài tu tập tinh cần Mật pháp, công đức cao dầy, trong lễ quán đảnh này, sẽ chính thức tiếp nhận địa vị a-xà-lê, tức được công nhận là người có đầy đủ tư cách của một vị đạo sư truyền pháp.
Quán Đảnh (561-632): là vị cao tăng đời Tùy. Ngài họ Ngô, tự là Pháp Vân, người huyện Chương-an (Lâm-hải), tỉnh Triết-giang, cho nên người đời thường gọi ngài là Chương An đại sư. Năm lên 7 tuổi, ngài xuất gia với đại sư Tuệ Chửng ở chùa Nhiếp-tĩnh, 20 tuổi thọ giới cụ túc. Sau khi đại sư Tuệ Chửng viên tịch, ngài vào núi Thiên-thai yết kiến đại sư Trí Khải ở chùa Tu-thiền, tu tập theo pháp môn giáo quán của tông Thiên
Quán niệm tướng chung các lãnh vực (tổng tướng niệm xứ - tổng tướng niệm trú). Hành giả tu tập phép quán “bốn lãnh vực quán niệm” (tứ niệm xứ quán), khi đã thành công ở giai đoạn “quán niệm riêng từng lãnh vực” (biệt tướng niệm xứ – xem mục “Quán Niệm Tướng Riêng Từng Lãnh Vực”), thì chuyển sang giai đoạn kế tiếp, cao hơn, là “quán niệm chung các lãnh vực”. Ở giai đoạn này, hành giả mỗi khi quán niệm về một lãnh vực, thì cùng lúc cũng quán niệm cả ba lãnh vực kia. Khi quán niệm “thân thể là không sạch sẽ”, cùng lúc cũng quán niệm thân thể là đau khổ, là vô thường, là vô ngã; hoặc quán niệm cả thân thể, cảm thọ, tâm ý, và vạn pháp đều là không sạch sẽ. Khi quán niệm “cảm thọ là đau khổ”, cùng lúc cũng quán niệm cảm thọ là không sạch sẽ, là vô thường, là vô ngã; hoặc quán niệm cả cảm thọ, thân thể, tâm ý, và vạn pháp đều là đau khổ. Khi quán niệm “tâm ý là vô thường”, cùng lúc cũng quán niệm tâm ý là không sạch sẽ, là khổ đau, là vô ngã; hoặc quán niệm cả tâm ý, thân thể, cảm thọ, và vạn pháp đều là vô thường. Khi quán niệm “vạn pháp là vô ngã”, cùng lúc cũng quán niệm vạn pháp là không sạch sẽ, là khổ đau, là vô thường; hoặc quán niệm cả vạn pháp, thân thể, cảm thọ và tâm ý đều là vô ngã.
Quán niệm tướng riêng từng lãnh vực (biệt tướng niệm xứ - biệt tướng niệm trú). Khi tu tập phép quán “bốn lãnh vực quán niệm” (tứ niệm xứ quán), hành giả mỗi lần chỉ quán niệm về một lãnh vực (như: thân thể là không sạch sẽ, hay: cảm thọ là đau khổ, v.v...); khi đã quán niệm thành công về lãnh vực ấy thì chuyển sang lãnh vực kế tiếp, như thế gọi là quán niệm tướng riêng từng lãnh vực.
Quán trí: tức là chánh trí quán chiếu thấy rõ chân tướng của vạn pháp.
Quán tưởng: là tập trung tâm niệm vào một đối tượng, nhằm diệt trừ vọng niệm. Ở trong pháp môn tu Tịnh Độ, quán tưởng là một trong bốn cách niệm Phật, gọi là “quán tưởng niệm Phật”; tức là nhất tâm quán tưởng thân tướng tốt đẹp viên mãn của đức Phật A Di Đà. Cho đến khi quán tưởng thuần thục thì chánh định hiện tiền.
Quán tượng: tức là chiêm ngưỡng hình tượng chư Phật và Bồ-tát. Ở trong pháp môn tu Tịnh Độ, quán tượng là một trong bốn cách niệm Phật, gọi là “quán tượng niệm Phật”, tức là, mắt chiêm ngưỡng hình tượng của Phật A Di Đà, miệng xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì tâm không tán loạn, bản tính Di Đà từ đó mà hiển hiện. Cứ như thế, niệm niệm không gián đoạn, tâm ý thuần nhất, không có gì xen lộn.
Quảng bản: tức “quảng luật”, là một thuật ngữ trong Luật học. Trong Luật tạng có những sách chỉ ghi các điều cấm giới mà tăng chúng (tì kheo, tì kheo ni v.v...) phải thọ trì, những sách ấy được gọi là “GIỚI BẢN” (pratimoksa, dịch âm là ba-la-đề-mộc-xoa). Tương truyền, ở Trung-quốc, trong khoảng những năm 249-254 đời Tào-Ngụy (thời Tam-quốc), ngài Đàm Kha Ca La đã dịch cuốn Tăng Kì Giới Tâm; và đó là quyển luật đầu tiên thuộc loại giới bản được dịch ở Trung-quốc. Kế tiếp, vào đời Diêu-Tần (thời Đông-Tấn liệt-quốc), hai ngài Đàm Ma Trì và Trúc Phật Niệm đã dịch chung cuốn Thập Tụng Tì Kheo Giới Bản; nhưng cả hai quyển đó đều đã bị thất truyền. Các cuốn giới bản hiện đang lưu hành gồm có: Thập Tụng Tì Kheo Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản (Cưu Ma La Thập dịch vào thời Diêu-Tần); Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật Tì Kheo Giới Bản, Tứ Phần Tì Kheo Ni Giới Bản (Phật Đà Da Xá dịch vào thời Diêu-Tần); Thập Tụng Tì Kheo Ni Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản (Pháp Dĩnh vựng tập vào thời Lưu-Tống); v.v...
Đối lại với loại “giới bản” là loại “QUẢNG LUẬT”, hay “QUẢNG BẢN”, là những bộ luật mà nội dung minh thị một cách tường tận, đầy đủ về luật nghi, tức các qui củ sinh hoạt của tăng đoàn, về trường hợp và nguyên do Phật chế các giới điều, về các hình thức xử phạt khi có sự vi phạm các điều giới, v.v... Trong tạng Luật Hán dịch, hiện lưu hành 5 bộ quảng bản: Tứ Phần Luật (60 quyển, Phật Đà Da Xá dịch vào thời Diêu-Tần), Thập Tụng Luật (61 quyển, Phất Nhã Đa La dịch vào thời Diêu-Tần), Ma Ha Tăng Kì Luật (40 quyển, Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông-Tấn), Ngũ Phần Luật (30 quyển, Phật Đà Thập dịch vào thời Lưu-Tống), và Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật (50 quyển, Nghĩa Tịnh dịch vào thời Đường); và đương nhiên, trong các quảng bản đều có bao hàm phần giới bản.
Quảng Ngạch. Phẩm “Phạm Hạnh” trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có ghi: Nước Ba-la-nại có người đồ tể tên Quảng Ngạch, mỗi ngày giết cả trăm, cả ngàn con dê. Một hôm ông gặp tôn giả Xá Lợi Phất, được tôn giả giáo hóa, thọ giới bát quan trai một ngày đêm; sau khi chết được sinh lên cõi trời, làm con trai của thiên vương Tì Sa Môn. Sách Tục Truyền Đăng Lục, q. 28, mục “Đông Sơn Giác Thiền Sư” cũng chép: Quảng Ngạch chính là một tên giết người không gớm tay; nhưng khi đã ném con dao đồ tể xuống thì lập tức thành Phật.
Que cứt khô (càn thỉ quyết 乾屎橛). Đời Đường, thiền sư Tuyên Giám (782-865) ở thiền viện Đức-sơn, Lãng-châu, một hôm lên giảng đường nói: “Ta ở nơi đây, Phật cũng không, pháp cũng không, Đạt Ma là lão mọi hôi hám, Bồ-tát Mười-địa là kẻ gánh phân, Đẳng-giác và Diệu-giác là phàm phu phá giới, bồ đề niết bàn là cây cột buộc lừa, mười hai phần giáo là sổ ghi tên người chết, là giấy lau ghẻ, Phật là lão mọi chùi nhà xí.” Mặt khác, có vị tăng hỏi thiền sư Văn Yển (864-946) ở núi Vân-môn, Thiều-châu rằng: “Phật là thế nào?” Sư đáp: “Que cứt khô.” Sư cũng từng nói: “Thích Ca lúc mới sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi quanh bảy bước, mắt ngó bốn phương, nói rằng trên trời dưới trời chỉ riêng ta là tôn quí nhất, lão tăng này lúc đó nếu thấy, một bổng đánh chết đem cho chó ăn, may ra thiên hạ thái bình.” Những lời trên đều nhằm thức tỉnh người đời: phàm hễ có hình tướng thì đều là hư vọng; dù là kinh điển, tượng Phật, hoặc thánh, hoặc hiền, đã rơi vào hình tích thì đều thuộc trong vòng sinh diệt, hoàn toàn không phải là đạo như thật chân thường.
Qui Sơn Linh Hựu (771-853): là vị Sơ-tổ của tông Qui Ngưỡng, một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc. Ngài họ Triệu, pháp danh Linh Hựu, quê ở huyện Hà-phố, tỉnh Phúc-kiến; xuất gia từ lúc15 tuổi. Sau khi thọ đại giới, ngài đi các nơi cầu học với nhiều bậc cao đức, đến năm 23 tuổi thì đến Giang-tây tham yết thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, trở thành vị đệ tử thượng thủ và kế thừa pháp hệ của Bách Trượng. Khoảng năm 50 tuổi, ngài lên ở núi Qui-sơn tại Đàm-châu (tỉnh Hồ-nam), dân chúng trong vùng cảm mộ cao đức của ngài, bèn cùng nhau đóng góp xây chùa, được vua ban sắc đặt tên là chùa Đồng-khánh. Từ đó chùa trở thành một đạo tràng nổi tiếng, tứ chúng vân tập tu học đông đảo, cả các quan trong triều đình cũng thường đến hỏi đạo. Trong thời gian xảy ra pháp nạn Hội-xương (841-846), ngài ẩn lánh trong đám dân thương buôn. Khi Phật giáo được phục hoạt (từ năm 847), đồ chúng lại thỉnh ngài trở về chùa cũ. Ngài cư trú ở núi Qui-sơn cả thảy 40 năm, được người đời xưng là Qui Sơn Linh Hựu. Ngài thị tịch vào năm 853 (dưới triều vua Đường Tuyên-tông), thế thọ 83 tuổi, thụy hiệu là Đại Viên thiền sư.
Quốc độ dơ nhớp (uế độ): chỉ cho thế giới Ta-bà của chúng ta. Kinh A Di Đà nói thế giới Ta-bà này có 5 thứ dơ nhớp (ngũ trược) là: kiếp dơ nhớp (kiếp trược), thấy biết dơ nhớp (kiến trược), phiền não dơ nhớp (phiền não trược), chúng sinh dơ nhớp (chúng sinh trược), và đời sống dơ nhớp (mạng trược). Chữ “dơ nhớp” (uế, trược) ở đây không nằm trong ý nghĩa dơ sạch thường dùng như tay chân dơ nhớp, áo quần dơ dáy, bàn ghế đầy bụi dơ, v.v..., mà có nghĩa là xấu xa (trong cả ba nghiệp thân, khẩu, ý), đầy dẫy dục vọng, tà kiến, sai lầm, ác độc, oán thù, phiền muộn, đau khổ, tội lỗi, v.v...
Quyền - thật. “Quyền” và “thật” là hai thuật ngữ Phật học đối nhau. “Quyền” nghĩa là phương tiện chỉ dùng trong nhất thời, tùy theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà nói năng, hành động, xử sự cho được thích nghi, không cứ phải chấp nê theo một khuôn thức cứng ngắc, nhất định nào cả. “Thật” nghĩa là chân thật, chắc chắn, rốt ráo cùng cực, vĩnh viễn không thay đổi. Từ hai thuật ngữ đối nhau này, trong Phật học đã phát sinh ra nhiều thuật ngữ liên hệ, như: quyền giáo, thật giáo; quyền trí, thật trí; quyền quả, thật quả; v.v...
- Quyền giáo và thật giáo. Tất cả lời dạy của Phật đều là chân thật, do từ kim khẩu của Phật nói ra, nhưng tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh, tùy căn cơ của thính chúng mà trong những lời dạy ấy có khi Ngài nói thẳng, chỉ rõ những điều nội chứng của Ngài; như trong các kinh Pháp Hoa, Đại Bát Niết Bàn, Ngài đã nói thẳng cho mọi người biết, tất cả chúng sinh đều vốn sẵn có Phật tánh, tất cả chúng sinh trước sau đều thành Phật. Đó là lời dạy chắc chắn, chân thật, rốt ráo cùng cực, không thay đổi được, cho nên gọi là “thật giáo”. Nhưng, loại giáo lí này đức Phật chỉ nói trước một thính chúng có căn cơ cao siêu, thuần thục, còn những hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống thì không thể tiếp nhận được; vì vậy, đối với những hạng người này, Ngài phải dùng loại giáo lí phương tiện để tùy nghi hướng dẫn, giúp cho họ thăng tiến dần lên từng cấp một, đó gọi là “quyền giáo”. Điển hình của loại giáo lí này là toàn bộ kinh A Hàm.
- Quyền trí và thật trí. Quyền trí cũng gọi là phương tiện trí, tức là trí tuệ hiểu biết được các pháp thuộc ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát); thật trí, hay như thật, chân thật trí, là trí tuệ siêu việt, hiểu biết các pháp chân thật nhất thừa (Phật thừa).
- Quyền quả và thật quả. Các quả vị của các hàng Thanh-văn (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán), Duyên-giác (Bích-chi Phật), cho đến cả Thập-địa và Đẳng-giác Bồ-tát, đều là quyền quả; chỉ có Phật quả mới là thật quả.
Rồng (long). Người ta cho rằng, RỒNG là loài quỉ (hoặc loài thú) hình rắn, sống dưới nước, có thần lực làm mây làm mưa. Trong kinh điển Phật giáo, rồng được liệt vào một trong tám bộ chúng (trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già), tức các vị thần đã qui hướng về với đức Phật, phát nguyện luôn luôn ở quốc độ của chư Phật để thủ hộ Phật pháp. Đứng đầu các rồng được gọi là “long vương”, hoặc “long thần”. Trong kinh cũng nói rằng, long vương thuộc về loài súc sinh, là quả báo của những người ngu si và sân hận. Long vương được phân làm hai giống: pháp hạnh và phi pháp hạnh. Long vương “pháp hạnh” tánh ít sân hận, thường nhớ tới phước đức của mình mà khởi lòng lành, tùy thuận pháp hạnh, giúp cho thế gian mưa thuận gió hòa, được mùa ngũ cốc. Long vương “phi pháp hạnh” thường làm các việc bất thiện, không kính trọng Tam Bảo, không tùy thuận pháp hạnh, khởi tâm ác làm mưa gió trái mùa, gây hư hại ngũ cốc ở thế gian. Trong thần thoại Ấn-độ, rồng (Phạn ngữ: naga) là rắn được thần cách hóa. Đó là vị thần đuôi rắn mặt người, sống ở dưới lòng đất, hay ở long cung (dưới đáy biển). Lại nữa, từ cổ xưa cho đến bây giờ, Ấn-độ có một chủng tộc gọi là “Naga”, không thuộc giống người Aryans, hiện sống rải rác ở các vùng Đông Bắc Ấn-độ và Tây Bắc Miến-điện, rất sùng bái rồng rắn; lại đều qui hướng về Phật giáo. Ở Trung-quốc vào thời cổ, người ta cũng từng có tín ngưỡng về rồng. Đó là loài động vật có vẩy dài, khoảng tiết xuân phân thì bay lên trời, tiết thu phân thì vào lòng đất. Loài có vẩy thì gọi là “giao long”; loài có cánh thì gọi là “ứng long”; có sừng thì gọi là “cầu long”, không có sừng thì gọi là “li long”; không bay được lên trời thì gọi là “bàn long”. Người Trung-quốc tin rằng, rồng có sức làm mây làm mưa, giúp đỡ người đời, nên liệt nó vào một trong bốn giống vật linh thiêng (tứ linh: long, lân, qui, phụng); lại được ví cho thiên tử, cho nên đã có các từ: long nhan, long thể, long bào, long tòa, long sàng, v.v...
Rốt ráo không (tất cánh không). Tất cả các pháp, rốt cuộc không gì có thể nắm bắt được. Các pháp hữu vi đều do nhân duyên sinh diệt, tự tính của chúng vốn không có, cho nên không thể nắm bắt được. Tự tính của chúng sinh cũng không có, giống như hư không, vì vậy mà không có ai qua lại trong sinh tử luân hồi, cũng không có người giải thoát. Sinh tử vốn tự không sinh, cho nên không có cái gọi là “qua lại”; đã không có qua lại thì cũng không có giải thoát. Sinh tử đã không có sinh thì cũng không có diệt, đó gọi là niết bàn. Vậy hữu vi hay vô vi, sinh tử hay niết bàn, đều rốt ráo là không, tuyệt đối là không, ba đời thanh tịnh, không dính mắc vào bất cứ khái niệm gì, đó gọi là “rốt ráo không”.
Rùa cứu mạng (truyền thuyết Trung-quốc). Mao Bảo thuở còn hàn vi, từng mua một con rùa rồi thả cho đi. Sau làm tướng, bại trận, nhảy xuống nước thoát thân, bèn cảm thấy có vật gì đỡ dưới chân, đưa thẳng sang bờ bên kia. Ông nhìn lại thì hóa ra là con rùa mà mình đã phóng sinh ngày trước.
Ruộng phước (phước điền): nghĩa là ruộng sinh ra phước đức. Người Phật tử kính thờ, cúng dường Phật Pháp Tăng; kính trọng, hiếu thuận và phụng dưỡng cha mẹ; giúp đỡ, săn sóc những người bệnh tật nghèo khổ, đều có được phước đức; cho nên Tam Bảo, cha mẹ, người nghèo khổ bệnh tật, đều là phước điền của Phật tử.
Ruộng thức (thức điền): chỉ cho thức A-lại-da. Thức này có khả năng chứa đựng tất cả chủng tử của vạn pháp cho nên được gọi là “thức điền”. Tất cả mọi hành động (nghiệp) của thân miệng ý đều trở thành chủng tử gieo vào thức A-lại-da, chờ đến khi chín muồi lại phát sinh hiện hành (quả báo); giống như hạt giống lúa được gieo xuống ruộng (điền), chờ ngày mọc thành cây lúa. Vì vậy, thức a-lại-da được gọi là “ruộng thức”.
Rút lưỡi (bạt thiệt). Lưỡi bị co rút, ngắn lại, muốn nói mà không thể nói được, chỉ ú ớ, không thành tiếng; là một trong các quả báo của các tội về khẩu nghiệp.
Rừng Khổ-hạnh (Tapovana): là nơi đức Thích Ca Mâu Ni từng tu khổ hạnh trước khi thành Phật. Khu rừng này nằm trong thôn ngày xưa gọi là Ưu-lâu-tần-loa, của nước Ma-kiệt-đà; nay là phía Đông của thôn Mucilinda, cách xứ Phật-đà-già-da của nước Ấn-độ hơn 500m về hướng Nam.
Sa-di (sramaneraka): dịch ra Hán ngữ là “tức từ”, nghĩa là dứt các điều ác, làm các điều lành; cũng dịch là “cần sách”, nghĩa là siêng năng tu tập theo sự sách lệ của đại chúng. Đó là danh từ dùng chỉ chung cho các vị xuất gia phái nam thọ trì mười giới; phái nữ thì gọi là sa-di-ni (sramanerika).
Sa La Ba (1259-1314): là một vị tăng dịch kinh ở triều đại nhà Minh. Tương truyền, ngài là người ở Hà-tây (Trung-quốc), nhưng cũng có thuyết nói ngài là người Tây-vức. Ngài xuất gia với đế sư Bát Tư Ba (xem mục “Phát Tư Ba”) từ lúc nhỏ, tu tập các pháp quán đảnh; về sau lại theo học giáo pháp đại tiểu thừa với Trước Lật Xích thượng sư (?-?). Ngài thông hiểu Tạng văn và nhiều thứ văn tự khác, được đế sư Bát Tư Ba tiến dẫn lên vua Nguyên Thế-tổ, được vua ủy nhiệm phiên dịch các kinh điển hiển, mật trước nay chưa được truyền vào Trung-quốc. Vua ban hiệu cho ngài là Đại Biện Quảng Trí. Thời bấy giờ, đạo phong của tăng lữ xuống thấp tồi tệ, vua Nguyên Thế-tổ rất lo lắng, bèn cử ngài làm Thích giáo đô tổng thống ở các xứ Giang, Triết (Giang-tô và Triết-giang) để chấn chỉnh các tệ hại của tăng lữ vùng Giang-nam. Từ sau khi ngài đến nơi nhậm chức, các chuyện phiền toái đều trừ khử, các tự viện được an định. Quan sát tình hình các tỉnh Phúc-kiến, Quảng-đông, ngài nhận thấy giáo đồ thường bị khổ sở về nỗi quan sự nhũng nhiễu, bèn tâu lên vua bãi chức tổng thống ở các lộ, rồi tự mình rút lui về ẩn cư ở Lũng-sơn, tỉnh Thiểm-tây. Năm 1314, một hôm ngài tĩnh tọa trước Phật mà viên tịch, thế thọ 56 tuổi. Những dịch phẩm của ngài hiện còn gồm có: Dược Sư Lưu Li Quang Vương Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quĩ, Dược Sư Lưu Li Quang Vương Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quĩ Cúng Dường Pháp, Hoại Tướng Kim Cương Đà La Ni Kinh, Phật Đỉnh Đại Bạch Tản Đà La Ni Kinh, Văn Thù Bồ Tát Tối Thắng Chân Thật Danh Nghĩa Kinh, Chướng Sở Tri Luận (trước tác của ngài Bát Tư Ba).
Sa-môn (sramana). Từ thời Phật tại thế, danh xưng “sa-môn” đã được dùng để chỉ chung cho tất cả những người xuất gia tu hành, trong đạo Phật hay ở các đạo khác. Đặc biệt, sa môn trong đạo Phật phải là những vị cạo bỏ râu tóc, sống độc thân, xa gia đình, không nhà cửa ruộng vườn, không tài sản riêng tư, đi xin ăn, chuyên cần tu tập mọi pháp lành, không làm các điều ác, dứt sạch phiền não, phát huy trí tuệ, chứng nhập giải thoát niết bàn. Bốn quả vị mà một vị sa-môn có thể chứng đạt là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Sa Tì Ca La (Kapila): là tên một ông tiên thời cổ Ấn-độ, được coi là vị tổ của phái Số Luận. Ông chuyên tu khổ hạnh, thờ phụng Phạm Thiên mà được thần chú gọi là “Tiên Phạm Thiên”. Đó là một loại tà thuật làm cho người khác bị mê muội, không còn tỉnh táo, tự chủ được. Đây là một trong các chú thuật ác độc mà đức Thế Tôn từng cấm chư đệ tử thọ trì; vì ai thọ trì các loại chú này, đều sẽ phải đọa vào ba đường dữ. Theo pháp sư Viên Anh, trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, Sa Tì Ca La dịch ra Hán ngữ là “hoàng phát”, hay “kim đầu” (tóc vàng), thuộc phái ngoại đạo tu khổ hạnh. Ông đã truyền thần chú Tiên Phạm Thiên cho bà Ma Đăng Già. Khi con gái của bà (Bát Kiết Đề, hay nàng Ma Đăng Già) vừa trông thấy tôn giả A Nan, tướng hảo trang nghiêm, liền sinh tâm ái nhiễm. Vì năm trăm năm trước trong thời quá khứ, nàng đã cùng với A Nan từng là vợ chồng, cho nên bây giờ, tập khí ái dục chưa mất, nên vừa thấy A Nan, tâm liền mừng vui, muốn được A Nan làm chồng; bèn nhờ mẹ giúp. Ban đầu, bà thấy tôn giả là người xuất gia, đã cắt đứt ái dục, nên bà không chấp thuận; nhưng nàng nài nỉ quá, bà thương con, bất đắc dĩ phải chiều ý nàng. Bà bèn dùng thần chú Tiên Phạm Thiên (do Sa Tì Ca La truyền cho), làm cho tôn giả bị mê hoặc, cứ như ngây dại, không còn tỉnh táo nữa. Đức Phật đã kịp thời bảo Bồ Tát Văn Thù đem thần chú Lăng Nghiêm đến hóa giải chú thuật, cứu tôn giả A Nan thoát khỏi dâm nạn; và nhờ có túc duyên, nàng Ma Đăng Già cũng được theo tôn giả A Nan về gặp Phật, được Phật khai thị, liền chứng quả Bất-hoàn, rồi phát tâm xuất gia.
Sám hối: nguyên có nghĩa là ăn năn tội lỗi và cầu mong tha thứ. Chữ “sám”, nói đủ là “sám-ma”, dịch âm từ chữ Phạn “ksama”, có nghĩa là là thỉnh cầu tha thứ. Chữ “hối” là chữ Hán, có nghĩa là ăn năn, hối hận và tự giải bày tội lỗi của mình đã tạo ra. Hợp hai chữ lại làm thành từ “sám hối”, là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là, tự biết ăn năn tội lỗi mình đã gây ra, và tự bày tỏ (phát lồ) tội lỗi ấy trước Phật, Bồ-tát, Sư trưởng, hay Đại chúng, để cầu xin tha thứ, tự hứa về sau không tái phạm tội. Mục đích của sự sám hối là để cho tội chướng tiêu trừ, thân tâm thanh tịnh. Từ thời Phật tại thế cho đến ngày nay, bất cứ nơi nào và lúc nào có sinh hoạt của Tăng đoàn Phật giáo, thì sám hối vẫn luôn luôn là một pháp tu vô cùng quan trọng của người đệ tử Phật.
San định: một trong chín vị pháp sư thuộc hội đồng phiên dịch ở Trung-quốc thời xưa (xem mục “Dịch Kinh”), giữ việc cắt bỏ những lời rườm rà để ổn định ý nghĩa của câu văn.
Sáu năm khổ hạnh (lục niên khổ hạnh). Theo niên đại của Phật được Phật giáo quốc tế thống nhất công nhận, đức Phật xuất gia năm 29 tuổi và thành đạo năm 35 tuổi, kể ra là 6 năm tu hành. Trong 6 năm này không phải Phật chỉ thuần tu khổ hạnh, mà kể chung, đó là cả thời gian tu học của Phật trước ngày thành đạo. Trong suốt thời gian 6 năm này, ngoại trừ vài tháng đầu ở vùng rừng núi gần thành Tì-xá-li (Vaisali) của vương quốc Lê-xa (Licchavi), tất cả thời gian còn lại, đức Phật đã tu hành tại vùng rừng núi thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha), trong lưu vực phía Nam của sông Hằng ở miền Trung Ấn-độ, gần ranh giới vương quốc Ca-thi (Kasi – có kinh đô là Ba-la-nại - Baranasi, và vườn Lộc-dã - Mrgadava). Rừng Khổ-hạnh (Tapovana) nằm trong thôn Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva), cạnh núi Tượng-đầu (Gajasirsa), chính là thuộc vùng rừng núi này; và cả con sông Ni-liên cũng chính ở nơi đây. Sở dĩ Phật từ thành Ca-tì-la-vệ đã phải tìm đến tận nơi xa xôi này để học đạo, là vì thời bấy giờ, vùng lưu vực sông Hằng này chính là địa bàn hoạt động rất nhộn nhịp của tôn giáo và các phái triết học Ấn-độ. Các đạo tràng lớn của các đạo sĩ tiếng tăm lừng lẫy như A La Lam (Arada-kalama), Uất Đầu Lam Phất (Udraka-ramaputra), v.v... đều tập trung ở vùng này. Cho nên, thuyết nói rằng “Phật tu khổ hạnh ở Tuyết sơn” e không đúng. Tuyết sơn tức Hi-mã-lạp sơn, là rặng núi cao lớn hùng vĩ nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ, ở miền Trung-Á, chạy dài từ Tây sang Đông hơn 2.400 cây số, bắt đầu từ sông Ấn (Indus) ở phía Bắc Pakistan, qua vùng Kashmir của Bắc Ấn-độ, sau đó, một phần nằm vắt sang Tây-tạng, và phần lớn còn lại thì trải dọc theo Nepal, Sikkim và Bhutan. Như vậy, Tuyết sơn nằm ở mãi biên giới phía Bắc của vương quốc Thích-ca, chứ không phải ở vùng Lê-xa, Ma-kiệt-đà và Ca-thi; cho nên, theo chúng tôi, Phật đã không tu khổ hạnh ở Tuyết sơn (được hiểu là Hi-mã-lạp-sơn).
Sắc: theo nghĩa rộng, chỉ cho toàn thể mọi loại vật chất tồn tại trong vũ trụ (có hình trạng, có biến đổi, hoại diệt); theo nghĩa hẹp, chỉ cho đối tượng của nhãn căn (tức tất cả những gì được trông thấy bằng mắt).
1) Theo nghĩa rộng, sắc là một uẩn trong 5 uẩn (tức sắc uẩn), và cũng là 11 pháp trong 100 pháp (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp – theo Duy Thức Học). Sắc ở trong thân thể của chúng sinh thì gọi là “nội sắc” (tức 5 căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân); sắc ở ngoài thân thể của chúng sinh thì gọi là “ngoại sắc” (tức 5 cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc); ở trong thân thể của chúng sinh còn có một loại sắc không biểu lộ ra ngoài, đó là các ảnh tượng (bóng dáng của 5 cảnh) chỉ làm đối tượng cho ý thức mà thôi, Duy Thức Học gọi đó là “pháp cảnh”, và luận Câu Xá gọi là “vô biểu sắc”. Sắc ở cõi Dục được gọi là “thô sắc” (vật chất thô trọng); sắc ở cõi Sắc được gọi là “tế sắc” (vật chất vi tế). Sắc do định lực phát sinh thì gọi là “định quả sắc” (kết quả của thiền định); sắc do nghiệp lực tạo nên thì gọi là “nghiệp quả sắc” (kết quả của tạo nghiệp).
2) Theo nghĩa hẹp, sắc chỉ là một cảnh trong 6 cảnh, là đối tượng thấy biết riêng biệt của nhãn căn (tức sắc cảnh), hoàn toàn khác với các cảnh thanh, hương, vị v.v... là đối tượng của các căn khác. Về hình dạng, sắc có các tướng dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, thẳng, cong, v.v...; về màu sắc, sắc có các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, v.v...; về động tác, có các hình thái như đi, đứng, nằm, ngồi, co vào, duỗi ra, khom xuống, thẳng lên, lấy, bỏ, v.v...
Sắc ái: luyến ái cõi Sắc.
Sắc dục. Chữ “sắc” ở đây được đặc biệt dùng để chỉ cho dung nhan, hình mạo đẹp đẽ, quyến rũ của nam nữ. “Sắc dục” là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là tâm ham muốn tình ái giữa nam nữ. Bởi vậy, từ “sắc dục” cũng đồng nghĩa với các từ “ái dục”, “tình dục”, “dâm dục”.
Ngoài ra, “sắc dục” cũng là một trong năm dục (ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc; hay tài, sắc, danh, thực, thùy).
Sắc pháp: là tất cả các pháp thuộc về vật chất; là từ ngữ được hiểu theo nghĩa rộng của chữ “SẮC” (xem mục “Sắc”). Theo nghĩa này, “sắc” là chỉ chung cho các thứ vật chất, là những vật có hình trạng, có chiếm một khoảng không gian nhất định, làm chướng ngại cho nhau, và có tính chất thay đổi, tàn hoại. Những pháp mặc dù không có hình tướng, nhưng có thể nhận biết bằng năm giác quan (như âm thanh, mùi hương, v.v...), cũng thuộc về sắc pháp. Cả Hữu Bộ và tông Pháp Tướng đều phân tích sắc pháp gồm có 11 pháp, là: năm căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), năm cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), và vô biểu sắc.
Trong năm nhóm (ngũ vị) bao gồm vạn pháp, Hữu Bộ đặt Sắc pháp là nhóm đầu tiên, vì quan niệm rằng, sắc pháp là loại pháp ô nhiễm, có thể làm khởi tâm tham dục, ái nhiễm, là đối tượng trọng yếu để đối trị. Trong khi đó, tông Pháp Tướng thì đặt Sắc pháp làm nhóm thứ ba, sau Tâm pháp và Tâm sở hữu pháp, vì quan niệm rằng, sắc pháp không thể sinh khởi độc lập, mà chỉ biến hiện khi tâm và tâm sở phát khởi.
Sinh-bát. Sau khi sinh lên cõi Sắc, chẳng bao lâu thì đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Sinh-bát”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 9 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn thừa.
Sinh kế bất chính. Người tu hành mưu sinh bằng các phương kế sau đây đều bị coi là bất chính: 1) Bày ra các trò trá ngụy như tịch cốc, đắc đạo, thần thông v.v... để được nhiều người tín ngưỡng. 2) Tự khoe học vấn cao và công đức lớn. 3) Xem tướng tốt xấu. 4) Lớn tiếng ra oai, nói năng khoác lác. 5) Nói mình được nhiều người cúng dường để khích động lòng người. Mục đích của năm sự việc trên đây đều vì thủ lợi để nuôi sống mình, cho nên gọi là năm loại sinh kế bất chính.
Sinh khổ. Chữ “sinh” không phải chỉ có nghĩa là sinh ra đời, mà còn có nghĩa là đời sống. Vì vậy, từ “sinh khổ” cũng còn được hiểu là những đau khổ mà con người phải gánh chịu trong cuộc tranh đấu để sống còn trong suốt cuộc đời. Sự làm lụng vất vả, gian nan, nguy hiểm; những suy nghĩ, lo toan, phiền muộn; những áp bức, tra tấn, hành hạ, lăng nhục, chém giết, tù ngục, v.v...; tất cả những nỗi bi thảm, đau khổ cùng cực đó đều là “sinh khổ”.
Sinh thân - Bồ-tát sinh thân. Nhục thân của Phật thì gọi là “sinh thân”, tức là cái thân do chư Phật tùy hạnh nguyện mà ứng hiện trong các loài để cứu độ chúng sinh; đối lại với “sinh thân” là “pháp thân”. Các vị Bồ-tát khi đã tiến lên cấp Mười-địa, chứng nhập pháp tính, hóa độ tự tại thì gọi là “Bồ-tát sinh thân”.
Song quan: là một phương pháp hành văn, nói hay viết một câu gồm có hai ý trái ngược nhau, như: không sinh không diệt; không đến không đi; không trái không phải; cũng có cũng không; cũng tốt cũng xấu; v.v..., rất thường thấy trong các kinh luận đại thừa. Trong quyển Từ Điển Hán Việt Hiện Đại do Nguyễn Kim Thản chủ biên, từ “song quan” này được giải nghĩa là “chơi chữ”, không đúng lắm. Chơi chữ là nói một chữ mà hàm hai hoặc nhiều ý nghĩa, ai muốn hiểu sao cũng được. Ví dụ câu nói: “Anh ăn kẹo nhiều quá!”. Trong câu nói này có chữ “kẹo”, có nghĩa là viên kẹo, mà cũng có nghĩa là keo kiệt. Cho nên, thay vì nói thẳng là “Anh keo kiệt quá!”, thì lại nói “xéo” đi: “Anh ăn kẹo nhiều quá!”; đó gọi là “chơi chữ”.
Sông Bạt-đề (Ajitavati): là một trong hai con sông nhỏ ở Ấn-độ, nhưng do có thánh tích của Phật mà được nổi tiếng. 1) Sông Ni-liên-thiền (Nairanjana, là một nhánh nhỏ của sông Hằng), nơi đó có núi Già-da, có rừng Khổ-hạnh, có cây Bồ-đề; là nơi đức Thích Tôn tu hành và thành đạo. 2) Sông Bạt-đề (Ajitavati), chảy qua rừng Câu-thi-na, nơi đức Thích Tôn nhập niết bàn.
Sông Hằng (
Sông Ni-liên (Neranjara): tức là sông Ni-liên-thiền, một chi lưu của sông Hằng, là dấu tích nơi đức Phật đã từng tắm rửa trước khi thành đạo. Sông Ni-liên phát nguyên từ vùng Bengal, chảy hướng lên phương Bắc, đến xứ Phật-đà-già-da (Buddha Gaya – thuộc địa phận nước Ma-kiệt-đà) thì nhập chung với sông Mạc-hãn-na (Mohana), rồi tiếp tục chảy đến phía Đông thành phố Patna thì đổ vào sông Hằng.
Sơ lược tiến trình hình thành và phát triển của Mật giáo. Khởi nguyên của Mật giáo Ấn-độ có từ kinh điển Phệ Đà, rồi sau đó dần dần được lưu hành trong dân gian. Trong quá trình phát triển dài lâu, Phật giáo đã đi vào dân gian, tiếp xúc và hòa đồng với những tập tục, tín ngưỡng của dân gian, tất nhiên cũng đã chịu ảnh hưởng của những tín ngưỡng, tập tục đó; có nghĩa là, Phật giáo cũng tiếp nhận những chú thuật bí mật của dân gian, và dùng chúng để bảo hộ và tránh các tai họa cho tín đồ – thường được gọi là “Tạp Mật”. Vì vậy mà các thần chú thủ hộ đã thấy có xuất hiện trong các kinh luật nguyên thỉ của Phật giáo. Dù sao thì đó vẫn chỉ là sự phôi thai của tư tưởng Mật giáo. Đến thế kỉ thứ 7 TL, khi bộ Kinh Đại Nhật (tức Đại Tì Lư Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh) được xuất hiện ở Nam Ấn-độ, Mật giáo mới chính thức được thành lập. Tư tưởng căn bản của kinh này rút từ Kinh Hoa Nghiêm, chủ trương “tức sự nhi chân” – nghĩa là ở ngay nơi sự tướng hiện thực mà quán sát thẳng vào chân tướng vũ trụ; tập đại thành các vị tôn thần được nói tới trong các kinh điển “Tạp Mật”, lấy đức Đại Nhật Như Lai làm trung tâm mà lập thành “Thai-tạng giới mạn-trà-la” (Garbhadhatu-mandala). Vì lấy bộ Kinh Đại Nhật làm căn cứ, phái Mật giáo này được gọi là Chân-ngôn thừa (Mantrayana), hay cũng gọi là Mật giáo Hữu-đạo; và được coi là đại biểu cho phần lí thuyết của Mật giáo.
Sau đó, khoảng cuối thế kỉ thứ 7, lại có bộ Kinh Kim Cương Đỉnh xuất hiện. Nội dung kinh này thuộc hệ thống Du Già Hành phái, lấy tâm thức làm trung tâm, quán tưởng ngay tự thân để thành tựu sự hỗ nhập viên thông giữa hành giả và Bổn Tôn Phật. Vì lấy bộ kinh này làm căn cứ, phái Mật giáo này được gọi là Kim-cương thừa (Vajra-yana); được coi là đại biểu cho phần thực dụng của Mật giáo. Nhưng về sau, vì phái này kết hợp với phái Tính Lực (Saktah) của Ấn-độ giáo, nên đã bị đọa lạc vào vòng tà đạo; và được gọi là Mật giáo Tả-đạo. Cả hai phái Chân-ngôn thừa và Kim-cang thừa đều là Mật giáo thuần túy, nên thường được gọi là “Thuần Mật” (trái lại với “Tạp Mật” nói trên).
Như vậy, trong lịch sử phát triển của tư tưởng Phật giáo đại thừa ở Ấn-độ, Mật giáo là giai đoạn phát triển thứ ba, sau Bát Nhã và Duy Thức. Giai đoạn này bắt đầu hưng thịnh vào thế kỉ thứ 6 TL, và được hệ thống hóa hoàn toàn vào thế kỉ thứ 8. Theo truyền thuyết, Mật giáo là do đức Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana) truyền cho ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva, vị thượng thủ trong chúng hội của đức Đại Nhật Như Lai). Khoảng thế kỉ thứ 3 TL, Bồ Tát Long Thọ đã dùng thần lực mở cửa ngôi tháp sắt ở Nam Thiên-trúc, được chính ngài Kim Cang Tát Đỏa trao cho hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Sau đó, ngài Long Thọ lại truyền cho đệ tử là Long Trí. 700 năm sau, ngài Long Trí truyền cho ngài Thiện Vô Úy (Subha-karasimba, 637-735); bởi vậy, Mật giáo đã tôn xưng đức Đại Nhật Như Lai là giáo chủ, và Bồ Tát Long Thọ là vị tổ khai sơn.
Ở đây có một chi tiết liên quan đến hai ngài Long Thọ và Long Trí, xin được nói rõ: Theo Phật giáo Tây-tạng, ngài Long Thọ được coi là vị tổ sư của Mật giáo, đã ra đời vào thế kỉ thứ 7 TL; và chính là hậu thân của Bồ Tát Long Thọ ở thế kỉ thứ 2 TL. Vậy là có hai ngài Long Thọ: Long Thọ thế kỉ thứ 7 là vị tái sinh của Long Thọ thế kỉ thứ 2; tuy là hai ngài nhưng vẫn là một. Ngài Long Thọ tái sinh này (600-650) thuộc dòng Bà-la-môn, xuất gia thọ giới tại học viện Na-lan-đà, sau đó đến thành Vương-xá tu 12 năm, chứng đắc thánh quả Đại-thủ-ấn. Tranh tượng vẽ về ngài thường có hình rắn phủ quanh đầu. Đệ tử truyền thừa của ngài Long Thọ là Long Trí, vốn thuộc dòng Bà-la-môn, nhưng thuở trước thường hay đi ăn trộm. Chuyện kể rằng, một hôm, khi ngài Long Thọ đang ở trong tinh xá thì Long Trí mò đến rình xem, thấy ngài Long Thọ đang ăn cơm với một cái bát bằng vàng, liền nẩy ý ăn cắp cái bát ấy. Ngài Long Thọ quán sát, biết được tâm ý của Long Trí, bèn ném cái bát vàng ấy cho Long Trí. Long Trí lấy làm kinh ngạc và cảm phục, bèn xin theo tu học. Ngài Long Thọ làm phép quán đỉnh cho Long Trí nhập môn. Sau 12 năm tinh cần tu học, ngài chứng ngộ thánh quả. – Xét ra thì thuyết này rất hợp lí; theo đó chúng ta có thể quả quyết rằng, ngài Long Thọ ở thế kỉ thứ 2 là một vị đại luận sư đã đóng góp công sức lớn lao trong việc kết tập, xiển dương, phát triển và làm phong phú kinh luận Phật giáo đại thừa; đặc biệt là đã phát hiện bộ Kinh Hoa Nghiêm vĩ đại. Trong khi đó, ngài Long Thọ ở thế kỉ thứ 7 là người đã phát hiện bộ Kinh Đại Nhật và lấy đó làm giáo điển căn bản để chính thức thành lập Mật giáo, và được tôn là vị tổ sư của Mật giáo. Và ngài Long Trí cũng là một nhân vật ra đời ở thế kỉ thứ 7, làm đệ tử của ngài Long Thọ (thế kỉ thứ 7), chứ không phải là nhân vật từng sống lâu đến hơn 700 tuổi như truyền thuyết đã nói.
Mật giáo (Thuần Mật) từ khi được hình thành, liền phát triển mạnh mẽ trên toàn khắp xứ Ấn, nhất là vùng Đông-Ấn. Các vị vua thuộc vương triều Ba-la (Pala, 750-1150) đều bảo hộ Phật giáo, và đặc biệt sùng phụng Mật giáo. Một ngôi chùa lớn, chùa Siêu-giới (Vikramasila), đã được xây cất vào thế kỉ thứ 8 để làm đạo tràng trung tâm cho Mật giáo. Cũng trong thế kỉ thứ 8 này, Mật giáo đã được ba ngài Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí (Vajrabodhi, 671-741) và Bất Không Kim Cang (Amoghavajra, 705-774) đem truyền sang Trung-quốc, sau đó thì chính thức thành lập Mật tông tại Trung-quốc; còn hai ngài Tịch Hộ (Santaraksita) và Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) thì đem truyền sang Tây-tạng, trở thành tư tưởng chủ yếu của Lạt-ma giáo Tây-tạng. Đầu thế kỉ thứ 9, Hoằng Pháp đại sư (Kobo Daishi, người Nhật) từ Nhật-bản sang Trung-hoa tham học Phật pháp. Khi trở về nước đã truyền bá tư tưởng Mật giáo, và thành lập Chân Ngôn tông ở Nhật-bản.
Thật ra, ở Trung-quốc, trước khi Mật tông được chính thức thành lập từ Thuần Mật (thế kỉ thứ 8, đời Đường), thì những kinh điển thuộc Tạp Mật đã được truyền dịch từ thời đại Tam-quốc. Dịch giả được nhắc đến đầu tiên trong loại kinh điển này là Chi Khiêm ở nước Ngô (dưới thời vua Ngô Tôn Quyền, thế kỉ thứ 3 TL), với các kinh trứ danh như Bát Cát Tường Thần Chú, Vô Lượng Môn Vi Mật Trì, Hoa Tích Đà La Ni Thần Chú, Trì Cú Thần Chú, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Chú, Thất Phật Thần Chú v.v... Các vị đại sư như Cát Hữu (đời Đông-Tấn, đầu thế kỉ thứ 4) với các dịch phẩm Đại Quán Đỉnh Kinh, Khổng Tước Vương Kinh; Trúc Đàm Vô Lan (đời Đông-Tấn, cuối thế kỉ thứ 4) với các dịch phẩm Đà Lân Bát Chú Kinh, Ma Ni La Đản Thần Chú Kinh; Nghĩa Tịnh (đời Đường, đầu thế kỉ thứ 8) với các dịch phẩm Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni Kinh, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú Vương Kinh, Xưng Tán Như Lai Công Đức Thần Chú Kinh v.v...; đều là những dịch giả đã truyền bá kinh điển thuộc loại Tạp Mật, trước khi Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí đến Trung-quốc truyền bá các kinh điển Thuần Mật.
Ở Việt-nam, kinh điển Mật giáo được chính thức xuất hiện vào cuối thế kỉ thứ 6 TL. (Lúc này, Mật giáo chưa được chính thức thành lập ở Ấn-độ, chưa được truyền sang Tây-tạng, và Mật tông cũng chưa được thành lập ở Trung-quốc.) Theo sách Thiền Uyển Tập Anh (tác phẩm đầu tiên viết về lịch sử Phật giáo Việt-nam), vào năm 580, thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci, ?-594, người Nam Ấn-độ, sang Trung-quốc năm 574, đắc pháp với tổ Tăng Xán) đã từ Trung-quốc sang Việt-nam, đến làng Cổ-châu, huyện Thượng-phúc, trú tại chùa Pháp-vân, dịch Kinh Tổng Trì, giáo hóa đồ chúng, lập nên Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi; đến năm 594 thì ngài viên tịch. Kinh Tổng Trì, nói cho đủ là Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì, là loại kinh thuộc về Mật giáo. “Tổng trì” là dịch ý từ tiếng Phạn “đà-la-ni” (dharani). Với việc dịch Kinh Tổng Trì và việc thành lập Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi ở Việt-nam, cho thấy, khi còn ở Ấn-độ, tổ Tì Ni Đa Lưu Chi đã kế thừa tư tưởng Mật giáo; và khi sang Đông-độ vẫn mang theo bên mình ít nhất là một cuốn kinh Mật giáo bằng Phạn ngữ, để sẽ truyền bá Mật giáo khi có cơ duyên thuận tiện. Và cơ duyên đó chính là đạo tràng Pháp-vân ở Việt-nam.
Trước khi dịch kinh Tổng Trì tại Việt-nam, ngài cũng đã dịch kinh Tượng Đầu Tinh Xá tại chùa Chế-chỉ ở Quảng-châu, Trung-quốc. Kinh này chứa đựng tư tưởng Thiền học và mang sắc thái của hệ văn học Bát Nhã. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy rằng, Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi đã bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, chuyên tu tập Thiền pháp, nhưng cũng hành trì Mật giáo một cách có hiệu quả. Từ đó, nhiều vị thiền sư trong Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, không những đạt ngộ trong phương diện Thiền học, mà còn giỏi cả về công phu hành trì Mật giáo, nổi tiếng nhất như các thiền sư Pháp Thuận (?-991), Vạn Hạnh (?-1018), Sùng Phạm (?-1087), Từ Đạo Hạnh (?-1112), Trì Bát (?-1117), Minh Không (?-1141) v.v... Năm 1963, tại Bắc-Việt, người ta có đào được ở làng Trường-yên (thuộc cố đô Hoa-lư của Việt-nam, thời nhà Đinh) một trụ đá tám mặt, do Đinh Liễn dựng lập vào năm 973; mỗi mặt đều có khắc những câu kệ và chú đà-la-ni bằng chữ Hán. Sau đó, người ta lại phát hiện thêm một “kinh tàng” được tạo lập năm 995 đời vua Lê Đại Hành, trong đó có những câu kệ chứa đựng thần chú. Mặc dù vậy, Mật giáo chưa bao giờ trở thành một tông phái chính thức ở Việt-nam.
Sơ tổ và nhị tổ Thiền tông. Do sự tích đức Phật “truyền tâm ấn” cho tôn giả Đại Ca Diếp trong pháp hội Linh-sơn, Thiền tông bèn tôn ngài Đại Ca Diếp là vị tổ sư đầu tiên (sơ tổ) của Thiền tông. Trước khi viên tịch, ngài Đại Ca Diếp đã truyền pháp tạng cho ngài A Nan thừa kế; do đó, ngài A Nan đã được tôn là vị tổ thứ nhì (nhị tổ) của Thiền tông; lần lượt đến ngài Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28. Tất cả 28 vị tổ Thiền tông đều ở Ấn-độ, nên Thiền tông gọi là “Tây-thiên nhị thập bát tổ”. Khi ngài Bồ Đề Đạt Ma (vị tổ thứ 28 ở Ấn-độ) sang Trung-quốc (năm 520) thì trở thành vị tổ đầu tiên của Thiền tông Trung-quốc – được gọi là “Đông-độ sơ tổ”.
Sớ. Chữ “sớ” ở đây tức là “nghĩa sớ”, là tên gọi chung cho các công trình và sách vở liên quan đến việc chú giải Kinh Luật Luận. Bởi vì Ba Tạng thánh điển nghĩa lí sâu xa, nếu không giải thích thì người học rất khó hiểu rõ, cho nên cần phải chú thích, giải nghĩa để giúp cho người học dễ dàng thông suốt; như các tác phẩm Pháp Hoa Nghĩa Sớ, Tứ Phần Luật Sớ, A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận Sớ v.v... Đôi khi lời “sớ” của người trước chưa được rõ ràng lắm, người sau lại giải thích thêm cho tinh tường hơn, thì sự chú giải cho những lời sớ như vậy, được gọi là “sao”; như các tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Tứ Phần Tì Kheo Ni Sao, Câu Xá Luận Tụng Sớ Sao, v.v...
Sở biến: là thuật ngữ Duy Thức Học, chỉ cho vạn pháp. Theo tông Duy Thức, vạn pháp là do thức biến hiện, cho nên vạn pháp được gọi là “sở biến”. Vạn pháp là do thức biến hiện, nhưng đồng thời chúng cũng là đối tượng nhận thức của thức (tức tâm và tâm sở), cho nên cũng được gọi là “sở duyên”. Vậy, “sở duyên” và “sở biến” đều là thuật ngữ Duy Thức Học dùng chỉ cho VẠN PHÁP, nhưng tùy trường hợp thích hợp mà gọi tên này hay tên kia.
Sở duyên - Sở thủ. Đây là chỉ cho cảnh. Khi thức duyên cảnh, thì cảnh được gọi là đối tượng “sở duyên” của thức. Thức duyên cảnh tức là thức nhận biết và bám lấy, nắm lấy, hay giữ lấy đối tượng, gọi là “thủ”; và trong trường hợp này, cảnh được gọi là đối tượng “sở thủ” của thức.
Sở Thạch (1296-1370): tức thiền sư Phạm Kì, họ Châu, tự Sở Thạch, quê huyện Ninh-ba, tỉnh Triết-giang, Trung-quốc. Tương truyền, thân mẫu của ngài, họ Trương, nằm mộng thấy mặt trời rớt xuống bụng mình, liền thụ thai và sinh ra ngài. Lại tương truyền, một hôm nọ lúc còn bé, thân mẫu mang ngài trong cái địu, có vị thần tăng đi ngang, rờ đầu ngài nói rằng: Đứa bé này sẽ là mặt trời của Phật pháp đây. Nhân đó mà còn có tiểu tự là Đàm Diệu. Từ tuổi ấu thơ, ngài đã biết danh hiệu đức Phật A Di Đà, mỗi buổi sáng sớm đều niệm mười biến, không bao giờ xao lãng. Lên 9 tuổi, ngài xuất gia; 16 tuổi thọ đại giới và tu học ở chùa Chiêu-khánh, Hàng-châu. Một hôm, nhân đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm mà có chút ít tỉnh ngộ. Sau đó, ngài đến Kính-sơn tham yết thiền sư Nguyên Tẩu Hạnh Đoan (1254-1341), nhưng nhân duyên chưa hợp. Gặp lúc vua Nguyên Anh-tông (1321-1323) xuống chiếu tuyển người vào kinh chép Đại Tạng Kinh, ngài ứng tuyển. Một buổi chiều nọ, nhân nghe tiếng trống nổi lên ở tháp canh trên thành phía Tây, ngài bỗng nhiên đạt ngộ; liền trở về Kính-sơn, trình bài kệ kiến giải lên thiền sư Nguyên Tẩu, được ấn chứng, và trở thành đệ tử kế thừa của thiền sư – lúc đó ngài được 29 tuổi (1325). Sau đó, ngài lần lượt trú trì tại các chùa Phúc-trăn (Hải-diêm), Vĩnh-tộ (Thiên-ninh), Báo-quốc (Hàng-châu), Bản-giác (Gia-hưng). Năm 1347, vua Nguyên Thuận đế ban hiệu cho ngài là Phật Nhật Phổ Chiếu Tuệ Biện thiền sư. Năm 1357 ngài đổi về trú trì chùa Báo-ân. Hai năm sau, ngài về lại chùa Vĩnh-tộ, cất một ngôi nhà nhỏ ở mé Tây chùa, ẩn cư chuyên tu Tịnh Độ; tự hiệu là Tây Trai lão nhân. Năm đầu niên hiệu Hồng-võ (1368) đời vua Minh Thái-tổ (1368-1398), ngài vâng chiếu, ba lần thuyết pháp cho vua nghe. Năm 1370, nhân vua hỏi về việc quỉ thần, ngài đến chùa Thiên-giới, tham khảo kinh luận, viết thành sách, dự tính vào triều trình lên vua, thình lình cảm bịnh nhẹ, rồi viên tịch, thế thọ 75 tuổi. Trước tác của ngài có: Sở Thạch Phạm Kì Ngữ Lục, Tây Trai Tịnh Độ Thi, Thượng Sinh Kệ, Bắc Du Phụng Sơn Tây Trai, Thiên Thai Tam Thánh, v.v...
Sơn chủ: tức người chủ của một ngọn núi; đó là tiếng tôn xưng vị trụ trì của một ngôi chùa. Phần nhiều các tự viện xưa được xây cất trong chốn núi non, và lấy tên núi mà đặt tên, cho nên vị trụ trì được xưng là “sơn chủ”.
Súc-sinh: là tiếng dịch ý từ Phạn ngữ “tiryanc”. Súc-sinh (hay Bàng-sinh) là một trong sáu nẻo luân hồi, chỉ cho tất cả các loài động vật như thú rừng, gia súc, chim muông, rắn rít, cá tôm, côn trùng v.v... Từ “súc sinh” nguyên được dùng để chỉ cho các loài vật được người ta nuôi trong nhà, chủ yếu là gia súc (trâu, bò, ngựa, chó, dê v.v...) và gia cầm (chim, gà, ngỗng, v.v...). Vì vậy, các nhà tân dịch đã dùng từ “bàng sinh” để dịch Phạn ngữ “tiryanc”, chỉ tổng quát cho tất cả các loài động vật. “Bàng sinh” nghĩa là các sinh vật đi mình ngang (khác với loài người là đi mình thẳng đứng). Tuy nhiên, vì thói quen lâu đời, từ “súc sinh” vẫn được dùng nhiều, và thịnh hành cho tới ngày nay. Một cách tổng quát, súc sinh có thể chia làm ba loại: loại bay trên không; loại đi, bò trên hay dưới mặt đất; và loại bơi lội trong nước. Hoặc bốn loại: loại sinh ra từ bào thai (thai sinh); loại sinh ra từ trứng (noãn sinh); loại sinh ra từ nơi ẩm thấp (thấp sinh); loại sinh ra từ sự biến hóa từ hình thức này sang hình thức khác (hóa sinh). Hoặc chia chi tiết hơn: loại nhiều chân; loại bốn chân; loại hai chân; loại không có chân; loại có lông; loại có sừng; loại có vảy; loại da trơn; loại có mai; loại có vỏ; loại bò sát; v.v... Có loại sinh hoạt ban ngày; có loại sinh hoạt ban đêm; có loại sinh hoạt cả ban ngày lẫn ban đêm. Đặc tính của các loài súc sinh là không có trí sáng suốt và hay giết hại, ăn thịt lẫn nhau; các loài yếu kém luôn luôn bị các loài mạnh bạo, hung dữ ăn thịt. Các loài gia súc thì thường bị con người đánh đập, hành hạ và ăn thịt. Các loài thú rừng, tôm cá v.v... còn bị con người giết hại để ăn thịt, hoặc lấy lông, da, sừng v.v... để làm các thứ vật dụng. Đó là những nỗi thống khổ cùng cực của thế giới Súc-sinh.
Sử: nghĩa là sai khiến, là một tên khác của phiền não. Phiền não là những động lực thúc đẩy chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, phải trôi lăn mãi trong luân hồi sinh tử, cho nên được gọi là “sử”. Phiền não có rất nhiều thứ, nhưng có mười thứ được coi là gốc rễ, gọi là “mười sử” (thập sử, hay thập căn bản phiền não), gồm có: 1. Tham: thấy gì vừa ý thì ham muốn, cố chiếm đoạt. 2. Sân: gặp điều không vừa ý thì oán giận, căm ghét. 3. Si: lòng dạ tối tăm, không sáng suốt, không nhận chân được sự thật. 4. Mạn: kiêu mạn, tự cao, khinh người. 5. Nghi: nghi ngờ, dụ dự. 6. Thân kiến: cái thấy sai lầm về “ngã”, cho rằng thân này là thật có, thân này là ta, những cái kia thuộc về ta. 7. Biên kiến: cái thấy cực đoan, hoặc cho rằng con người sau khi chết là mất hẳn, hoặc cho rằng con người sau khi chết sẽ về sống đời đời ở một nơi nào đó, như thiên đường hay hỏa ngục. 8. Tà kiến: cái thấy xuyên tạc, không đúng sự thật, không thấy được lí duyên sinh, luật nhân quả, cùng các tính chất vô thường, vô ngã v.v... của vạn vật, mà cho rằng có một vị thượng đế sáng tạo ra vạn vật, mọi họa phước đều do thượng đế ban phát, mọi sự việc đều do thượng đế an bài, v.v... 9. Kiến thủ kiến: khư khư ôm giữ những kiến thức sai lạc mà cứ cho là đúng, đã không cải thiện mà còn cố rao giảng rộng rãi, đôi khi còn tìm cách dụ hoặc hay ép buộc người khác phải nghe theo mình. 10. Giới cấm thủ kiến: cố chấp vào các giới cấm sai lầm, vô lí, hoặc giữ giới một cách mù quáng, không sáng suốt, không uyển chuyển, gây đau khổ cho mình và cho người. Năm loại phiền não bên trên (từ số 1 đến số 5), vì tính chất của chúng quá nặng nề, tinh vi, chồng chất từ nhiều đời trước, thân mạng vừa hình thành là đã có chúng kèm theo, rất khó đoạn trừ, cho nên thuật ngữ Phật học gọi chúng là “năm độn sử” (ngũ độn sử). Năm loại phiền não bên dưới (từ số 6 đến số 10), vì tính chất của chúng nhẹ nhàng hơn, mới mắc phải trong đời hiện tại do nghe theo tà sư, tà giáo, dễ đoạn trừ hơn, cho nên thuật ngữ Phật học gọi chúng là “năm lợi sử” (ngũ lợi sử).
Sự chướng. “Sự chướng” nghĩa là chướng ngại về mặt “sự”, chỉ cho những thứ chướng ngại làm cho chúng sinh phải lăn lộn mãi trong sinh tử luân hồi. Đó là những phiền não tham, sân, si, v.v... làm cho chúng sinh mải tham đắm, chạy theo mặt hiện tượng của vạn pháp mà gây ra biết bao lỗi lầm, nghiệp báo nối tiếp kiếp này sang kiếp nọ, không thể nào giải thoát để sống an lạc trong cảnh niết bàn tịch tịnh. Sự chướng tức là “phiền não chướng”, cũng tức là “tư hoặc” (hay tu hoặc), chỉ cho tham, sân, si, và mạn, 4 trong 6 loại phiền não căn bản.
Sự và lí. “Sự” hay “sự tướng”, là tất cả pháp hữu vi do nhân duyên sinh, tức là mọi hiện tượng muôn vàn sai khác trong khắp vũ trụ. “Lí” hay “lí thể”, “lí tánh”, là bản thể của mọi hiện tượng được gọi là “sự” ở trên. Lí có hai đức tính vô cùng quan trọng: tùy duyên và bất biến; có nghĩa, tùy theo nhân duyên mà biến hóa ra vạn pháp sai khác, nhưng thể tánh thì thường trú bất biến. Lí vượt khỏi cái tri thức tương đối của phàm phu, cho nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn đạt, không thể nhận biết bằng ý thức phân biệt sai lầm. Người phàm phu chỉ biết mê đắm vào hiện tượng, cho nên chỉ thấy có sự, và vướng mắc vào sự, do đó mà gây tội lỗi; còn bậc thánh có trí tuệ, thấy rõ suốt chân lí của vạn pháp, không mê đắm hiện tượng, không vướng mắc sự tướng, cho nên không gây tội lỗi. Trong Phật giáo, Sự và Lí luôn luôn là hai mặt đối đãi nhau, quan hệ mật thiết với nhau. Hiện tượng (sự) là sự biểu hiện của bản thể (lí). Bản thể (lí) là thường trú bất biến, là tịch tịnh, là như như bất động, nhưng vạn pháp (sự) được phát hiện từ đó; hay nói cách khác, bản thể (lí) chính là căn cứ phát sinh của mọi hiện tượng (sự). Bởi vậy, sự và lí không bao giờ tách rời (bất li) nhau; không có sự thì không có lí, và ngược lại. Cũng có thể nói, như luận Đại Thừa Khởi Tín: sự tức là lí, lí tức là sự (tương tức); hay như tông Hoa Nghiêm: sự và lí hàm chứa nhau một cách không ngăn ngại (tương dung). Từ cái nhìn này, những người mới bắt đầu con đường tu học Phật pháp, thường được các bậc đạo sư hướng dẫn, trước hết là tu tập bằng sự tướng, tức là thực hành các hình thức lễ sám, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền v.v...; rồi dần dần học tập nghĩa lí các kinh luật, từ dễ đến khó, mở dần trí tuệ, cho đến khi tự mình thấy rõ chân lí. Đó gọi là “mượn cảnh tu tâm”, mà cũng tức là “nhân sự hiển lí”. Đến khi trí tuệ đã sáng tỏ, thì tâm ý không còn vướng mắc vào sự tướng nữa, mà sự tướng trở nên được thể hiện một cách tự nhiên từ lí tánh, tâm phân biệt giữa sự và lí không còn nữa; đó gọi là “phúc tuệ song tu”. Nếu chỉ mê vào sự tụng kinh, niệm Phật mà không chịu học tập kinh luận để mở mang trí tuệ, đó gọi là “ham sự bỏ lí” (tức chỉ ham tu phúc mà không tu tuệ). Nếu chỉ mê học tập nghiên cứu kinh luận mà không chịu lễ sám, tụng kinh, niệm Phật, đó gọi là “ham lí bỏ sự” (tức chỉ ham tu tuệ mà không tu phúc). Cả hai trường hợp này đều làm cho hành giả không đạt được kết quả viên mãn trong sự tu học Phật pháp.
Sức chung: nghĩa là chuẩn bị tốt đẹp cho giờ phút lâm chung, tức là niệm Phật hộ niệm để trợ giúp cho người hấp hối có chánh niệm rõ ràng, chờ Phật tiếp dẫn vãng sinh. Đoàn niệm Phật sức chung ở Đài-loan, ở Việt-nam gọi là ban hộ niệm.
Ta-bà: là dịch âm từ chữ Phạn “saha”, dịch ra Hán ngữ là nhẫn, kham nhẫn, hay nhẫn độ; chỉ cho thế giới Ta-bà (Saha-lokadhatu), nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời hóa độ chúng sinh, mà giáo pháp của Ngài hiện còn đang truyền bá rộng rãi. Chúng sinh ở thế giới này đa phần làm mười điều ác, cam chịu bao nhiêu đau khổ do vô minh phiền não hành hạ, mà không có ý muốn thoát li; đó là ý nghĩa của chữ “nhẫn”, tức là chịu đựng. Mặt khác, đức Phật và chư vị Bồ-tát ở thế giới này, trong công cuộc hành đạo để cứu độ chúng sinh, cũng phải chịu đựng nhiều khổ não để tỏ rõ đức vô úy và tâm từ bi; có thế mới đem lại lợi lạc cho chúng sinh một cách hữu hiệu; đó cũng là ý nghĩa của từ “kham nhẫn”. Ngoài ra, thế giới Ta-bà cũng được hiểu là nơi có ba đường dữ, có năm loài Trời, Người, Bàng-sinh, Ngạ-quỉ, và Địa-ngục cùng ở chung lộn với nhau. Từ “Ta-bà” nguyên được dùng chỉ cho châu Diêm-phù-đề, nơi cư trú của con người chúng ta, nhưng về sau nó được dùng để chỉ rộng ra cả một “ba ngàn đại thiên thế giới”, tức là toàn thể phạm vi giáo hóa của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Tà định (hay tà thiền): là loại thiền định sai lạc, không đúng chánh pháp. Thiền định để xuất hồn đi đây đi đó; thiền định để được gặp vị Bồ-tát này, vị thánh kia; v.v... chỉ toàn là ma mị, là tà định.
Tà mạng. Thầy tì kheo không khất thực, cũng không hoằng pháp, chỉ làm những việc không đúng chánh pháp để nuôi mạng sống, gọi là “tà mạng”. Bốn loại sinh kế sau đây bị cho là “tà mạng”: 1) Gieo ruộng trồng vườn, hòa chế thuốc thang, gọi là “hạ khẩu thực”. 2) Ngước lên xem tinh tú, suy đoán đầy vơi, gọi là “ngưỡng khẩu thực”. 3) Dua nịnh kẻ giàu sang, đi du thuyết bốn phương, gọi là “phương khẩu thực”. (Chữ “phương” ở đây là chỉ cho 4 phương chính: Đông,
Tác pháp: là một thuật ngữ Phật học được dùng trong nếp sống tu hành hằng ngày của người xuất gia. Đó là những pháp tắc phải tuân thủ trong các hành vi đi, đứng, ngồi, nằm, học tập, ăn uống, thăm bệnh, v.v...; những cách thức qui định trong các nghi thức thọ giới, xả giới, bố tát, sám hối, kì nguyện, v.v... Riêng trong truyền thống Mật giáo, từ “tác pháp” được dùng để nói về “tác pháp quán đảnh”, tức nghi thức “điểm đạo” trong truyền thống này, bao gồm các cách thức như dẫn nhập (dẫn đệ tử vào đàn tràng), đầu hoa (ném hoa trên đồ hình mạn-đà-la), trao mão và gương soi, v.v...
Tác ý: là tên của một loại tâm sở (trong 51 tâm sở). Khi tâm đối cảnh thì nảy sinh sự chú ý, đó là tác dụng của tâm sở “tác ý”.
Tam Phong (1573-1635). Ngài họ Tô, hiệu là Hán Nguyệt, còn gọi là Pháp Tạng, hay Hán Nguyệt Pháp Tạng, quê ở huyện Vô-tích, tỉnh Giang-tô, là khai tổ của thiền phái Tam Phong, một chi phái của tông Lâm Tế thời nhà Minh. Ngài xuất gia năm 15 tuổi, rất ham thích học Thiền, nhân đọc Cao Phong Ngữ Lục có điểm nghi ngờ, bèn để tâm tham cứu. Trải hơn 10 năm, một hôm bỗng nghe tiếng cây tre gẫy mà hốt nhiên đại ngộ. Năm 52 tuổi ngài đến chùa Kim-túc tham yết thiền sư Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642), được ấn khả phú pháp. Sau đó ngài khai pháp tòa ở thiền viện Tam-phong (núi Ngu-sơn, Tô-châu), được người đời xưng là Tam Phong Tạng Công. Ngài cũng cư trú tại nhiều chùa khác để hoằng pháp. Đương thời, tông Tào Động bài xích tông chỉ của “năm nhà”, chỉ đề xướng thuyết “tự tánh tự ngộ” do truyền thuyết “niêm hoa vi tiếu” của đức Phật Thích Ca mà thôi. Nhân đó ngài liền soạn sách Ngũ Tông Nguyên để phản bác, trong đó nhấn mạnh, từ Phật Oai Âm Vương cho đến nay, không một lời, một pháp nào mà không phù hợp với tông chỉ của “năm nhà”. Sự việc này đã làm khơi dậy cuộc tranh luận sôi nổi một thời trong giới học Phật ở Trung-quốc. Ngài thị tịch năm 1635, thế thọ 62 tuổi.
Tam Tần: tức ba triều đại ở miền Giang-bắc (phía Bắc sông Trường-giang) đều lấy tên là Tần; và để phân biệt, các sử gia đã gọi đó là Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần.
Năm 316 tộc Hung-nô đã tiêu diệt nhà Tây-Tấn (265-316), chiếm cứ miền Giang-bắc (toàn vùng đất phía Bắc sông Trường-giang), thành lập một quốc gia cho tộc Hung-nô, lấy tên nước là Triệu, đóng đô ở thành Trường-an; sử gọi đó là Tiền-Triệu (304-329). Lúc đó, một người trong hoàng tộc nhà Tấn là Tư-mã Duệ, đã kéo những người còn lại trong vương thất nhà Tấn, xuống phương Nam, chiếm miền Giang-nam (cũng gọi là Giang-tả, tức toàn vùng đất phía Nam sông Trường-giang), tự xưng đế, dựng nên triều đại Đông-Tấn (317-420) để tiếp nối triều đại Tây-Tấn (xem mục “Đông-Tấn”), định đô ở thành Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, nay là Nam-kinh). Như vậy, kể từ năm 317 cho tới năm 436, nước Trung-quốc bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Trường-giang làm ranh giới: Miền Giang-nam là lãnh thổ của vương triều Đông-Tấn, còn miền Giang-bắc là lãnh thổ của năm bộ tộc người thiểu số (Hung-nô, Tiên-ti, Yết, Chi, và Khương); mà sử gọi là Ngũ-Hồ. Năm bộ tộc này đều thành lập nhiều nước nhỏ khác nhau, mỗi ngày mỗi nhiều; mà con số chính thức của các sử gia thường ghi là có 16 nước (sử Trung-quốc gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”), gồm có: hai nước Triệu (nhị Triệu: Tiền-Triệu và Hậu-Triệu); ba nước Tần (tam Tần: Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần); bốn nước Yên (tứ Yên: Tiền-Yên, Hậu-Yên, Nam-Yên và Bắc-Yên); năm nước Lương (ngũ Lương: Tiền-Lương, Hậu-Lương, Tây-Lương, Nam-Lương và Bắc-Lương); Hạ; và Nhiễm-Ngụy. Thật ra không phải chỉ có 16 nước, vì ngoài 16 nước trên, sử sách còn ghi thêm 4 nước khác là Thành, Hán, Đại, và Tây-Yên; vả lại, trong số các nước này thì 3 nước Tiền-Lương, Tây-Lương và Bắc-Yên là do người Hán dựng lập, chứ không phải do các dân tộc thiểu số. Có lẽ vì vậy, bộ từ điển Từ Nguyên (trong phần phụ lục kê niên biểu các triều đại của lịch sử Trung-quốc), đã gọi chung các nước này là “Đông-Tấn liệt quốc” (các nước nhỏ dưới vương triều Đông-Tấn), chứ không gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”. Các nước này đã chia cắt lãnh thổ miền Giang-bắc để cai trị trong suốt 120 năm. Vậy, ba nước Tần (Tam-Tần) là 3 trong số nhiều nước nhỏ ở miền Giang-bắc dưới vương triều Đông-Tấn.
Tạng 1 (pitaka): nghĩa là cái kho chứa; trong Phật học có ý nói là cái kho chứa giữ tất cả giáo pháp cần phải biết – tức thâu gồm tất cả thánh điển của Phật giáo. Tất cả thánh điển này được chia làm ba loại, mỗi loại là một cái kho; có ba cái kho, cho nên gọi là “Ba Tạng” (Tam Tạng): đó là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận.
Ba tạng Kinh Luật Luận được hình thành sơ khởi trong kì kết tập kinh điển lần thứ nhất, 3 tháng sau ngày Phật nhập diệt. Bởi vậy, ở buổi đầu, nói đến “Ba Tạng” là nói đến thánh điển của Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái, cũng tức là “ba tạng giáo” của tiểu thừa. Về sau, khi Phật giáo đại thừa phát triển, thì Ba Tạng được phân làm hai loại: Ba Tạng hạ thừa (hay tiểu thừa) được gọi là Thanh Văn Tạng; và Ba Tạng thượng thừa (hay đại thừa) được gọi là Bồ Tát Tạng; gộp chung gọi là “hai Tạng” (nhị Tạng). Hợp tất cả ba tạng tiểu thừa và ba tạng đại thừa, gọi chung là “sáu Tạng” (lục Tạng). Ngoài ba tạng căn bản Kinh Luật Luận, theo Phật Quang Đại Từ Điển, Đại Chúng Bộ còn thêm Tạp Tập Tạng, làm thành “bốn Tạng”; Độc Tử Bộ thì thêm Cấm Chú Tạng, cũng làm thành “bốn Tạng”; Pháp Tạng Bộ thêm Cấm Chú Tạng và Bồ Tát Tạng để lập nên “năm Tạng”; Nhất Thuyết Bộ lại thêm Tạp Tập Tạng và Cấm Chú Tạng, luận Thành Thật thì thêm Tạp Tập Tạng và Bồ Tát Tạng, kinh Lục Ba La Mật thêm Bát Nhã Ba La Mật Tạng và Đà La Ni Tạng, đều lập nên “năm Tạng”.
Tạng 2 (garbha): nghĩa là cái ổ (như ổ chim); trong Phật học được chuyên dùng với ý nghĩa là “thai tạng”, từ đó mà làm thành cái ý nghĩa của “Như Lai Tạng” (tathagata-garbha). Chữ “tạng” ở đây có nghĩa là hàm chứa, ẩn giấu. Như em bé được chứa đựng, nuôi dưỡng và giấu kín trong thai mẹ, gọi là “thai tạng”; trong thân tâm dầy đặc phiền não của chúng sinh, vốn ẩn tàng pháp thân Như Lai thanh tịnh, thường hằng bất biến, gọi là “Như Lai Tạng”.
Tạng 3 (kosa). Tiếng Phạn “kosa”, dịch âm ra Hán ngữ là “câu-xá”, dịch nghĩa là “tạng”, có nghĩa là dựa vào, bao hàm. Bồ Tát Thế Thân (Vasubandhu, thế kỉ thứ 5 TL) trước tác bộ Câu Xá Luận, gọi tên đầy đủ là A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakosa-sastra), dịch ra Hán ngữ là Đối Pháp Tạng Luận. Bộ luận này do dựa vào luận thuyết của các bộ luận (tiểu thừa) ra đời trước nó mà làm thành, cho nên nó hàm chứa giáo nghĩa của các bộ luận khác, nghĩa lí hoàn chỉnh, thù thắng; vì vậy nó cũng được gọi là “Tạng” (tức Đối Pháp Tạng).
Tạng 4 (alaya). Chữ “tạng” ở đây có nghĩa là chỗ ở, nhà; trong Phật học nó được dùng để gọi thức a-lại-gia – tức “Tạng thức”, hay “Tàng thức”, là nơi tiềm phục của tất cả mọi chủng tử.
Tạng Luật tiểu thừa. Trong kì kết tập kinh điển lần đầu tiên sau ngày Phật nhập diệt, tôn giả Ưu Ba Li đã lãnh trọng trách kết tập phần Giới Luật, và hình thành bộ Bát Thập Tụng Luật. Bộ Luật nguyên thỉ này được truyền tới Tổ thứ năm là tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (từ Sơ Tổ là tôn giả Ma Ha Ca Diếp). Năm vị đệ tử của tôn giả Ưu Ba Cúc Đa bèn đem bộ Luật này, tùy theo chỗ sở đắc của mình, mỗi vị lập thành một bộ Luật khác nhau, gọi chung là “năm bộ Luật” (ngũ bộ Luật – đều thuộc về tiểu thừa), truyền cho hậu thế; gồm có:
1) Bộ Đàm Vô Đức, cũng gọi là Pháp Tạng Bộ, về quảng luật (tức là nội dung tường tận, đầy đủ của giới luật, như trường hợp phạm lỗi, nguyên nhân chế giới, v.v...) thì có bộ Tứ Phần Luật; về giới bản (sách ghi các điều luật phải hành trì) có Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật Tì Kheo Giới Bản, Tứ Phần Tì Kheo Ni Giới Bản.
2) Bộ Tát Bà Đa, cũng gọi là Hữu Bộ, về quảng luật có Thập Tụng Luật; về giới bản có Thập Tụng Tì Kheo Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản, Thập Tụng Tì Kheo Ni Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Giới Kinh, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bật Sô Ni Giới Kinh.
3) Bộ Di Sa Tắc, cũng gọi là Hóa Địa Bộ, về quảng luật có Ngũ Phần Luật; về giới bản có Di Sa Tắc Ngũ Phần Giới Bản, Ngũ Phần Tì Kheo Ni Giới Bản.
4) Bộ Ca Diếp Di, cũng gọi là Ẩm Quang Bộ, về quảng luật có Giải Thoát Luật; về giới bản có Giải Thoát Giới Kinh.
5) Bộ Ma Ha Tăng Kì, cũng gọi là Đại Chúng Bộ, về quảng luật có Ma Ha Tăng Kì Luật; về giới bản có Ma Ha Tăng Kì Luật Đại Tì Kheo Giới Bản, Ma Ha Tăng Kì Tì Kheo Ni Giới Bản.
Tánh, tướng, thể, dụng: là bốn khía cạnh của sự vật. THỂ là bản thể hay thật thể của sự vật; TÁNH là tánh chất của sự vật; TƯỚNG là hình sắc của sự vật; DỤNG là công dụng của sự vật.
Tánh giới: là giới bản chất, giới bản tánh, giới nặng, đối ngược lại với “già giới”. Có những hành động mà tự nó đã sai quấy từ bản chất. Bốn hành động giết hại, trộm cắp, tà dâm và gian dối, đối với bất cứ ai, dù ở địa phương, hoàn cảnh nào, vẫn là những hành động tội lỗi. Dù đức Phật có chế luật hay không chế luật, chúng vẫn là những hành động tội lỗi. Bất cứ ở xã hội nào, những hành động đó đều bị lên án. Dù có bị trừng phạt ở thế gian hay không, chúng vẫn là nguyên nhân chính để đem tới những quả báo đau khổ (ở đời này và cả ở đời sau). Trong luật gọi bốn giới sát, đạo, dâm, vọng là bốn giới “ba-la-di”, tức giới nặng, hay “tánh giới”; tất cả những giới khác đều thuộc “già giới”. Vi phạm “tánh giới” thì bị “tánh tội”, tức là những hành vi mang tính tội ác từ bản chất, là nguyên nhân chính đưa chúng sinh đọa lạc vào ba đường dữ.
Tánh tông. Các tông phái phá bỏ cái tướng của vạn pháp để nêu rõ chân tính không tịch của vạn pháp, gọi là Pháp Tánh tông, nói tắt là Tánh tông. Đốn giáo và Viên giáo trong Năm Giáo của tông Hoa Nghiêm, cũng như Biệt giáo và Viên giáo trong Bốn Giáo của tông Thiên Thai, và tông Tam Luận trong 13 tông phái ở Trung-quốc, đều thuộc về Tánh tông.
Tánh và tu. Cái năng lực chúng sinh vốn có sẵn từ vô thỉ kiếp thì gọi là “TÁNH”, thuật ngữ Phật học gọi là “tánh đức”, hay “tánh đắc”; nói rõ ra, những tính chất như thiện, ác, mê, ngộ, v.v... đều đã vốn có đầy đủ trong bản tính của chúng sinh từ vô thỉ đến nay, đó là “tánh đức”. Trong khi đó, cái năng lực có được do công phu tu hành ở đời này thì gọi là “TU”, thuật ngữ Phật học gọi là “tu đức”, hay “tu đắc”. Đức TÁNH bao hàm ý nghĩa “lí tính bất biến” (lí tính không bao giờ biến đổi); đức TU bao hàm ý nghĩa “ứng dụng tùy duyên” (tùy trường hợp mà ứng dụng khác nhau). Từ ý nghĩa căn bản này mà các ý niệm đối đãi sau đây được lập nên: tánh và tập (hai tánh); tánh tịnh và phương tiện tịnh (hai thứ niết bàn); bản giác và thỉ giác; chân tu và duyên tu; bản hữu và tân huân; v.v... Về Phật tánh cũng vậy: có loại Phật tánh nhờ công phu tu hành ở đời này mà phát huy ra được, gọi là “tu đức Phật tánh”; còn loại Phật tánh chúng sinh vốn có sẵn từ vô thỉ kiếp, gọi là “tánh đức Phật tánh”. Tông Thiên Thai chủ trương rằng, đức TÁNH vốn có đầy đủ xưa nay nơi chúng sinh, chỉ vì vọng tình, mê chấp, mà không thấy được; nay nhờ TU tập mà trừ khử vọng tình, rồi trí sáng làm cho đức TÁNH ấy hiện rõ ra. Vậy TÁNH và TU không phải là hai (bất nhị), mà chỉ là một thể (nhất thể); giống như nước và sóng, hình tướng tuy khác nhau, nhưng sự thật chỉ là một thể.
Tào Khê giữ lưới thợ săn. Tào-khê là tên đất, nằm cách phủ Thiệu-châu (tỉnh Quảng-đông) ba mươi dặm, về hướng Đông Nam, là đạo tràng của đại sư Tuệ Năng, tổ thứ sáu của Thiền tông, đời Đường; người đời sau thường dùng hai chữ “Tào Khê” để chỉ cho Lục Tổ Tuệ Năng. Lục Tổ đã đắc pháp từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602-675), nhưng thời cơ hoằng pháp chưa tới, nên tạm ẩn mình trong một toán thợ săn. Tổ được toán thợ săn giao cho việc trông chừng lưới, bèn thừa lúc họ đi vắng, thả hết những chim thú bị mắc lưới. Trải qua 16 năm như vậy, khi cơ duyên đã tới, Tổ mở đạo tràng ở Tào-khê, hoằng dương tông chỉ Thiền tông.
Tạp Tập Tạng và Cấm Chú Tạng. Ngoài ba tạng Kinh, Luật, Luận, Đại Chúng Bộ còn lập thêm Tạp Tập tạng và Cấm Chú tạng, làm thành năm tạng. Tạp Tập Tạng cũng gọi là Tạp Tạng, gồm thâu các kinh điển hoặc do Phật, hoặc do các vị A-la-hán hay Bồ-tát nói về túc duyên bản hạnh của mình. Cấm Chú Tạng cũng gọi là Minh Chú Tạng, hay Chú Tạng, hoặc Đà La Ni Tạng, thâu thập tất cả các kinh điển có các thần chú, các chân ngôn bí mật do Phật nói. Trong Phật Quang Đại Từ Điển (mục “Tứ Tạng”) lại nói, ngoài ba tạng Kinh, Luật, Luận, Đại Chúng Bộ lập thêm Tạp Tạng, làm thành bốn tạng; và Độc Tử Bộ thì lập thêm Minh Chú Tạng, cũng làm thành bốn tạng.
Tăng 1 (về sự phát triển của Tăng đoàn). “Tăng” là đoàn thể của những người cùng sống chung trong sự hòa hợp và nguyện tu tập theo giáo pháp của Phật để chứng đạt đạo quả cao tột cuối cùng là giải thoát, niết bàn, tức quả Phật. Tăng không phải chỉ có một đoàn thể, mà có nhiều đoàn thể – có thể gọi là “chúng”. Tổng quát thì có hai chúng: xuất gia và tại gia. Từ khi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc-dã cho đến khi thu nạp hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tại thành Vương-xá hơn một năm sau đó, số đệ tử xuất gia của Phật kể có trên 1.300 vị, tất cả đều đã xuất gia làm “sa-môn” từ trước, và bây giờ đều trở thành “tì-kheo” – mà tuyệt nhiên chưa hề có “giới tì kheo” (hay “giới cụ túc”). Chữ “tăng” lúc đó là chỉ cho tăng đoàn của Phật; và cả hơn 1.300 vị tì kheo đó đều đã chứng thánh quả A-la-hán, nên “tăng” cũng là tiếng để chỉ cho một trong Ba Viên Ngọc Quí (Tam Bảo): Phật, Pháp, Tăng. Sau đó, khi hoàng tôn La Hầu La theo Phật xuất gia thì trong tăng đoàn của Phật có thêm chúng Sa-di. Từ đó, tăng đoàn của Phật có hai chúng xuất gia: Tì-kheo và Sa-di. Đến khi thái hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng nhiều công nương thành Ca-tì-la-vệ được Phật cho phép xuất gia thì tăng đoàn của Phật xuất hiện thêm một chúng nữa, là chúng Tì-kheo-ni. Chấp nhận hành trì “bát kính pháp” là điều kiện tiên quyết để Phật cho phép phái nữ xuất gia. Ngay trong “bát kính pháp” này, từ “thức-xoa-ma-na” (hai năm tập sự trước khi được chính thức thọ giới tì kheo ni) đã được đề cập; cho nên chúng Thức-xoa-ma-na cũng đã có từ lúc chúng Tì-kheo-ni được thành lập. Chúng tôi chưa tra cứu được để biết vị sa-di-ni đầu tiên là ai và có vào lúc nào, nhưng rõ ràng là tăng đoàn thời Phật đã gồm có năm chúng xuất gia: Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni. Giới luật tì kheo chắc chắn là đã được đức Phật chế ra về sau, khi tăng đoàn đã trở nên quá đông đảo và có xen lẫn những phần tử mất phẩm hạnh. – Theo Luật Tì Kheo Giới Bổn Sớ Nghĩa (Tì Kheo Thích Đỗng Minh dịch, in năm 1996), mãi đến năm thứ 13 sau ngày thành đạo, đức Phật mới chính thức chế giới luật; trước đó Ngài và chư tăng chỉ lược nói đến giới luật mà thôi. Điều đó cho thấy, trước khi giới luật được chính thức chế định, không nhất thiết phải thọ giới cụ túc mới được gọi là “tăng”. Sau nữa, khoảng một trăm năm trước sau kỉ nguyên Tây lịch, ý niệm và danh từ “bồ-tát” được xuất hiện; trước tiên là phát xuất từ các đoàn Phật tử cư sĩ, và sau đó được các vị xuất gia ủng hộ. Từ đó mà các kinh điển đại thừa dần dần được kết tập và hình thành. Dĩ nhiên, sự kiện này đã làm cho tăng đoàn Phật giáo có thêm hai chúng mới: chúng Bồ-tát xuất gia và chúng Bồ-tát tại gia. Ngày nay, theo định nghĩa của danh từ “tăng” như trên, chúng ta thấy, TĂNG không phải chỉ có bấy nhiêu chúng như vừa nêu, mà còn có cả chúng Cư-sĩ tại gia nam và nữ, dù mới chỉ thọ trì năm giới. Vậy, nếu kể đầy đủ, TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO gồm có chín chúng sau đây: Bồ-tát xuất-gia, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, Thức-xoa-ma-na (ni), Sa-di-ni, Bồ-tát tại-gia, Cận-sự-nam và Cận-sự-nữ. Theo ý nghĩa này, tất cả các chúng đều bao gồm trong TĂNG BẢO. Và “qui y Tăng Bảo” có nghĩa là: nếu chưa là Phật tử thì xin quay về nương tựa chư tăng để trở thành Phật tử; nếu đã là Phật tử thì vừa quay về nương tựa nơi tăng chúng, vừa quay về nương tựa nơi chính mình.
Tăng 2 (các thuật ngữ liên hệ). “Tăng” là tiếng nói tắt của từ “tăng-già”; ý nghĩa chủ yếu của nó là số đông (chúng) và hòa hợp; vì vậy mới có các danh từ “hòa hợp chúng”, “hòa hợp tăng”, hoặc “hải chúng” (tăng chúng hòa hợp như nước biển chỉ có một vị mặn). Đầu mối của “Tăng” bắt nguồn từ năm vị tì-kheo nhóm Kiều Trần Như, được đức Phật hóa độ trong lần chuyển pháp luân đầu tiên tại vườn Lộc-dã sau ngày Ngài thành đạo. Vậy, TĂNG là một trong Ba Viên Ngọc Quí (Phật, Pháp, Tăng), chỉ cho những người tin nhận và phụng hành giáo pháp của đức Phật, cạo tóc, xuất gia, tu tập đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, nhằm đạt được một đời sống giải thoát, chứng nhập các quả vị thánh trong Phật pháp. “Tăng” cũng chỉ rộng cho tất cả các đoàn thể (chúng) tin nhận Phật pháp, tu hành theo con đường giác ngộ của Phật. Như vậy, theo ý nghĩa nguyên thỉ, danh xưng “tăng” dùng để chỉ chung cho tì-kheo và tì-kheo-ni; nhưng về sau, trong truyền thống Phật giáo Bắc-truyền ở các nước như Trung-quốc, Việt-nam, Nhật-bản v.v..., tì kheo thì gọi là “TĂNG” (nếu kể luôn sa-di thì tì-kheo gọi là “ĐẠI TĂNG”, sa-di gọi là “TIỂU TĂNG”); còn tì-kheo-ni thì gọi là “NI” (nếu kể luôn thức-xoa-ma-na và sa-di-ni thì tì-kheo-ni gọi là “ĐẠI NI”, thức-xoa-ma-na và sa-di-ni thì gọi là “TIỂU NI”); – hợp tăng và ni lại, gọi chung là “TĂNG NI”. Ngoài ra, trong Phật điển cũng có nhiều danh từ liên quan đến “tăng”: Danh từ “nhị chúng” (hay “nhị bộ chúng”) dùng để chỉ cho hai chúng tì-kheo và tì-kheo-ni. Danh từ “tứ chúng” dùng để chỉ cho bốn chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, sa-di, và sa- di-ni – trường hợp này, chúng thức-xoa-ma-na không được kể như một chúng chính thức, nhưng được gộp chung vào chúng sa-di-ni. Danh từ “thất chúng” dùng để chỉ cho bảy chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di. Danh từ “cửu chúng” dùng để chỉ cho bảy chúng trên, cộng thêm hai chúng: cận-trụ-nam (nam cư sĩ tu bát quan trai giới 24 giờ đồng hồ) và cận-trụ-nữ (nữ cư sĩ tu bát quan trai giới 24 giờ đồng hồ) –nhưng có lẽ hợp lí hơn, theo chúng tôi, hai chúng cận-trụ-nam và cận-trụ-nữ cũng chỉ là cư sĩ nam và cư sĩ nữ; vì vậy, nếu cần thành lập chín chúng, nên thay hai chúng cận-trụ-nam và cận-trụ-nữ bằng hai chúng bồ-tát xuất gia và bồ-tát tại gia.– Danh từ “tứ phương tăng” dùng để chỉ cho tất cả các vị tì-kheo và tì-kheo-ni ở khắp bốn phương.
Tăng Duệ (?-?): một vị cao tăng Trung-quốc đời Đông-Tấn (317-420), quê ở huyện An-dương, tỉnh Hà-nam, năm sinh và năm mất đều không rõ. Từ thuở nhỏ ngài đã có chí xuất trần, 18 tuổi xuất gia, đến 20 tuổi đã học thông kinh luận. Ngài từng nghe đại sư Tăng Lãng giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, thường hỏi những chỗ nghi ngờ, rất được đại sư chú ý. Năm 24 tuổi ngài bắt đầu chu du các nơi để giảng thuyết, thính chúng đông đảo. Ngài vẫn ước ao tu tập thiền pháp, nhưng lúc đó chưa có ai truyền, cho nên năm 401, khi pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trường-an (bấy giờ là kinh đô nước Hậu-Tần), ngài liền theo pháp sư học thiền. Pháp sư dịch bộ Thiền Pháp Yếu Giải, ngài y theo đó mà tu tập, ngày đêm chuyên cần, rất được vua Diêu Hưng của nhà Hậu-Tần kính ngưỡng. Ngài từng cùng với quí vị cao tăng khác như Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Triệu tham dự đạo tràng dịch kinh của pháp sư La Thập; 4 vị này đã được người đương thời coi là 4 đệ tử lớn của pháp sư La Thập, và được xưng là 4 vị thánh tăng của đất Quan-trung (Quan-trung tứ thánh). Sau khi pháp sư La Thập dịch bộ Luận Thành Thật, chính ngài đã được ủy nhiệm giảng thuyết về bộ luận ấy, rất hợp với ý chỉ của pháp sư. Bình sinh ngài vẫn cầu nguyện được vãng sinh về Tịnh-độ. Trong mọi trường hợp đi đứng ngồi nằm, ngài không dám xoay lưng thẳng về phương Tây. Khi biết đã tới giờ phút lâm chung, ngài bèn cáo biệt cùng đồ chúng, rồi đi tắm rửa, vào phòng đốt hương lễ bái, ngồi nhìn về hướng Tây, chắp tay mà viên tịch; thế thọ 67 tuổi.
Tăng-già-lam: hay “già-lam” là tiếng gọi tắt của “tăng-già-lam-ma” (samgharama), dịch ra Hán ngữ là “chúng viên” hay “tòng lâm”, là tiếng thường dùng để chỉ cho chốn viên lâm, tự viện, tức nơi cư trú hành đạo của tăng chúng.
Tăng Khải (Samghavarman, âm dịch là Tăng Già Bạt Ma, ?-?): cũng gọi là Khương Tăng Khải, là vị cao tăng dịch kinh ở Trung-quốc vào thời Tam-quốc. Tương truyền ngài là người Ấn-độ, nhưng cứ theo chữ “KHƯƠNG” ở đầu tên ngài, thì nhiều học giả tin rằng ngài là người nước Khương-cư, hay ít ra, nguồn gốc của ngài cũng có quan hệ khắng khít với nước ấy. Năm 252 ngài đến Lạc-dương (kinh đô nước Tào-Ngụy), ở chùa Bạch-mã, dịch ra Hán văn các kinh Úc Già Trưởng Giả và Vô Lượng Thọ. Riêng về bộ Kinh Vô Lượng Thọ (gồm 2 quyển), vì ngữ văn không đồng nhất với Kinh Úc Già Trưởng Giả, cho nên có nhiều học giả ngờ rằng, đó không phải là dịch phẩm của ngài.
Tăng Mãnh (507-588). Ngài họ Đoàn, quê ở Kinh-dương (thuộc tỉnh Thiểm-tây), xuất gia từ thuở nhỏ, thông tuệ khác thường. Đời vua Văn đế nhà Tây-Ngụy (535-551), ngài được mời vào cung giảng Kinh Bát Nhã, cả triều đình đều kính ngưỡng đạo phong của ngài. Năm 557, nhà Bắc-Chu diệt nhà Tây-Ngụy. Dưới đời vua Minh đế (559-560) của triều đại này, ngài vẫn được vua mời thuyết pháp ở trong cung. Sang đời vua Vũ đế (561-578) thì lệnh phá hủy Phật giáo được ban hành. Ngài liền vào thẳng cung điện, cùng vua và đạo sĩ Trương Tân biện giải chánh tà, khuyên vua không nên phá hủy Phật giáo. Nhưng vì nhà vua đã quyết tâm tôn phụng Đạo giáo và tiêu diệt Phật giáo, nên đã không nghe theo lời khuyên giải ấy. Ngài bèn lánh về chốn dân dã sống mai danh ẩn tích. Năm 581, tể tướng Dương Kiên soán ngôi vua Bắc-Chu, tự xưng đế, sáng lập triều đại nhà Tùy (581-619), ban chiếu phục hưng Phật giáo. Liền đó vua Tùy Văn đế (tức Dương Kiên, tại vị 581-604) cho sứ giả đi tìm, thỉnh ngài về kinh đô trú trì chùa Đại-hưng-thiện, phong chức Tùy quốc đại thống tam tạng pháp sư, ủy thác trách nhiệm chấn hưng Phật giáo, danh tiếng lừng lẫy. Nhờ vậy mà Phật giáo đã hưng thịnh rực rỡ trong thời đại nhà Tùy. Ngài thị tịch năm 588, thế thọ 82 tuổi.
Tăng thượng: là một thuật ngữ Phật học, chỉ cho cái tác dụng thêm sức mạnh để giúp cho sự tiến triển, làm cho gia tăng, tiến thêm, lớn hơn, mạnh hơn, thậm chí làm cho quá độ. Những điều kiện giúp cho một hiện tượng (tức một pháp, như một vật, một việc thiện, một việc ác v.v...) phát sinh và tăng trưởng, gọi là “tăng thượng duyên”; sức tăng thượng ấy giúp cho một nhân đạt thành kết quả, gọi là “tăng thượng quả”. Tính kiêu mạn quá đáng gọi là “tăng thượng mạn”, như người học giáo lí, chưa hiểu tỏ tường mà tự khoe mình đã liễu ngộ, chưa chứng đắc mà tự xưng mình đã chứng quả này quả nọ, v.v... Do chuyên cần tu tập quán chiếu, dứt trừ phiền não vọng niệm mà đạt được tâm định, gọi là “tăng thượng tâm”.
Tăng Triệu (374-414): là vị cao tăng thời Đông-Tấn. Ngài họ Trương, quê ở Kinh-triệu (tỉnh Thiểm-tây), thiếu thời nhà nghèo, phải làm nghề chép sách mướn để sinh sống; nhưng cũng do làm nghề này mà được đọc nhiều, và trở thành người bác thông kinh sử. Tính thích lẽ huyền vi, nên ban đầu sùng bái tư tưởng Lão Trang, nhưng rồi vẫn cảm thấy đó không phải là chỗ cứu cánh. Sau gặp duyên đọc được Kinh Duy Ma Cật, bèn vui mừng tỉnh ngộ, biết đó mới là nơi qui hướng, bèn xuất gia học Phật. Ngài đọc khắp Ba Tạng, tinh chuyên các kinh phương đẳng đại thừa. Đến năm 20 tuổi thì danh tiếng ngài vang khắp bốn phương. Ngài suy tư uyên áo, lại có biệt tài biện luận, bao nhiêu bậc túc Nho cùng ngài tranh biện đều bị bẻ gẫy. Khi nghe có pháp sư Cưu Ma La Thập đang ở Cô-tàng (kinh đô nhà Hậu-Lương, Lương-châu, tỉnh Cam-túc), ngài liền sang đó xin theo học, được pháp sư La Thập khen ngợi là bậc kì tài.
Khi Diêu Hưng (vua nhà Hậu-Tần) đánh Hậu-Lương, rước pháp sư La Thập về Trường-an (năm 401), ngài cũng theo về. Tại đây, ngài vâng mệnh vua, cùng với ngài Tăng Duệ (?-?) cư trú tại vườn Tiêu-diêu, vừa biên soạn luận sớ, vừa phụ giúp pháp sư La Thập trong việc dịch kinh, được người đời xưng là bậc “giải không đệ nhất”. Khi pháp sư La Thập dịch bộ Kinh Đại Phẩm Bát Nhã (năm 404), ngài soạn bộ Bát Nhã Vô Tri Luận, được ngài La Thập và cả đại sư Tuệ Viễn duyệt đọc và khen ngợi, cho là chưa từng có. Tiếp đó ngài lại soạn các cuốn Tông Bản Nghĩa, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn Vô Danh Luận, v.v... cùng chú thích Kinh Duy Ma Cật. Ngài tịch năm 416, thế thọ 41 tuổi. Người sau đã đem cuốn Tông Bản Nghĩa và bốn cuốn luận Bát Nhã Vô Tri, Bất Chân Không, Vật Bất Thiên, và Niết Bàn Vô Danh của ngài, gộp lại thành một bộ lớn, gọi là Triệu Luận.
Về năm sinh của ngài Tăng Triệu, các sách truyện như Cao Tăng Truyện v.v... đều nói đó là năm thứ 9 niên hiệu Thái-nguyên (376-396), tức năm 384 TL. Như thế thì tuổi thọ của ngài chỉ có 31 tuổi. Sách Cao Tăng Truyện có nói: “Hậu La Thập chí Cô-tàng, Triệu tự viễn tùng chi.” (Về sau, khi ngài La Thập đến Cô-tàng thì Tăng Triệu từ nơi xa xôi cũng đến đó xin được làm môn đệ.) Pháp sư La Thập đến Cô-tàng vào năm 386 (xem mục “Cưu Ma La Thập”). Nếu ngài Tăng Triệu sinh năm 384, thì đến năm 386, ngài mới lên 3 tuổi, làm sao mà đến Cô-tàng để theo học với pháp sư La Thập? Thậm chí, năm 401, pháp sư La Thập được rước vào Trường-an, ngài Tăng Triệu cũng chỉ mới lên 18 tuổi. Mà như trên đã cho biết, năm Tăng Triệu sang Cô-tàng thọ học với ngài La Thập, phải là sau 20 tuổi, cho nên nói ngài ra đời năm 384 là không hợp lí. Ngày nay có vài học giả suy định rằng, năm sinh của ngài Tăng Triệu là năm thứ 2 niên hiệu Ninh-khang (tức năm 374 TL) đời vua Vũ đế nhà Đông-Tấn. Chúng tôi thấy thuyết này rất hợp lí, nên đã chọn ghi niên đại của ngài Tăng Triệu là “374-414”.
Lại nữa, có sách ghi rằng, ngài Tăng Triệu đã bị “họa chặt đầu”. Về việc này, trong các sử liệu như Cao Tăng Truyện, Xuất Tam Tạng Kí Tập, v.v... đều không thấy nói đến; chỉ thấy trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (quyển 27) có ghi vắn tắt như vầy: “Pháp sư Tăng Triệu gặp phải nạn vua Tần. Trước phút thọ hình có nói bài kệ: Bốn đại nguyên không chủ, năm uẩn vốn đều không, đưa đầu cho dao chém, như chém ngọn gió xuân.”
Tăng Xán (?-606): là vị tổ đời thứ ba của Thiền tông Trung-quốc, sống vào thời đại nhà Tùy, không rõ quê quán ở đâu. Từ trước khi xuất gia, ngài đã bị bệnh phong, chữa trị không khỏi, đầu rụng sạch tóc, cho nên người địa phương đã gọi ngài là Xích Đầu Xán (Xán đầu hói). Khi còn mang thân cư sĩ, ngài đã đến xin tham yết Nhị Tổ Tuệ Khả, đắc pháp, được truyền y bát; bấy giờ đã hơn 40 tuổi – sử liệu không ghi rõ ngài xuất gia năm nào. Vào triều đại Bắc-Chu (559-581), khi vua Vũ đế diệt Phật, ngài phải ở ẩn lánh nạn tại núi Hoãn-công (tỉnh An-huy), người đời không ai biết. Đến đời nhà Tùy (581-619), Phật giáo được phục hưng, ngài mới mở đạo tràng độ chúng. Năm 592 (đời vua Tùy Văn đế), ngài Đạo Tín đến xin qui y, bấy giờ mới 13 tuổi; sau 9 năm dạy dỗ, thấy cơ trí đã xứng hợp, ngài bèn truyền tâm ấn cho ngài Đạo Tín. Vào năm 606 (đời vua Tùy Dạng đế), một hôm, khi thấy nhân duyên đã thuần thục, ngài đứng trước tịnh thất, chắp tay trước ngực mà viên tịch.
Tâm. Tự thân mỗi một chúng sinh, rõ ràng nhất là con người, gồm có hai phần chính: phần tinh thần và phần thể xác. Phần thể xác tức là phần sinh lí, được gọi là “thân”, hoàn toàn do vật chất cấu thành; phần tinh thần tức là phần tâm lí, được gọi là “tâm”, có tác dụng nhận biết, suy nghĩ, phân biệt, xét đoán, mong muốn, v.v... Theo thuật ngữ Phật học, trong “năm uẩn” tập hợp cấu tạo nên con người, thì phần thân thuộc uẩn sắc; còn phần tâm gồm bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức.
Tâm có 8