09. PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
(Hán bộ phần đầu quyển thứ bảy)
Bấy giờ Ca-Diếp Bồ-Tát thưa ! “ Bạch Thế-tôn ! Có phải cần y-chỉ theo bốn hạng người như trên đã nói chăng ?
Phật dạy : “ Chính thế ! Nầy Ca-Diếp ! Nên phải y-chỉ như Như-Lai đã nói . Sao lại phải
y chỉ với bốn bực ấy ? Vì rằng có bốn thứ ma”.
Ca-Diếp Bố-Tát thưa: “ Bạch Thế-Tôn ! Như
lời Phật dạy có bốn thứ ma. Nay con phải làm thế nào để
phân biệt là lời của Phật, là lời của Ma. Có những
chúng sanh chạy theo hạnh Ma, cũng có nhiều người
thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai mạng ấy ?
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn bảy trăm năm, ma Ba- Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại
chánh pháp.
Ví như thợ săn thân mặc pháp-y, cũng vậy, ma-vương Ba-tuần giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba-Tắc, Ưu- Bà- Di. Nó cũng hoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán và hoá làm hình Phật. Ma-Vương đem
thân hữu lậu hoá làm thân vô-lậu để làm hư hại
chánh pháp.
Thời kỳ Ma-Vương Ba-tuần làm hư hại
chánh pháp, nó sẽ nói rằng
xưa kia Bồ-Tát ở cung trời Đâu-Suất chết, rồi sanh nơi cung vua Bạch- Tịnh tại thành Ca-Tỳ-La-Vệ
nương sự
ái dục hòa hiệp của
cha mẹ sanh dục mà có thân. Không bao giờ có người nào sanh trong
loài người mà được
đại chúng cõi Trời cõi người tôn kính. Và lại nói rằng
xưa kia khổ hạnh bố thí những đầu, mắt, tủy, não,
bố thí những vợ, con, quốc thành, nên nay đặng
thành Phật, vì thế nên được
chư Thiên, chư Thần cùng
mọi người cung kính. Nếu có kinh luật nào nói như lời trên đây, phải biết đó là lời của ma.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu kinh luật nào nói đức Như-Lai
chánh giác đã
thành Phật từ lâu, vì muốn
cứu độ chúng sanh nên nay mới
thị hiện thành Phật, và vì
tùy thuận theo
thế gian nên cũng
thị hiện có
cha mẹ, nhơn nơi
ái dục hòa hiệp mà sanh. Phải biết kinh luật nầy
chính thật là của Như-Lai nói.
Nếu ai
tin theo lời ma, thời là
quyến thuộc của ma. Bằng người nào có thể
tùy thuận kinh luận của Phật, người đó là Bồ-Tát.
Nếu có chỗ nào nói không nên tin rằng lúc mới sanh, cả bốn phương Như-Lai đều đi bảy bước. Phải biết đây là lời của ma. Ai
tùy thuận theo lời của ma thời là
quyến thuộc của ma.
Nếu nói lúc Như-Lai mới ra đời cả bốn phương đều đi bảy bước, đó là Như-Lai phuơng tiện
thị hiện. Phải biết đây là kinh luật của Như-Lai nói. Người nào
tùy thuận lời Phật dạy, thời là bực Bồ-tát.
Nếu có chổ nói khi Bồ-tát giáng sanh, Phụ-Vương cho người đem đến miếu thờ Trời, tất cả
chư Thiên thần, như Đại-Tự-Tại-Thiên, Đại-Phạm-Thiên-Vương, Thiên-Đế-Thích v.v… Thảy đều
chắp tay lễ chơn Bồ-Tát. Đây là lời của Phật. Người
thuận theo lời nầy là bực Bồ-Tát.
Nếu gạn rằng : Trời sanh trước, Phật sanh sau, cớ sao
chư Thiên lại
lễ kính Phật ? Phải biết lời gạn nầy là lời của ma Ba-Tuần. Nếu ai
thuận theo lời gạn nầy thời là
quyến thuộc của ma.
Nếu chổ nào nói : Lúc làm Thái-tử, vì lòng
tham dục, nên Bồ-tát cưới vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung. Nên biết trên đây là lời của Ma-Vương, người
thuận theo đây thời là
quyến thuộc của Ma.
Nếu nói rằng : Từ lâu, Bồ-Tát đã bỏ lìa tâm
tham dục,
vợ con,
cho đến sự vui
vi diệu của tam-thập, tam-thiên, như bỏ đờm mũi, huống là sự vui ở
cõi người. Bồ- Tát cạo bỏ râu tóc,
xuất gia hành đạo. Đây là lời Phật nói, là kinh luật của Phật. Người
thuận theo đây thời là Bồ-Tát.
Nếu có chổ nói, tại Kỳ-Hoàn
tinh xá ở nước Xá-Vệ, vì lòng
đại từ thương xót chúng sanh, nên Phật cho các Tỳ-kheo nuôi tôi tớ, voi ngựa,
gia súc, chứa
vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng v.v… Phải biết đây là lời của ma. Ai
thuận theo đây thời là
quyến thuộc của ma.
Nếu nói rằng, tại nước Xá-Vệ nơi
tinh xá Kỳ-Hòan, trước vua Ba-Tư-Nặc và Cổ- Chi-Đức Bà-La-Môn,
đức Phật cấm các Tỳ-kheo không được nuôi chứa và làm các điều trên. Người phạm các điều nầy thời không được ở trong hàng Tỳ-kheo, phải huờn tục, như đám cỏ trong ruộng lúa
cần phải nhổ bỏ. Đây chính là kinh luật của Phật. Người
thuận theo đây thời là bực Bồ-tát.
Nếu nói rằng : Thái-Tử Bồ-Tát
thị hiện vào miếu thờ Trời, ở trong pháp
ngoại đạo xuất gia tu hành,
thị hiện biết tất cả
oai nghi lễ tiết, khéo hiểu tất cả
văn tự kỹ nghệ,
thị hiện làm bực tôn qúy nhất trong các
giai cấp của
xã hội,
dầu vậy, Bồ- Tát chẳng có lòng
luyến ái, như
hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vì độ
chúng sanh nên Bồ-Tát
phương tiện thị hiện thuận theo thế-pháp. Những lời trên đây là của Phật nói, người
thuận theo đây là bực Bồ-Tát. Nếu
nói trái lại thời là lời của ma cùng
quyến thuộc của ma.
Nếu có người
cố chấp chín bộ kinh luật mà không chịu tin
kinh điển phương đẳng đại thừa cho rằng không phải của Phật nói, vì trong kinh luật của họ không có nói đến. Phải biết người nầy có tội, không phải
đệ tử của Phật.
Nếu có người tin
kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằng vì độ
chúng sanh nên Như-Lai nói
kinh đại thừa. Người nầy
chính thật là
đệ tử của Phật.
Nếu có chỗ nói, Như-Lai không phải là kết quả của
vô lượng công đức, là
vô thường biến đổi, do
chứng pháp không nên tuyên nói lý vô-ngã, chẳng thuận với
thế gian. Đây là lời của ma, người tin lời nầy thời là
quyến thuộc của ma.
Nếu nói rằng Như-Lai là bực Đẳng-Chánh-Giác không thể nghĩ bàn, là kết qủa của
vô lượng công đức, là
thường trụ không
biến đổi. Đây là lời Phật nói, ai
thuận theo lời nầy thời là bực Bồ-Tát.
Nếu có Tỳ-kheo thiệt không chổ được mà dối
hiện tướng đã được, cùng nói được các pháp hơn người, thời
phạm tội ba-la-di, mất pháp làm người, như viên đá bể hai không còn liền lại được.
Nếu có Tỳ-kheo
giới đức trong sạch, ít muốn biết đủ, ở nơi vắng vẽ rãnh rang. Vua quan gặp Tỳ-kheo cho là bực A-La-hán, rồi
cung kính khen ngợi rằng Đại- sư đây sau khi bỏ thân nầy sẽ
chứng quả vô thượng bồ-đề. Tỳ-kheo
nghe được liền
cải chính là mình chưa
chứng quả thánh và khuyên vua quan chớ
nhận lầm. Nhà vua vẫn cố kính tin và loan truyền cho
mọi người cùng
tôn trọng cúng dường. Tỳ-kheo nầy thiệt là người
giới đức trong sạch nên làm cho
mọi người được
phước đức lớn. Tỳ-kheo nầy không
phạm tội ba-la-di vì tự
mọi người sanh lòng kính tin
cúng dường. Nếu nói Tỳ-kheo nầy mắc tội, phải biết đó là lời của ma.
Lại có Tỳ-kheo giảng tuyên giáo-điển đại-thừa rất sâu của chư Phật rằng : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh sẽ dứt trừ
vô lượng phiền não bèn thành bực
vô thượng chánh giác, trừ hạng nhứt-xiển-đề. Nếu có người hỏi Tỳ-kheo : Nhà thầy có
Phật tánh chăng ? Sẽ được
làm Phật hay không ? Tỳ-kheo đáp : Chính tôi đây
quyết định có
Phật tánh, còn
thành Phật hay không chưa có thể
thẩm định. Người lại nói Đại-Đức không phải hạng nhứt-xiển-đề, tất được
thành Phật không còn
nghi ngờ gì. Tỳ-kheo đáp rằng : “ Vâng ! Đúng như lời người đã nói”. Dầu Tỳ-kheo nầy nói
quyết định có
Phật tánh, mà vẫn không
phạm tội.
Lại có Tỳ-kheo lúc
xuất gia tự nghĩ rằng : Nay ta
quyết định thành bực
vô thượng chánh giác. Tỳ-kheo nầy dầu chưa được
thành Phật, nhưng đã được
vô lượng vô biên phước đức. Vì
xưa kia, trong tám mươi
ức kiếp, ta
giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ,
thành tựu oai nghi, khéo tu
vô lượng pháp tạng của chư Phật,
thuở ấy ta cũng
quyết định rằng mình có
Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được
thành Phật, có đức đại-từ-bi.
Những điều trên đây là lời Phật nói, nếu ai
thuận theo thời là bực Bồ- Tát. Còn ai không chịu
thuận theo thời là
quyến thuộc của ma.
Ma lại sẽ bảo rằng : Không có bốn tội trọng, mười ba tội
tăng tàn, hai tội
bất định, ba mươi tội xả-đọa, chín mươi tội đọa, bốn pháp phải
sám hối, các pháp phải học, bảy điều
diệt tránh, nhẫn đến không có tội thô, tội nghịch, nhứt- xiển-đề. Nếu có Tỳ-kheo phạm các tội đã kể trên đây mà phải đọa
địa ngục thời hàng
ngoại đạo lẽ ra đều được sanh lên
cõi trời cả, vì
ngoại đạo không
thọ giới, tất không có giới gì mà phạm. Đó là Như-Lai muốn
khủng bố người nên nói các điều giới ấy. Dầu Như-Lai có nói
phạm tội đột-kiết-la, phải bị đọa vào
địa ngục mãi đến tám trăm muôn năm của
cõi trời Đao-Lợi mới mãn tội, đó cũng là việc
thị hiện để
khủng bố người. Rằng ba-la-di
cho đến đột-kiết-la tội nặng
tội nhẹ không sai. Đây là các nhà
luật sư vọng nói là lời của Phật chế, kỳ thiệt không phải Phật chế như vậy. Tất cả những lời trên đây là điển từ của ma cả.
Có chổ nói rằng : Ở trong các điều giới nếu phạm một giới nhỏ, sẽ bị khổ báo trong
thời gian rất lâu.
Nhận thức như vậy sẽ
giữ gìn tự thân như rùa dấu kín sáu chi.
Nếu có
luật sư nào nói rằng : “ Phàm chỗ
phạm giới đều không tội báo”.
Không nên gần gũi
luật sư nầy. Như Phật đã từng dạy :
Nếu nói quá một pháp. Đây gọi là
vọng ngữ, Chẳng
nhận thấy đời sau. Không ác nào chẳng tạo.
Do đây, chẳng được thân cận người phủ nhận nhơn quả. Trong
chánh pháp của Phật
trong sạch như vậy, huống lại có
phạm tội du-lan-giá hoặc phạm tăng- tàn và ba-la-di mà chẳng phải là tội ư ! Thế nên rất phải tự
giữ gìn những
giới pháp như vậy.
Nếu không giữ gìn, thời lấy pháp gì mà gọi là
cấm giới ?
Trong các kinh, Như-Lai cũng nói nếu có phạm bốn tội trọng ba-la-di
cho đến phạm tội nhỏ đột-kiết-la, thời phải theo luật mà trị tội. Nếu
chúng sanh chẳng
hộ trì cấm giới làm sao thấy được
Phật tánh.
Dầu tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, nhung phải
do nơi trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy
Phật tánh mà được thành
vô thượng chánh giác.
Trong
chín bộ kinh, không có kinh đại-thừa
phương đẳng, cho nên không nói có
Phật tánh. Dầu không nói, nhưng phải biết là thiệt có
Phật tánh.
Người nào nói những lời như đây, thời thiệt là
đệ tử của Như-Lai “.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch
Thế Tôn ! Như trên đã nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Trong
chín bộ kinh chưa từng nghe thấy điều nầy. Như nói là có thời sao lại không
phạm tội ba-la-di ?
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Như lời ông nói đó, thiệt chẳng
phạm tội ba-la- di. Như có người nói trong biển cả chỉ có bảy thứ báu, không có tám thứ, Người nầy không có lỗi. Cũng vậy, nếu nói trong
chín bộ kinh, không có
Phật tánh, vẫn là vô tội vì Như-Lai ở trong biển lớn
đại trí,
đại thừa nói có
Phật tánh. Hàng
nhị thừa chẳng thấy biết mà nói là không, nên chẳng mắc tội.
Cảnh giới nầy là chổ thấy biết của Phật, chẳng phải hàng Thanh-Văn và
Duyên giác biết đến.
Nầy Ca-Diếp ! Người không được nghe tạng pháp
thậm thâm bí mật của Như- Lai thời làm thế nào biết rằng có
Phật tánh . Những gì gọi là tạng pháp
thậm thâm bí mật của Như-Lai ? Chính là
kinh điển đại-thừa
phương đẳng vậy.
Nầy Ca-Diếp ! Có các nhà
ngoại đạo, hoăïc nói ngã là thường còn, hoặc nói ngã là
đoạn diệt.
Như-Lai không nói như vậy, mà cũng nói là có ngã và cũng nói là không ngã. Đây gọi là
trung đạo.
Nếu có người nói :
Đức Phật nói
trung đạo : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, vì
phiền não che ngăn nên không thấy không biết. Vì thế nên phải siêng năng
tu tập để dứt
trừ phiền não.
Ai nói được những lời trên đây thời chẳng phạm bốn tội trọng.
Nếu không nói được như đây thời gọi là
phạm tội ba-la-di.
Nếu có người nói : “ Tôi đã
thành Phật, vì tôi có Phật tánh”. Người nói lời nầy
phạm tội ba-la-di. Vì dầu có
Phật tánh. Nhưng chưa
tu tập các pháp lành nên chưa được thấy, vì chưa thấy
Phật tánh nên chẳng được
thành Phật.
Nầy Ca-Diếp ! Do những nghĩa nầy nên
Phật pháp rất sâu chẳng thể nghĩ bàn”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-tôn ! Có
Quốc vương hỏi thế nào là Tỳ- kheo mắc phải tội đại
vọng ngữ ?”
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Nếu có Tỳ-kheo vì
cầu lợi, vì việc uống ăn, rồi làm những cách
dua nịnh gian ngụy khi trá, thế nào cho người đời tưởng thật ta là bực
khất sĩ, để ta được danh to lợi lớn. Tỳ-kheo nầy nhiều
ngu si, tự biết rằng chính mình chưa chứng đặng
bốn quả thánh, trong lòng luôn
suy nghĩ phải làm thế nào cho người đời, các Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di đều nói rằng ta đã
chứng quả, là bực
phước đức lớn, thiệt là thánh nhơn, Tỳ-kheo
suy nghĩ cầu lợi chẳng phải
cầu pháp, ta phải đi đứng
đoan nghiêm,
chấp trì y-bát, giữ đúng
oai nghi, ở riêng nơi yên vắng như A-La-Hán. Làm cho người đời đều bảo rằng : Tỳ- kheo như thế là bực lành bực tốt nhất, ngài
tinh cần khổ hạnh tu pháp tịch diệt. Như thế ta sẽ có
đệ tử đông, cũng sẽ được người
cúng dường trọng hậu, khiến hàng
phụ nữ cung kính mến tưởng.
Nếu có Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào làm những sự như
vậy thì mắc phải tội đại
vọng ngữ.
Lại như có Tỳ-kheo vì muốn
kiến lập chánh pháp vô thượng nên ở nơi yên vắng, tự chẳng phải A-la-Hán mà muốn làm cho
mọi người tin tưởng gọi là A-La- Hán, là Tỳ-kheo tốt, Tỳ-kheo lành, Tỳ-kheo tịch-tịnh, được nhiều người
xuất gia theo làm
quyến thuộc. Nhơn đó khuyên dạy các Tỳ-kheo và Ưu-Bà-tắc
phá giới, đều khiến
trì giới. Do đây mà
chánh pháp được
kiến lập, làm
rạng rỡ pháp
vô thượng của Như-Lai,
khai hiển phương đẳng đại-thừa,
độ thoát vô lượng chúng sanh, khéo hiểu những nghĩa khinh trọng trong kinh luật mà Như-lai đã nói. Tỳ-kheo nầy lại nói : Nay ta cũng có
Phật tánh. Có
kinh điển gọi là tạng bí-mật của Như- lai. Nơi trong kinh nầy, ta sẽ
quyết định đặng
thành Phật đạo, có thể dứt sạch
vô lượng ức
phiền não kiết sử. Vì
vô lượng Ưu-Bà-Tắc mà nói rằng : Các ông đều có
Phật tánh, ta cùng các ông đều sẽ an trụ nơi cấp bực của Như-lai mà thành
vô thượng chánh giác, đứt sạch
vô lượng phiền não kiết sử. Tỳ-kheo nói những lời trên đây không gọi là người phạm đại
vọng ngữ mà gọi là bực Bồ- Tát.
Như nói : Người
phạm tội đột-kiết-la phải bị đọa trong
địa ngục chịu tội đến tám trăm muôn năm tính theo năm tháng ở
cõi trời Đao-Lợi, huống là cố
phạm tội du- lan-giá.
Trong đại-thừa đây, nếu có Tỳ-kheo
phạm tội du-lan-giá thời không nên thân cận.
Những gì gọi là tội du-lan-giá trong kinh đại-thừa ?
Nếu có đàn-tín tạo lập chùa Phật, đem các
tràng hoa dùng
cúng dường Phật. Có Tỳ-kheo thấy chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy thời
phạm tội du- lan-giá. Hoặc biết hay chẳng biết cũng đều phạm như vậy. Nếu vì tâm tham mà
phá hoại tháp
Phật thời phạm tội du-lan-giá. Không nên thân cận những người như vậy.
Nếu đàn-tín thấy tháp Phật hư , vì muốn
tu bổ cúng dường xá lợi, nơi trong tháp nầy hoặc được
châu báu bèn đem gởi Tỳ-kheo. Tỳ-kheo lãnh rồibèn tự ý
thọ dụng. Tỳ-kheo nầy gọi là hạng
bất tịnh, sanh nhiều sự đấu tránh. Các Ưu-Ba- Tắc tốt không nên gần gũi
cúng dường. Tỳ-kheo như vậy gọi là
vô căn, gọi là hai căn, gọi là
bất định căn.
Người
bất định căn lúc
tham muốn làm gái, thân liền biến làm gái, lúc
tham muốn làm trai thân liền biến làm trai.
Tỳ-kheo như vậy gọi là ác-căn, không gọi là nam, không gọi là nữ, không gọi là
tại gia, không gọi là
xuất gia. Với Tỳ-kheo nầy, không nên thân cận
cung kính cúng dường.
Trong
Phật pháp, về pháp tắc của hàng Sa-Môn, phải sanh
lòng từ bi
lợi ích chúng sanh,
cho đến loài trùng kiến cũng phải ban sự
vô úy, đây là pháp của Sa- Môn.
Xa lìa uống rượu
cho đến ngữi mùi đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng được
vọng ngữ cho đến trong
giấc mộng cũng không nghĩ đến sự
vọng ngữ, đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng sanh
lòng dục cho đến trong
giấc mộng cũng không nghĩ đến
lòng dục, đây là pháp của Sa-Môn.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Nếu Tỳ-kheo ngủ
chiêm bao hành
dâm dục, có
phạm giới chăng ?”
Phật dạy : “ Không
phạm giới. Ở nơi sự
dâm dục, phải sanh
ý nghĩ là hôi nhơ,
cho đến không có một niệm tưởng là sạch tốt. Tránh sự
nghĩ tưởng ái nhiễm hàng
phụ nữ. Nếu
chiêm bao hành dâm, lúc
thức dậy phải
hổ thẹn ăn năn,. Nếu móng lòng
dâm dục phải kíp trừ bỏ. Tỳ-kheo đi
khất thực, lúc nhận
cúng dường, phải có
ý tưởng như
ăn thịt con đẻ trong
thời kỳ đói kém.
Pháp môn trên đây là kinh luật của Phật nói, Người
thuận theo đây thời là bực Bồ-tát.
Nếu có kẻ nào nói rằng :
Đức Phật cho phép Tỳ-kheo luôn đứng co một chơn, luôn nín lặng không nói, hoặc nhảy vào lửa, nhảy xuống vực, từ trên gộp đá cao tự nhảy xuống chẳng tránh sự hiểm nạn, hoặc uống
độc dược, hoặc
tuyệt thực, nằm trên tro đất, tự trói tay chơn, hoặc giết hại
chúng sanh, bàng môn
chú thuật, con nhà hàng thịt, không căn, hai căn,
bất định căn,
giác quan không đủ, Như-Lai đều cho những người trên đây
xuất gia hành đạo. Phải biết lời nầy là của ma nói.
Nếu có chỗ nào nói rằng cho mặc ma-ha-lăng-già, đều cho chứa cất tất cả hột giống, loài cỏ cây đều có
thọ mạng, Như-Lai nói lời nầy rồi bèn vào Niết-bàn. Phải biết trên đây là lời của ma nói.
Trước kia Như-Lai cho ăn năm thứ sữa bò cùng với dầu, mật, cho mặc y kiều-xa- gia, dép da v.v… trừ những vật của
ngoại đạo.
Như-Lai cũng không cho luôn đứng co một chơn, mà bảo theo đúng
chánh pháp pháp
tùy ý đi đứng nằm ngồi. Như-lai cũng chẳng cho
tuyệt thực hay uống
độc dược, hoặc năm thứ nóng đốt thân, trói cột tay chơn, giết hại
chúng sanh, luyện bàng môn
chú thuật, dùng ngà voi
châu ngọc làm dép da. Chẳng cho mặc ma-ha- lăng-già, chứa cất các hột giống. Chẳng nói cỏ cây có
thọ mạng. Nếu ai nói Như- Lai
cho phép và nói như trên đây, phải biết kẻ ấy là
quyến thuộc của
ngoại đạo, không phải là
đệ tử của Phật.
Như-Lai chỉ cho ăn năm thứ sữa bò và dầu, mật, cho mang dép da, mặc y kiều- xa-gia,. Như-Lai nói
tứ đại không có
thọ mạng. Kinh luật nào nói như vậy chính là lời của Phật.
Thuận theo lời Phật là
đệ tử của Phật. Còn không
thuận theo lời
Phật thời là
quyến thuộc của ma. Nếu có người nào
tùy thuận kinh luật của Phật, phải biết đó là bực Bồ-Tát.
Nầy Ca-Diếp ! Thế nào là lời của ma nói, thế nào là lời của Phật nói. Nay Như-Lai đã
phân biệt nhiều cho ông rồi.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-tôn ! Nay con mới biết rõ chỗ
sai biệt của lời Phật nói cùng lời ma nói, nhơn đây mà con được
ngộ nhập nghĩa sâu của Phật pháp”.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát : Nầy Ca-Diếp ! Ông có thể hiểu rành re õnhư vậy, đáng gọi là người thông sáng.