KINH THÁNH GIÁO NHẬP LĂNG-GIÀ
PHẠN BẢN TOÀN DỊCH
(SADDHARMALAṄKĀVATĀRASŪTRAM)
[Bản dịch Việt ngữ nguyên điển Phạn văn Lăng-già đầu tiên]
~Phước Nguyên dịch & chú~
*******************
Chương 1
LĂNG-GIÀ VƯƠNG KHUYẾN THỈNH
I
Tôi nghe như vậy:
Một thời, đức Bạc-già-phạm trú tại thành Laṅkā tại đỉnh núi Malaya , bên biển lớn. Trong thành này, dùng các loại báu vật, các loại hoa để nghiêm sức. Có đại Bí-sô Tăng và vô số các vị đại Bồ-tát chúng, những vị này từ nhiều quốc độ Phật đều đến đây tập hội.
Các vị Bồ-tát Đại sĩ này du hí tự tại đối với chủng chủng tam-ma-địa, đầy đủ lực và thần thông , được chư Phật duỗi tay quán đỉnh, do Bồ-tát Đại sĩ Đại Huệ làm thượng thủ; họ thông suốt một cách thiện xảo về nghĩa lý thế giới khách quan như là sự biểu hiện của tự tâm; các vị ấy tùy thuận chủng chủng tâm hành hữu tình mà thực thi điều phục giáo hóa; họ thông đạt rốt ráo năm pháp , ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã.
Vào lúc bấy giờ, khi đã mãn thời hạn bảy ngày thuyết pháp, đức Thế Tôn đi ra khỏi cung điện của Hải long vương , vô số đế Thích, Phạm, Thiên long nghênh đón. Thế Tôn ngước mắt nhìn đại thành Laṅkā ở núi Malaya, rồi liền mỉm cười và nói thế này:
“Thuở xưa, các đấng Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, từng ở trong thành Laṅkā trên đỉnh núi Malaya thuyết pháp tự nội chứng Thánh trí , pháp này xa lìa trí năng nhận thức của các triết gia ngoại đạo, cảnh giới nhận thức của Thanh văn và Duyên giác . Hôm nay, Ta cũng sẽ thuyết pháp như thế cho Dạ-xoa vương Rāvaṇa”.
Dạ-xoa vương La-bà-na nương thần lực của đức Như Lai mà nghe được Phật âm, biết được Thế Tôn đi ra từ cung điện Hải Long Vương, vô số đế Thích, Phạm thiên, Long vây quanh; nhìn vào trong hội chúng, những lớp sóng của đại dương xuất hiện như là những biến động tâm ý, đại dương tàng thức đang bị giao động bởi cơn gió đối tượng, các chuyển thức đang quẫy động. Bấy giờ, vị ấy đang đứng ở đó, phát ra âm thanh hoan hỷ, rồi cao giọng xướng lên rằng: “Tôi sẽ đi đến, cúi thỉnh Thế Tôn vào thành Laṅkā; trong đêm dài này, làm sự nhiêu ích, lợi lạc cho chúng hữu tình nhân thiên”.
Ngay lúc đó, Dạ-xoa vương La-bà-na cùng với quyến thuộc, cỡi lên chiếc long xa trang trí bằng nhiều loại hoa, đi đến chỗ Phật, sau khi đi đến đó, họ bước xuống khỏi xe, đi nhiễu quanh Thế Tôn ba vòng về phía phải. Họ tấu nhạc, dùng đại thanh nhân đà-la bảo làm đồ gõ, (tấu nhạc rồi) đeo Tì-bà một bên, đàn này được khảm sức bằng phệ-lưu-ly bảo, còn dây đeo bằng vải vô giá hoàng bạch thượng như tất-lợi-dương-cù quý báu nhất, tấu xướng đa dạng âm điệu như Cụ lục, Thần tiên khúc, Trì địa điệu, Minh ý, Cận văn, Trung lệnh, Kê-thi-già, Ca âm, Thổ phong, Nhã điệu . Những giai điệu này được khéo léo phối hợp hài hòa, tiếng hát, tiết sáo êm diệu, kệ tụng, tiết phách, trung hòa âm thanh:
II
1. Tự tính tâm là pháp tàng nghĩa ,
Vô ngã, lìa luận, lìa trần cấu ,
Hướng đến sở tri nội tự chứng,
Nguyện Phật khai thị đường nhập pháp .
2. Thân Thiện Thệ vô lượng công đức,
Trong ngài biểu hiện hóa, dĩ hóa;
Vui pháp đắc trong nội tự chứng,
Đúng thời, thỉnh Phật vào Lăng-già.
3. Chư Phật quá khứ và Phật tử,
Hiện chủng chủng thân trụ Lăng-già,
Xin ngài chỉ con pháp vô thượng,
Nhiều dạng Dạ-xoa nguyện lắng nghe.
Ngay sau đó, Dạ-xoa vương La-bà-na, y theo điệu Đô-trá-già xướng lên kệ tụng rằng:
4. Qua bảy đêm, Thế Tôn rời biển,
Biển ấy, nơi đàn cá voi sống,
Trong biển cũng có cung Long vương,
Nay ngài an tường lên bờ này.
5. Ngay khi Phật về, La-bà-na
Dẫn theo thê thiếp, chúng dạ-xoa,
cùng với thâu-già, sa-lạt-na,
và chúng đông đảo các học giả.
6. Bằng thần lực, đến chỗ Thế Tôn,
Xuống xe hoa, hướng lạy Như Lai,
Tự giới thiệu mình, hiến cúng ngài,
Cúng xong, được Thế Tôn hộ trì.
7. Con đến đây, tên La-bà-na,
Chính là Dạ-xoa vương mười đầu,
Cúi mong Phật thường nhiếp thọ con,
Và tất cả chúng trong Lăng-già.
8. Chư Phật quá khứ trong thành này,
Nơi chỗ chóp núi nạm bảo thạch,
Khai diễn tự sở chứng từng trải,
Cảnh giới của nội tự chứng trí.
9. Nay nguyện Thế Tôn cũng như vậy,
Nơi chúng Phật tử đang vây quanh,
Thuyết pháp bảo nghiêm trên đỉnh này,
Con, chúng Lăng-già nguyện lắng nghe .
10. Chư Phật quá khứ từng khen ngợi
Kinh Nhập Lăng-già tự sở chứng,
Đây là nội tự chứng trí cảnh,
Không thấy trong giáo pháp nào khác.
11. Con nhớ lại trong thời quá khứ,
Chư Phật và Phật tử vây quanh,
Sẽ cao giọng xướng tụng kinh này,
Thỉnh nguyện Thế Tôn thuyết như vậy.
12. Hợp thời, Phật và Phật tử ấy,
Thương xót tất cả chúng Dạ-xoa,
Lên núi tạp bảo trang nghiêm này,
Diễn thuyết vi diệu pháp thậm thâm.
13. Lăng-già thành là thành trang nghiêm,
Nghiêm sức bằng các loại bảo thạch,
Mát mẻ, tráng lệ, các núi ôm,
Lưới trân bảo làm lọng thiên hoa.
14. Thế Tôn! Trong chúng Dạ-xoa này,
Đã lìa tham, sân, các thứ lỗi,
Nhận thức tự chứng, hiến cúng Phật,
Mỗi người khuyến tín pháp đại thừa .
15. Trong đây, Dạ-xoa đồng nam, nữ,
Khát vọng lắng nghe về Đại thừa,
Thế Tôn! Đạo sư con xin đến,
Đến Ma-la-gia thành Lăng-già.
16. Dạ xoa chúng, bình nhĩ trên đầu,
Những vị ấy cũng trụ trong thành,
Họ nguyện phụng hiến nơi Đại thừa,
Do đó, nguyện nghe nội tự chứng.
17. Họ từng siêng phụng sự chư Phật,
Nay đây cũng nguyện làm như vậy,
Vì bi mẫn, xin ngài hãy đến,
Xin cùng Phật tử đến Lăng-già.
18. Đại Huệ! Xin nhận cung thất tôi,
Kể cả các lạc thiên trong đây,
Chủng chủng tạp bảo anh lạc sức,
Cùng với hoa viên Vô ưu vương.
19. Con hiến cúng Phật hết tất cả,
Đồng thời hiến cúng các Phật tử,
Nơi con không gì không thể cúng,
Xin Đại Mâu-ni thương tưởng con.
20. Tam giới tôn nghe y nói rồi,
Liền gọi La-sát vương mà dạy:
Ngọn núi này, trong đời quá khứ,
Chư đại Đạo sư đã từng trụ.
21. Vì bi mẫn đối với các ông,
Tuyên thuyết cho nội tự chứng pháp,
Nơi núi bảo thạch trang nghiêm này,
Đời vị lai cũng sẽ như thế.
22. Đây là trú xứ Du-già giả,
Vị an trú trong hiện pháp lạc ,
Dạ-xoa vương! Vậy ông đã được
Chư Thiện thệ và Ta bi mẫn.
23. Như vậy, Thế Tôn hứa khả rồi,
Thế là ngài im lặng an trú,
La-bà-na liền dâng xe hoa,
Thế Tôn an tọa ở trên đó.
24. La-bà-na và chúng tùy tùng,
Cùng với các Phật tử trí tuệ,
Thiên ca cử trăm ngàn nhạc, múa,
Đồng loạt đi vào trong thành này.
25. Đã vào trong thành thích ý này,
Được toàn chúng Dạ-xoa kính lễ,
La-bà-na, cùng Dạ-xoa nam,
Và Dạ-xoa nữ thảy tôn kính.
26. Toàn chúng Dạ-xoa đồng nam, nữ,
Hiến cúng Phật-đà lưới trân bảo,
La-bà-na dùng bảo anh lạc,
Hiến cúng Phật và chúng Bồ-tát.
27. Phật và Phật tử, các trí giả,
Mỗi mỗi tiếp nhận hiến cúng rồi,
Mỗi vị liền tuyên thuyết cho họ,
Nội tự chứng cảnh pháp thậm thâm.
28. Rồi La-bà-na Dạ-xoa chúng,
Hướng về Đại Huệ đồng kính lễ,
Nguo ngài là tối thắng,
Nên khuyến thỉnh ngài đến nhiều lần:
29. “Ngài là vị gần Phật thỉnh pháp,
Thỉnh thuyết nội tự chứng thú cảnh,
Con cùng Dạ-xoa và Phật tử,
Do đây, mong ngài hãy khuyến thỉnh.
30. Ngài là bậc ngôn từ tối thắng,
Cũng là Du-già giả tinh cần,
Nên con chí thành xin khuyến thỉnh
Đại sĩ thỉnh Phật thuyết pháp này.
31. Thuyết pháp thâm nội tự chứng này,
Pháp lìa lỗi ngoại đạo và hai thừa.
Pháp này trong thuận thứ Phật đạo,
Cực thanh tịnh, lại tối vô thượng.
32. Bấy giờ, Thế Tôn biến vô lượng,
Hóa thành các núi báu trang nghiêm,
Và có các tiểu cảnh tuyệt đẹp,
Đều dùng trân bảo để nghiêm sức.
33. Nơi mỗi mỗi chóp núi báu kia
Đều nhìn thấy Phật trụ nơi ấy,
La-bà-na và Dạ-xoa chúng,
Cũng thấy toàn bộ đứng cạnh bên.
34. Trên mỗi mỗi đỉnh núi như thế,
Tất cả quốc độ hàm hiển hiện.
Lại trong tất cả quốc độ này,
Tất đều thấy có một Thế Tôn.
35. Trong đây cũng thấy Dạ-xoa vương,
Cùng với dân chúng thành Lăng-già,
Thấy đó, là hóa hiện bởi Phật,
So thực tế không khác Lăng-già.
36. Nó cũng hiển hiện các cảnh khác,
Như vườn vô ưu và rừng cây.
Lại nơi mỗi mỗi đỉnh núi ấy,
Đều có Đại Huệ thỉnh cầu Phật.
37. Nên tất cả Phật vì Dạ-xoa,
Thuyết nội tự chứng thú Pháp môn,
Như thế ở trên các đỉnh núi,
Tuyên thuyết ngàn vạn kinh liễu nghĩa.
38. Rồi thì Đạo sư và Phật tử,
Chợt thoáng biến mất trong hư không,
Chỉ còn Dạ-xoa La-bà-na,
Duy thấy tự thân đứng trong cung.
39. Y nghi: Đây thực tế là gì?
Trước nay, ai thuyết? ai nghe pháp?
Trước nay, ai thấy? ai bị thấy?
Thành đâu rồi?Phật đã đi đâu?
40. Các thành cuối cùng đã ở đâu?
Bảo quang Chư Phật Chư Thiện Thệ
Đó là mộng chăng? là huyễn chăng?
Hay huyễn hiện Càn-thác-bà thành?
41. Cái được nhìn thấy bởi mắt nhặm?
Nó được nhìn thấy như quáng nắng?
Nó là con trong mộng thạch nữ?
Nó là khói của toàn hỏa luân ?
42. Các pháp pháp tính tức như thị,
Tất cả không phi cảnh giới tâm ,
Phàm ngu nơi đây chưa thể tri,
Cho nên, ngu hoặc chủng chủng tướng .
43. Đây không năng kiến và sở kiến,
Cũng không người thuyết và sở thuyết,
Do đây, Phật tướng và pháp ích,
Đó chỉ đều là cái cấu trúc.
44. Như người thấy theo cái từng thấy,
Tức là không thể thấy chư Phật,
Cấu trúc không khởi không thấy Phật ,
Ly thế được thấy vị chuyển y.
III
Bấy giờ, Chúa thể Lăng-già lập tức khai ngộ, giác tri tự tâm chuyển y , tri nhận thế gian vô hữu nhưng duy tâm, do đây trụ nhập vô phân biệt giới. Bởi vì tư lương thiện nghiệp đời quá khứ, liền đắc thông đạt thiện xảo tất cả luận điển, chứng nghiệm năng lực như thật kiến hết thảy pháp, nhưng tuyệt không do tùy thuận người khác mà nhận biết; duy chỉ bằng trí năng của tự thân mà quán sát thiện xảo các pháp, đắc viễn ly các kế độ kiến địa, hoàn toàn không y chỉ người khác mà đắc thành đại Du-già hành giả , tự thân có thể biến hiện thành các hình tướng thiện diệu, liễu tri rốt ráo tất cả phương tiện thiện xảo, chứng đắc tính tướng trí trên mỗi địa, nhờ đó thăng tiến thiện xảo nơi các địa, thường thích viễn ly tự tính tâm-ý-thức, mà tự thân đắc đoạn trừ ba tương tục của kiến địa; đắc nhất thiết biện trí đối với nhân pháp ngoại đạo biện luận, thông đạt rốt ráo Phật địa tự nội chứng Như Lai tạng .
Khi ấy, nghe trong hư không có thanh âm tự nội chứng: “Hành giả tu tập tri giác như thế”.
[Phật nói:] Tốt lắm! Tốt lắm! Chúa tể Lăng-già, tốt lắm! Vị Du-già nên theo đúng như sở hành của ông mà hành, nên đúng như sở kiến của ông mà thấy chư Như lai và tất cả pháp. Dị biệt với điều này, thực tế là đoạn kiến. Nên đúng như mục đích của ông, siêu việt tâm-ý-thức mà tri nhận tất cả pháp.
Ông nên nội quán các pháp, chứ đừng thích thú nơi văn tự tướng và tương tự kiến; ông chớ để rơi vào xu hướng hành trì, cú nghĩa, tri nhận, kiến địa và thiền định của Thanh văn, Duyên giác và các Triết gia ngoại đạo. Ông chớ nên thích thú nhàn đàm và lời nói hoa mỹ; ông chớ nên chấp thọ đối với tự tính kiến, tâm cũng không nên nghĩ đến quyền lực hư danh, thêm nữa, không nên đắm trước nơi các định, như sáu nhóm thiền định chẳng hạn.
Chúa tể Lăng-già! Như thế là sự tu hành của bậc đại Du-già hành, có thể tồi phục luận thuyết ngoại đạo, có thể huỷ diệt các ác kiến, có thể chân chánh ly khai ngã kiến chấp trước, do đây có thể bằng diệu tuệ ở nơi tự tâm khởi chuyển y. Những vị như thế chính là các Phật tử thảy đều đi trên Đại thừa đạo. Vì để thể nhập Phật tự chứng địa, ông nên tuỳ thuận mà tu học. Chúa tể Lăng-già! Do tu tập thiện xảo tam-ma-địa và tam-ma-bát-đế , dẫn dắt ông chứng nhập pháp môn này, liền khiến cho sở đắc hoàn toàn được thanh tịnh, chớ nên dính mắc nhị thừa và cảnh giới sở chứng dẫn đến khoái lạc của triết gia ngoại đạo, [cảnh giới ngoại đạo] thực tế sinh khởi do y chỉ sự chưa thành thục của lý tính nhận thức tác thành sự tu hành . Cho nên họ do chấp ngã kiến mà chấp thế gian hữu kiến, cho rằng tồn tại tứ đại, công đức sắc pháp. [Nhị thừa] cố chấp vô minh duyên hành là thật hữu, do đây cho là điều này vượt hơn không tính nên dẫn đến mê loạn,họ lọt vào phân biệt, nên rơi vào trong tâm năng sở (nhị nguyên).
Chúa tể Lăng-già! Pháp môn này, có thể khiến cho hành giả ngộ nhập nội tự chứng cảnh, pháp này tức là đại thừa tu chứng, có thể thành tựu đa dạng sắc thú, do đây chứng đắc các hữu thù thắng, ở trong đó đắc tu chứng quả.
Chúa tể Lăng-già! Do nhập Đại thừa hành, trừ các chướng ngại, diệt các sóng thức, tuyệt không rơi vào sào huyệt và tu quán ấy của ngoại đạo. Chúa tể Lăng-già! Ngoại đạo kia, do chấp trước ngã kiến mà khởi tu, kẻ ấy ở nơi tự tính thức pháp dính mắc vào quan điểm nhị nguyên nên sinh khởi liệt quán.
Tốt lắm, chúa tể Lăng-già! Như ông trước đây khi thấy đức Như Lai, tư duy nghĩa lý này, tư duy như thế, tức thấy Như Lai.
Bấy giờ, La-bà-na tư duy rằng: “Ta nguyện lại thấy Thế Tôn, Thế Tôn tự tại quán hành đối với tất cả, lìa các quan điểm của triết gia ngoại đạo, sinh khởi nội tự chứng cảnh giới, lại lìa năng hoá và sở hoá. Ngài là sở chứng trí của vị Du-già, ngài là hiện chứng của vị cảm nghiệm đại lạc thuộc tam-ma-địa, đại lạc do thiền định đắc hiện quán quyết định mà đến. Nguyện ta được thấy đấng Đại bi mẫn, vị mà có thể bằng thần lực đốt cháy toàn bộ củi phiền não , củi phân biệt, đấng có thể thẩm sát tâm của tất cả hữu tình; ngài phổ cập tất cả xứ , ngài biết tất cả pháp , ngài vĩnh li sự thể và tính tướng ; nguyện con thấy ngài, khiến cho những gì chưa đắc được đắc, đã đắc thì không thoái chuyển. Nguyện con đắc nhập vô phân biệt, mà an trú đai lạc của tam-ma-địa và tam-ma-bát-đế, nhập Như Lai hành xứ, tăng trưởng mãn túc”.
DANH MỤC THỦ BẢN SANSKRIT-TIBETAN
THAM KHẢO ĐỐI CHIẾU DỊCH
BẢN SANSKRIT:
*:
Laṅkāvatāra-sūtra, ed. Bunyiu Nanjio, 1923; Đối chiếu với: Saddharmalaṅkāvatārasūtram, ed. by P.L. Vaidya, Darbhanga: The Mithila Institute, 1963, (Buddhist Sanskrit Texts, 3).
*:
TẠNG DỊCH:
2. (56a1) rgya gar skad du | ārya laṅ ka a ba tā ra ma hā yā na sū tra | bod skad du | ’phags pa laṅ kar gśegs pa’i theg pa chen po’i mdo | bam po daṅ po ||