25. PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn bảo
Kiều Trần Như : “ Sắc là
vô thường, do dứt sắc nầy được
sắc thân thường trụ giải thoát. Thọ, tưởng, hành và thức cũng đều
vô thường, do dứt
thức ấm nầy mà được
thức uẩn giải thoát thường trụ.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là khổ, dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc thân an lạc giải thoát. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là không, do dứt
sắc không nầy mà được
sắc uẩn giải thoát phi không. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là
vô ngã, do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoát chơn ngã. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như !
Sắc ấm là
bất tịnh, do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoáthanh tịnh. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là tướng của sanh, lão , bịnh, tử, do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoát chẳng phải tướng sanh, lão, bịnh, tử. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là nhơn của
vô minh do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoát chẳng phải nhơn của
vô minh. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Nhẫn đến
sắc ấm là nhơn của sanh, do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoát chẳng phải nhơn của sanh. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như !
Sắc ấm là nhơn của bốn
tưởng điên đảo, do dứt
sắc ấm điên đảo nầy mà được
sắc uẩn giải thoát chẳng phải nhơn của bốn
tưởng điên đảo. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như !
Sắc ấm là nhơn của
vô lượng ác pháp : Nào là thân nam , thân nữ v.v…, nào là thực ái,
dục ái, tham sân, tật đố,
ác tâm,
xan tâm,
đoàn thực,
xúc thực,
tư thực,
thức thực,
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh,
ngũ dục,
ngũ cái v.v… : Tất cả
ác pháp nầy đều nhơn nơi sắc cả. Do dứt
sắc ấm nầy mà được
sắc uẩn giải thoát không có
vô lượng ác pháp như vậy. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là
trói buộc, do dứt sắc nầy mà được sắc
giải thoát không
trói buộc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là
lưu chuyển, do dứt sắc nầy mà được sắc
giải thoát không
lưu chuyển. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc chẳng phải chỗ
quy y, do dứt sắc nầy mà được sắc
giải thoát quy y. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc là ghẻ lở, do dứt sắc nầy mà được sắc
giải thoát không
tội lỗi. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Sắc chẳng
tịch tịnh, do dứt sắc nầy được sắc
Niết Bàn tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Nầy
Kiều Trần Như ! Người nào rõ biết được như trên đây thời gọi là
Sa Môn là
Bà La Môn có đủ những
pháp Sa Môn, pháp
Bà La Môn.
Nếu ngoài
Phật pháp thời không có
Sa Môn,
Bà La Môn, cũng không có
pháp Sa Môn, pháp
Bà La Môn. Tất cả
ngoại đạo dối trá tự xưng, toàn
hư giả không có thiệt hạh. Dầu họ tưởng rằng họ có hai bực nầy, nhưng thật ra thời không có. Vì nếu đã không có
pháp Sa Môn và
Bà La Môn, làm sao có được hai bực
Sa Môn và
Bà La Môn.
Ta thường ở giữa
đại chúng xướng to những lời nầy. Các ông cũng nên xướng to như vậy.
Bấy giờ có số đông
ngoại đạo sanh lòng bất bình rằng :
Cù Đàm nói trong
giáo phái của
chúng ta không có
Sa Môn và
Bà La Môn, cũng không có
pháp Sa Môn, pháp
Bà La Môn.
Chúng ta làm thế nào tỏ cho
Cù Đàm biết rằng trong
giáo phái của
chúng ta có hai bực và hai
pháp như vậy.
Có một
Phạm Chí lên tiếng nói : “ Nầy các ngài !
Lời nói của
Cù Đàm như điên như cuồng, cần gì kiểm giảo ! Người
điên cuồng trong đời hoặc ca, hoặc múa, hoặc khóc, hoặc cười, hoặc mắng , hoặc khen, không
phân biệt kẻ thân người thù.
Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy : Có lúc nói ta sanh trong cung vua
Tịnh Phạn, có lúc nói là chẳng sanh. Hoặc nói sau khi sanh tự đi bảy bước, lại nói là chẳng đi. Hoặc nói ta từ thuở nhỏ học tập văn vỏ, nghề nghiệp
thế gian, rồi lại tự nói là bực
nhứt thiết trí. Có lúc ở cung hưởng
lạc thú sanh con trai, rồi lại nhàm chê là ác tiện. Có lúc đích thân
tu khổ hạnh sáu năm, lại
quở trách sự
khổ hạnh của
ngoại đạo. Hoặc nói theo học với ông
Uất Đầu Lam Phất, ông A La Lã v.v…, có lúc nói các ông ấy không chỗ
hiểu biết. Hoặc nói nơi cội
Bồ Đề ta chứng được đạo
vô thượng giác, có lúc lại nói ta không có đến
cây Bồ Đề, không có
chứng đắc. Hoặc nói thân ta đây chính là
Niết Bàn, lại nói thân diệt mới là
Niết Bàn.
Lời nói của
Cù Đàm như
điên cuồng, các ngài lo rầu làm gì ?
Có các
Bà La Môn nói : “ Trước kia
Sa Môn Cù Đàm nói
vô thường, khổ, không,
vô ngã,
bất tịnh. Hàng
đệ tử trong
giáo phái ta
nghe lời nầy mà kinh sợ. Nay
Cù Đàm đến rừng
Ta La nầy
tuyên bố có thường, lạc, ngã, tịnh. Hàng
đệ tử ta
nghe lời nầy đều bỏ phái ta, hoặc thọ lấy lời của
Cù Đàm. Như thế bảo ta không
sầu khổ sao được !
Lại có một
Bà La Môn bảo rằng các ngài lóng nghe tôi nói đây :
Sa Môn Cù Đàm gọi rằng tu
từ bi, xét ra thời
lời nói nầy là
hư vọng, chẳng phải chơn thật. Vì nếu có
từ bi sao ông ấy lại
giáo hóa hàng
đệ tử của
chúng ta thọ lấy pháp của ông ấy.
Lòng từ bi là
tùy thuận theo ý của người, nay ông ấy làm trái bổn nguyện của
chúng ta thời đâu phải là
từ bi.
Nếu nói rằng
Sa Môn Cù Đàm chẳng bị
tám pháp thế gian làm
ô nhiễm, lời nầy cũng là
hư vọng : Vì nếu
Cù Đàm là
thiểu dục tri túc, hôm nay sao lại cướp lấy
lợi dưỡng của
chúng ta.
Nếu nói
Cù Đàm thuộc về
dòng họ cao thượng, lời nầy cũng
hư vọng. Vì từ xưa
đến nay chưa từng nghe thấy
Sư Tử Vương tàn hại con chuột bé nhỏ. Nếu
Cù Đàm là dòng cao thượng ngày nay sao lại
não loạn chúng ta.
Nếu cho rằng
Cù Đàm có
thế lực lớn, lời nầy cũng là
hư vọng. Vì từ xưa
đến nay cũng chẳng từng thấy nghe Kim Súy Điểu Vương
đua tranh cùng các chim. Nếu
Cù Đàm thật có
thế lực lớn, việc gì lại
tranh đấu với
chúng ta.
Nếu cho rằng
Cù Đàm có
tha tâm trí, xét ra cũng là
hư vọng. Vì nếu có
tha tâm trí cớ sao
Cù Đàm chẳng rõ biết
tâm niệm của
chúng ta.
Nầy các ngài !
Xưa kia tôi từng nghe bực
tôn túc nói rằng sau đây một trăm năm
thế gian sẽ có một yêu huyễn ra đời. Yêu huyễn nầy chính là ông
Cù Đàm. Ông ấy sắp sẽ diệt mất tại trong rừng
Ta La nầy, các ngài chẳng nên
sầu não.
Có một
Ni Kiền Tử nói rằng : “ Nay tôi
sầu khổ chẳng phải vì
đệ tử và sự
cúng dường của riêng mình, chỉ vì người đời ngu tối không có con mắt, chẳng thấy biết
phước điền cùng chẳng phải
phước điền, bỏ bực
Bà La Môn niên cao nhiều trí mà
cúng dường người
tuổi trẻ, do đây nên tôi lo rầu mà thôi.
Sa Môn Cù Đàm biết
chú thuật, do sức
chú thuật mà ông ấy có thể biến một
thân thành vô lượng thân, biến
vô lượng thân huờn lại một thân, hoặc biến thân làm hình nam, nữ, bò, dê, voi, ngựa. Sức của tôi có thể trừ việc
chú thuật như vậy.
Chú thuật của
Cù Đàm đã mất, các ngài sẽ được an vui
thọ hưởng nhiều sự cúng dường”.
Lại có một
Bà La Môn nói rằng : Nầy các ngài,
Sa Môn Cù Đàm thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức, các ngài chẳng nên
tranh đua.
Chúng
ngoại đạo phản đối lại : Người
ngu si kia ! Sao ông lại nói
Sa Môn Cù Đàm có
công đức lớn ? Lúc
Cù Đàm sanh ra bảy ngày thời mẹ của ông ấy chết, như thế có thể được gọi là tướng
phước đức chăng ?
Bà La Môn đáp rằng : Bị mắng chẳng giận, bị đánh chẳng đánh lại, đây là
tướng đại phước đức. Thân của
Cù Đàm có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, lại có
vô lượng thần thông, đây là
tướng đại phước đức. Không
kiêu mạn thưa hỏi trước,
lời nói dịu dàng không
cộc cằn, lúc trai tráng chí ý hưng hạnh mà tâm chẳng
nóng nảy, nước lớn của nhiều mà không
tham luyến, bỏ cung điện đi
xuất gia như nhổ bỏ nước miếng. Do những điều trên đây nên tôi nói rằng
Sa Môn Cù Đàm thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức.
Chúng
ngoại đạo nói : “
Sa Môn Cù Đàm thiệt có
vô lượng thần thông biến hoá như lời ông nói,
chúng tôi chẳng
thử thách thần thông với
Cù Đàm.
Cù Đàm bản tánh nhu nhuyến, chẳng kham
khổ hạnh, sanh trưởng chốn thâm cung chẳng rõ thấu được việc ngoài. Chỉ được
lời nói dịu dàng mà chẳng biết nghề nghiệp
văn hóa luận nghị.
Chúng tôi xin
tranh biện pháp yếu với
Cù Đàm. Nếu ông
Cù Đàm hơn,
chúng tôi sẽ theo hầu
Cù Đàm. Nếu
chúng tôi hơn
Cù Đàm thời
Cù Đàm phải
phụng sự chúng tôi.”
Lúc đó một số đông
ngoại đạo họp nhau đến ra mắt
vua A Xà Thế.
Vua hỏi các ngài mỗi phái riêng
tu tập theo đạo của mình, đều là người
xuất gia rời bỏ
danh lợi, nhơn dân trong nước của ta đều
kính trọng cúng dường, nay
duyên cớ gì họp nhau đến đây ?
Các ngài đều có pháp
tu tập khác nhau,
giới cấm khác nhau, mỗi người tự theo
giáo phái của mình mà
xuất gia tu hành, nay
duyên cớ gì lại họp nhau một lòng như những lá rụng bị gió trốt thổi gom lại một chỗ.
Ta thường
ủng hộ người
xuất gia nhẫn đến chẳng tiếc
thân mạng. Nay
duyên cớ gì mà các ngài họp nhau đến đây ?
Chúng
ngoại đạo đồng thưa : Tâu
Đại Vương ! Nay
Đại Vương là cây
cầu đại pháp, có
tiếng tăm lớn, có
công đức lớn, là căn bổn của các nước, là tấm
gương sáng của tất cả nước, là
hình tượng của
chư thiên, là
cha mẹ của nhơn dân. Nhà vua coi việc nước chẳng riêng rẻ người thân
kẻ thù, lòng vua bình đẳntg như đất nước lửa gió, do đây nhà vua đáng gọi là
công đức tạng.
Tâu
Đại Vương ! Dầu
chúng sanh hiện tại tuổi đời ngắn ngủi, nhưng
công đức của nhà vua như các vua
thời kỳ trường thọ an lạc thuở xưa : Như các vua Đảnh Sanh,
Thiện Kiến,
Nhẫn Nhục, Na Hầu Sa, Da Da Đế, Thi Tỳ, Nhứt Xoa Câu v.v… Nhờ nhà vua mà trong nước an vui, nhơn dân giàu mạnh. Do đây nên tất cả người
xuất gia đều mến nước
Ma Dà Đà nầy.
Tâu
Đại Vương ! Trong kinh của
chúng tôi có nói : Nếu người
xuất gia ở nơi nước nào mà
tinh tấn trì giới tu hành, thời vua nước ấy cũng có phần
tu công đức lành.
Tâu
Đại Vương ! Tất cả trộm cướp nhà vua đã dẹp xong, nên người
xuất gia không còn sợ sệt. Hiện nay chỉ còn có một người
đại ác là
Sa Môn Cù Đàm nhà vua chưa xét đến,
chúng tôi rất lo sợ.
Cù Đàm tự thị dòng họ cao quý, thân hìng đẹp mạnh, lại do phước
bố thí đời trươc mà được
cúng dường nhiều.
Cù Đàm cậy những việc nầy mà quá
kiêu mạn, hoặc cậy
chú thuật giỏi mà
ngạo nghễ.
Cù Đàm không thể
tu khổ hạnh lãnh và chứa những
y phục nệm chăn mịn nhuyễn, nên những người ác
trong đời vì
tham lợi dưỡng mà theo làm
quyến thuộc. Do sức
chú thuật,
Cù Đàm điều phục Ca Diếp,
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên v.v…
Nay đến chỗ ở của
chúng tôi, nơi rừng
Ta La,
tuyên bố rằng thân nầy là thường, lạc, ngã, tịnh để khuyến dụ hàng
đệ tử của
chúng tôi.
Tâu
Đại Vương ! Ngày trước
Cù Đàm nói thân người là không thường, lạc, ngã,
tịnh chúng tôi còn có thể nhẫn được. Nay
Cù Đàm tuyên bố thân nầy là thường, lạc, ngã,
tịnh chúng tôi thiệt chẳng chịu đựơc.
Xin
Đại Vương cho phép chúng tôi luận nghị với
Cù Đàm.
Vua A Xà Thế nói : Hôm nay các ngài do ai bày vẽ mà
tâm trí cuồng loạn chẳng định như vậy ? Khác nào nước nổi sóng, vòng lửa xoay, khỉ vượn leo cây , thật đáng
hổ thẹn.
Người trí
nghe được việc nầy tất sẽ
xót thương cho các ngài. Kẻ ngu nghe biết thời tất
chê cười các ngài.
Lời nói của các ngài chẳng phải là lời của người
xuất gia. Các ngài nếu mang phải bịnh tật, ta đều có thuốc trị lành được. Nếu như mắc bịng
ma quỉ, thời anh ta là
Kỳ Bà có thể trị được.
Nay các ngài muốn lấy móng tay mà chẻ
núi Tu Di, muốn dùng răng để cắn nghiền chất
Kim Cang, khác nào người ngu thấy
Sư Tử Vương lúc đói
nằm ngủ mà muốn chọc cho
thức dậy, như người lấy ngón tay muốn để trong miệng
rắn độc, như muốn lấy tay đậy ngọn lửa, như con chồn rừng muốn kêu rống như
sư tử, như con muỗi muốn bay đua với Kim Súy Điểu, như con thỏ lội qua biển muốn chưn đụng đến đáy. Nay các ngài cũng như vậy. Các ngài như
chiêm bao thấy hơn
Sa Môn Cù Đàm, đây là
mơ mộng điên cuồng, chẳng nên
tin tưởng.
Nay các ngài có
quan niệm muốn
tranh biện với
Sa Môn Cù Đàm, khác nào con phi nga tự đáp vào đống lửa lớn. Các ngài phải theo lời của ta chẳng cần nói nữa.
Các ngài dầu
tán thán ta là
bình đẳng như cán cân, nhưng chớ để cho người ngoài
nghe được lời nầy.
Các
ngoại đạo lại thưa : Tâu
Đại Vương !
Sa Môn Cù Đàm có lẽ dùng
chú thuật đến bên nhà vua, nên làm cho lòng vua nghi mà chẳng tin các vị thánh nhơn nầy. Nhà vua chẳng nên khinh miệt
chúng tôi.
Tâu
Đại Vương !
Mặt trăng tròn khuyết, nước biển mặn v.v…, những việc như thế ai làm ra ? Há chẳng phải hàng
Bà La Môn chúng tôi ư !
Nhà vua chẳng nghe
nước sông Hằng dừng ở trong lỗ tai của
A Kiệt Đa Tiên trọn mười hai năm ư ? Nhà vua chẳng nghe
Cù Đàm Tiên nhơn cả hiện
thần thông mười hai năm biến làm
Đế Thích, rồi biến thân
Đế Thích làm thân dê đực, biến ngàn
nữ căn ở thân
Đế Thích ? Nhà vua chẳng nghe Kỳ Nâu Tiên trong một ngày uống hết nước bốn biển làm cho quả đất khô ?
Nhà vua chẳng nghe
bà Tẩu Tiên làm ba con mắt cho
Tự Tại Thiên ư ? Nhà vua chẳng nghe La Lã Tiên
biến thành Ca La Phú làm nước mọi ư ?
Tâu
Đại Vương ! Trong phái
Bà La Môn có những Tiên nhơn
thần thông như vậy, sao nhà Vua lại khinh miệt ư ?
Vua nói : “ Các ngài nếu chẳng
tin theo lời của ta,
đức Như Lai chánh giác hiện ở trong rừng
Ta La, các ngài có thể qua đó
tùy ý vấn nạn,
Đức Như Lai cũng sẽ
giải thích vừa ý các ngài.”
Liền đó
vua A Xà Thế cùng chúng
ngoại đạo đến chỗ Phật. Vua đầu mặt làm lễ đi nhiễu ba vòng ngồi qua một bên
bạch Phật rằng : “
Thế Tôn ! Các nhà
ngoại đạo nầy muốn được
tùy ý vấn nạn, xin
đức Như Lai tùy ý đáp đó.”
Phật nói : “ Nầy
Đại Vương !
Như Lai tự biết phải lúc.”
Trong chúng
ngoại đạo có
Bà La Môn Xà Đề Thủ Na lên tiếng hỏi :” Nầy
Cù Đàm ngài nói
Niết Bàn là
pháp thường trụ
phải chăng ?”
_ Nầy
Đại Bà La Môn ! Đúng như vậy.
_ Nếu
Cù Đàm nói
Niết Bàn là
thường trụ thời không đúng nghĩa. Vì như những sự vật
trong đời, từ hột sanh ra trái nối luôn chẳng dứt, như từ đất sét làm ra cái bình, từ những sợi chỉ mà có cái áo.
Cù Đàm thường nói rằng
tu quán tưởng vô thường chứng được
Niết Bàn. Nhơn là
vô thường sao quả lại
thường trụ ?
Cù Đàm lại nói
giải thoát dục tham chính là
Niết Bàn,
giải thoát sắc tham và
vô sắc tham chính là
Niết Bàn. Dứt
vô minh v.v… tất cả
phiền não thời là
Niết Bàn. Từ dục, sắc, nhẫn đến
vô minh phiền não đều là
vô thường. Nhơn đã
vô thường thời quả
Niết Bàn cũng phải
vô thường.
Cù Đàm lại nói từ nghiệp nhơn nên sanh
cõi Trời, do nghiệp nhơn nên sanh
địa ngục, do nghiệp nhơn mà
được giải thoát, nên các pháp đều
do nơi nhơn mà sanh. Nếu đã từ nơi nhơn sanh mà
được giải thoát, sao lại nói
Niết Bàn là thường ?
Cù Đàm cũng nói rằng sắc theo duyên mà sanh nên gọi là
vô thường,
thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Giải thoát như vậy, nếu là sắc thời là
vô thường, nếu là
thọ tưởng hành thức cũng là
vô thường. Nếu ngoài
năm ấm mà có
giải thoát,
thời giải thoát nầy chính là
hư không. Nếu đã là
hư không thời chẳng được nói rằng do
nhơn duyên sanh, vì
hư không là thường là
duy nhứt, là khắp tất cả.
Cù Đàm cũng nói rằng : Phàm do
nhơn duyên sanh ra thời là khổ, nếu đã là khổ sao lại nói
giải thoát là lạc.
Cù Đàm lại nói :
Vô thường là khổ, khổ là
vô ngã. Nếu đã là
vô thường, là khổ, là
vô ngã thời là
bất tịnh. Tất cả những pháp do
nhơn duyên sanh ra, đều là
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh, sao lại nói
Niết Bàn là thường , lạc, ngã tịnh ?
Nếu
Cù Đàm nói rằng cũng là thường cũng vô thườntg, cũng khổ cũng vui, cũng là ngã cũng là
vô ngã, cũng tịnh cũng
bất tịnh, như thế há chẳng phải là hai lời ư ?
Tôi cũng từng nghe bực
tôn túc nói nếu Phật ra đời thời
lời nói không hai. Nay
Cù Đàm nói hai lời, lại xưng rằng Phật chính là thân ta đây. Xin
giải thích những điều tôi đã hỏi .
Phật nói : Nầy
bà La Môn !
Cứ theo lời của ông, nay tôi hỏi ông
tùy ý ông đáp.
Nầy
Bà La Môn ! Tánh của ông là
thường hay là
vô thường ?
_ Tánh của tôi là thường.
Nầy
Bà La Môn ! Tánh ấy có thể làm nhơn cho tất cả pháp trong và ngoài chăng ?
_ Chính thế, thưa
Cù Đàm.
_ Nầy
Bà La Môn ! Tánh ấy làm nhơn như thế nào ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Từ tánh sanh ra đại, từ đại sanh mạn, từ mạn sanh mười sáu pháp : Năm đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, năm
tri căn là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, năm
nghiệp căn là tay , chơn, miệng tiếng,
nam căn,
nữ căn, cùng
tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp nầy do năm pháp : Sắc, thinh, hương, vị, xúc sanh ra. Hai mươi mốt pháp nầy có ba pháp căn bổn : Nhiễm, thô và đen. Nhiễm là ái, thô là sân, đen là
vô minh. Hai mươi ba pháp nầy, đều nhơn nơi tánh mà sanh.
_ Nầy
Bà La Môn ! Những pháp đại, mạn v.v… là
thường hay vô thường ?
_ Thưa
Cù Đàm theo
giáo pháp của tôi thời tánh là thường, những pháp đại v.v… đều là
vô thường.
_ Nầy
Bà La Môn ! Như trong pháp của ông nhơn là thường còn quả là
vô thường. Trong pháp của ta dầu nhơn là
vô thường nhưng quả là thường, thời có lỗi gì ?
Nầy
Bà La Môn ! Trong pháp của các ông có hai nhơn chăng ?
_ Thưa
Cù Đàm, có.
_ Thế nào là hai ?
_ _ Thưa
Cù Đàm ! Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn .
_ Thế nào là sanh nhơn ? Thế nào là liễu nhơn ?
_ Sanh nhơn như đất sét làm ra cái bình. Liễu nhơn như đèn soi đồ vật.
_ Hai nhơn nầy là một tánh. Đã là một tánh có thể khiến sanh nhơn làm liễu nhơn chăng ? Có thể khiến liễu nhơn làm sanh nhơn chăng ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Không.
_ Nếu như sanh nhơn chẳng làm liễu nhơn, liễu nhơn chẳng làm sanh nhơn, có thể nói là nhơn tướng chăng ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Dầu hai nhơn chẳng làm thành lẫn nhau, nhưng
vẫn có nhơn tướng.
_ Nầy
Bà La Môn ! Vật của liễu nhơn chiếu rõ có đồng với liễu nhơn chăng ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Không .
Phật nói : Trong pháp của ta, dầu do từ
vô thường chứng đặng
Niết Bàn, nhưng
Niết Bàn nầy chẳng phải là
vô thường. Do từ liễu nhơn mà được nên là thường, lạc, ngã, tịnh. Do từ sanh nhơn mà được nên là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh. Do đây nên
đức Như Lai nói có hai thuyết thường và
vô thường. Hai thuyết nầy không có hai lời, nên Phật gọi là không nói hai lời.
Như lời ông nói từng nghe bực
tôn túc bảo rằng Phật ra đời không có hai lời.
Lời nói trên đây rất đúng. Tất cả
chư Phật mười phương ba đời không bao giờ có
lời nói sai, vì có thời đồng nói có, không thời đồng nói không, nên gọi là đồng một nghĩa, do đây nên gọi Phật không nói hai lời.
Nầy
Bà La Môn !
Đức Như Lai dầu gọi là hai lời, nhưng vì để
hiểu rõ một lời. Thế nào là hai lời để
hiểu rõ một lời ? Như
nhãn căn cùng
sắc trần đây là hai lời, sanh ra thức đây là một lời. Nhẫn đến
ý căn cùng
pháp trần sanh ra thức cũng như vậy.
_
Cù Đàm khéo
phân biệt được ngữ nghĩa như vậy. Nay tôi chưa hiểu dùng hai lời để
hiểu rõ một lời.
Đức Thế Tôn liền vì
Bà La Môn mà tuyên nói pháp
tứ đế : Nầy
Bà La Môn !
Khổ Đế cũng hai cũng một, nhẫn đến
đạo đế cũng hai cũng một.
Bà La Môn thưa : “ Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã
hiểu biết rồi”.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông
hiểu biết như thế nào ?
_ Bạch
Thế Tôn !
Khổ đế , tất cả
phàm phu thời hai, còn thánh nhơn thời một. Nhẫn đến
đạo đế cũng như vậy.
_
Lành thay ! Đã hiểu.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi
nghe pháp đã được
chánh kiến, tôi
quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Cúi xin Đức
Đại Từ cho tôi
xuất gia.
Đức Phật bảo
Kiều Trần Như : ‘ Ông nên cạo bỏ râu tóc cho
Xà Đề Thủ Na, cho ông xuất gia”.
Ngài
Kiều Trần Như vâng lời Phật
cạo tóc cho
Xà Đề Thủ Na. Đương lúc cạo có hai thứ rơi xuống : Một là râu tóc, hai là
phiền não.
Xà Đề Thủ Na liền ở nơi chỗ ngồi chứng đặng quả
A La Hán.
Lại có
Phạm Chí Bà Trư
Tra hỏi Phật : “
Cù Đàm nói
Niết Bàn là
thường trụ phải chăng ?”
_ Nầy
Phạm Chí ! Đúng như vậy.
_
Cù Đàm toan chẳng nói rằng không
phiền não là
Niết Bàn ư ?
_ Nầy
Phạm Chí ! Đúng như vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ở
thế gian có bốn thứ gọi là không : Một là những pháp chưa có ra thời gọi là không, như cái bình lúc chưa ra khỏi viên đất thời gọi là không có cái bình. Hai là những pháp đã diệt mất gọi là không, như cái bình đã hư bể thời gọi là không. Ba là lẫn không có tướng loại khác mà gọi là không, như trong bò không có ngựa, trong ngựa không có bò. Bốn là
rốt ráo không nên gọi là không, như
lông rùa sừng thỏ.
Thưa
Cù Đàm ! Nếu vì đã dứt
trừ phiền não mà gọi là
Niết Bàn, thời
Niết Bàn là không có. Nếu đã là không
Niết Bàn, sao lại nói có thường, lạc, ngã, tịnh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Niết Bàn đây chẳng phải là trước không có như cái bình lúc còn là viên đất, cũng chẳng phải dứt mất thành không như cái bình lúc hư bể, cũng chẳng phải
rốt ráo không như
lông rùa sừng thỏ.
Niết Bàn nầy đồng với khác loại mà không.
Như lời ông nói, dầu trong bò không có ngựa, nhưng chẳng được nói rằng bò cũng là không. Dầu trong ngựa không có bò nhưng cũng chẳng được nói rằng ngựa cũng là không.
Niết Bàn cũng như vậy : Trong
phiền não không
Niết Bàn, trong
Niết Bàn không
phiền não, do đây nên gọi là lẫn không có tướng khác nhau.
Thưa
Cù Đàm ! Nếu cho
Niết Bàn là lẫn
không tướng khác nhau, sự không nầy không có thường, lạc, ngã, tịnh, sao
Cù Đàm lại nói
Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Như không tướng khác nhau của ông nói có ba thứ không : Bò, ngựa đều là trước không sau có, đây gọi là trước không ; đã có
trở thành không đây gọi là hư hoại mà không ; không có tướng khác nhau thời như ông đã nói.
Niết bàn không có
ba tướng nầy, nên
Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh.
Như ba thứ bịnh của người đời ; Bịnh nhiệt, bịnh phong, bịnh hàn. Ba thứ thuốc có thể trị được : Tô trị được bịnh nhiệt, dầu trị được bịnh phong, mật trị được bịnh hàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong bịnh phong không có dầu, trong dầu không có bịnh phong, nên dầu có thể trị được bịnh phong. Hai thứ kia cũng như vậy.
Tất cả
chúng sanh có ba thứ bịnh : Tham, sân và si. Có ba thứ
pháp dược trị được ba bịnh nầy :
Bất tịnh quán là thuốc trị được bịnh tham,
từ tâm quán là thuốc trị được bịnh sân,
nhân duyên quán là thuốc trị được bịnh si.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì trừ tham nên
quán pháp chẳng phải tham, vì trừ sân nên
quán pháp chẳng phải sân, vì trừ si nên
quán pháp chẳng phải si. Trong ba thứ bịnh không ba thứ thuốc pháp, trong ba thứ thuốc
pháp không ba thứ bịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì trong ba thứ bịnh không có ba thứ thuốc pháp, nên là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh. Trong ba thứ thuốc
pháp không có ba thứ bịnh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Đức Như Lai vì tôi nói thường là
vô thường. Xin
giải thích thế nào là thường, thế nào là
vô thường ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Sắc ấm là
vô thường,
giải thoát sắc ấm là thường.Nhẫn đến
thức ấm là
vô thường,
giải thoát thức ấm là thường.
Nếu có người nào quán sắc nhẫn đến thức là
vô thường, nên biết rằng người nầy chứng được
pháp thường trụ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi đã biết
pháp thường và pháp
vô thường.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông rõ biết
pháp thường và
vô thường như thế nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi biết
sắc ấm của tôi là
vô thường,
được giải thoát là thường, nhẫn đến thức cũng như vậy.
_
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Nay ông đã đền xong thân nầy.
Đức Phật bảo
Kiều Trần Như : Bà Trư Tra đã
chứng quả A La Hán, ông nên
ban cho Bà Trư Tra ba y và bát.
Ngài
Kiều Trần Như tuân lời Phật trao
y bát cho Bà Trư Tra.
Lãnh
y bát xong , Bà Trư Tra thưa rằng : Bạch
Đại Đức Kiều Trần Như ! Nay tôi do thân tệ ác nầy mà được quả lành. Xin
Đại Đức vì tôi đến bạch với
đức Thế Tôn : Tôi là người
ác xúc phạm đến họ
Cù Đàm của
đức Như Lai. Mong
Đại Đức vì tôi mà
sám hối tội nầy. Tôi cũng không thể ở lâu nơi thân
ác độc nầy. Nay xin
nhập Niết Bàn.
Ngài
Kiều Trần Như liền đến
bạch Phật :
Thế Tôn !
Tỳ Kheo Bà Trư Tra sanh lòng
hổ thẹn, tự nói là hung dữ
xúc phạm họ
Cù Đàm của
đức Như Lai. Nay ông ấy muốn diệt thân, nhờ tôi
sám hối.
Phật nói ; Nầy
Kiều Trần Như !
Tỳ Kheo Bà Trư Tra đã
thành tựu căn lành nơi
vô lượng Phật
quá khứ, nay
thọ giáo với ta mà trụ đúng pháp, vì trụ đúng pháp nên chứng được
chánh quả. Các ông phải
cúng dường thân của ông ấy.
Ngài
Kiều Trần Như nghe Phật dạy xong, đến nơi thân của Bà Trư Tra mà
trần thuyết cúng dường.
Lúc thiêu thân, Bà Trư Tra hiện các thứ
thần thông.
Chúng
ngoại đạo thấy việc nầy đồng to tiếng xướng rằng : Bà Trư Tra đã được
chú thuật của
Sa Môn Cù Đàm, chẳng bao lâu ông sẽ hơn
Sa Môn Cù Đàm.
Lại có
Phạm Chí Tiên Ni hỏi Phật : Thưa
Cù Đàm !
Cù Đàm có
ngã không ?
Đức Như Lai nín lặng.
Tiên Ni lại hỏi : Thưa
Cù Đàm !
Cù Đàm không có ngã ư ?
Đức Như Lai cũng nín lặng.
Tiên Ni hỏi luôn mấy lần như vậy,
đức Phật đều nín lặng.
Tiên Ni nói : Thưa
Cù Đàm ! Nếu tất cả
chúng sanh có ngã khắp tất cả chỗ là một
tác giả, cớsao
Cù Đàm nín lặng chẳng
trả lời ?
Phật nói : Nầy
Tiên Ni ! Ông nói ngã đó là khắp tất cả chỗ
phải chăng ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Chẳng những là tôi nói, mà tất cả người trí cũng nói như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ngã đó cùng khắp tất cả chỗ lẽ ra phải
đồng thời thọ báo trong
ngũ đạo. Nếu
đồng thời thọ báo nơi
ngũ đạo, hàng
Phạm Chí các ông
duyên cớ gì chẳng gây tạo những điều ác để khỏi
địa ngục, mà lại tu những pháp lành để được thân Trời ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngã trong
giáo pháp của
chúng tôi có hai thứ : Một là ngã tác thân, hai là ngã
thường thân. Vì ngã tác thân mà phải lìa
nghiệp ác để khỏi
địa ngục, phải tu những pháp lành để được sanh lên Trời.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như ông đã nói ngã khắp tất cả chỗ. Ngã đó nếu ở trong tác thân thời là
vô thường. Nếu trong tác thân không có ngã sao lại nói là khắp ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngã của
chúng tôi lập cũng ở trong tác thân, mà cũng là
thường trụ. Như người lúc để lửa cháy nhà, chủ nhà chạy ra ngoài, chẳng thể nói rằng nhà cửa bị cháy chủ nhà cũng bị cháy. Ngã nầy cũng như vậy, đương lúc tác thân
vô thường, ngã nầy xuất ra đi, nên ngã nầy cũng là khắp, cũng là thường.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông nói ngã đó cũng khắp cũng thường, nghĩa nầy không đúng. Vì khắp có hai thứ : Thường và vô thườntg. Lại có hai thứ ; Sắc và
vô sắc. Do đây nên nếu nói rằng khắp tất cả thời cũng là thườntg cũng là
vô thường, cũng là sắc cũng là
vô sắc.
Nếu nói chủ nhà chạy ra khỏi nên chẳng gọi là
vô thường, nghĩa nầy chẳng đúng. Vì nhà chẳng gọi là chủ, chủ chẳng gọi là nhà. Cái bị cháy khác, người chạy ra khác, nên được như vậy. Ngã nầy thời chẳng như vậy, vì ngã là sắc, sắc là ngã, ngã là
vô sắc,
vô sắc là ngã, sao lại nói rằng đương lúc
sắc thân vô thường ngã xuất ra khỏi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ý ông nếu cho rằng : Tất cả chúng sanyh đồng một ngã, thời
trái với pháp
thế gian và
xuất thế gian. Vì pháp
thế gian có
cha mẹ, con trai, con gái. Nếu ngã là một, thời cha là con trai, con trai là cha, mẹ là con gái, con gái là mẹ, thù là thân , thân là thù, đây là kia, kia là đây. Nên nếu nói rằng tất cả
chúng sanh đồng một ngã thời là
trái với pháp
thế gian và
xuất thế gian.
Tiên Ni nói : “ Tôi chẳng nói tất cả
chúng sanh đồng một ngã. Mà tôi nói mỗi người đều riêng có một ngã”.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ông nói một người đều riêng có một ngã, đây là nhiều ngã, thời không đúng nghĩa. Vì như trước kia ông nói, ngã khắp tất cả chỗ. Nếu đã khắp tất cả thời tất cả
chúng sanh lẽ ra phải đồng một
nghiệp căn : Lúc được Trời mà thấy thời lúc được Phật cũng thấy, lúc được thân Trời làm, thời lúc được Phật cũng làm, nghe biết và nhẫn đến tất cả pháp cũng như vậy.
Nếu được thân Trời mà thấy chẳng phải là được Phật mà thấy thời chẳng nên nói rằng ngã khắp tất cả chỗ. Nếu ngã chẳng khắp thời là
vô thường.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngã của tất cả
chúng sanh khắp tất cả. Còn pháp cùng
phi pháp chẳng khắp tất cả. Do nghĩa nầy nên
tác dụng của Phật khác,
tác dụng của Trời khác. Chẳng nên nói rằng lúc Phật thấy lẽ ra Trời cũng thấy, lúc Phật nghe Trời cũng nên nghe.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Pháp và
phi pháp chẳng phải là nghiệp làm ra ư ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Là nghiệp làm ra.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu pháp cùng
phi pháp là nghiệp làm ra thời là đồng pháp, sao nói rằng khác. Vì chỗ nghiệp của Phật có ngã của Trời, chỗ ngã của Trời có ngã của Phật, do đây nên lúc Phật
tác dụng, Trời cũng
tác dụng, pháp và
phi pháp cũng phải như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu tất cả
chúng sanh pháp cùng
phi pháp là như vậy, thời
quả báo lẽ ra chẳng khác.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Từ nơi nhơn sanh ra quả, nhơn nầy trọn chẳng
suy nghĩ phân biệt ta chỉ nên là quả
Bà La Môn, chẳng làm quả cho Sát Lợi,
Tỳ Xá,
Thủ Đà. Vì từ nhơn sanh ra quả trọn chẳng trở ngại đối với bốn giòng như vậy. Pháp cùng
phi pháp cũng như vậy, không thể
phân biệt ta chỉ nên làm quả Phật, chẳng làm quả Trời, hoặc ta chỉ làm quả Trời chẳng làm quả Phật. Vì nghiệp
bình đẳng vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Như trong một nhà có trăm ngàn
ngọn đèn,
ngọn đèn có khác nhưng ánh sáng thời không khác.
Ngọn đèn khác nhau dụ cho pháp cùng
phi pháp, ánh sáng không sai khác dụ cho ngã của
chúng sanh.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông đem đèn sáng để dụ cho ngã đó, không được đúng nghĩa. Vì đèn khác nhà khác. Ánh sáng của đèn cũng ở bên
ngọn đèn mà cùng khắp trong nhà. Ngã của ông nói nếu đồng như vậy thời bên pháp và
phi pháp đều phải có ngã, trong ngã cũng phải có pháp và
phi pháp đều phải có ngã, trong ngã cũng phải có pháp và
phi pháp. Nếu pháp cùng
phi pháp không có ngã, thời chẳng được nói rằng ngã khắp tất cả chỗ. Nếu đều chung có cả, đâu đặng dùng đèn và ánh sáng để làm ví dụ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ý của ông cho rằng
ngọn đèn cùng ánh sáng thiệt khác nhau,
duyên cớ gì
ngọn đèn thêm thời ánh sáng nhiều,
ngọn đèn lụn thời ánh ssáng mất. Do đây chẳng nên đem pháp cùng
phi pháp dụ như
ngọn đèn, ánh sáng không khác dụ cho ngã. Vì pháp và
phi pháp cùng với ngã ba thứ là một.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngài dẫn ví dụ
ngọn đèn, việc đó chẳng tốt. Vì ví dụ
ngọn đèn nếu là tốt thời tôi đã dẫn trước rồi. Như ví dụ đó chẳng tốt cớ sao ngài lại nói ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ví dụ ta dẫn ra đó đều chẳng làm tốt cùng chẳng tốt, đó là theo ý của ông để nói. Trong ví dụ đó cũng trình bày
hai nghĩa rời ngoài
ngọn đèn có ánh sáng và chính nơi
ngọn đèn có ánh sáng, ý ông chẳng
bình đẳng nên ông nói
ngọn đèn dụ cho pháp cùng
phi pháp, ánh sáng thời dụ cho ngã. Do đây nên ta trách ông :
Ngọn đèn chính là ánh sáng, rời
ngọn đèn có ánh sáng. Trong pháp có ngã, trong ngã có pháp, trong
phi pháp có ngã, trong ngã có
phi pháp. Nay cớ gì ông chỉ nhận lấy một bên bỏ một bên. Ví dụ như vậy là chẳng tốt đối với ông, nên nay ta
trở lại dẫn ví dụ đó để
dạy bảo ông.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ví dụ như vậy thời chẳng thành, vì chẳng thành ví dụ nên với ta thời tốt, mà chẳng tốt đối với ông.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ý ông cho rằng nếu tôi chẳng tốt thời ngài cũng chẳng tốt.
Ý nghĩ nầychẳng đúng, vì thấy người đời
dùng sức mình để hại lấy mình, tự mình làm ra mà người khác
thọ dụng. Ví dụ của ông dẫn ra đó cũng như vậy. Nơi ta thời tốt, nơi ông thời chẳng tốt.
_ Thưa
Cù Đàm ! Vừa rồi ngài trách tôi tâm chẳng
bình đẳng, nay
lời nói của ngài cũng chẳng
bình đẳng. Vì ngài lấy tốt về mình, mà chẳng tốt lại để cho tôi. Cứ đây mà suy thời thật là chẳng
bình đẳng.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Sự bất bình của ta có thể phá được sự bất bình của ông, do đây nên ông được bình, sự bất bình của ta chính là tốt vậy. Sự bất bình của ta phá sự bất bình của ông, làm cho ông được bình cũng chính là ta
bình đẳng, vì đồng được
bình đẳng với các thánh nhơn.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngã thường là
bình đẳng, sao ngài lại nói
phá hoại sự bất bình của tôi. Tất cả
chúng sanh bình đẳng có ngã sao ngài nói rằng ngã là bất bình ?
_ Nầy
Thiện nam Tử ! Ông cũng có nói rằng : Sẽ thọ
quả địa ngục, sẽ thọ quả
ngạ quỉ, sẽ thọ quả
súc sanh, sẽ thọ quả nhơn , thiên. Nếu ngã đã khắp trong
ngũ đạo, sao ông lại nói sẽ thọ quả nơi các loài ?
Ông cũng nói rằng
cha mẹ hòa hiệp rồi sau mới sanh con. Nếu con đã có trước, sao ông lại nói hòa hiệp rồi mới có. Nếu một người có thân trong
ngũ đạo, đã là trước có thân trong
ngũ đạo,
duyên cớ gì lại vì thân mà tạo nghiệp. Do nghĩa trên đây nên là chẳng
bình đẳng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ý của ông nếu cho rằng ngã là
tác giả, thời cũng chẳng đúng. Vì nếu ngã là
tác giả,
duyên cớ gì ngã lại tự làm ra sự khổ. Nhưng hiện nay
chúng sanh thiệt có bị khổ nên biết rằng ngã chẳng phải
tác giả.
Nếu ông nói sự khổ nầy chẳng phải ngã làm ra, chẳng
do nơi nhơn sanh, thời tất cả pháp cũng phải như vậy, chẳng do nhơn sanh, cớ gì lại nói là ngã làm ra .
Nầy
Thiện Nam Tử ! Sự khổ vui của
chúng sanh thiệt
do nơi nhơn duyên. Sự khổ vui nầy có thể làm
chúng sanh lo và mừng. Lúc lo không mừng, lúc mừng không lo, hoặc mừng hoặc lo, người trí đâu nên nói đó là
thường trụ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói ngã là thường. Nếu ngã là thường, sao lại nói có mười
thời kỳ sai khác. Đã là thường lẽ ra chẳng có
thời kỳ đậu thai nhẫn đến
thời kỳ già.
Phật pháp thường như
hư không còn chẳng có một
thời kỳ, huống lại có cả mười
thời kỳ !
Nếu ngã chẳng phải là
thời kỳ đậu thai nhẫn đến chẳng phải
thời kỳ già, sao lại nói có mười
thời kỳ sai khác.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ngã là
tác giả, ngã nầy cũng có lúc thạnh lúc suy,
chúng sanh cũng có lúc thạnh lúc suy. Nếu ngã đã như vậy sao lại là thường.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ngã là
tác giả, sao một người lại có khôn lanh, có
đần độn ? Nếu ngã là
tác giả, ngã nầy có thể làm ra
thân nghiệp và
khẩu nghiệp.
Thân nghiệp và
khẩu nghiệp nếu là ngã làm ra, sao miệng lại nói rằng không có ngã ư ? Sao lại tự nghi có ngã hay không có ngã ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ý ông cho rằng rời ngoài
nhãn căn có sự thấy. Lời nầy không đúng, vì nếu ngoài
nhãn căn đã riêng có sự thấy thời cần gì đến
nhãn căn nầy ? Như
nhãn căn,
nhĩ căn v.v… cũng như vậy. Nếu ý ông cho rằng dầu ngã có thể thấy nhưng
cần phải do
nhãn căn mới thấy, nghĩa nầy cũng chẳng đúng. Như có người nói rằng bông
Tu mạn na có thể đốt cháy cả thôn xóm lớn, tại sao có thể cháy ? Vì lửa có thể cháy. Ông lập ngã có thể thấy cũng như vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Như người cầm liềm thời có thể cắt cỏ. Ngã nhơn nơi năm căn mà có thể thấy nghe nhẫn đến xúc cũng như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Liềm cùng người đều khác nhau, nên người cầm liềm thời cắt được cỏ. Rời ngoài năm căn không có ngã riêng khác, sao lại nói rằng ngã nhơn nơi năm căn mà có
công năng ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! nếu ý ông cho rằng vì cầm liềm nên có thể cắt cỏ, ngã cũng như vậy. Như thế thời ngã có tay hay không tay ? Nếu có tay sao ngã chẳng tự cầm ? nếu
ngã không có tay sao lại nói rằng ngã là
tác giả ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có thể cắt cỏ đó chính là cái liềm, chẳng phải ngã cũng chẳng phải người. Nếu ngã và người có thể cắt cớ sao lại nhơn nơi cái liềm !
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người có hai
tác động : Một là nắm lấy cỏ, hai là cầm cái liềm. Cái liềm nầy thời chỉ có
công năng xén cắt,
Chúng sanh ngó thấy các pháp cũng như vậy :
Nhãn căn có thể thấy sắc, từ
nhơn duyên hòa hiệp mà có ra sự thấy đó. Nếu đã từ
nhơn duyên hòa hiệp , người trí sao lại nói là có ngã ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ý ông cho rằng thân làm mà ngã thọ, cũng không đúng nghĩa. Vì
trong đời không bao giờ thấy Trời tạo nghiệp mà
Phật thọ quả.
Nếu nói rằng chẳng phải là thân làm, ngã chẳng phải thọ, cớ sao các ông lại từ nơi
nhơn duyên tu hành để cầu
giải thoát ?
Thân nầy của ông trước kia chẳng phải
nhơn duyên sanh. Khi
được giải thoát rồi cũng lẽ ra không do
nhơn duyên mà lại sanh ra thân. Như thân , tất cả
phiền não cũng như vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngã có hai thứ : Một là hữu tri, hai là
vô tri. Ngã
vô tri có thể thọ lấy thân,
ngã hữu tri có thể rời bỏ thân. Như cái bình đất, khi đã bị nung rồi thời mất màu sắc đất, chẳng còn sanh
trở lại,
phiền não của người trí cũng như vậy, đã dứt, mất rồi thời trọn chẳng còn sanh.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói là hữu tri đó, là trí có thể biết hay ngã có thể biết ? Nếu trí có thể biết sao lại nói rằng ngã là hữu tri ? Nếu ngã có thể biết cớ gì phải dùng
phương tiện tu hành để cầu có trí ? Nếu ý ông cho rằng ngã nhơn nơi trí mà có biết thời đồng với điều dụ bông đốt cháy trước kia.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như cây gai tánh của nó tự có thể đâm, chẳng được nói rằng cây cầm gai để đâm. Trí cũng như vậy : Trí tự có thể
hiểu biết. Sao lại nói rằng ngã cầm lấy trí để biết ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như trong pháp của ông nói ngã
được giải thoát, là ngã
vô tri được giải thoát, hay là
ngã hữu tri được ?
Nếu là ngã
vô tri được thời phải biết rằng vẫn còn đủ
phiền não. Nếu là
ngã hữu tri được thời nên biết rằng đã có
ngũ căn, vì ngoài
ngũ căn không còn có sự biết. Nếu đã đủ
ngũ căn thời sao lại nói là
được giải thoát ?
Nếu cho rằng tánh của ngã nầy
thanh tịnh rời ngoài
ngũ căn, sao lại nói rằng ngã khắp trong
ngũ đạo,
duyên cớ gì tu các pháp lành để
được giải thoát ?
Nầy
Thiện nam Tử ! Như có người nhổ gai
hư không. Ông cũng như vậy : Nếu ngã đã
thanh tịnh sao lại nói rằng dứt các
phiền não ?
Nếu ý ông cho rằng chẳng do
nhơn duyên mà
được giải thoát, cớ gì tất cả
chúng sanh lại chẳng được ?
_ Thưa
Cù Đàm !
Nếu không có ngã thời cái gì có thể ghi nhớ ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có ngã cớ gì lại quên ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nhớ là ngã, cớ gì lại nhớ những niệm ác, nhớ chỗ chẳng đáng nhớ, chẳng nhớ chỗ đáng nhớ ?
_ Thưa
Cù Đàm !
Nếu không có ngã thời cái gì thấy, cái gì nghe ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong có sáu căn, ngoài co
sáu trần,
căn trần hòa hiệp sanh ra sáu thức . Sáu thức nầy theo
nhơn duyên mà được có tên.
Như một thứ lửa
do nơi cây mà có lửa thời gọi là lửa cây, nhơn nơi cỏ thời gọi là lửa cỏ, nhơn nơi trấu thời gọi là lửa trấu, nhơn nơi phân bò thời gọi là lửa phân bò.
Ý thức của
chúng sanh cũng như vậy : Nhơn nơi
nhãn căn,
sắc trần, ánh sáng và
tác ý thời gọi đó là
nhãn thức.
Nhãn thức nầy chẳng ở trong
nhãn căn nhẫn đến chẳng ở trong
tác ý, do bốn thứ hòa hiệp nên sanh ra thức nầy. Nhẫn đến
ý thức cũng lại như vậy.
Nếu đã là
nhơn duyên hòa hiệp mà sanh ra, người trí chẳng nên nói rằng sự thấy chính là ngã, sự nghe nhẫn đến chạm xúc chính là ngã.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do nghĩa trên đây nên ta nói rằng
nhãn thức nhẫn đến
ý thức, tất cả các pháp đều là
như huyễn,
Thế nào là
như huyễn ? Vì trước không nay mới có, đã có rồi
trở lại không .
Như tỏi, bột, mật, gừng, tiêu, tất lăng, nho, hồ đào,
thạch lựu , hột quì, các thứ ấy hòa hiệp lại gọi là huờn thuốc
hoan hỷ. Rời ngoài sự hòa hiệp nầy thời không có huờn
hoan hỷ.
Do căn nơi trong, trần nơi ngoài mà gọi là
chúng sanh, là ngã, nhơn,
sĩ phu. Ngoài căn và trần nầy không riêng có
chúng sanh, ngã, nhơn,
sĩ phu.
_ Thưa
Cù Đàm !
Nếu không có ngã, sao lại nói rằng ; ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui, ta lo, ta mừng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu cho rằng ta thấy, ta nghe v.v… gọi là có ngã đó, cớ gì người đời, lại nói rằng tội của người làm ra chẳng thấy nghe ?
Như bốn đoàn binh hiệp lại gọi là quân đoàn, bốn đoàn binh chẳng gọi là một, mà cũng nói rằng quân ta mạnh mẽ quân ta thắng địch.
Nội căn ngoại trần hòa hiệp làm ra cũng như vậy, dầu chẳng phải là một, nhưng cũng được nói rằng : Ta làm, ta thọ, ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui.
_ Thưa
Cù Đàm ! Cứ như lời ngài : “
Nội căn và
ngoại trần hòa hiệp”, thời ai ra tiếng nói rằng : Ta làm ta thọ ?
_ Nầy
Tiên Ni !
Từ ái vô minh nhơn duyên sanh ra nghiệp, từ nghiệp sanh ra hữu, từ hữu xuất sanh
vô lượng tâm sở,
tâm sở sanh ra
giác quán,
giác quán động đến hơi gió, hơi gió theo tâm chạm xúc cổ họng lưỡi răng môi ,
chúng sanh điên đảo phát ra tiếng nói rằng ta làm , ta thọ, ta thấy, ta nghe.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như cái linh đầu cột phướn, do gió động bèn phát ra tiếng, gió lơnù thời tiếng lớn, gió nhỏ thời tiếng nhỏ, không có
tác giả.
Lại như sắc nóng ném vào trong nước phát ra nhiều tiếng, nơi đây thật ra cũng không có
tác giả.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Phàm phu không thể
tư duy phân biệt việc như vậy, nên nói rằng có
ngã và ngã sở, ngã tác, ngã thọ.
Như
Cù Đàm nói không có
ngã và ngã sở,
duyên cớ gì ngài lại nói có thường, lạc, ngã, tịnh ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta chẳng nói sáu căn
sáu trần và sáu thức là thường, lạc, ngã, tịnh. Mà ta
tuyên bố rằng diệt sáu thức do
nội căn ngoại trần sanh ra gọi đó là thường, do thường đây mà gọi là ngã, vì có thường ngã nên gọi là lạc, vì có
thường lạc ngã nên gọi là tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh nhàm sự khổ mà dứt khổ nhơn nầy, được
xa lìa tự tại đây gọi là
vô ngã. Do
nhơn duyên nầy nên nay ta thiết thiệt nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
Tiên Ni thưa rằng : Bạch
Thế Tôn ! Xin đức
Đại Từ dạy bảo cho tôi phải làm thế nào để được thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Từ trước
đến nay tất cả
thế gian có đủ sự
ngã mạn lớn, lại
tăng trưởng ngã mạn, cũng lại làm ra mạn nhơn,
mạn nghiệp, nên nay thọ lấy
quả báo của mạn, không thể
xa lìa tất cả
phiền não để được thường, lạc, ngã, tịnh.
Nếu
chúng sanh muốn được
xa lìa tất cả
phiền não, trước hết phải
xa lìa ngã mạn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như
lời Phật dạy. Từ trước tôi có
ngã mạn, do
ngã mạn nên gọi
đức Như Lai là
Cù Đàm. Nay tôi đã lìa
ngã mạn đó nên
thành tâm thỉnh cầu giáo pháp : Làm thế nào sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ
giải thuyết cho ông.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người có thể chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải
chúng sanh,
xa lìa pháp nầy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã
hiểu rõ đã được
chánh pháp nhãn.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Do đâu mà ông nói rằng đã biết, đã hiểu, đã được
chánh pháp nhãn.
_ Bạch
Thế Tôn !
Sắc ấm chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải
chúng sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tôi
quán sát như
vậy mà được
chánh pháp nhãn.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi rất muốn
xuất gia tu học, xin
đức Như Lai nhận cho.
Đức Phật gọi : “
Thiện Lai Tỳ Kheo !”
Liền đó
Tiên Ni được đầy đủ
phạm hạnh thanh tịnh chứng quả A La Hán.
Trong chúng
ngoại đạo lại có
Phạm Chí họ
Ca Diếp lên tiếng rằng : Thưa
Cù Đàm ! Thân tức là mạng, hay là thân khác mạng khác ?
Đức Như Lai nín lặng.
Phạm Chí hỏi lần thứ hai lần thứ ba,
đức Như Lai vẫn nín lặng.
Phạm Chí lại nói : Thưa
Cù Đàm ! Như người lúc chết chưa thọ lấy thân sau, chặn giữa đó đâu được chẳng gọi rằng thân khác mạng khác. Nếu là khác tại sao
Cù Đàm nín lặng chẳng
trả lời ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta nói thân và mạng đều từ
nhơn duyên, chẳng phải là không
nhơn duyên. Như
thân mạng tất cả pháp cũng như vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Tôi thấy
thế gian cũng có
pháp không từ
nhơn duyên.
Nầy
Phạm Chí ! Ông thấy
thế gian có pháp chẳng từ
nhơn duyên như thế nào ?
_ Tôi thấy lửa lớn đốt cháy lùm cây, gió thổi bức ngọn lửa rớt ở chỗ khác, đây há chẳng gọi là không
nhơn duyên ư ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Lửa nầy cũng từ nhơn mà sanh, chẳng pải là không nhơn.
Thưa
Cù Đàm ! Lúc ngọn lửa bức bay đi chẳng nhơn củi than, sao lại nói rằng từ nơi nhơn mà sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Dầu không củi than nhưng nhơn gió mà đi, do gió nên ngọn lửa đó chẳng tắt.
_ Thưa
Cù Đàm ! Nếu người chết lúc chưa thọ thân sau,
thọ mạng ở chặn giữa cái gì làm
nhơn duyên ?
_ Nầy
Phạm Chí ! Chính
vô minh cùng ái làm
nhơn duyên mà
thọ mạng nầy được còn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì có
nhơn duyên nên thân là mạng, mạng là thân, vì có
nhơn duyên nên thân khác, mạng khác. Người trí chẳng nên một bề nói rằng thân khác mạng khác.
_ Bạch
Thế Tôn ! Xin
giải thuyết cho tôi rõ biết được nhơn quả.
_ Nầy
Phạm Chí ! Nhơn là
ngũ ấm, quả cũng là
ngũ ấm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
chúng sanh chẳng đốt lửa thời không khói.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã hiểu rồi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông
hiểu biết như thế nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Lửa là nói
phiền não có thể đốt cháy nơi
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhơn thiên. Khói là nói
quả báo phiền não :
Vô thường bất tịnh hôi nhơ
đáng ghét đáng nhàm. Nếu
chúng sanh chẳng khởi
phiền não thời không có
quả báo của
phiền não. Do đây nên
đức Như Lai nói không đốt lửa thời không có khói.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã được
chánh kiến xin
thương xót cho tôi
xuất gia.
Đức Phật bảo
Kiều Trần Như cho
Phạm Chí nầy
xuất gia thọ giới.
Ngài
Kiều Trần Như tuân lời Phật hòa hiệp
chúng Tăng cho
Phạm Chí xuất gia thọ giới Cụ Túc. Năm ngày sau ,
Phạm Chí nầy chứng được
A La Hán.
Trong chúng
ngoại đạo lại có
Phạm Chí Phú Na lên tiếng rằng : “ Thưa
Cù Đàm ! Ngài thấy
thế gian là
pháp thường trụ mà nói là thường
phải chăng ?
Nghĩa như vậy là thiệt hay hư ? Là
thường hay vô thường ? Là cũng thường,
vô thường ? Là chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường ? Là
hữu biên, là
vô biên ? Là cũng
hữu biên cũng
vô biên ? Là chẳng phải
hữu biên, chẳng phải
vô biên ? Là thân là mạng ? Thân khác mạng khác ?
Như Lai sau khi
diệt độ, như mà đi hay chẳng như mà đi ? Cũng như mà đi cũng chẳng như mà đi ? Chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi ?
_ Nầy
Phú Na ! Ta chẳng nói
thế gian là thường là hư là thiệt là
vô thường v.v… nhẫn đến cũng chẳng nói chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi.
_ Thưa
Cù Đàm ! Nay thấy
tội lỗi gì mà ngài chẳng nói như vậy ?
_ Nầy
Phú Na ! Nếu có người nói rằng
thế gian là thường, chỉ đây là chơn thật
ngoài ra đều là
vọng ngữ.
Quan niệm nầy gọi là kiến, chỗ bị thấy gọi là
kiến hành, gọi là kiến nghiệp, gọi là kiến trước, gọi là
kiến phược, gọi là kiến khổ, gọi là
kiến thủ, gọi là kiến bố, gọi là kiến nhiệt, gọi là kiến triền.
Nầy
Phú Na !
Phàm phu bị
kiến chấp ràng buôc nên không thể
xa lìa sanh già, bịnh, chết mà
lưu chuyển trong
sáu đường , thọ
vô lượng sự khổ. Nhẫn đến chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi cũng như vậy.
Nầy
Phú Na ! Ta thấy
kiến chấp nầy có lỗi như vậy, nên ta
chấp trước cũng chẳng nói với người.
_ Thưa
Cù Đàm ! Nếu thấy
tội lỗi như
vậy mà chẳng
chấp trước chẳng nói. Nay
Cù Đàm thấy gì ? Trước gì ?
Tuyên thuyết những gì ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về người kiến trước gọi là pháp
sanh tử .
Như Lai đã rời pháp
sanh tử nên chẳng kiến trước.
Như Lai gọi là năng kiến,
năng thuyết , mà chẳng phãi là
chấp trước.
_ Thưa
Cù Đàm ! Thế nào là năng kiến ? Thế nào là
năng thuyết ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta có thể thấy rõ
khổ tập diệt đạo, ta
phân biệt tuyên thuyết bốn đế lý nầy như vậy. Vì ta thấy như vậy nên
xa lìa được tất cả
kiến chấp, tất cả ái, tất cả lưu, tất cả mạn. Do đây nên ta có đủ
phạm hạnh thanh tịnh tịch tịnh vô thượng, được thân
thường trụ. Thân đây chẳng phải đông tây nam bắc.
_ Thưa
Cù Đàm ! Cớ gì thân
thường trụ chẳng phải đông tây nam bắc ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nay ta hỏi ông
tùy ý ông đáp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như ở trước ông đốt đống lửa lớn, đương lúc lửa cháy ông có biết là lửa cháy không ?
_ Tôi biết là lửa cháy.
_ Lúc lửa tắt ông có biết là lửa tắt không ?
_ Tôi biết là lửa tắt.
_ Nầy
Phú Na ! Nếu có người hỏi ông đống lửa
trước mặt ông từ đâu mà cháy ? Tắt rồi đi về đâu ? Thời ông sẽ đáp thế nào ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Tôi sẽ đáp rằng : Lúc lửa nầy có ra là nhờ các duyên. Duyên cũ đã hết, duyên mới chưa đến thời lửa nầy phải tắt.
_ Nầy
Phú Na ! Nếu họ lại hỏi lửa nầy đã tắt đi đến chỗ nào ? Thời ông sẽ đáp ra sao ?
_ Thưa
Cù Đàm ! Tôi sẽ đáp rằng : Duyên hết nên tắt chẳng đến chỗ nào.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Như Lai cũng như vậy. Sắc
vô thường nhẫn đến thức
vô thường do ái mà cháy lên, vì cháy lên mà phải thọ lấy thân trong hai mươi lăm cỏi. Lúc cháy lên đó có thể nói là Đông, Tây, Nam, Bắc.
Hiện tại ái đã diệt,
quả báo hai mươi lăm cõi chẳng còn cháy, vì chẳng cháy nên không thể nói là có Đông , Tây, Nam, Bắc…
Nầy
Thiện Nam Tử Như Lai đã dứt
sắc ấm vô thường nhẫn đến dứt
thức ấm vô thường, nên thân của
Như Lai là
thường trụ. Thân đã là thường chẳng nói rằng có Đông Tây Nam Bắc.
Phú Na thưa rằng xin trình bày một ví dụ, mong
Thế Tôn nghe cho.
_
Lành thay !
Lành thay ! Ông cứ
tùy ý mà nói.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như ngoài thôn lớn có rừng
Ta La, trong rừng có một cây mọc trước khi thành rừng đủ một trăm năm. Lúc đó chủ rừng lấy nước tưới cây nầy, theo
thời tiết mà
săn sóc. Cây nầy già, mục, vỏ, lá, nhánh đều rơi rớt chỉ còn lõi chắc.
Đức Như Lai cũng như vậy : Tất cả những gì có đã cũ hư thảy đều trừ hết, chỉ còn có tất cả pháp chơn thật.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi rất thích
xuất gia tu hành.
Phật bảo : “
Thiện Lai Tỳ Kheo !”
Vừa dứt tiến,
Phú Na liền
biến thành tướng
Tỳ Kheo, dứt hết
phiền não, chứng được quả
A La Hán.
Lại có
Phạm Chí tên
Thanh Tịnh lên tiếng rằng : “ Thưa
Cù Đàm ! Do chẳng biết pháp gì mà tất cả
chúng sanh thấy
thế gian là thường, là
vô thường, cũng thường, cũng
vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường, nhẫn đến chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi ?”
_ Nầy
Thiện Nam Tử !Vì chẳng biết sắc, nhẫn đến chẳng biết thức nên thấy
thế gian là thường, nhẫn đến thấy chẳng phải chẳng như mà đi.
_ Thưa
Cù Đàm ! Do
chúng sanh biết pháp gì mà chẳng thấy
thế gian là thường nhẫn đến chẳng thấy chẳng phải, chẳng như mà đi ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên chẳng thấy
thế gian là thường nhẫn đến chẳng thấy chẳng phải chẳng như mà đi.
_ Bạch
Thế Tôn ! Xin vì tôi mà
giải thuyết thế gian là thường cùng
vô thường.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người bỏ nghiệp cũ chẳng gây tạo nghiệp mới, người nầy có thể biết thường cùng
vô thường.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã
hiểu biết.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông thấy biết thế nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Cũ là nói
vô minh cùng ái, mới là nói thủ và hữu. Nếu người
xa lìa vô minh ái nầy mà chẳng gây tạo thủ và hữu, người nầy thật biết thường và
vô thường.
Nay tôi đã được
pháp nhẫn thanh tịnh quy y Tam Bảo. Xin
đức Như Lai cho tôi
xuất gia.
Phật bảo Kiều Trần Như cho
Phạm Chí Thanh Tịnh nầy
xuất gia.
Ngài
Kiều Trần Như tuân lời Phật, dắùt
Thanh Tịnh đến trong Tăng làm pháp
Yết Ma cho
xuất gia. Sau đó mười lăm ngày,
Tỳ Kheo Thanh Tịnh dứt hết
phiền não chứng quả A La Hán.
Phạm Chí Độc Tử thưa rằng : “ Thưa
Cù Đàm ! Nay tôi muốn hỏi ngài có
cho phép chăng ?”
Đức Như Lai nín lặng.
Thưa lần thứ hai lần thứ ba,
Đức Như Lai vẫn nín lặng.
Độc Tử thưa rằng : “ Từ lâu tôi cùng ngài vẫn là
thân hữu, ngài cùng tôi
nghĩa không có khác, nay tôi muốn hỏi han, cớ sao ngài lại nín lặng ?”
Lúc đó
Đức Thế Tôn nghĩ rằng : “
Phạm Chí nầy tánh tình nho nhã thuần thiện ngay thẳng. Thường vì muốn
hiểu biết mà đến thưa hỏi, chẳng phải vì
não loạn. Nếu ông ấy có hỏi ta nên
tùy ý đáp”.
Suy nghĩ xong Phật nói rằng :
Lành thay !
Lành thay ! Ông
cứ theo chỗ nghi mà hỏi ta sẽ
giải đáp cho.
Độc Tử thưa rằng : “
Thế gian có pháp lành chăng ?”
_ Nầy
Phạm Chí !
Thế gian có pháp lành.
_ Thưa
Cù Đàm !
Thế gian có pháp chẳng lành chăng ?
_ Nầy
Phạm Chí !
Thế gian có pháp chẳng lành.
_ Xin
Cù Đàm vì tôi mà giảng nói, cho tôi biết pháp lành và pháp chẳng lành.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta có thể
phân biệt giảng rộng nghĩa đó. Nay sẽ vì ông mà nói lược.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Dục gọi là pháp chẳng lành,
giải thoát dục gọi là pháp lành. Sân cùng si cũng như vậy.
Sát sanh là pháp chẳng lành, chẳng
sát sanh là pháp lành, nhẫn đến
tà kiến cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta đã vì ông mà nói ba thứ pháp lành cùng chẳng lành và nói mười thứ pháp lành cùng chẳng lành. Nếu hàng
đệ tử của ta có thể
hiểu biết ba thứ nhẫn đến mười thứ pháp lành cùng chẳng lành như vậy, phải biết rằng người nầy có thể dứt hết tham sân, si tất cả
phiền não, dứt tất cả
quả báo sanh tử.
_ Thưa
Cù Đàm ! Trong
Phật pháp có một
Tỳ Kheo nào được như vậy chăng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Phật pháp chẳng phải chỉ có một hai người nhẫn đến trăm ngàn người, mà có
vô lượng Tỳ Kheo dứt được tham, sân, si tất cả
phiền não, tất cả
quả báo sanh tử như vậy.
_ Thưa
Cù Đàm ! Trong
Phật pháp có một
Tỳ Kheo Ni nào được như vậy chăng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Phật pháp đây cũng có
vô lượng Tỳ Kheo Ni dứt được tham, sân, si tất cả
phiền não, tất cả
quả báo sanh tử.
_ Thưa
Cù Đàm ! Trong
Phật pháp có
Ưu Bà Tắc nào siêng năng
giữ giới dứt được lưới nghi chăng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Phật pháp của ta có
vô lượng Ưu Bà tắc tinh tấn giữ giới thanh tịnh, dứt được năm phẩm
kiết sử bực hạ, được quả
A Na Hàm, dứt được lưới nghi.
_ Thưa
Cù Đàm ! Trong
Phật pháp có
Ưu Bà Di nào
tinh cần trì giới thanh tịnh dứt được lưới nghi chăng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Phật pháp ta có
vô lượng Ưu Bà Di tinh cần trì giới thanh tịnh dứt năm phẩm
kiết sử bực hạ, dứt được lưới nghi,
chứng quả A Na Hàm.
_ Thưa
Cù Đàm ! Ngoài những vị trên, trong
Phật pháp có
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di nào hưởng
lạc thú ngũ dục mà tâm dứt được lưới nghi chăng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Phật pháp ta
vô lượng Ưu Bà Tắc cũng như
Ưu Bà Di dứt ba phẩm
kiết sử được quả
Tu Đà Hoàn. Người tham, sân, si mỏng thời được quả
Tư Đà Hàm.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi thích nói
thí dụ, xin ngài
cho phép.
_
Lành thay ! Ông thích nói thời cứ nói.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như
Long Vương Nan Đà và Bạt
Nan Đà bình đẳng mưa to.
Pháp dụ của
Như Lai cũng như vậy,
bình đẳng mưa xuống hàng
Ưu Bà Tắc và
Ưu Bà Di.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu hàng
ngoại đạo muốn đến
Phật pháp để
xuất gia, chẳng rõ
đức Như Lai thử họ trong mấy tháng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Thử họ trong bốn tháng, nhưng bất tất hết thảy đều một hạng.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu chẳng đều một hạng, xin đức
Đại Từ cho tôi
xuất gia.
Đức Thế Tôn bảo
Kiều Trần Như cho
Độc Tử xuất gia thọ giới.
Sau đó mười lăm ngày,
Độc Tử được quả
Tu Đà Hoàn.
Độc Tử nghĩ rằng nếu người có
trí huệ do nơi học mà được, nay tôi đã được có thể đến ra mắt Phật.
Liền đến
lễ Phật bạch rằng : “Thế Tôn ! Những người có
trí huệ từ nơi học mà được, nay tôi đã được. Xin
đức Thế Tôn vì tôi mà
giảng thuyết cho tôi được
trí huệ vô học.
_ Nầy
Thiện nam Tử ! Ông nên
tinh tấn tu tập hai pháp :
Chỉ và quán. Nếu có
Tỳ Kheo muốn được quả
Tu Đà Hoàn cũng phải siêng
tu tập hai
pháp như vậy. Nếu muốn được
Tư Đà Hàm,
A Na hàm,
A La Hán cũng phải
tu tập hai
pháp như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo muốn được
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
lục thần thông,
bát bội xả,
bát thắng xứ,
vô tránh trí, đảnh trí,
tất cánh trí,
tứ vô ngại trí,
kim cang tam muội,
tận trí,
vô sanh trí, cũng phải
tu tập hai
pháp như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu muốn được bực
Thập Trụ,
vô sanh pháp nhẫn,
vô tướng pháp nhẫn,
bất khả tư nghì pháp nhẫn,
thánh hạnh,
phạm hạnh,
thiên hạnh,
Bồ Tát hạnh,
hư không tam muội,
trí ấn tam muội,
không vô tướng
vô tác tam muội, địa
tam muội,
bất thối tam muội,
Thủ Lăng Nghiêm tam muội,
Kim Cang tam muội,
vô thượng Bồ Đề Phật hạnh, cũng phải
tu tập hai
pháp như vậy.
Độc Tử nghe xong
lễ Phật lui ra, ở trong rừng
Ta La tu tập hai
pháp chỉ quán, chẳng bao lâu được quả
A La Hán.
Lúc đó lại có
vô lượng Tỳ Kheo muốn đến chỗ Phật.
Độc Tử hỏi rằng : Chư
Đại Đức muốn đến đâu ?
Các
Tỳ Kheo nói :
Chúng tôi muốn đến Phật.
Độc Tử lại nói : Nếu chư
Đại Đức đến chỗ Phật xin vì tôi bạch cùng Phật rằng
Độc Tử Tỳ Kheo đã
tu tập hai
pháp chỉ quán được trí
vô học, nay
báo ơn Phật mà
nhập Niết Bàn.
Các
Tỳ Kheo đem lời nầy đến bạch cùng Phật.
Phật bảo các
Tỳ Kheo : Nầy các
Thiện Nam Tử !
Độc Tử đã được quả
A La Hán, các ông nên đến
cúng dường thân thể của
Độc Tử.
Các
Tỳ Kheo tuân lời Phật
trở về cúng dường thi hài của
Độc Tử.
Nạp Y Phạm Chí lại
lên tiếng hỏi Phật : Thưa
Cù Đàm ! Như lời
Cù Đàm nói trong
vô lượng đời làm điều lành điều chẳng lành, đời
vị lai trở lại được thân lành thân chẳng lành. Theo ý tôi, lời trên đây không đúng.
Vì như
Cù Đàm từng nói nhơn
phiền não mà cảm lấy thân nầy. Đã nhơn nơi
phiền não mà có thận, thời thân có trước hay
phiền não có trước ? Nếu
phiền não có trước thời ai làm và ở chỗ nào ? Nếu thân có trước thời sao lại nói nhơn
phiền não mà có thân ? Do đây nên nếu nói
phiền não ở trước hay thân ở trước đều không được. Nếu nói đồng một thời cũng chẳng được. Thế là
hoặc trước, hoặcsau,
hoặc đồng một thời, đều chẳng được. Do đây nên tôi nói tất cả pháp đều có
tự tánh chẳng phải từ nơi
nhơn duyên.
Thưa
Cù Đàm ! Lại cứng là tánh của
địa đại, ướt là tánh của
thủy đại, nóng là tánh của hoả đại, động là tánh của
phong đại, không
chướng ngại là tánh của
hư không, tánh của năm đại nầy chẳng phải từ
nhơn duyên mà có. Nếu trong
thế gian có tánh của một pháp chẳng phải từ
nhơn duyên mà có, thời tánh của tất cả pháp cũng phải như vậy. Nếu có một pháp từ nơi
nhơn duyên, cớ gì tánh của
ngũ đại lại chẳng từ nơi
nhơn duyên ?
Thưa
Cù Đàm !
Chúng sanh mà có thân lành, thân chẳng lành, hoặc
được giải thoát đều là
tự tánh cả, chẳng phải từ nơi
nhơn duyên. Nên tôi nói rằng tất cả các pháp do
tự tánh mà có, chẳng phải là
nhơn duyên sanh.
Thưa
Cù Đàm ! Pháp
thế gian có chỗ dùng nhứt định, như người thợ nói cây nầy có thể làm xe cộ, cây nầy có thể làm cửa, làm ván, làm giừơng, làm ghế. Lại như thợ kim hoàn làm ra những đồ trang sức : Đội trên trán thờigọi là tràng, đeo dưới cổ thời gọi là chuỗi, đeo trên tay thời gọi là xuyến, đeo nơi ngón tay thời gọi là nhẫn. Vì chỗ dùng nhứt định nên gọi là
định tánh. Do đây biết rằng tất cả
chúng sanh cũng như vậy : Vì có tánh
ngũ đạo nên có
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, nhơn, thiên. Nếu đã như vậy sao lại nói rằng từ nơi
nhơn duyên.
Thưa
Cù Đàm ! Lại tất cả
chúng sanh tánh của họ đều khác, nên gọi là tất cả
tự tánh. Như con rùa sanh trên đất cao mà nó tự có thể lặn xuống nước, bò con lúc sanh ra nó tự có thể uống sữa, cá thấy mồi
tự nhiên nuốt ăn,
rắn độc lúc sanh ra
tự nhiên ăn đất, những việc như vậy có ai
dạy bảo ? Như gai sanh ra
tự nhiên đầu nhọn, lông cánh của loài chim bay
tự nhiên có màu sắc riêng khác.
Chúng sanh trong
thế gian cũng như vậy : Có khôn lanh, có
đần độn, có giàu, có nghèo, có đẹp, có xấu, có người đượcgiải thoát, có kẻ chẳng được. Do đây nên biết trong tất cả pháp đều riêng có
tự tánh.
Thưa
Cù Đàm ! Lại như ngài từng nói tham, sân, si từ nơi
nhơn duyên mà sanh, ba món độc nầy
do nơi năm trần làm duyên. Theo ý tôi lời trên đây không đúng.
Vì
chúng sanh lúc ngủ
xa lìa năm trần mà cũng vẫn sanh tham, sân, si. Lúc ở trong thai cũng vậy. Lúc mới ra khỏi thai chưa
phân biệt được năm trần là tốt hay xấu mà cũng sanh lòng tham, sân, si. Các vị Tiên Nhơn ở nơi chỗ vắng vẻ. Không có
ngũ trần mà cũng sanh tham, sân, si. Lại cũng có người nhơn nơi năm trần mà sanh
vô tham,
vô sân,
vô si. Do đây nên bất tất từ nơi
nhơn duyên sanh ra tất cả pháp, vì
tự tánh nó sẵn như vậy.
Thưa
Cù Đàm ! Tôi lại thấy
trong đời có người căn thân chẳng đầy đủ mà
giàu có thế lực lớn, có người
thân thể hoàn bị mà nghèo cùng hèn hạ làm tôi làm tớ. Nếu có
nhơn duyên cớ sao lại như vậy ? Do đây nên các pháp đều riêng có
tự tánh chẳng phải do
nhơn duyên.
Thưa
Cù Đàm !
Trong đời những trẻ nhỏ chưa
phân biệt được năm trần,
chúng nó hoặc cười hoặc khóc. Lúc cười biết nó mừng, lúc khóc biết nó buồn. Do đây nên biết tất cả pháp đều riêng có
tự tánh.
_ Thưa
Cù Đàm !
Thế pháp có hai : Có và không. Có là
hư không, không là
sừng thỏ.
Hư không vì là có nên chẳng từ nơi
nhơn duyên,
sừng thỏ vì là không nên cũng chẳng từ nơi
nhơn duyên. Do đây nên biết các pháp cótự tánh chẳng từ nơi
nhơn duyên.
Phật nói : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông nói tất cả pháp cũng như tánh của năm đại. Nghĩa nầy không đúng.
Vì như trong pháp của ông cho năm đại là thường,
duyên cớ gì mà tất cả pháp đều chẳng phải là thường ? Nếu sự vật
trong đời là
vô thường, tánh của năm đại nầy
duyên cớ gì chẳng phải
vô thường. Nếu năm đại là thường thời lẽ ra sự vật
trong đời cũng là thường. Do đây nên ông nói tánh của năm đại vì có
tự tánh chẳng từ nơi
nhơn duyên, khiến tất cả pháp đồng như năm đại, thời không đúng nghĩa.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói vì chỗ dùng nhứt định nên có
tự tánh, nghĩa nầy không đúng. Vì tất cả đồ dùng đều từ nơi
nhơn duyên mà được có
danh tự, nếu đã từ
nhơn duyên có
danh tự thời cũng từ
nhơn duyên mà có nghĩa.
Thế nào gọi là từ
nhơn duyên mà có
danh tự ? Như đồ trang sức ở trên trán thời tên là tràng, ở dưới cổ thời tên là chuổi,ở nơi tay thời gọi là xuyến, và như ở nơi xe thời tên là bánh xe, lửa ở nơi cỏ cây thời tên là lửa cỏ lửa cây.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Cây gỗ lúc mới
sanh không có tánh mũi tên và cây lao. Vì từ nơi
nhơn duyên thợ đẽo làm mũi tên, vì từ nơi
nhơn duyên thợ đẽo làm cây lao. Do đây chẳng nên nói rằng tất cả pháp là có
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói như con rùa sanh trên đất mà tánh tự nó có thể lặn xuống nuớc, bò con mới sanh ra tánh nó có thể uống sửa, lời nầy không đúng. Vì nó chẳng phải
nhơn duyên mà rùa tự xuống nước, sao rùa lại chẳng vào lửa ? Đây là vì điều chẳng phải
nhơn duyên. Bò con lúc sanh ra chẳng từ nơi
nhơn duyên mà tánh nó tự có thể mút vú, sao bò con chẳng tự mút sừng ? Đây là đều chẳng phải
nhơn duyên cả.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói các pháp đều có
tự tánh, chẳng cần
dạy bảo tập làm, không có thêm lên, lời nầy không đúng nghĩa. Vì hiện nay thấy có sự
dạy bảo, nhơn nơi
dạy bảo mà được thêm lên. Do đây nên biết rằng không có
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu tất cả pháp có
tự tánh riêng, thời hàng
Bà La Môn chẳng nên vì được
thân thanh tịnh mà giết dê để cúng tế, nếu đã vì thân mà cúng tế thời nên biết rằng không có
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ngữ pháp của
thế gian đại phàm có ba thứ : Muốn làm, lúc làm, làm rồi.Nếu tất cả pháp đều có
tự tánh cớ sao
thế gian lại có ba ngữ pháp nầy ? Đã có ba ngữ pháp nầy nên biết tất cả pháp đều không có
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói các pháp đều có
tự tánh, nên biết các pháp đều có
định tánh. Nếu có
định tánh thời một thứ mía
duyên cớ gì làm ra mật mía, đường, rượu, rượu đắng. Nếu chỉ có một
tự tánh duyên cớ gì lại sanh ra nhiều vị như vậy ?
Nếu trong một thứ mà sanh ra nhiều thứ thời nên biết rằng các pháp chẳng phải là nhứt định riêng có một
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu tất cả pháp có tánh nhứt định, cớ gì thánh nhơn uống nước mía, ăn đường, lúc thành rượu thời chẳng uống, lúc thành rượu đắng lại uống ? Do đây nên biết không có tánh nhứt định. Nếu đã
không tánh nhứt định tại sao lại chẳng phải từ
nhơn duyên mà có ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói tất cả pháp đều có
tự tánh, tại sao ông lại nói
thí dụ ? Nếu đã có
thí dụ thời nên biết rằng các
pháp không có
tự tánh. Người trí
trong đời đều nói
thí dụ, nên biết rằng các
pháp không có
tự tánh không có tánh nhứt định.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông gạn hỏi thân có trước hay
phiền não có trước, lời hỏi nầy không đúng. Vì nếu ta nói thân có trước, ông mới nên
vấn nạn. Ông cũng đồng như ta cho thân chẳng có trước cớ gì lại
vấn nạn như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh, thân cùng
phiền não đều không có trươc sau, là đồng một thời mà có. Dầu đồng một thời nhưng phải nhơn nơi
phiền não mà được có thân, trọn chẳng nhơn nơi thân mà có
phiền não.
Nếu trong ý ông cho rằng như đôi mắt của người
đồng thời mà có, mắt tả chẳng nhơn hữu, mắt hữu chẳng nhơn mắt tả,
phiền não và thân cũng như vậy. Ý ngĩ nầy chẳng đúng. Vì
trong đời con mắt
ngó thấy ngọn đèn cùng ánh sáng dầu là đồng một thời, nhưng anh sáng
cần phải nhơn nơi
ngọn đèn, chẳng phải nhơn nơi ánh sáng mà có
ngọn đèn.
Nầy
Thiện nam Tử ! Nếu ý ông cho rằng vì thân chẳng có trước nên biết là không
nhơn duyên ý nầy chẳng đúng. Vì nếu cho rằng trước thân không có
nhơn duyên nên gọi là không, thời ông chẳng nên nói tất cả các
pháp không có
nhơn duyên. Nếu nói vì chẳng thấy nên chẳng nói, nay thấy cái bình v.v… từ nơi
nhơn duyên mà có, cớ sao chẳng nói như cái bình,
nhơn duyên ở trước thân cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thấy cùng chẳng thấy, tất cả các pháp có ra đều từ nơi
nhơn duyên, không có
tự tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói tất cả pháp đều có
tự tánh không do
nhơn duyên, cớ gì ông lại nói năm đại ? Tánh của năm đại nầy chính là
nhơn duyên. Dầu năm đại là
nhơn duyên như vậy, cũng chẳng nên nói rằng các pháp đều đồng năm đại làm
nhơn duyên. Như người đời nói tất cả người
xuất gia tinh tấn trì giới, bọn
Chiên Đà La cũng phải
tinh tấn trì giới như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói năm đại có tánh chắc nhứt định. Theo ta thấy thời tánh nầy
chuyển biến chẳng nhứt định. Tô,
bạch lạp, hồ giao, những thứ nầy trong pháp của ông gọi là địa, địa nầy chẳng nhứt định,
hoặc đồng với nước,
hoặc đồng với đất, nên chẳng được nói rằng
tự tánh cứng chắc.
Nầy
Thiện nam Tử ! Nhôm, chì, kẽm, đồng, sắt, vàng , bạc, những thứ nầy trong pháp của ông gọi là hỏa. Hỏa nầy có bốn tánh : Lúc chảy là tánh nước, lúc động là tánh gió, lúc nóng là tánh lửa, lúc cứng là tánh đất, sao lại nói rằng nhứt định gọi là hỏa tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tánh của nước gọi là chảy, nếu lúc nước đông cứng chẳng gọi là địa mà gọi là hỏa tánh, cớ gì lúc sóng động chẳng gọi là phong ? Nếu nổi sóng chẳng gọi là phong , thời lúc đông đặc cũng chẳng nên gọi là hỏa. Nếu bốn tánh nầy từ nơi
nhơn duyên, cớ sao nói rằng tất cả pháp chẳng từ nơi
nhơn duyên ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói rằng năm căn, vì tánh nó hay thấy, nghe, giác, xúc, nên đều là có
tự tánh chẳng từ nơi
nhơn duyên. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì tánh của
tự tánh là không thể
chuyển đổi. Nếu nói tánh của
nhãn căn là thấy, lẽ ra phải thường thấy, chẳng nên có lúc thấy có lúc chẳng thấy. Do đây nên biết rằng
nhãn căn thấy là có
nhơn duyên, chẳng phải không
nhơn duyên.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói chẳng phải nhơn nơi trần mà có tham cùng
giải thoát, lời nầy không đúng nghĩa. Vì dầu chẳng phải
do nơi năm trần mà có tham cùng
giải thoát, nhưng vì
ác giác quán thời sanh
tham dục, vì
thiện giác quán thời
được giải thoát. Do nội
nhơn duyên mà có tham cùng
giải thoát, do ngoại
nhơn duyên mà hai món nầy được
tăng trưởng. Do đây nên lời ông nói tất cả pháp đều riêng có
tự tánh, chẳng nhơn nơi năm trần sanh tham và
giải thoát, là không đúng nghĩa.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói người
thân thể đầy đủ lại nghèo thiếu chẳng
tự do, người tàn tật thời
giàu có tự do, nhơn đây
chứng minh là có
tự tánh, chẳng từ nơi
nhơn duyên. Lời nầy chẳng đúng.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh do nơi nghiệp mà có
quả báo.
Quả báo nầy có ba :
Hiện báo,
sanh báo và
hậu báo. Những người nghèo cùng
giàu có, lành lặn hay tàn tật, đều do nghiệp riêng khác. Nếu là có
tự tánh, người lành lặn lẽ ra phải
giàu có, người
giàu có lẽ ra phải lành lặn. Nay chẳng như vậy, nên biêt rằng không có
tự tánh, mà đều từ nơi
nhơn duyên.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói trẻ nhỏ chưa
phân biệt được năm trần mà cũng khóc cũng cười, để
chứng minh tất cả đều có
tự tánh. Lời nầy chẳng đúng. Vì nếu có
tự tánh lẽ ra cười phải thường cười, khóc phải thường khóc, chẳng nên một cười một khóc. Nếu đã một cười một khóc, thời biết rằng tất cả đều từ
nhơn duyên. Do đây chẳng nên nói rằng tất cả pháp đều có
tự tánh chẳng từ nơi
nhơn duyên.
Phạm Chí nói : Bạch
Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp từ
nhơn duyên mà có,
thân thể nầy từ
nhơn duyên nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Phiền não cùng nghiệp là
nhơn duyên của thân nầy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như thân nầy từ nơi
phiền não và nghiệp mà có, vậy
phiền não và nghiệp nầy có thể dứt được chăng ?
_ Có thể dứt được.
_ Bạch
Thế Tôn ! Xin vì tôi giải nói, cho tôi được nghe liền đây đều dứt đượcphiền não và nghiệp.
_ Nầy
Thiện nam Tử ! Nếu rõ biết hai bên và chặn giữa không
chướng ngại, thời người nầy có thể dứt
phiền não và nghiệp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã
hiểu biết, đã được
chánh pháp nhãn.
Ông biết thế nào ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Hai bên là sắc và sắc
giải thoát,
trung gian chính là
bát chánh đạo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
_
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông biết rõ hai bên
phiền não và nghiệp.
_ Bạch
Thế Tôn ! Xin cho tôi
xuất gia.
_
Thiện Lai Tỳ Kheo !
Liền đó
Nạp Y Phạm Chí dứt
trừ phiền não trong
ba cõi được quả
A La Hán.
Lại có
Bà La Môn Hoằng Quảng nói rằng :
Cù Đàm biết
tâm niệm hiện tại của tôi chăng ?
Phật nói : Nầy
Thiện Nam Tử !
Niết Bàn là thường,
hữu vi là
vô thường, cong là
tà kiến, ngay là
thánh đạo.
_ Cớ gì
Cù Đàm nói như vậy ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Ý của ông thường cho rằng
khất thực là thường,
biệt thỉnh là
vô thường, cong là cửa khóa, ngay là tràng của
Thiên Đế. Do đây nên ta nói những lời vừa rồi, chẳng phải như chỗ
suy nghĩ của ông.
_
Cù Đàm thiệt biết được
tâm niệm của tôi.
Bát chánh đạo đó có thể làm cho
chúng sanh, tất cả đều được tận diệt chăng ?
Đức Thế Tôn nín lặng.
_
Cù Đàm đã biết
tâm niệm của tôi, nay tôi hỏi sao lại nín lặng mà chẳng đáp ?
Lúc đó
Kiều Trần Như liền nói : Nầy
Đại Bà La Môn ! Nếu có người hỏi
thế gian là
hữu biên hay
vô biên, thời
Đức Như Lai thường nín lặng.
_ Nầy
Đại Bà La Môn !
Bát thánh đạo là ngay ,
Niết Bàn là thường, nếu tu
bát thánh dạo thời được diệt tận, nếu chẳng
tu tập thời chẳng được.
Như thành lớn kia bốn vách chỉ có một cửa, người giữ cửa rất
thông minh kẻ đáng cho đi thời cho, kẻ đáng ngăn thời ngăn lại, người nầy dầu chẳng biết được số người ra vào nhiều ít nhưng
chắc chắn biết rằng tất cả người ra vào đều phải do người nầy.
Nầy
Đại Bà La Môn !
Đức Như Lai cũng như vậy. Thành lớn dụ cho
Niết Bàn, cửa dụ
bát chánh đạo, người giữ cửa dụ
Đức Như Lai.
Nay
Đức Như Lai dầu chẳng
trả lời là diệt tận cùng chẳng diệt tận, nhưng người được diệt tận,
cần phải tu tập bát chánh đạo nầy.
Lành thay !
Lành thay !
Đại Đức Kiều Trần Như !
Đức Như Lai khéo nói pháp
vi diệu. Nay tôi thiệt muốn biết thành lớn, biết đạo, tự mình làm người giữ cửa.
Kiều Trần Như nói :
Lành thay !
Lành thay ! Ông có thể
phát tâm vô thượng rộng lơn.
Phật nói : Nầy
Kiều Trần Như ! Ông
Bà La Môn Hoằng Quảng nầy chẳng phải mới
phát tâm vô thượng. Thuở
quá khứ cách đây
vô lượng kiếp có Phật ra đời hiệu là
Phổ Quang Minh đầy đủ mười hiệu, ông Hoằng Quảng nầy ở chỗ
Đức Phật đó đã
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Trong
Hiền Kiếp nầy Hoằng Quảng sẽ được
thành Phật. Ông ấy từ đâu đã
thông đạt pháp tướng, vì
chúng sanh mà hiện ở
ngoại đạo. Do đây nên
Kiều Trần Như chẳng nên khen ông ấy là hiện nay có thể
phát tâm vô thượng.
Lúc đó
đức Thế Tôn đã biết mà hỏi
Kiều Trần Như rằng : “
A Nan Tỳ Kheo nay ở đâu ?”
Kiều Trần Như thưa : “ Bạch
Thế Tôn !
A Nan Tỳ Kheo ở ngoài rừng
Ta La, cách
đại hội nầy mười hai
do tuần, đương bị sáu muôn bốn ngàn ức
thiên ma nhiễu loạn.
Chúng thiên ma nầy đều tự biến thân làm hình
Như Lai mà tuyên nói những pháp khác nhau, hoặc lại
thị hiện thần thông biến hóa.
Bạch
Thế Tôn !
A Nan Tỳ Kheo nghe và thấy những việc nầy nghĩ rằng những
thần thông biến hóa từ trước chưa từng thấy. Ai làm ra ?
Hoặc giả Đức
Thích Ca Thế Tôn hiện ra chăng ?
A Nan muốn
đứng dậy muốn nói, mà
thân thể không theo
ý muốn.
A Nan lọt vào trong rọ của ma, tự nghĩ rằng : Chư Phật nói pháp riêng khác chẳng đồng, nay tôi nên
lãnh thọ lời của
Đức Phật nào ?
Bạch
Thế Tôn ! Hiện nay
A Nan rất khổ sở, dầu nghĩ nhớ
Đức Như Lai mà không ai
cứu thoát, do đó nên chẳng đến trong
đại chúng nầy.
Lúc đó
Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng : “
Thế Tôn ! Trong
đại chúng nầy có hàng
Bồ Tát đã từ
một đời đến
vô lượng đời
phát tâm Bồ Đề, đã
cúng dường vô lượng chư Phật,
tâm chí bền chắc
tu hành đầy đủ sáu môn
Ba La Mật, trọn nên
công đức lớn, từ lâu đã gần gũi
vô lượng chư Phật,
phạm hạnh thanh tịnh, tâm
Bồ Đề chẳng
thối chuyển, đặng nhẫn
bất thối, trì
bất thối, được
như pháp nhẫn,
Thủ Lăng Nghiêm v.v…
vô lượng Tam Muội. Hàng
Bồ Tát nầy nghe
kinh Đại Thừa trọn chẳng
sanh nghi mà có thể khéo
phân biệt, tuyên nói
Tam Bảo đồng một
tánh tướng thường trụ bất biến.
Nghe pháp bất tư nghì chẳng kinh sợ, nghe các
pháp không lòng chẳng rúng động,
thông đạt rành rẽ tất cả
pháp tánh,
thọ trì được tất cả
mười hai bộ kinh và
hiểu rõ ý nghĩa, cũng có thể
thọ trì mười hai bộ kinh của
vô lượng chư Phật.
Hàng
Bồ Tát nầy lo gì chẳng
thọ trì được
kinh Đại Niết Bàn nầy, cớ gì
Đức Như Lai lại hỏi
Kiều Trần Như A Nan ở đâu ?
Đức Thế Tôn bảo
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : Lóng nghe ! Lóng nghe ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Ngày trước ta
thành Phật đã
trải qua ba mươi năm, lúc ở thành
Vương Xá, ta có bảo các
Tỳ Kheo rằng nay trong
đại chúng nầy ai có thể vì ta mà
thọ trì mười hai bộ kinh, và
cung cấp hầu hạ cho ta, cũng khiến nơi mình chẳng
mất lợi lành. Lúc đó
Kiều Trần Như đến bạch với ta để lãnh. Ta bảo
Kiều Trần Như đã già yếu
cần phải có người hầu hạ, sao lại muốn hầu hạ ta. Lúc đó
Xá Lợi Phất cũng đến lãnh, ta cũng bảo
Xá Lợi Phật như đã bảo
Kiều Trần Như.
Lần lượt đến năm trăm vị
A La Hán, ta đều chẳng nhận
làm thị giả.
Lúc đó
Đại Mục Kiền Liên liền nhập
chánh định quán sát biết ý của Phật muốn
A Nan làm thị giả liền
xuất định nói với
Kiều Trần Như.
Lúc đó
Kiều Trần Như cùng năm trăm
A La Hán đến nói với
A Nan rằng : “ Nầy
A Nan ! Nay ông nên
làm thị giả cho
Đức Như Lai, nên đến thưa với
Đức Như Lai để nhận lấy việc ấy.
A Nan nói : “ Thưa chư
Đại Đức ! Thiệt tôichẳng kham hầu hạ
Như Lai. Vì
Đức Như Lai tôn trọng như
Sư Tử Vương, như rồng, như lửa, tôi thời
yếu đuối nhơ nhớp đâu có thể kham được.
Các
A La Hán khuyên bảo
A Nan đến lần thứ ba,
A Nan vẫn từ chối.
Đại Mục Kiền Liên nói rằng : Nầy
A Nan, nay ông chưa rõ biết
duyên cớ.
An Nan thưa : Bạch
Đại Đức xin nói cho.
Đại Mục Kiền Liên nói : Vừa rồi,
đức Như Lai cầu
thị giả, năm trăm
A La Hán đều xin lãnh mà
Đức Như Lai chẳng bằng lòng. Tôi
nhập định thấy ý của
Như Lai muốn cho ông làm. Sao ông
trở lại chẳng chịu.
A Nan nghe xong liền quỳ
chắp tay thưa rằng : Bạch Chư
Đại Đức ! Nếu có việc như vậy,
Đức Thế Tôn cho tôi ba điều nguyện, tôi sẽ
tuân mạng lịnh
chư Tăng mà
làm thị giả :]
Một là
giả sử Đức Như Lai đem y cũ
ban cho tôi, xin
cho phép tôi chẳng nhận. Hai là
giả sử Đức Như Lai thọ
biệt thỉnh của
đàn việt, xin
cho phép tôi chẳngđi theo. Ba là xin
cho phép tôi ra vào không luận là giờ khắc nào.
Nếu
Đức Thế Tôn bằng lòng ba điều nguyện nầy, thời tôi xin
tuân mạng lịnh
chư Tăng mà
làm thị giả cho
Như Lai.
Kiều Trần Như cùng năm trăm
A La Hán đem việc trên mà bạch lại với Phật.
Đức Phật Thế Tôn khen ngợi
A Nan rằng : “
Lành thay !
Lành thay !
A Nan Tỳ Kheo có đủ
trí huệ dự thấy mà tránh trước sự cơ hiềm. Vì sẽ có người cho rằng vì y thực mà
A Nan hầu hạ
Đức Như Lai, nên
A Nan xin phép chẳng lãnh y cũ và chẳng theo
Phật thọ biệt thỉnh. Lại
A Nan có đủ
trí huệ, biết rằng nếu ra vào có giờ thời không thể làm
lợi ích rộng cho
bốn bộ chúng, nên
A Nan xin phép ra vào không luận giờ nào.
Ta bằng lòng
cho phép A Nan ba điều như
A Nan đã xin.
Đại Mục Kiền Liên trở lại bảo
A Nan rằng : “
Chúng tôi đã đem lời ông
yêu cầu bạch lên
Đức Như Lai. Đấng
Đại Từ đã bằng lòng.
A Nan thưa : “ Bạch
Đại Đức ! Nếu
Như Lai đã bằng lòng , tôi xin qua
làm thị giả.
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi : “ Hơn hai mươi năm nay,
A Nan hầu hạ ta có đủ tám điều chẳng thể nghĩ bàn :
Một là hơn hai mươi năm,
A Nan không bao giờ theo ta thọ
biệt thỉnh. Hai là không bao giờ lãnh lấy y cũ của ta. Ba là không bao giờ đến ta mà
phi thời. Bốn là dầu còn đủ
phiền não nhưng khi theo ta vào cung vua, đến nhà
sang giàu, thấy các người nữ,
thiên nữ,
long nữ,
A Nan không bao giờ có
dục tâm. Năm là
mười hai bộ kinh của ta nói ra, nghe qua
một lần A Nan đều nhớ rõ chẳng cần hỏi lại, như nước trong bình nầy rót qua bình kia, chỉ trừ
một lần hỏi : Thuở
Lưu Ly Thái Tử giết hại
họ Thích Ca, phá thành
Ca Tỳ La,
A Nan buồn khổ khóc lóc đến bạch với ta rằng tôi cùng
Như Lai đồng sanh trưởng trong thành nầy, đồng một
họ Thích, tại sao
dung nhan của
Như Lai như thường, mà tôi thời
tiều tụy. Ta đáp
A Nan rằng vì ta tu
không định nên chẳng đồng như ông.
Ba năm sau,
A Nan trở lại hỏi ta rằng : Bạch
Thế Tôn ! Tôi qua thành
Ca Tỳ La kia từng nghe
Đức Như Lai tu
không Tam Muội, việc đó là hư hay thật ? Ta bảo
A Nan đúng như vậy. Sáu là từ khi hầu hạ ta
đến nay, dầu chưa được
tha tâm trí, mà
A Nan thường biết những
chánh định của
Như Lai nhập. Bảy là từ khi hầu ta
đến nay, dầu chưa được
nguyện trí, mà
A nan có thể biết rõ người nầy đến chỗ
Như Lai hiện tại có thể được bốn quả
Sa Môn, người nầy ngày sau sẽ được, người nầy sẽ được thân Trời hay thân người. Tám là từ khi hầu ta
đến nay, những lời
bí mật của
Như Lai,
A Nan đều biết được cả.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi !
A Nan Tỳ Kheo có đủ tám điều bất tư nghì như vậy nên ta gọi
A Nan là
đa văn tạng.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi !
A Nan lại có đủ
tám pháp nên có thể
thọ trì hoàn toàn mười hai bộ kinh : Một là
tín căn kiên cố, hai là tâm ý
chất trực, ba là thân không bịnh, bốn là
thường tinh tấn, năm là có đủ
niệm tâm, sáu là không
kiêu mạn, bảy là
thành tựu định ý, tám là có đủ
trí huệ do
nghe pháp mà sanh.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi !
Thị giả của Phật
Tỳ Bà Thi tên là
A Thúc Ca cũng có đủ
tám pháp như vậy.
Thị giả của Phật
Thi Khí tên là
Sai Ma Ca La,
thị giả của Phật
Tỳ Xá Phù tên là Ưu Ba Phiến Đà,
thị giả của Phật
Câu Lưu Tôn tên là
Bạt Đề,
thị giả của Phật
Câu Na Hàm Mâu Ni tên là Tô Đàn.
Thị giả của Phật
Ca Diếp tên là Diệp Đà Mật Đa, đều cũng có đủ
tám pháp như vậy. Nay
A Nan thị giả của ta cũng có đủ
tám pháp ấy, nên ta gọi
A Nan là
đa văn tạng.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! Trong
đại chúng nầy dầu có
vô lượng vô biên Bồ Tát, nhưng các
Bồ Tát nầy đều có trọng nhiệm là
đại từ đại bi, đều có công vụ
gấp rút :
Điều phục quyến thuộc và
trang nghiêm tự thân. Do đây nên sau khi ta
nhập Niết Bàn, những vị nầy không thể tuyên thông
mười hai bộ kinh. Nếu có
Bồ Tát hoặc có lúc
tuyên thuyết mà người chẳng tin thọ.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi !
A Nan Tỳ Kheo là em của ta, hầu hạ ta hơn hai mươi năm, những pháp được nghe đều
thọ trì đầy đủ như nước rót vào một cái bình. Nên nay ta cố hỏi
A Nan ở đâu, muốn khiến
A Nan thọ trì kinh Đại Niết Bàn nầy.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! Sau khi ta
nhập Niết Bàn, những pháp mà
A Nan được nghe, ông ấy tự có thể tuyên thông, những pháp
A nan chưa được nghe thời Hoằng Quảng
Bồ Tát có thể
lưu bố.
Nầy
Văn Thù Sư Lợi ! Nay
A Nan ở cách ngoài
đại hội nầy mười hai
do tuần, đương bị sáu muôn bốn ngàn ức
thiên ma não loạn, ông nên qua đó nói lớn rằng : Tất cả loài ma nên lóng nghe ! Nay
Đức Như Lai nói Đại
Đà La Ni, tất cả
thiên long bát bộ cùng chư vị thần kỳ đều
cung kính thọ trì Đà La Ni nầy. Mười
hằng hà sa chư Phật cũng đồng tuyên nói
Đà La Ni nầy.
Đà La Ni nầy có thể chuyển thân nữ, tự biết
túc mạng. Nếu
thọ trì năm điều :
Phạm hạnh,
đoạn nhục, đoạn tửu, đoạn tâm, thích ở
vắng lặng, rồi
chí tâm,
tín thọ,
đọc tụng, biên chép
Đà La Ni nầy, người nầy sẽ được vượt khỏi bảy mươi bảy ức thân tệ ác.
Liền đó
đức Thế Tôn nói
thần chú :
_
A Ma Lệ,
Tỳ Ma Lệ, Niết Ma Lệ, Mông Già Lệ, Hê
Ma La Nhã Kiệt Bệ, Tam Mạn Na
Bạt Đề Lệ,
Ta Bà La Đà Ta Đàn Ni,
Ba La Ma Tha Ta Đàn Ni, Ma Na Tư, A Chuyết Đề, Tỳ La Kỳ, Am Ma Lại, Đàn Bà Táp Ma, Tá Lệ
Phú La Nê,
Phú La Na,
Ma Nô Lại Đệ.
Lúc đó
Văn Thù Sư Lợi lãnh
Đà La Ni nầy đến chỗ
A Nan y theo lời Phật to tiếng bảo chúng ma.
Ma Vương nghe
Đà La Ni nầy rồi liền
phát tâm vô thượng Bồ Đề, bỏ
nghiệp ma và thả
A Nan.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng
A Nan đồng đến chỗ Phật,
A Nan thấy Phật
chí tâm kỉnh lễ.
Phật bảo A Nan, ngoài rừng
Ta La nầy có một
Phạm Chí tên
Tu Bạt Đà La đã một trăm hai mươi tuổi, ông ấy dầu được
ngũ thông mà chưa bỏ
kiêu mạn, được phi
phi tưởng định cho là
nhứt thiết trí đã được
Niết Bàn. Ông nên đến nói với
Tu Bạt Đà La rằng :
Đức Như Lai ra đời như
hoa Ưu Đàm. Giưã đêm nay
đức Như Lai sẽ
nhập Niết Bàn. Nếu có chỗ phải làm nên làm kịp thời, chớ để ngày sau sanh lòng
hối hận.
Ông nói,
Tu Bạt Đà La chắc sẽ tin thọ. Vì ông thuở
quá khứ đã từng năm trăm đời làm con trai của
Tu Bạt Đà La. Lòng
yêu thương của ông ấy vẫn còn, nên có thể tin thọ lời của ông.
A Nan tuân lời Phật đến nói với
Tu Bạt Đà La.
Tu Bạt Đà La bảo rằng:
Lành thay ! Thưa ngài
A Nan ! Nay tôi sẽ đến chỗ
Như Lai.
A Nan cùng
Tu Bạt Đà La trở về ra mắt Phật.
Thăm hỏi xong ,
Tu Bạt Đà La nói : Thưa
Cù Đàm ! Nay tôi muốn hỏi xin ngài đáp cho.
Phật liền
hứa khả.
Tu Bạt Đà La nói : Thưa
Cù Đàm ! Có các nhà
Sa Môn,
Bà La Môn nói rằng tất cả
chúng sanh thọ báo khổ vui đều theo nơi nghiệp đã tạo ra ngày trước. Do đây nếu có người
trì giới tinh tấn,
thân tâm chịu khổ thời
phá hoại được nghiệp đời trước. Nghiệp cũ đã
hết thời quả khổ cũng dứt hết, khổ đã dứt thời chứng được
Niết Bàn. Nghĩa trên đây là thế nào ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Sa Môn hay
Bà La Môn nói như vậy, ta sẽ vì
xót thương mà thường đến chỗ người ấy để hỏi rằng : Quả thiệt ngài có nói như vậy chăng ? Nếu họ đáp là có và họ bảo rằng vì họ thấy cbúng sanh làm điều ác mà
giàu sang tự tại, lại thấy người làm lành mà nghèo hèn mất
tự do, lại thấy có người ra công ra sức nhiều mà không có của, thấy kẻ
ở không tự nhiên có của, có người
từ tâm chẳng
sát sanh mà
chết yểu, có kẻ ưa
sát sanh lại sống lâu, có người
tinh tấn trì giới phạm hạnh thanh tịnh hoặc
được giải thoát hoặc chẳng được, do đây nên nói rằng tất cả
chúng sanh thọ báo khổ vui đều do nghiệp nhơn ngày trước.
Nầy
Tu Bạt Đà La ! Tasẽ hỏi họ các ngài có thiệt thấy nghiệp
quá khứ chăng ? nếu có, nghiệp ấy nhiều hay ít ?
Khổ hạnh hiện tại phá được nhiều ít ? Các ngài biết được nghiệp nầy đã hết hay chẳng hết chăng? Nghiệp nầy đã hết là hết tất cả chăng ? _ Nếu họ đáp là họ thiệt chẳng biết, thời ta sẽ vì họ mà dẫn ví dụ : Như có người thân bị tên độc,
gia quyến rước y sĩ đến để nhổ mũi tên độc, lấy độc xong người đó được
lành mạnh. Sau đó mười năm, người nầy còn nhớ rõ rằng : Y sĩ đó nhổ tên độc cho tôi rồi dùng thuốc thoa đắp khiến tôi được
lành mạnh an vui.
Các ngài đã chẳng biết nghiệp nhơn
quá khứ làm sao biết được
khổ hạnh hiện tại quyết định phá được nghiệp
quá khứ ?
Nếu họ nói rằng : Nay
Cù Đàm cũng có nghiệp
quá khứ, cớ sao lại riêng trách nghiệp
quá khứ của
chúng tôi ? Trong kinh của
Cù Đàm cũng nói rằng : Nếu thấy người
giàu sang tự tại, thời nên biết người nầy đời trước ưa
bố thí. Như vậy chẳng phải gọi là nghiệp
quá khứ ư ?
Ta bảo họ rằng : Nầy các ngài ! Biết như vậy gọi là tỉ tri, chẳng gọi là chơn tri. Trong
Phật pháp hoặc có do nhơn mà biết quả, hoặc có do quả mà biết nhơn. Trong
Phật pháp có nghiệp
quá khứ có nghiệp
hiện tại. Các ngài thời chẳng như vậy, chỉ có nghiệp
quá khứ mà không biết nghiệp
hiện tại.
Phật pháp của ta
do nơi phương tiện mà dứt nghiệp,
giáo pháp của các ngài thời chẳng từ nơi
phương tiện mà dứt nghiệp.
Giáo pháp của các ngài cho rằng nghiệp đã
hết thời khổ hết,
Phật pháp của ta thời
phiền não đã hết nghiệp và khổ cũng hết. Do đây nên ta trách nghiệp
quá khứ của các ngài.
Nếu họ nói rằng : Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi thiệt chẳng biết, đó là lời của thầy
chúng tôi, không phải lỗi của
chúng tôi.
Ta sẽ bảo họ rằng thầy của các ngài là ai ? Nếu họ đáp là
Phú Lan Na. Thời ta lại bảo họ rằng : Trước kia sao các ngài chẳng thưa hỏi cho
rõ ràng coi thầy của các ngài có thiệt biết nghiệp
quá khứ không ? Nếu Thầy của các ngài bảo là chẳng biết, tại sao các ngài lại nhận lấy lời ấy. Nếu thầy của các ngài bảo là biết thời nên hỏi rằng : Hạ khổ làm
nhơn duyên có thọ trung và thượng khổ chăng ? Trung khổ làm
nhơn duyên có thọ hạ và thượng khổ chăng ? Thượng khổ làm
nhơn duyên có thọ hạ và trung khổ chăng ? Nếu đáp là không thời nên lại hỏi : Sao nhà thầy nói báo khổ vui chỉ do nghiệp
quá khứ mà chẳng phải nghiệp
hiện tại ?
Lại nên hỏi : Khổ
hiện tại,
quá khứ có chăng ? Nếu
quá khứ có khổ thời nghiệp
quá khứ đều đã dứt hết, nếu đã đều dứt hết sao lại còn thọ lấy thân ngày nay ? Nếu
quá khứ không khổ chỉ có nơi
hiện tại, tại sao lại nói
chúng sanh khổ vui đều do nghiệp
quá khứ ?
Nầy các ngài ! Nếu cho rằng
khổ hạnh hiện tại có thể
phá hoại nghiệp
quá khứ, lại lấy gì để phá
khổ hạnh hiện tại ? Nếu như chẳng phá thời khổ là thường, nếu khổ là thường sao lại nói rằng
được giải thoát khổ ? Nếu lại có hạnh nhiệp
phá hoại khổ hạnh, thời
quá khứ đã hết tại sao có khổ ?
Nầy các ngài !
Khổ hạnh như vậy có thể làm cho nghiệp vui thọ lấy quả khổ chăng ? Có thể làm cho
nghiệp khổ thọ lấy quả vui chăng ? Có thể làm cho nghiệp không
khổ không vui chẳng thọ quả chăng ? Có thể làm cho báo
hiện tại thành báo đời kế chăng ? Có thể làm cho báo đời
kế thành báo
hiện tại chăng ? Có thể làm cho hai báo nầy thành
không quả báo chăng ? Có thể làm cho định báo thành
không quả báo chăng ? Có thể làm
cho không quả báo thành định báo chăng ?
Nếu họ
trả lời rằng không thể được, ta sẽ bảo rằng : Nầy các ngài ! Nếu
như không thể được,
duyên cớ gì các ngài lại thọ
khổ hạnh nầy ?
Các ngài nên biết rằng
quyết định có nghiệp
quá khứ và
nhơn duyên hiện tại. Do đây nên tôi nói nhơn nơi
phiền não mà sanh ra nghiệp, nhơn nơi nghiệp mà thọ
quả báo.
Các ngài nên biết rằng tất cả
chúng sanh có nghiệp
quá khứ và có nhơn
hiện tại. Dầu
chúng sanh có nghiệp sống lâu
quá khứ, nhưng phải nhờ
nhơn duyên ăn uống hiện tại. Nếu nói
chúng sanh thọ
khổ thọ vui
quyết định chỉ
do nơi nghiệp
quá khứ thời không phải. Vì như có người trừ được
kẻ thù cho nhà vua, do đây mà được vua
ban cho nhiều
của báu, do có nhiều
tiền của mà
hiện tại được sung sương. Người nầy
hiện tại làm nhơn
sung sướng nên
thọ báo sung sướng hiện tại. Lại như có người giết chết Vương Tử, do đây mà phải bị tru lục. Người nầy
hiện tại tạo nhơn khổ nên phải
thọ báo khổ
hiện tại.
Nầy các ngài ! Tất cả
chúng sanh hiện tại nhơn nơi
tứ đại,
thời tiết, đất đai, nhơn dân mà thọ
khổ thọ vui. Do đây nên ta nói tất cả
chúng sanh bất tất đều nhơn nơi nghiệp đời trước mà thọ khổ, thọ vui.
Nầy các ngài ! Nếu do
nhơn duyên dứt nghiệp mà
được giải thoát, thời tất cả thánh nhơn chẳng
được giải thoát. Vì bổn nghiệp
quá khứ của tất cả
chúng sanh là vô thỉ vô chung. Do đây nên ta nói lúc tu
thánh đạo,
thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.
Nầy các ngài ! Nếu thọ
khổ hạnh bèn
đắc đạo đó, thời tất cả loài
súc sanh lẽ ra đều
đắc đạo. Do đây nên phải trước
điều phục tâm mình mà chẳng
điều phục thân. Vì thế nên trong kinh ta nói chặt đốn rừng nầy chớ chặt đốn cây, vì
do nơi rừng
sanh kinh sợ chẳng phải
do nơi cây. Muốn
điều phục thân phải trước
điều phục tâm. Tâm dụ như rừng, thân dụ nơi cây.
Tu Bạt Đà La thưa : Bạch
Thế Tôn ! Tôi đã trước
điều phục tâm rồi.
Phật nói : Nầy
Thiện Nam Tử !Nay ông làm thế nào có thể trước
điều phục tâm ông ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Tôi trước
suy nghĩ rằng :
Dục ái là
vô thường, vô lạc, vô tịnh,
quán sát sắc là thường, lạc, ngã, tịnh.
Suy nghĩ như vậy rồi
kiết sử cõi dục dứt mà được
sắc xứ, nên gọi là trước
điều phục tâm.
Kế đó tôi
quán sát sắc là
vô thường : Như mụn nhọt ghẻ, như thuốc độc như mũi tên, thấy
vô sắc là
thường tịch tịnh
trong sạch.
Quán sát như vậy rồi
kiết sử cõi sắc dứt mà được
vô sắc xứ. Do đây nên gọi là trước
điều phục tâm.
Kế đó tôi lại
quán sát tưởng là
vô thường như nhọt như ghẻ như độc như tên.
Quan sát như vậy rồi được
phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi
phi tưởng xứ nầy là
nhứt thiết trí vắng lặng thanh tịnh thường hằng bất biến không sa đọa. Do đây nên tôi có thể
điều phục lấy tâm mình.
Phật nói : Nầy
Thiện Nam Tử ! Như thế thời ông đâu có
điều phục được tâm !
Phi tưởng phi phi tưởng xứ định của ông được vẫn còn gọi là tưởng,
Niết Bàn là
vô tưởng, sao ông nói rằng chứng được
Niết Bàn ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trước ông đã có thể nhàm trách thô tưởng, nay sao ông lại
tham trước nơi tế tưởng. Chẳng biết nhàm trách
phi tưởng phi phi tưởng xứ định, định nầy vẫn gọi là tưởng như nhọt ghẻ như độc như tên.
Nầy
Thiện Nam tử ! Thầy của ông là
Uất Đầu Lam Phất thông minh lanh lợi còn không thể dứt được
phi tưởng phi phi tưởng xứ nầy mà phải thọ lấy thân
ác đạo, huống là những kẻ khác.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào có thể dứt được tất cả các cõi ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Người quán
thiệt tướng có thể dứt tất cả các cõi.
Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là
thiệt tướng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tướng
vô tướng gọi là
thiệt tướng.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng
vô tướng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
pháp không tự tướng, không tha tướng và không tự tha tướng,
không tướng vô nhơn,
không tướng tác,
không tướng thọ gỉa,
không tướng pháp, tướng
phi pháp,
không tướng nam nữ,
không tướng sĩ phu,
không tướng vi trần,
không tướng thời tiết,
không tướng làm ra mình,
không tướng làm ra người,
không tướng làm ra mình ra người,
không tướng có
tướng không,
không tướng sanh, tướng sanh giả,
không tướng nhơn, tướng nhơn nhơn,
không tướng quả, tướng
quả quả,
không tướng ngày đêm,
không tướng sáng tối,
không tướng kiến tướng,
kiến giả,
không tướng văn tướng văn giả,
không tướng giác tri, tướng giác
tri giả,
không tướng Bồ Đề,
không tướng Đắc
Bồ Đề giả
không tướng nghiệp, tướng
nghiệp chủ,
không tướng phiền não, tướng
phiền não chủ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Những tướng như vậy
tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là tướng chơn thiệt. Tất cả pháp đều là
hư giả,
tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là thiệt. Đây gọi là
thiệt tướng, là
pháp giới, là
tất cánh trí, là
đệ nhứt nghĩa đế, là
đệ nhứt nghĩa không.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nơi
thiệt tướng nầy, người hạ
trí quán đó thời được
Thanh Văn Bồ Đề, người trung
trí quán đó thời được
Duyên Giác Bồ Đề, người thượng
trí quán đó thời được
vô thượng Bồ Đề.
Lúc Phật nói pháp nầy, có mười ngàn
Bồ Tát chứng được nhứt sanh
thật tướng, có mười lăm ngàn
Bồ Tát chứng được nhị
sanh pháp giới, có hai mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
tất cánh trí, có ba mươi lăm ngàn
Bồ Tát ngộ
đệ nhứt nghĩa đế.
Đệ nhứt nghĩa đế nầy cũng gọi là
đệ nhứt nghĩa không, cũng gọi là
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Lại có bốn mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
hư không Tam Muội,
hư không Tam Muội nầy cũng gọi là
Quảng Đại Tam Muội, cũng gọi là
Trí Ấn Tam Muội. Năm mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
bất thối nhẫn,
bất thối nhẫn nầy cũng gọi là
như pháp nhẫn, cũng gọi là
như pháp giới. Có sáu mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
Đà La Ni,
Đà La Ni nầy cũng gọi là Đại
Niệm Tâm, cũng gọi là
vô ngại trí. Có bảy mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
Sư Tử Hống Tam Muội,
Tam Muội nầy cũng gọi là
Kim Cang Tam Muội, cũng gọi là
Ngũ Trí Ấn Tam Muội. Có tám mươi lăm ngàn
Bồ Tát được
bình đẳng Tam Muội,
Tam Muội nầy cũng gọi là
Đại Từ Đại Bi. Có
vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề,
vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Duyên Giác,
vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Thanh Văn. Có hai muôn ức nhơn nữ và
thiên nữ hiện đời chuyển thân nữ được thân nam.
Lúc đó
Tu Bạt Đà La nghe
đức Phật nói pháp
thậm thâm vi diệu, được
pháp nhãn thanh tịnh bỏ
tà kiến xin
xuất gia.
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay !
Thiện Lai Tỳ Kheo !”
Tu Bạt Đà La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng
thành tướng Sa Môn, dứt hết
phiền não đặng quả
A La Hán.
Được
chứng quả rồi,
Tu Bạt Đà La chiêm ngưỡng tôn nhan, đầu mặt đãnh lễ
chơn Phật, quỳ
chắp tay tự trách
tội lỗi ngày trước của mình mà
bạch Phật rằng : “Bạch
Thế Tôn ! Tôi rất hờn
thân độc nầy nhiều kiếp
đến nay luôn khi dối, làm cho tôi chìm mãi trong
vô minh tà kiến trôi đắm theo
giáo pháp của
ngoại đạo. Rất
đau đớn thay ! Thân nầy làm hại quá nhiều.
May mắn thay ! Nay nhờ ơn
Như Lai mà được vào
chánh pháp.
Trí huệ của
Đức Thế Tôn như biển cả,
lòng từ bi của
đức Thế Tôn vô lượng. Tôi tự
suy xét dầu nhiều kiếp nát thân cũng chưa báo được
ơn đức nầy.
Tu Bạt Đà La buồn khóc
rơi lệ không thể tự ngăn được, lại
bạch Phật rằng : “ Bạch
Thế Tôn ! Tôi tuổi đã già suy, không còn sống bao lâu, bị
hành khổ bức não. Xin
đức Thế Tôn nán lại để dạy dỗ chớ
nhập Niết Bàn.
Đức Thế Tôn nín lặng chẳng hứa.
Thỉnh Phật chẳng được,
Tu Bạt Đà La sầu khổ kêu to lên rằng : “ Khổ thay ! Khổ thay !Thế gian trống rỗng !
Thế gian trống rỗng ! Nay cớ gì sự kinh sợ lớn liền đến, khắp nơi phải
khổ não.
Than ôi !
Chúng sanh phước đã hết ;
huệ nhãn đã dứt.
Than xong, ông càng khóc lóc nghẹn ngào, cả mình ửng máu, té xuống trước Phật
hôn mê ngất xỉu.
Giây lâu
tỉnh lại, ông nghẹn ngào
rơi lệ mà
bạch Phật rằng : “ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi không nỡ thấy
đức Như Lai nhập Niết Bàn xin
Đức Thế Tôn cho phép tôi diệt thân nầy trước, rồi sau
Đức Thế Tôn sẽ
nhập Niết Bàn.
Bạch xong,
Tu Bạt Đà La liền ở trước Phật mà
nhập Niết Bàn.
Lúc đó có
vô số hằng hà sa Bồ Tát,
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, Thiên, Nhơn,
A Tu La v.v… đồng kêu to lên rằng : “ Khổ thay ! Khổ thay ! Cớ sao đấng
chánh giác lại sớm bỏ lìa khiến
chúng tôi không có chủ, không chỗ về, không nơi nương, không chỗ đến.
Đại chúng buồn than khóc lóc đấm ngực té xỉu. Tiếng kêu khóc khắp cõi
Đại Thiên. Lúc đó
Đức Thế Tôn bảo khắp
đại chúng : Chớ quá khóc lóc như trẻ nít.
Đại chúng phải cố dằn chớ
để tâm mê loạn !
Đại chúng ở trong biển lớn
sanh tử phải siêng năng
tu hành cho tâm được
thanh tịnh, chớ để mất
chánh niệm chánh huệ, phải gấp cầu
chánh trí mau
thoát khỏi các cõi. Nếu thọ thân trong
ba cõi thời bị
khổ luân hồi không ngằn mé,
vô minh là ông chủ,
ân ái là
ma vương,
sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên theo
trần cảnh tạo nghiệp
sanh tử,
tham sân si niệm niệm làm hại,
từ vô lượng kiếp
đến nay thường thọ lấy sự
khổ não. Đâu có người trí mà chẳng đi ngược lại nguồn
sanh tử nầy !
Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp
đến nay ta đã nhập
Đại Niết Bàn, không còn có ấm giới nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong
bảo tạng Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh. Hôm nay ta ở nơi đây
thị hiện sức
phương tiện bất tư nghì mà nhập
Đại Niết Bàn đồng với pháp
thế gian. Đó là ta muốn cho
chúng sanh rõ
biết thân như chớp nháng, dòng
sanh tử chảy quá mau, những
hành pháp luân chuyển vô thường lẽ phải như vậy.
Như Lai nhập
Đại Niết Bàn là rất sâu rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, là
cảnh giới của chư Phật
Bồ Tát, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Đức Phật lại bảo
đại chúng :
Tu Bạt Đà La đây đã từng
cúng dường hằng hà sa chư Phật, đã trồng sâu căn lành, do sức
đại nguyện, ông ấy thường
xuất gia trong phái
ngoại đạo Ni Kiền Tử, dùng
phương tiện huệ để dắt dẫn
chúng sanh tà kiến cho họ được vào
chánh trí.
Tu Bạt Đà La nương nơi
bổn nguyện lực, hôm nay được gặp ta sắp
nhập Niết Bàn, được nghe
chánh pháp, được quả
A La Hán. Đã được quả rồi lại
nhập Niết Bàn.
Từ khi ta
thành Phật độ
A Nhã Kiều Trần Như , đến sắp
nhập Niết Bàn độ
Tu Bạt Đà La, công việc của ta đã
trọn vẹn, dầu ta có mãi ở lại cũng không có gì khác với ngày nay.
Nói xong
Đức Thế Tôn lại xướng rằng :
Lành thay !
Lành thay !
Tu Bạt Đà La vì
báo ân Phật mà
nhập Niết Bàn.
Đại chúng phải nên
cúng dường thi hài của ông ấy và xây lập
tháp miếu.
Lúc đó
đại chúng buồn khổ
thảm thiết, gạt lệ dằn
lấy lòng,
y theo lời Phật dạy, dùng
gỗ thơm trà tỳ thi hài của
Tu Bạt Đà La.
Đương lúc thiêu, thi hài của
Tu Bạt Đà La ở trong lửa phóng ánh sáng lớn, hiện đủ mười tám sự
biến hóa : Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hông mặt ra lửa, hông trái ra nước,
hiện thân lớn khắp trong
hư không rồi lại hiện nhỏ v.v…
Lúc đó trong
đại chúng có
vô lượng ngoại đạo tà kiến được
chánh kiến phát tâm Bồ Đề.
Sau khi hiện
thần thông, thi hài của
Tu Bạt Đà La trở vào trong lửa.
Trà Tỳ xong ,
đại chúng thâu lấy
xá lợi, dựng tháp
cúng dường.