Tập 17 (Quyển 413-425)

09/05/201012:00 SA(Xem: 26944)
Tập 17 (Quyển 413-425)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 17 (Quyển 413-425)

 XV. PHẨM KHÔNG BUỘC KHÔNG MỞ
 
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như nói Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, vậy thế nào là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào có thể mặc áo giáp bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Đại Bồ-tát nào có thể mặc áo giáp bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Đại Bồ-tát nào có thể mặc áo giáp pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh, đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Nếu Đại Bồ-tát có thể mặc áo giáp mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Đại Bồ-tát nào có thể mặc áo giáp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Đại Bồ-tát nào có thể tự biến hóa thân mình như thân Phật, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn thế giới, cho đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, làm việc lợi ích cho các hữu tình, đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào mặc áo giáp các công đức như vậy, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn thế giới, cho đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương cũng làm cho các thế giới ba lần biến động sáu cách nghĩa là động mạnh, động cực mạnh, động cực mạnh đều khắp, làm lợi ích cho các hữu tình.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào có thể mặc áo giáp công đức lớn bố thí Ba-la-mật-đa, biến hóa khắp ba ngàn đại thiên thế giới như phệ lưu ly, cũng hóa thân mình làm Đại luân vương, bảy báu quyến thuộc đều đầy đủ. Các loài hữu tình cần thức ăn cho thức ăn, cần nước uống cho nước uống, cần y phục cho y phục, cần xe cho xe, các thứ hương thoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng nhà, đồ nằm, thuốc thang, đèn đuốc, châu báu, vàng bạccác loại đồ dùng quí báu khác, tùy theo cần vật gì đều cho đầy đủ. Bố thí như vậy rồi, lại giảng nói pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa, làm cho họ nghe rồi đều không đọa lạc, cho đến khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Giác, thường không xả bỏ pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông ở ngã tư đường hóa làm cho các loại hữu tình nghèo thiếu, tùy theo họ cần dùng vật gì đều biến hóa cung cấp cho họ. Ý ông thế nào?

Như vậy, nhà ảo thuật có thật không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, có thể mặc áo giáp công đức lớn bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc hóa thế giới như phệ lưu ly, hoặc hóa thân mình làm Luân vương v.v... tùy theo chúng hữu tình cần vật gì mà bố thí cho họ, và giảng nói pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tự mình mặc áo giáp công đức lớn tịnh giới Ba-la-mật-đa, vì các hữu tình nên sanh vào nhà Luân vương, nối tiếp ngôi vị Luân vương, giàu sang tự tại, hướng dẫn vô lượng trăm ngàn vô số ức chúng vào mười thiện nghiệp đạo; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; hoặc ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng giảng nói các pháp như vậy làm cho họ an trụ cho đến chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, đối với pháp như vậy thường không xả bỏ.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông, ở giữa ngã tư đường, hóa làm vô lượng trăm ngàn hữu tình, làm cho họ an trụ mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ý ông thế nào? Việc huyễn hóa như vậy có thật không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, vì hữu tình nên sanh vào nhà Luân vương, nối ngôi vị Luân vương, giàu sang tự tại, hướng dẫn vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng vào mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không có thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tự mình mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát tự mình mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, mặc áo giáp an nhẫn, thường suy nghĩ: Giả sử tất cả các loài hữu tình đều cầm dao, gậy đến làm hại tôi, tôi hoàn toàn không sanh tâm sân giận dù trong khoảng một sát na, khuyên bảo các hữu tình cũng tu hạnh nhẫn này.

Này Thiện Hiện! Những điều suy nghĩ của Đại Bồ-tát này đều có thể thành tựu cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí thường không xả bỏ hạnh an nhẫn như vậy; cũng làm cho hữu tình tu hạnh an nhẫn như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông ở giữa đường ngã tư, hóa làm các loài hữu tình, hoặc cầm dao gậy làm hại nhau; hoặc khuyên bảo nhau tu hạnh an nhẫn. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, tự mình mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn an nhẫn Ba-la-mật-đa. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát tự mình mặc áo giáp công đức lớn tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát tự mình mặc áo giáp công đức lớn tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn tinh tấn Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, thân tâm tinh tấn đoạn trừ các pháp ác, tu các pháp thiện, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng tu tập thân tâm tinh tấn như vậy, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, thường không chánh cần như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của người ấy, đứng trước đám đông, ở giữa ngã tư đường, hóa làm các loài hữu tình tự mình tu tinh tấn, cũng khuyên bảo người khác tu. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát cũng như vậy, đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự mình tu tinh tấn, cũng khuyên bảo hữu tình tu tinh tấn. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tự mình mặc áo giáp công đức lớn tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát tự mình mặc áo giáp công đức lớn tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn tịnh lự Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ trong định nhất thiết pháp bình đẳng, không thấy các pháp có định, có loạn nhưng thường tu tập tịnh lự Ba-la-mật-đa như vậy, cũng khuyên bảo hữu tình tu tập tịnh lự bình đẳng như vậy, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí thường không xả bỏ tịnh lự như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông, ở ngã tư đường, hóa làm các loài hữu tình làm cho họ tu tập các pháp tịnh lự bình đẳng, cũng khuyên bảo nhau tu tịnh lự như vậy. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, an trụ trong định nhất thiết pháp bình đẳng, cũng khuyên bảo hữu tình tu định như vậy. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tự mình mặc áo giáp công đức lớn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát tự mình mặc áo giáp công đức lớn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng mặc áo giáp công đức lớn Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu không hý luận, không chấp các pháp hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh, kia đây sai khác; cũng khuyên bảo vô lượng trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng an trụ tuệ không hý luận như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật giỏi hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông, ở giữa ngã tư đường, biến hóa làm các loài hữu tình; tự mình an trụ tuệ không hý luận, cũng khuyên bảo người an trụ tuệ như vậy. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện thưa:

Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, tự mình có thể an trụ tuệ không hý luận, cũng khuyên bảo hữu tình an trụ tuệ như vậy. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào mặc áo giáp các công đức lớn như trên đã nói, quán sát tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, có các hữu tình thọ nhận tà pháp, thực hành các hạnh ác. Đại Bồ-tát này đem lực thần thông tự biến hóa thân mình ở khắp thế giới chư Phật như vậy, tùy theo sở thích của hữu tình kia mà thị hiện, tự mình hiện ra tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Cũng khuyên bảo người khác thực hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khuyên bảo các hữu tình thực hành hạnh này rồi, lại tùy theo âm thanh mỗi loài mà thuyết pháp tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa cho chúng, làm cho chúng nghe rồi cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, thường không xả bỏ diệu pháp như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật giỏi hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông, ở giữa ngã tư đường, biến hóa làm các loài hữu tình, tự mình an trụ sáu Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo làm cho người khác an trụ pháp này. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, tự hiện ra thân mình khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương tùy nghi an trụ sáu Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo hữu tình làm cho họ an trụ hạnh này thường không xả bỏ. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào mặc áo giáp các công đức như trên đã nói, đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, không xen lẫn tác ý về Thanh văn, Độc giác. Đại Bồ-tát này không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào các Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào các Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào pháp không nội v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào pháp không nội v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào bốn niệm trụ v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào bốn niệm trụ v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào các môn không giải thoát v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào các môn không giải thoát v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào mười lực của Phật v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào mười lực của Phật v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào quả Dự lưu v.v... còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào quả Dự lưu v.v... Không nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn hữu tình đó vào quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật, còn số hữu tình kia không nên hướng dẫn. Mà chỉ nghĩ: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật giỏi hoặc đệ tử của người ấy đứng trước đám đông, ở giữa ngã tư đường, biến hóa làm các loài hữu tình, số đó vô lượng. Tùy theo căn cơ thích ứng dùng phương tiện hướng dẫn họ an trụ bố thí, cho đến an trụ quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật. Ý ông thế nào? Việc huyễn như vậy có thật không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên các loại chúng sanh làm cho họ an trụ bố thí cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy, Bồ-tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật dạy thì các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp công đức. Nên biết đó là mặc áo giáp Đại thừa. Vì sao? Vì tự tướng tất cả pháp là không. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc cho đến thức, tướng sắc cho đến thức là không. Nhãn xứ cho đến ý xứ, tướng nhãn xứ cho đến ý xứ là không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, tướng sắc xứ cho đến pháp xứ là không. Nhãn giới cho đến ý giới, tướng nhãn giới cho đến ý giới là không. Sắc giới cho đến pháp giới, tướng sắc giới cho đến pháp giới là không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tướng nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tướng nhãn xúc cho đến ý xúc là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tướng bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là không. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh, tướng pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh là không. Như vậy, thậm chí mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười lực của Phật cho đến tướng mười tám pháp Phật bất cộng là không. Đại Bồ-tát, tướng Đại Bồ-tát là không. Mặc áo giáp công đức lớn, tướng mặc áo giáp công đức lớn là không.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp công đức. Nên biết đó là mặc áo giáp Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết, trí nhất thiết trí không tạo, không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Vì việc này nên các Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào trí nhất thiết trí không tạo, không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác? Vì việc này nên các Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do các người tạo tác bất khả đắc, nên trí nhất thiết trí không tạo, không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Sắc giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Ngã chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Cảnh trong mộng chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Tiếng vang, bóng dáng, việc huyễn, ảnh ảo, quáng nắng, hoa đóm trên không, thành Càn-thát-bà, các việc biến hóa chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì cảnh trong mộng cho đến việc biến hóa hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Như vậy cho đến mười lực của Phật chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Chơn như chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì chơn như cho đến thật tế hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng tạo cũng chẳng không tạo, chẳng tác cũng chẳng không tác. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoàn toàn bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này trí nhất thiết trí không tạo, không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Vì việc này nên các Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa.

Này Thiện Hiện! Do nghĩa này nên các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp công đức. Nên biết đó là mặc áo giáp Đại thừa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật nói thì sắc không buộc, không mở, thọ, tưởng, hành, thức không ràng buộc, không mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả nói sắc không buộc, không mở, nói thọ, tưởng, hành, thức không buộc, không mở có phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Tôi nói sắc không buộc, không mở, nói thọ, tưởng, hành, thức không buộc, không mở.

Mãn Từ Tử! Những sắc nào không buộc, không mở? Những thọ, tưởng, hành, thức nào không buộc, không mở?

Thiện Hiện đáp:

- Như Sắc trong mộng không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức trong mộng không buộc, không mở. Sắc như tiếng vang, như hình bóng, như ảnh ảo, như sóng nắng, như việc huyễn, như hoa đốm trên không, như thành Càn-thát-bà, như các sắc của việc biến hóa không buộc, không mở; như tiếng vang cho đến như thọ, tưởng, hành, thức của việc biến hóa không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy đều vô sở hữu nên không buộc, không mở. Vì xa lìa nên không buộc, không mở. Vì tịch tịnh nên không buộc, không mở. Vì không sanh nên không buộc, không mở. Vì diệt nên không buộc, không mở. Vì không nhiễm nên không buộc, không mở. Vì không tịnh nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Sắc quá khứ không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không buộc, không mở. Sắc vị lai, hiện tại không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy vô sở hữu nên không buộc, không mở. Vì xa lìa nên không buộc, không mở. Vì tịch tịnh nên không buộc, không mở. Vì không sanh nên không buộc, không mở. Vì không diệt nên không buộc, không mở. Vì không nhiễm nên không buộc, không mở. Vì không tịnh nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Sắc thiện không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức thiện không buộc, không mở. Sắc bất thiện, vô ký không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức bất thiện, vô ký không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy vô sở hữu nên không buộc, không mở. Vì xa lìa nên không buộc, không mở. Vì tịch tịnh nên không buộc, không mở. Vì không sanh nên không buộc, không mở. Vì không diệt nên không buộc, không mở. Vì không nhiễm nên không buộc, không mở. Vì không tịnh nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Sắc thế gian không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức thế gian không buộc, không mở. Sắc xuất thế gian không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy vô sở hữu nên không buộc, không mở. Vì xa lìa nên không buộc, không mở. Vì tịch tịnh nên không buộc, không mở. Vì không sanh nên không buộc, không mở. Vì không diệt nên không buộc, không mở. Vì không nhiễm nên không buộc, không mở. Vì không tịnh nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Sắc hữu lậu không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu không buộc, không mở. Sắc vô lậu không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vô lậu không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy vô sở hữu nên không buộc, không mở. Vì xa lìa nên không buộc, không mở. Vì tịch tịnh nên không buộc, không mở. Vì không sanh nên không buộc, không mở. Vì không diệt nên không buộc, không mở. Vì không nhiễm nên không buộc, không mở. Vì không tịnh nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Tất cả pháp không buộc, không mở. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu. Vì xa lìa, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa không buộc, không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không buộc, không mở. Vì sao? Vì các Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Pháp không nội không buộc, không mở. Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh không buộc không mở. Vì sao? Vì pháp không nội v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Bốn niệm trụ không buộc, không mở. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không buộc, không mở. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật không buộc, không mở. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không buộc, không mở. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Tất cả hạnh của Đại Bồ-tát không buộc, không mở. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật không ràng buộc, không giải thoát. Vì sao? Vì hạnh Bồ-tát v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Trí nhất thiết không buộc, không mở. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không buộc, không mở. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Chơn như không buộc, không mở. Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế không buộc, không mở. Vì sao? Vì chơn như v.v... vô sở hữu. Vì viễn ly, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát không buộc, không mở. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không buộc, không mở. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu. Do xa lìa, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Tất cả pháp hữu vi không buộc, không mở, tất cả pháp vô vi không buộc, không mở. Vì sao? Vì pháp hữu vi v.v... vô sở hữu. Do xa lìa, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát đối với pháp môn vi diệu không buộc, không mở, như vậy, đem vô sở đắc làm phương tiện nên biết như thật.

Này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát đối với các pháp bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, bốn niệm trụ cho đến trí nhất thiết tướng không buộc, không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm phương tiện nên siêng năng tu học.

Này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện nên an trụ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, bốn niệm trụ cho đến trí nhất thiết tướng không buộc, không mở như vậy.

Này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện nên giáo hóa chúng hữu tình không buộc, không mở. Nên làm nghiêm tịnh cõi Phật không buộc, không mở. Nên thân cận cúng dường chư Phật không buộc, không mở. Nên lắng nghe ghi nhận pháp môn không buộc, không mở.

Này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát này thường không xa lìa chư Phật không buộc, không mở; thường không xa lìa thần thông không buộc, không mở; thường không xa lìa năm loại mắt không buộc, không mở; thường không xa lìa các Đà-la-ni không buộc, không mở; thường không xa lìa các Tam-ma-địa không buộc, không mở.

Này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát này nên phát sanh trí đạo tướng không buộc, không mở. Nên chứng trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng không buộc, không mở. Nên chuyển pháp luân không buộc, không mở. Thường đem pháp yếu ba thừa không buộc, không mở. Để hướng dẫn các loại hữu tình không buộc, không mở.

Này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát nào tu hành sáu Ba-la-mật-đa không buộc, không mở, có thể chứng tất cả pháp tánh không buộc, không mở. Vì vô sở hữu, xa lìa, tịch tịnh, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nên không buộc, không mở.

Này Mãn Từ Tử! Nên biết Đại Bồ-tát này gọi là mặc áo giáp Đại thừa không buộc, không mở.

 
XVI. PHẨM TAM MA ĐỊA

01

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát?

- Làm thế nào biết được Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại thừa?

- Đại thừa như vậy từ nơi nào đến trụ nơi nào?

- Đại thừa như vậy trụ ở nơi nào? Ai nương vào Đại thừa này mà xuất ly?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ban đầu ông hỏi thế nào là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Sáu Ba-la-mật-đa là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát. Thế nào là sáu? Nghĩa là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tự mình xả bỏ tất cả sở hữu trong thân và ngoài thân, cũng khuyên người khác xả bỏ sở hữu trong thân và ngoài thân. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là bố thí Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tự mình thọ trì mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác thọ trì mười thiện nghiệp đạo. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là tịnh giới Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Tự mình đầy đủ an nhẫn tăng thượng, cũng khuyên bảo người đầy đủ an nhẫn tăng thượng. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là an nhẫn Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Tự mình siêng năng tu tập không bỏ năm Ba-la-mật-đa, cũng khuyên bảo người siêng năng tu tập không xả bỏ năm Ba-la-mật-đa kia. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là tinh tấn Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Tự mình dùng phương tiện thiện xảo nhập các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, hoàn toàn không theo thế lực đó mà thọ sanh; cũng hay khuyên bảo người khác dùng phương tiện thiện xảo nhập các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, không theo thế lực của định ấy mà thọ sanh. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là tịnh lự Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Tự mình như thật quán sát tánh tất cả pháp, đối với tánh các pháp không nắm giữ, không chấp trước; cũng khuyên bảo người khác như thật quán sát tánh tất cả pháp, đối với tánh các pháp không nắm giữ, không chấp trước. Giữ gìn thiện căn này đem cho tất cả hữu tình cùng nhau hướng đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh.

Thế nào là pháp không nội? Nội nghĩa là pháp bên trong, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nên biết nhãn ở đây do nhãn không, chẳng thường, chẳng hoại, cho đến ý do ý không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không nội.

Thế nào là pháp không ngoại? Ngoại nghĩa là pháp bên ngoài, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nên biết sắc ở đây do sắc không, chẳng thường, chẳng hoại, cho đến pháp do pháp không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không ngoại.

Thế nào là pháp không nội ngoại? Nội ngoại nghĩa là pháp bên trong, bên ngoài, tức là sáu xứ bên trong và sáu xứ bên ngoài. Nên biết pháp bên trong ở đây do pháp bên ngoài không, chẳng thường, chẳng hoại. Pháp bên ngoài do pháp bên trong không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không nội ngoại.

Thế nào là pháp không không? Không nghĩa là nhất thiết pháp không. Không này lại do pháp không không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không không.

Thế nào là pháp không lớn? Lớn là mười phương, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên dưới. Nên biết phương Đông ở đây do phương Đông không, chẳng thường, chẳng hoại, cho đến phương dưới do phương dưới không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không lớn.

Thế nào là pháp không thắng nghĩa? Thắng nghĩa có nghĩa là Niết-bàn. Nên biết Niết-bàn ở đây do Niết-bàn không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không thắng nghĩa.

Thế nào là pháp không hữu vi? Hữu vi nghĩa là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nên biết Dục giới trong đây do Dục giới không, chẳng thường, chẳng hoại. Sắc, Vô sắc giới do Sắc, Vô sắc giới không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không hữu vi.

Thế nào là là pháp không vô vi? Vô vi nghĩa là không sanh, không diệt, không trụ, không dị. Nên biết vô vi ở đây do pháp không vô vi, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không vô vi.

Thế nào là pháp không rốt ráo? Rốt ráo nghĩa là pháp nào hoàn toàn bất khả đắc. Nên biết rốt ráo ở đây do rốt ráo không, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không rốt ráo.

Thế nào là pháp không không biên giới? Không biên giới nghĩa là không có giới hạn đầu cuối có thể được. Nên biết Không biên giới ở đây do pháp không không biên giới, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không không biên giới.

Thế nào là pháp không tán vô tán? Tán nghĩa là có buông, có bỏ, có xả, có thể được, Vô tán nghĩa là không buông, không bỏ, không xả có thể được. Nên biết tán vô tán ở đây do pháp không tán vô tán, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không tán vô tán.

Thế nào là pháp không bổn tánh? Bổn tánh nghĩa là hoặc pháp tánh hữu vi, hoặc pháp tánh vô vi. Như vậy, tất cả đều chẳng phải do Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai làm, cũng chẳng phải do người khác làm, nên gọi là Bổn tánh. Nên biết trong bổn tánh này do pháp không bổn tánh, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không bổn tánh.

Thế nào là pháp không tự cộng tướng? Tự tướng nghĩa là tự tướng của tất cả pháp; như biến ngại là tự tướng của sắc, lãnh nạptự tướng của thọ, nắm bắt hình bóng là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, phân biệt rõ là tự tướng của thức. Các pháp như vậy hoặc tự tướng pháp hữu vi, hoặc tự tướng pháp vô vi. Đó là tự tướng. Cộng tướng nghĩa là cộng tướng của tất cả pháp; như khổ là cộng tướng pháp hữu lậu, vô thườngcộng tướng pháp hữu vi, không, vô ngãcộng tướng tất cả pháp. Các pháp như vậy có vô lượng cộng tướng. Nên biết tự cộng tướng trong đây do pháp không tự cộng tướng, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không tự cộng tướng.

Thế nào là pháp không tất cả pháp? Tất cả pháp nghĩa là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. Đó là Tất cả pháp. Nên biết Tất cả pháp trong đây do pháp không tất cả pháp, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không tất cả pháp.

Thế nào là pháp không chẳng thể nắm bắt được? chẳng thể nắm bắt được nghĩa là trong đây mong cầu các pháp chẳng thể nắm bắt được. Nên biết chẳng thể nắm bắt được trong đây do pháp không chẳng thể nắm bắt được, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không chẳng thể nắm bắt được.

Thế nào là pháp không vô tánh? Không tánh nghĩa là trong đây không có chút ít tánh nào có thể đắc. Nên biết không tánh trong đây do pháp không vô tánh, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không vô tánh.

Thế nào là pháp không tự tánh? Tự tánh nghĩa là tự tánh các pháp có thể hòa hợp. Nên biết tự tánh trong đây do pháp không tự tánh, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không tự tánh.

Thế nào là pháp không vô tánh tự tánh? không tánh tự tánh nghĩa là tánh các pháp không thể hòa hợp, có tự tánh hòa hợp. Nên biết không tánh tự tánh trong đây do pháp không vô tánh tự tánh, chẳng thường, chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là pháp không vô tánh tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hữu tánh do hữu tánh không. Vô tánh do vô tánh không. Tự tánh do tự tánh không. Tha tánh do tha tánh không.

Thế nào là hữu tánh do hữu tánh không? Hữu tánh nghĩa là pháp hữu vi. Hữu tánh này do hữu tánh không.

Thế nào là vô tánh do vô tánh không? Vô tánh nghĩa là pháp vô vi. Vô tánh này do vô tánh không.

Thế nào là tự tánh do tự tánh không? Nghĩa là tự tánh tất cả pháp đều không. Không này chẳng do trí tạo thành, chẳng do thấy tạo ra, cũng chẳng do pháp khác tạo thành. Đó là tự tánh do tự tánh không.

Thế nào là tha tánh do tha tánh không? Nghĩa là tất cả pháp hoặc Phật ra đời hoặc không ra đời, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, pháp tánh bình đẳng, pháp tánh ly sanh, chơn như, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, thật tế, đều do tha tánh nên không. Đó là tha tánh do tha tánh nên không.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

 

Quyển Thứ 413
HẾT

02

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là vô lượng trăm ngàn các Tam-ma-địa vô thượng vi diệu, như là Tam-ma-địa Kiện hành, Tam-ma-địa Bảo ấn, Tam-ma-địa Sư tử du hý, Tam-ma-địa Diệu nguyệt, Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng, Tam-ma-địa Quán đảnh, Tam-ma-địa Pháp giới quyết định, Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng, Tam-ma-địa Kim cương dụ, Tam-ma-địa Nhập pháp ấn, Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất, Tam-ma-địa Thiện lập định vương, Tam-ma-địa Phóng quang, Tam-ma-địa Tinh tấn lực, Tam-ma-địa Đẳng dũng, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, Tam-ma-địa Đẳng nhập tăng ngữ, Tam-ma-địa Quán phương, Tam-ma-địa Tổng trì ấn, Tam-ma-địa Vô vong thất, Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, Tam-ma-địa Biến phú hư không, Tam-ma-địa Kim cương luân, Tam-ma-địa Ly trần, Tam-ma-địa Biến chiếu, Tam-ma-địa Bất thuấn, Tam-ma-địa Vô tướng trụ, Tam-ma-địa Bất tư duy, Tam-ma-địa Vô cấu đăng, Tam-ma-địa Vô biên quang, Tam-ma-địa Phát quang, Tam-ma-địa Phổ chiếu, Tam-ma-địa Tịnh kiên định, Tam-ma-địa Vô cấu quang, Tam-ma-địa Phát diệu lạc, Tam-ma-địa Điển đăng, Tam-ma-địa Vô tận, Tam-ma-địa Cụ oai quang, Tam-ma-địa Ly tận, Tam-ma-địa Vô động, Tam-ma-địa Vô hà khích, Tam-ma-địa Nhật đăng, Tam-ma-địa Tịnh nguyệt, Tam-ma-địa Tịnh quang, Tam-ma-địa Phát minh, Tam-ma-địa Tác sở ưng tác, Tam-ma-địa Trí tràng tướng, Tam-ma-địa Kim cương man, Tam-ma-địa Trụ tâm, Tam-ma-địa Phổ minh, Tam-ma-địa Thiện trụ, Tam-ma-địa Bảo tích, Tam-ma-địa Diệu pháp ấn, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh, Tam-ma-địa Xả ái lạc, Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh, Tam-ma-địa Phiêu tán, Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú, Tam-ma-địa Bình đẳng tự tướng, Tam-ma-địa Ly văn tự tướng, Tam-ma-địa Đoạn sở duyên, Tam-ma-địa Vô biến dị, Tam-ma-địa Vô phẩm loại, Tam-ma-địa Vô tướng hành, Tam-ma-địa Ly ế ám, Tam-ma-địa Cụ hành, Tam-ma-địa Bất biến động, Tam-ma-địa Độ cảnh giới, Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức, Tam-ma-địa Quyết định trụ, Tam-ma-địa Vô tâm trụ, Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa, Tam-ma-địa Cụ giác chi, Tam-ma-địa Vô biên đăng, Tam-ma-địa Vô biên biện, Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng, Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp, Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp, Tam-ma-địa Tán nghi võng, Tam-ma-địa Vô sở trụ, Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng, Tam-ma-địa Nhất hành tướng, Tam-ma-địa Ly hành tướng, Tam-ma-địa Diệu hành tướng, Tam-ma-địa Đạt chư hữu để tán hoại, Tam-ma-địa Nhập thi thiết ngữ ngôn, Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự, Tam-ma-địa Cự xí nhiên, Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng, Tam-ma-địa Vô tiêu xí, Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng, Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc, Tam-ma-địa Vô tận hành tướng, Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni, Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh, Tam-ma-địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận, Tam-ma-địa Ly tắng ái, Tam-ma-địa Vô cấu minh, Tam-ma-địa Cụ kiên cố, Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang, Tam-ma-địa Đại trang nghiêm, Tam-ma-địa Chiếu nhất thiết thế gian, Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh, Tam-ma-địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú, Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc, Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như, Tam-ma-địa Ly thân uế ác, Tam-ma-địa Ly ngữ uế ác, Tam-ma-địa Ly ý uế ác, Tam-ma-địa Như hư không, Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không. Các Tam-ma-địa như vậy có vô lượng trăm ngàn. Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát .

Này Thiện Hiện! Thế nào là Tam-ma-địa Kiện hành? Nghĩa là khi nào an trụ Tam-ma-địa này, có thể nạp thọ tất cả cảnh Tam-ma-địa, có thể mạnh mẽ làm xong vô biên việc thù thắng, có thể dẫn đầu tất cả đẳng trì. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Kiện hành.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo ấn? Nghĩa là Tam-ma-địa này có thể ấn chứng tất cả định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bảo ấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử du hý? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định thù thắng an trụ tự tại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Sư tử du hý.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu nguyệt? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, như mặt trăng tròn trong sáng chiếu khắp các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Diệu nguyệt.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể đảm nhận khắp các tướng thù thắng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra khắp tất cả định thù thắng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quán đảnh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể quán sát khắp tất cả đảnh định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quán đỉnh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Pháp giới quyết định? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể đối với pháp giới quyết định chiếu rõ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Pháp giới quyết định.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể quyết định thọ trì các tràng tướng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim cương dụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể phá trừ các định mà những pháp khác không nhiếp phục được. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Kim cương dụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp ấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể chứng nhập khắp các tất cả pháp ấn. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp ấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, phóng ánh sáng định thù thắng chiếu đến các loài hữu tình làm cho họ nhớ lại những pháp đã từng lãnh thọ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện lập định vương? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định vương hay khéo kiến lập. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Thiện lập định vương.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phóng quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra ánh sáng của các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phóng quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tinh tấn lực? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra sức mạnh tinh tấn của các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tinh tấn lực.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đẳng dũng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì bình đẳng hiện lên. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đẳng dũng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các ngôn từ quyết định hiểu rõ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đẳng nhập tăng ngữ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các tên của định có thể hiểu rõ hoàn toàn giải thích nghĩa lý. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đẳng nhập tăng ngữ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quán phương? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các phương của định có thể quán chiếu khắp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quán phương.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tổng trì ấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể giữ gìn tổng quát các diệu ấn của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tổng trì ấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô vong thất? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các tướng của định đều không quên mất. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô vong thất.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các định thù thắng đều hướng vào như biển cả tóm thâu các dòng nước. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Biến phú hư không? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, ở trong các định trùm khắp, có thể che chắn, bảo hộ như nhau, giống như hư không trong không gian. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Biến phú hư không.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim cương luân? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể giữ gìn khắp tất cả định thù thắng, làm cho không tan hoại như bánh xe kim cương. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Kim cương luân.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly trần? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể diệt trừ tất cả phiền não cấu uế ràng buộc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly trần.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Biến chiếu? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, chiếu khắp các định làm cho rất sáng rỡ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Biến chiếu.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất thuấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không mong cầu định khác hay pháp khác. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất thuấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy trong các định có chút pháp nào có thể trụ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tướng trụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất tư duy? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không bị pháp tâm tâm sở hạ liệt làm lay chuyển. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất tư duy.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu đăng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, như cầm đèn sáng chiếu rõ các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô cấu đăng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi không ngằn mé. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biên quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phát quang? Nghĩa là khi an trụ đẳng trì (định) vô gián này, có thể phát ra tất cả ánh sáng định thù thắng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phát quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phổ chiếu? Nghĩa là khi an trụ đẳng trì (định) vô gián này, có thể chiếu khắp các môn định thù thắng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phổ chiếu.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh kiên định? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, được tánh bình đẳng thanh tịnh của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh kiên định.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể tẩy trừ hết cấu uế của tất cả định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô cấu quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phát diệu lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, lãnh thọ niềm vui vi diệu tất cả đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phát diệu lạc.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Điển đăng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, chiếu soi các đẳng trì (định) như điện chớp sáng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Điển đăng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tận? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, dẫn đến vô tận công đức các đẳng trì (định) mà không thấy tướng tận hay không tận của nó. Vì thế gọi là Tam-ma-địa vô tận.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ oai quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) oai quang đầy đủ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ oai quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly tận? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy tất cả các đẳng trì (định) vô tận mà không thấy tướng có tận hay không tận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly tận.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô động? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) không động, không trạo cử, cũng không hý luận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô động.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô hà khích? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) không thấy có tỳ vết. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô hà khích.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhật đăng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các môn định phát ánh sáng chiếu khắp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhật đăng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh nguyệt? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) đẩy lùi bóng tối như ánh trăng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh nguyệt.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả các đẳng trì (định) được bốn sự hiểu biết thông suốt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phát minh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các môn định phát ánh sáng chiếu khắp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phát minh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tác sở ưng tác? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm xong các việc nên làm của các đẳng trì (định), lại hoàn thành các việc làm của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tác sở ưng tác.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trí tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy tràng tướng diệu trí của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Trí tràng tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim cương man? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tuy có thể thông đạt tất cả pháp nhưng không thấy có tướng thông đạt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Kim cương man.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tâm không lay động, không xoay chuyển, không chiếu soi, cũng không tổn giảm, không nghĩ có tâm. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phổ minh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể quán chiếu rõ khắp các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phổ minh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể khéo an trụ các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Thiện trụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo tích? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, quán các đẳng trì (định) đều như châu báu nhóm lại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bảo tích.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể ấn chứng các đẳng trì (định), vì đem không ấn mà ấn chứng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy có pháp nào lìa tánh bình đẳng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Xả ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp xả bỏ các ưa thích. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Xả ái lạc.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp có thể đoạn trừ các chướng ngại, mê mờ, cũng hay đứng đầu trong các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thổi tan tất cả chấp định, chấp pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, hay khéo phân biệt cú pháp các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bình đẳng tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, được tự tướng bình đẳng của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bình đẳng tự tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không đắc một chữ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đoạn tuyệt cảnh tướng sở duyên của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không đắc tướng biến dị của các pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy tướng phẩm loại sai biệt của các pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tướng các định đều vô sở đắc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, diệt trừ hết bóng tối của các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ hạnh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với hạnh các định đều không có kiến chấp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ hạnh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất biến động? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không thấy biến động. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất biến động.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, vượt qua cảnh giới sở duyên của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể nhóm hợp các công đức của định, đối với tất cả pháp đều không còn tập tưởng (nhớ tưởng). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định tâm tuy quyết định trụ, nhưng biết rõ tướng nó bất khả đắc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tâm không lay chuyển, không đọa lạc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) đều được thanh tịnh, ánh sáng rực rỡ trang nghiêm như hoa đẹp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho việc tu tập bảy giác chi của tất cả định mau viên mãn. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp đều có thể chiếu rõ giống như đèn sáng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp được vô biên kiến giải. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) được tánh bình đẳng, cũng làm cho các định thành vô đẳng đẳng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể vượt qua các pháp khắp ba cõi. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định thù thắng và tất cả pháp, hay vì hữu tình phán quyết như thật. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tán nghi võng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp mọi nghi ngờ đều được tiêu trừ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tán nghi võng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có chỗ trụ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có hai tướng có thể nắm bắt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp, tuy hay hướng đến các hành tướng nhưng đều không thấy người hay hướng đến. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy hành tướng các đẳng trì (định) không có hai. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì (định) đều không có hành tướng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly hành tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) phát sanh hành tướng vi diệu. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Diệu hành tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để tán hoại? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp được trí thông đạt ngộ nhập như thật; đã ngộ nhập rồi, đối với các pháp hữu phá tan hoàn toàn không để sót lại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để tán hoại.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập thi thiết ngữ ngôn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, ngộ nhập tất cả pháp Tam-ma-địa, trình bày lời nói không vướng mắc, không chướng ngại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập thi thiết ngữ ngôn.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy các tướng giải thoát tất cả âm thanh văn tự, của các đẳng trì (định) tịch diệt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) oai quang chiếu sáng rực rỡ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, hay làm nghiêm tịnh tướng các đẳng trì (định), nghĩa là đối với các tướng đều có thể diệt trừ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tiêu xí? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không thấy nêu cờ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tiêu xí.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đầy đủ các diệu tướng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các tướng khổ vui của đẳng trì (định) không ưa thích quán sát. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các hành tướng của định có cùng tận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể đảm nhiệm hết các việc thù thắng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các kiến chấp về chánh tánh tà tánh của các đẳng trì (định) đều nhiếp phục làm cho không phát sanh. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp đều không thấy có tướng nghịch thuận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly tắng ái? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp đều không thấy có tướng thương ghét. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly tắng ái.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) đều không thấy có tướng trong trong sạch, tướng cấu uế. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ kiên cố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) đều được kiên cố. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ kiên cố.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) tăng thêm công đức như mặt trăng tròn sáng thì nước biển dâng lên. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyện tịnh quang.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) thành tựu các việc đại trang nghiêm, hy hữu, vi diệu. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Chiếu nhất thiết thế gian? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, chiếu soi các đẳng trì (định) và tất cả pháp, làm cho các loại hữu tình đều được khai sáng, hiểu rõ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Chiếu nhất thiết thế giam.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy đẳng trì định hay tán loạn sai khác. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp và tất cả định có tranh không tranh tánh tướng sai khác. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, phá trừ các sào huyệt, xả bỏ các cờ xí, đoạn trừ các ưa thíchkhông chấp trước. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp thường không xả bỏ thật tướng chơn như. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly thân uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) phá hoại thân kiến. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly thân uế ố.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ngữ uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) diệt trừ nghiệp ác về lời nói. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ngữ uế ố.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ý uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) diệt trừ nghiệp ác về ý. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ý uế ố.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Như hư không? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình tâm bình đẳng như hư không rộng lớn. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Như hư không.

Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, quán tất cả pháp đều vô sở hữu như hư không trong sạch, không ô nhiễm, không chấp trước. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không.

Này Thiện Hiện! Có vô lượng trăm ngàn các Tam-ma-địa thù thắng hy hữu vi diệu như vậy. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát .
XVII. PHẨM NIỆM TRỤ ĐẲNG

01

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn niệm trụ. Thế nào là bốn? Một là thân niệm trụ; hai là thọ niệm trụ; ba là tâm niệm trụ; bốn là pháp niệm trụ.

Thân niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thân quán theo thân, hoặc trụ ở ngoại thân quán theo thân, hoặc trụ ở nội ngoại thân quán theo thân nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Thọ niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thọ quán theo thọ, hoặc trụ ở ngoại thọ quán theo thọ, hoặc trụ ở nội ngoại thọ quán theo thọ nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thọ, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Tâm niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội tâm quán theo tâm, hoặc trụ ở ngoại tâm quán theo tâm, hoặc trụ ở nội ngoại tâm quán theo tâm nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo tâm, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Pháp niệm trụ ấy là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội pháp quán theo pháp, hoặc trụ ở ngoại pháp quán theo pháp, hoặc trụ ở nội ngoại pháp quán theo pháp nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo pháp, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình khi đi biết đi, khi đứng biết đứng, khi ngồi biết ngồi, khi nằm biết nằm. Oai nghi thân mình sai khác như vậy, như vậy, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình chánh tri (như thật) đi lại, chánh tri (như thật) nhìn tới, nhìn lui, chánh tri (như thật) cúi xuống ngước lên, chánh tri (như thật) co duỗi, mặc Tăng-già-chi, đắp y cầm bát, hoặc ăn hoặc uống, nghỉ ngơi kinh hành, ngồi dậy, đón rước, thức ngủ nói năng im lặng, nhập xuất các định, đều chánh niệm tỉnh giác. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có trụ nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình, lúc thở vào biết thở vào, khi thở ra biết thở ra, khi thở hơi dài biết thở hơi dài, khi thở hơi ngắn biết thở hơi ngắn. Như thợ quay bánh xe hoặc đệ tử người ấy, khi bánh xe quay nhiều biết bánh xe quay nhiều, khi bánh xe quay ít biết bánh xe quay ít. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, biết rõ các hơi thở khi vào hoặc ra, dài ngắn khác nhau. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình, với các giới sai khác. Nghĩa là địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như người đồ tể khéo léo hoặc học trò người ấy giết chết bò rồi, lại dùng dao bén phân chia thân bò ra làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng quán biết như thật. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, quán sát thân mình với bốn giới địa, thủy, hỏa, phong sai khác. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình từ chân đến đầu có các thứ bất tịnh đầy nhẫy trong ấy, bên ngoài được lớp da mỏng bao bọc. Gọi là thân này chỉ có các thứ: Tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, tim, gan, phổi, thận, mật, lá lách, dạ dày, ruột già, ruột non, phẩn, nước tiểu, nước dãi, nước mắt, mồ hôi, đất bẩn, đàm, mủ, mỡ lá, óc, màng, ghèn, cứt ráy. Những thứ bất tịnh như thế đầy nhẫy trong thân. Như trong kho của người nông phu hoặc các trưởng giả có chứa đầy các loại ngũ cốc như là: Nếp, mè, lúa, đậu, bắp v.v... Có người mắt sáng mở kho đó ra xem có thể biết như thật trong đó chỉ có các loại ngũ cốc như: Nếp, mè, lúa v.v... Đại Bồ-tát này cũng như vậy, quán sát kỹ thân mình từ chân đến đầu đầy nhẫy bất tịnh không thể ưa thích. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, thi thể ấy sình trướng chuyển sang màu xanh bầm, hôi thối, da nứt, máu mủ chảy ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, bị các loài cầm thú: Diều hâu, quạ, chim khách, cú mèo, cọp, beo, chồn, sói, chó, dã can v.v... Hoặc mổ, hoặc xé, làm cho xương thịt rơi rớt ngổn ngang, mà tranh giành ăn nuốt. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ vắng vẻ quán sát tử thi bị cầm thú ăn rồi, nhơ nhớp bấy nát, máu mủ chảy lìa, có vô lượng loại trùng giòi sinh ra mùi hôi thối còn hơn chó chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ bị trùng giòi ăn rồi, hết thịt lồi xương, đốt chân tay liền nhau nhờ gân, với máu thịt rã còn sót lại. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ, đã thành xương trắng không còn máu thịt, chỉ còn gân liền nhau. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ chỉ còn các xương, xương ấy trắng xám màu như ngọc kha, các gân nát bấy, các đốt chân tay rời ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát thây chết quăng bỏ, đã thành xương trắng, các đốt tay chân phân tán, rơi lạc phương khác. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương chân một nơi, xương ống một nơi, xương đầu gối một nơi, xương đùi một nơi, xương vế một nơi, xương sườn một nơi, xương sống một nơi, xương ngực một nơi, xương vai một nơi, xương tay một nơi, xương ngón một nơi, xương cổ một nơi, xương cằm một nơi, xương má một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ, xương cốt ngổn ngang, gió thổi nắng đốt, mưa chan sương phủ, trải qua nhiều năm, màu sắc như ngọc kha. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán sát tử thi quăng bỏ, xương còn lại tan lộn trên đất, trải qua hàng trăm năm, hoặc hàng ngàn năm, tướng trạng biến ra màu xanh, giống như lông chim bồ câu, hoặc mục nát như bụi, hòa chung với đất khó có thể phân biệt được. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, như trụ ở nội thân quán theo thân sai khác như vậy, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Trụ ở ngoại thân quán theo thân, trụ ở nội ngoại thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu Tùy theo chỗ thích hợp cũng như vậy.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với trong và ngoài bao gồm thọ, tâm, pháp, khi trụ quán theo thọ, tâm, pháp, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Tùy chỗ thích hợp đều nên giảng rộng.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với trong và ngoài bao gồm thọ, tâm, pháp, khi trụ quán theo thân, thọ, tâm, pháp. Tuy quán như vậy nhưng vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn chánh đoạn. Thế nào là bốn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì muốn làm cho không sanh nên sanh tâm mong muốn cố gắng, phát sanh siêng năng giữ gìn, đó là thứ nhất.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện đã sanh, vì muốn đoạn trừ hẳn nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đó là thứ hai.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, pháp thiện chưa sanh vì làm cho phát sanh, nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đó là thứ ba.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, pháp thiện đã sanh, vì làm cho an trụ không quên, càng tăng thêm làm cho viên mãn nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

 

Quyển Thứ 414

HẾT

 

02

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn thần túc. Thế nào là bốn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu dục Tam-ma-địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả. Đó là thứ nhất.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu cần Tam-ma-địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả. Đó là thứ hai.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tâm Tam-ma-địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả. Đó là thứ ba.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu quán Tam-ma-địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả. Đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là năm căn. Thế nào là năm?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là năm lực. Thế nào là năm?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bảy giác chi. Thế nào là bảy?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập niệm đẳng giác chi, trạch pháp đẳng giác chi, tinh tấn đẳng giác chi, hỷ đẳng giác chi, khinh an đẳng giác chi, định đẳng giác chi, xả đẳng giác chi, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là tám chi thánh đạo. Thế nào là tám?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là ba Tam-ma-địa. Thế nào là ba?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp đều không, tâm an trụ, gọi là pháp môn giải thoát không, cũng gọi là không Tam-ma-địa. Đó là thứ nhất.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp là không, nên đều không có tướng, tâm an trụ, gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi vô tướng Tam-ma-địa. Đó là thứ hai.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp là không, nên đều không nguyện, tâm an trụ gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi vô nguyện Tam-ma-địa. Đó là thứ ba.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười một trí. Thế nào là mười một? Nghĩa là pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thuyết trí.

Thế nào là pháp trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tướng năm uẩn sai khác. Đó là pháp trí.

Thế nào là loại trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp đều là vô thường. Đó là loại trí.

Thế nào là tha tâm trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ pháp tâm, tâm sở của hữu tình khác không còn trở ngại. Đó là tha tâm trí.

Thế nào là thế tục trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết các hữu tình tu hành sai khác. Đó là thế tục trí.

Thế nào là khổ trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên không sanh. Đó là khổ trí.

Thế nào là tập trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ hẳn. Đó là tập trí.

Thế nào là diệt trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên chứng đắc. Đó là diệt trí.

Thế nào là đạo trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập. Đó là đạo trí.

Thế nào là tận trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si đã hết. Đó là tận trí.

Thế nào là vô sanh trí?

Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết các cõi, vĩnh viễn không trở lại nữa. Đó là vô sanh trí.

Thế nào là như thuyết trí?

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết tướng của Như Lai. Đó là như thuyết trí.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là ba căn: Một là vị tri đương tri căn; hai là dĩ tri căn; ba là cụ tri căn.

Thế nào là vị tri đương tri căn?

Này Thiện Hiện! Các vị hữu học nào đối với các Thánh đế chưa hiện quán, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là vị tri đương tri căn.

Thế nào là dĩ tri căn?

Này Thiện Hiện! Các vị hữu học nào đối với các Thánh đế đã được hiện quán, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là dĩ tri căn.

Thế nào là cụ tri căn?

Này Thiện Hiện! Các vị vô học, hoặc A-la-hán, hoặc Độc giác, hoặc Đại Bồ-tát đã trụ mười địa, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là cụ tri căn.

Này Thiện Hiện! Nếu ba căn này đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là ba Tam-ma-địa. Thế nào là là ba? Một là Tam-ma-địa có tầm, có từ. Hai là Tam-ma-địa không có tầm chỉ có từ; ba là Tam-ma-địa không có tầm không có từ.

Thế nào là Tam-ma-địa có tầm, có từ?

Này Thiện Hiện! Nếu xa lìa pháp dục ác bất thiện có tầm, có từ, lìa dục sanh hỷ lạc, nhập và an trụ hoàn toàn vào tịnh lự thứ nhất. Đó là Tam-ma-địa có tầm, có từ.

Thế nào là Tam-ma-địa không có tầm chỉ có từ?

Này Thiện Hiện! Định trung gian tịnh lự thứ nhất và tịnh lự thứ hai. Đó là Tam-ma-địa không có tầm chỉ có từ.

Thế nào là Tam-ma-địa không có tầm không có từ?

Này Thiện Hiện! Từ tịnh lự thứ hai cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là Tam-ma-địa không có tầm không có từ.

Này Thiện Hiện! Nếu ba pháp này đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười tùy niệm. Thế nào là mười? Nghĩa là tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm tịch tịnh, tùy niệm hơi thở ra vào, tùy niệm thân, tùy niệm tử.

Này Thiện Hiện! Nếu mười pháp này đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là các thiện pháp: Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín định thứ đệ v.v.... Đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười lực của Như Lai. Thế nào là mười?

Này Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp nhân quả v.v... tướng xứ, phi xứ. Đó là thứ nhất.

Này Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ sự khác nhau của nghiệp báo, nhân quảcác loại hữu tình lãnh thọ trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Đó là thứ hai.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng thế gian chẳng phải một cảnh giới. Đó là thứ ba.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình chẳng phải một thắng giải, mà nhiều loại thắng giải. Đó là thứ tư.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các căn thắng liệt của các loại hữu tình. Đó là thứ năm.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ hành tướng biến hành. Đó là thứ sáu.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình căn, lực, giác chi, giải thoát, tịnh lự, đẳng trì, đẳng chí, nhiễm, tịnh sai khác. Đó là thứ bảy.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tìnhvô lượng túc mạng sai khác. Đó là thứ tám.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tìnhvô lượng các sanh tử sai khác. Đó là thứ chín.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các lậu được đoạn hẳn, được vô lậu tâm giải thoát, được vô lậu tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự mình chứng đắc và an trụ hoàn toàn, có thể biết rõ như thật đây là đời sống cuối cùng, phạm hạnh đã lập, việc làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Đó là thứ mười.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn điều không sợ. Thế nào là bốn?

Này Thiện Hiện! Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là Chánh Đẳng Giác. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nghĩ: Pháp này chẳng phải Chánh Đẳng Giác. Đối với câu hỏi ấy ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ, nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Pháp luân ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ nhất.

Này Thiện Hiện! Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã đoạn hẳn các lậu. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người khác trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi rằng, làm ta nhớ nghĩ: Các lậu như vậy chưa được đoạn hẳn? Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở trong đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Pháp luân ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người ở thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ hai.

Này Thiện Hiện! Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, nói pháp chướng đạo cho các đệ tử. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian nương vào pháp và đặt ra câu hỏi, làm cho ta nghĩ: Tu tập pháp này không thể chướng đạo. Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở trong đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Pháp luân ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ ba.

Này Thiện Hiện! Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, thuyết pháp dứt trừ khổ cho các đệ tử. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian, nương vào giáo pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nghĩ: Tu đạo này không thể hết khổ. Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở trong đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Pháp luân ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có ai chuyển được pháp như thế. Đó là thứ tư.

Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Thế nào là bốn? Một là nghĩa vô ngại giải; hai là pháp vô ngại giải; ba là từ vô ngại giải; bốn là biện vô ngại giải.

Này Thiện Hiện! Bốn sự hiểu biết thông suốt như vậy, nếu đem vô sở đắc làm phương tiện, nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười tám pháp Phật bất cộng. Thế nào là mười tám? Này Thiện Hiện! Nghĩa là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không lầm lỗi, không hấp tấp, không mất giọng nói, không nhớ nghĩ, tưởng không bất định, tâm không chọn bỏ, chí muốn không lui, tinh tấn không lui, niệm không lui, tuệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến không lui. Tất cả thân nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển; tất cả ngữ nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển; tất cả ý nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển, đối với tri kiến phát sanh ở đời quá khứ không chấp trước, không chướng ngại, đối với tri kiến phát sanh ở đời vị lai không chấp trước, không chướng ngại, đối với tri kiến phát sanh ở đời hiện tại không chấp trước, không chướng ngại. Này Thiện Hiện! Mười tám pháp Phật bất cộng như vậy không có pháp nào không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là môn Đà-la-ni. Những gì là môn Đà-la-ni? Nghĩa là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ. Thế nào là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vào môn chữ Ả, ngộ tất cả pháp vốn không sanh; vào môn chữ Lạc, ngộ tất cả pháp xa lìa trần cấu; vào môn chữ Bả, ngộ giáo lý thắng nghĩa của tất cả pháp; vào môn chữ Giả, ngộ tất cả pháp không có tử sanh; vào môn chữ Na, ngộ tất cả pháp, xa lìa danh tướng không có được mất; vào môn chữ Lã, ngộ tất cả pháp xuất thế gian, ưa thích duyên cành nhánh nên vĩnh viễn bị hại; vào môn chữ Đà, ngộ tất cả pháp, điều phục tịch tịnh, chơn như bình đẳng không phân biệt; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, xa lìa ràng buộc giải thoát; vào môn chữ Trà, ngộ tất cả pháp, xa lìa nóng nảy, giả dối, ô uế được thanh tịnh; vào môn chữ Sa, ngộ tất cả pháp, không chướng ngại; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, bặt dứt ngôn ngữ; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, chơn như bất động; vào môn chữ Dã, ngộ tất cả pháp, như thật không sanh; vào môn chữ Sắc-tra, ngộ tất cả pháp, chế phục giữ gìn tướng bất khả đắc; vào môn chữ Ca, ngộ tất cả pháp, người làm bất khả đắc; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, thời tánh bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Ma, ngộ tất cả pháp, tánh chấp ngã sở bất khả đắc; vào môn chữ Già, ngộ tất cả pháp, tánh chấp hành động bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh chỗ nương tựa bất khả đắc; vào môn chữ Xà (Đồ), ngộ tất cả pháp, năng sở sanh khởi bất khả đắc; vào môn chữ Thấp-phược, ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc; vào môn chữ Đạt, ngộ tất cả pháp, tánh hay chấp các cõi bất khả đắc; vào môn chữ Xả, ngộ tất cả pháp, tánh tịch tịnh bất khả đắc; vào môn chữ Khư, ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc; vào môn chữ Sằn, ngộ tất cả pháp, tánh cùng tận bất khả đắc; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, nhậm trì xứ phi xứ làm cho tánh không động chuyển bất khả đắc; vào môn chữ Nhã, ngộ tất cả pháp chỗ tánh biết rõ bất khả đắc; vào môn chữ Thứ-tha, ngộ tất cả pháp, tánh nghĩa chấp trước nghĩa bất khả đắc; vào môn chữ A, ngộ tất cả pháp, tánh hay làm nhân bất khả đắc; vào môn chữ Bạt, ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, tánh ưa muốn che đậy bất khả đắc; vào môn chữ Tạp-ma, ngộ tất cả pháp, tánh có thể nhớ nghĩ bất khả đắc; vào môn chữ Hạp-phược, ngộ tất cả pháp, tánh có thể gọi tên bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh mạnh mẽ bất khả đắc; vào môn chữ Sải, ngộ tất cả pháp, tánh rất bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Noa, ngộ tất cả pháp, tánh chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Nã, ngộ tất cả pháp, xa lìa tranh cải, huyên náo không đến không lại, đi, đứng, ngồi, nằm bất khả đắc; vào môn chữ Phả, ngộ tất cả pháp, quả báo đầy khắp bất khả đắc; vào môn chữ Tắc-ca, ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Dật-sa, ngộ tất cả pháp, tánh tướng già suy bất khả đắc; vào môn chữ Chước, ngộ tất cả pháp, chứa nhóm dấu vết bất khả đắc; vào môn chữ Tra, ngộ tất cả pháp, tánh xô đuổi nhau bất khả đắc; vào môn chữ Trạch, ngộ tất cả pháp, xứ sở rốt ráo bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Môn chữ Trạch này có thể ngộ nhập tận cùng pháp không. Ngoài các chữ này ra biểu thị các pháp không lại bất khả đắc. Vì sao? Vì nghĩa các chữ này không thể giảng nói, không thể chỉ rõ, không thể ghi chép, thọ trì, không thể chấp lấy, không thể quán sát, xa lìa các tướng.

Này Thiện Hiện! Ví như hư không là nơi tất cả các vật nương tựa, môn các chữ này cũng vậy. Nghĩa không của các pháp đều dựa vào môn này mới được hiển rõ.

Này Thiện Hiện! Vào chữ Ả này v.v... gọi là vào môn các chữ.

Này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát đối với việc vào môn các chữ này được trí thiện xảo, thì đối với các ngôn ngữ âm thanh nói ra nêu rõ đều không chướng ngại. Đối với tánh không bình đẳng của tất cả pháp đều có thể chứng đắc phụng trì. Đối với các ngôn ngữ âm thanh đều được khéo léo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào có thể nghe như vậy, vào môn các chữ ấn tướng, ấn cú, nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, giải nói cho người khác mà không mong cầu danh dự, lợi dưỡng, sự cung kính, do đó được hai mươi công đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Nghĩa là được sự nhớ nghĩ tốt, được sự hổ thẹn cao quí, được sức bền bỉ, được pháp hướng đến, được sự giác ngộ tăng thượng, được trí tuệ thù thắng, được biện tài vô ngại, được pháp môn tổng trì, được không có nghi hoặc, được ngôn ngữ trái thuận mà không sanh ghét, ưa, được sống bình đẳng không có cao thấp, được nói lời khéo léo đối với hữu tình, được uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, đế thiện xảo, được duyên khởi thiện xảo, nhân thiện xảo, duyên thiện xảo, pháp thiện xảo, được trí căn thắng liệt thiện xảo, trí biết tha tâm thiện xảo, được trí xem sao lịch thiện xảo, được trí thiên nhĩ thiện xảo, được trí nhớ nghĩ việc đời trước thiện xảo, được trí thần cảnh thiện xảo, trí sanh tử thiện xảo, được trí lậu tận thiện xảo, được trí thuyết xứ phi xứ thiện xảo, được trí vãng lai thiện xảo, phép oai nghi thiện xảo.

Này Thiện Hiện! Đó là hai mươi công đức thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc làm phương tiện được các môn Đà-la-ni như vậy, nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát.

 
XVIII. PHẨM TU TRỊ ĐỊA

01

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông hỏi làm thế nào biết được Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại thừa. Đại Bồ-tát nào khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa từ địa này đến địa khác, bằng cách này sẽ biết Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại thừa.

Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa từ địa này đến địa khác?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát biết tất cả pháp không từ đâu đến cũng không đến đâu. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không đi, không đến, không có nơi xuất phát, không có nơi không hướng đến. Do các pháp đó không có biến hoại.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đối với nơi xuất phát hướng đến không ỷ lại, không tư duy, tuy tu nghiệp trị địa nhưng không thấy địa ấy. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa từ địa này đến địa khác.

Thế nào là Đại Bồ-tát tu nghiệp trị địa?

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi trụ sơ địa nên khéo tu trị mười thắng nghiệp. Những gì là mười?

Một là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp tăng thượng ý lạc; sự tướng lợi ích bất khả đắc.

Hai là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tâm bình đẳng với tất cả hữu tình, tất cả hữu tình bất khả đắc.

Ba là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp bố thí, vì người cho, người nhận và vật cho bất khả đắc.

Bốn là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thân cận bạn lành, đối với các bạn lành không chấp trước.

Năm là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp cầu pháp, vì các pháp sở cầu bất khả đắc.

Sáu là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thường muốn xuất gia, vì xả bỏ gia đình bất khả đắc.

Bảy là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp ưa thích thân Phật, nhân tốt theo nhau bất khả đắc.

Tám là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp, vì pháp phân biệt bất khả đắc.

Chín là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp phá kiêu mạn, vì các pháp hưng thạnh bất khả đắc.

Mười là đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp lời nói chân thật, vì tất cả ngôn ngữ bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ sơ địa, nên khéo tu trị mười thắng nghiệp này.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ hai nên đối với tám pháp tư duy, tu tập làm cho mau được viên mãn. Những gì là tám?

Một là giới thanh tịnh; hai là tri ơn báo ơn; ba là an trụ lực nhẫn nhục; bốn là thọ nhận nhiều hoan hỷ; năm là không bỏ hữu tình; sáu là thường sanh lòng đại bi; bảy là đối với các bậc sư trưởng đem tâm tin tưởng, cung kính, phụng sự, cúng dường như chư Phật; tám là siêng năng mong cầu tu tập pháp Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ hai, đối với tám pháp này nên tư duy, học tập làm cho mau được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ ba nên an trụ năm pháp. Những gì là năm?

Một là siêng năng mong cầu nghe nhiều thường không nhàm chán, đối với pháp được nghe không chấp văn tự.

Hai là đem tâm không nhiễm thường hành pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao.

Ba là làm trang nghiêm cõi tịnh độ, gieo trồng các thiện căn, tuy hồi hướng nhưng không tự cao.

Bốn là vì giáo hóa hữu tình, tuy không nhàm chán vô biên sanh tử nhưng không kiêu mạn, buông lung.

Năm là tuy an trụ tàm quý nhưng không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm pháp như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tư nên đối với mười pháp thọ trì không xả bỏ. Những gì là mười?

Một là sống nơi vắng lặng thường không lìa bỏ.

Hai là thường ưa thiểu dục.

Ba là thường ưa biết đủ.

Bốn là thường không lìa bỏ công đức đầu đà.

Năm là đối với các học xứ thường không xả bỏ.

Sáu là đối với các dục lạc sanh lòng rất nhàm chán.

Bảy là thường ưa phát sanh tâm câu hữu với tịch diệt.

Tám là xả bỏ tất cả vật.

Chín là tâm không trầm trệ.

Mười là đối với tất cả vật thường không luyến tiếc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tư đối với mười pháp như vậy nên thọ trì không xả bỏ.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ năm nên xa lìa mười pháp. Những gì là mười?

Một là nên xa lìa nhà ở.

Hai là nên xa lìa Bí-sô ni.

Ba là nên xa lìa nhà keo kiệt.

Bốn là nên xa lìa chúng hội tranh cãi, giận dữ.

Năm là nên xa lìa khen mình chê người.

Sáu là nên xa lìa mười nghiệp bất thiện.

Bảy là nên xa lìa tăng thượng ngạo mạn.

Tám là nên xa lìa điên đảo.

Chín là nên xa lìa do dự.

Mười là nên xa lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ năm nên thường xa lìa mười pháp như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ sáu nên viên mãn sáu pháp. Những gì là sáu? Nghĩa là sáu pháp Ba-la-mật-đa, tức là bố thí cho đến Bát-nhã. Lại nên xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu?

Một là tâm Thanh văn.

Hai là tâm Độc giác.

Ba là tâm nóng nảy.

Bốn là tâm không vui và buồn bực khi thấy người hành khất đến.

Năm là tâm ưu buồn luyến tiếc khi xả bỏ vật sở hữu.

Sáu là tâm đối với người đến xin, tìm cách dối gạt.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ sáu thường nên viên mãn sáu pháp nói trước và nên xa lìa sáu pháp nói sau.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ bảy nên xa lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi?

Một là nên xa lìa chấp ngã cho đến chấp người thấy.

Hai là nên xa lìa chấp đoạn.

Ba là nên xa lìa chấp thường.

Bốn là nên xa lìa chấp tướng.

Năm là nên xa lìa chấp kiến.

Sáu là nên xa lìa chấp tên danh sắc.

Bảy là nên xa lìa chấp uẩn.

Tám là nên xa lìa chấp xứ.

Chín là nên xa lìa chấp giới.

Mười là nên xa lìa chấp đế.

Mười một là nên xa lìa chấp duyên khởi.

Mười hai nên xa lìa chấp đắm trước trong ba cõi.

Mười ba nên xa lìa chấp tất cả pháp.

Mười bốn nên xa lìa chấp tất cả pháp như lý, bất như lý.

Mười lăm nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc Phật.

Mười sáu nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc Pháp.

Mười bảy nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc Tăng.

Mười tám nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc giới.

Mười chín nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc không.

Hai mươi nên xa lìa nhàm chán lo sợ tánh không.

Lại nên viên mãn hai mươi pháp. Những gì là hai mươi?

Một là nên viên mãn thông đạt không.

Hai là nên viên mãn chứng vô tướng.

Ba là nên viên mãn biết vô nguyện.

Bốn là nên viên mãn ba luân thanh tịnh.

Năm là nên viên mãn thương xót hữu tình và đối với hữu tình không chấp trước.

Sáu là nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và đối với điều này không chấp trước.

Bảy là nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và đối với điều này không chấp trước.

Tám là nên viên mãn thông đạt nghĩa lý chơn thật và ở trong đó không chấp trước.

Chín là nên viên mãn trí vô sanh nhẫn.

Mười là nên viên mãn thuyết tất cả pháp nghĩa lý nhất tướng.

Mười một nên viên mãn diệt trừ phân biệt.

Mười hai nên viên mãn xa lìa các tưởng.

Mười ba nên viên mãn xa lìa các kiến.

Mười bốn nên viên mãn xa lìa phiền não.

Mười lăm nên viên mãn địa chỉ quán.

Mười sáu nên viên mãn điều phục tâm tánh.

Mười bảy nên viên mãn tịch tịnh tâm tánh.

Mười tám nên viên mãn trí tánh vô ngại.

Mười chín nên viên mãn không có ái nhiễm.

Hai mươi nên viên mãn tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ bảy thường nên xa lìa hai mươi pháp nói như trước, và nên viên mãn hai mươi pháp nói như sau.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tám nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn?

Một là nên viên mãn hiểu rõ tâm hạnh của tất cả hữu tình.

Hai là nên viên mãn an trụ các thần thông.

Ba là nên viên mãn thấy các cõi Phật như sở kiến của mình mà tự nghiêm tịnh các cõi Phật.

Bốn là nên viên mãn phụng sự cúng dường chư Phật, Thế Tôn, đối với thân Như Lai quán sát như thật.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tám đối với bốn pháp này nên cố gắng viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ chín nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn?

Một là nên viên mãn trí căn thắng liệt.

Hai là nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật.

Ba là nên viên mãn thường nhập các định đẳng trì như huyễn.

Bốn là nên viên mãn tùy theo căn lành của các hữu tình đã thuần thục, nên vào các cõi tự hiện thân hóa sanh.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ chín đối với bốn pháp này nên cố gắng viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ mười nên viên mãn mười hai pháp. Những gì là mười hai?

Một là nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở, đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắc.

Hai là nên viên mãn trí tuệ tùy theo âm thanh các loại khác nhau: Trời, rồng, dược xoa v.v...

Ba là nên viên mãn biện thuyết vô ngại.

Bốn là nên viên mãn vào thai đầy đủ.

Năm là nên viên mãn ra đời đầy đủ.

Sáu là nên viên mãn gia tộc đầy đủ.

Bảy là nên viên mãn dòng họ đầy đủ.

Tám là nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ.

Chín là nên viên mãn sanh thân đầy đủ.

Mười là nên viên mãn xuất gia đầy đủ.

Mười một nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ-đề đầy đủ.

Mười hai nên viên mãn tất cả công đức thành tựu đầy đủ.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ mười nên cố gắng viên mãn mười hai pháp này.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết, Đại Bồ-tát nào an trụ địa thứ mười rồi nên nói không khác chư Như Lai.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tăng thượng ý lạc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí tu tập tất cả thiện căn thù thắng. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tăng thượng ý lạc.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí hướng đến bốn vô lượng tâm từ bi hỷ xả. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tâm bình đẳng với tất cả hữu tình.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp bố thí?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả hữu tình thực hành bố thí không phân biệt. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp bố thí.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thân cận bạn lành?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thấy các bạn lành khuyến hóa hữu tình làm cho họ tu tập trí nhất thiết trí, liền thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, thưa hỏi, lãnh thọ chánh pháp, ngày đêm phụng sự tâm không mệt mỏi, biếng nhác. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thân cận bạn lành.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp cầu pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, siêng năng mong cầu Chánh pháp Vô thượng của Như Lai, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp cầu pháp.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thường ưa xuất gia?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát sanh ở đâu cũng thường nhàm chán chỗ ở huyên náo, phức tạp khó chịu giống như lao ngục, thường thích Phật pháp thanh tịnh xuất gia, tịch tịnh vô vi như hư không không chướng ngại. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp thường ưa xuất gia.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp ưa thích thân Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào một khi trông thấy hình tướng Phật rồi, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, hoàn toàn không bỏ tác ý niệm Phật. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp ưa thích thân Phật.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi Phật còn tại thế và sau khi Niết-bàn, vì các hữu tình xiển dương giáo pháp đầu, giữa, sau đều thiện, văn nghĩa thiện xảo, thuần nhất viên mãn thanh bạch phạm hạnh, nghĩa là từ Khế kinh cho đến Luận nghị. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp phá bỏ kiêu mạn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường ôm lòng kính nhường, điều phục tâm kiêu mạn, do đó không sanh vào dòng họ thấp hèn. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp phá bỏ kiêu mạn.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp lời nói chân thật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nói đúng theo hiểu biết của mình, lời nói, hành động hợp nhau. Đó là Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp lời nói chân thật.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ sơ địa nên khéo tu trị mười thắng nghiệp này.

Thế nào là Đại Bồ-tát giới thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không phát sanh tác ý đến Thanh văn, Độc giác và các điều phá giới chướng ngại pháp Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát giới thanh tịnh.

Thế nào là Đại Bồ-tát tri ơn báo ơn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi thực hành hạnh thù thắng của Bồ-tát, chịu ơn nhỏ của người còn phải báo đáp nhiều, huống chi là ơn lớn mà không báo đáp. Đó là Đại Bồ-tát tri ơn báo ơn.

Thế nào là Đại Bồ-tát an trụ lực nhẫn nhục?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào giả sử tất cả hữu tình đều làm hại mà có thể đối với họ không có tâm giận dữ làm hại. Đó là Đại Bồ-tát an trụ lực nhẫn nhục.

Thế nào là Đại Bồ-tát được sự rất hoan hỷ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thấy các hữu tình thực hành ba thừa rồi được thành thục, tâm rất vui mừng. Đó là Đại Bồ-tát được sự rất hoan hỷ.

Thế nào là Đại Bồ-tát không xả bỏ hữu tình?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào muốn cứu giúp khắp tất cả hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát không xả bỏ hữu tình.

Thế nào là Đại Bồ-tát phát lòng đại bi?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi thực hành các hạnh thù thắng của Bồ-tát, thường nghĩ như vầy: Ta làm lợi ích cho tất cả hữu tình, giả sử trải qua vô lượng, vô số hằng hà sa kiếp ở trong địa ngục lớn, chịu các khổ nặng, hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc mổ, hoặc xẻ, hoặc đâm, hoặc treo, hoặc xay, hoặc giã, chịu vô lượng các khổ như vậy, cho đến làm cho các loại hữu tình kia nương vào Phật thừaviên tịch. Như vậy tất cả cõi hữu tình cùng tận, nhưng tâm đại bi của ta cũng không lười bỏ. Đó là Đại Bồ-tát thường phát lòng đại bi.

Thế nào là Đại Bồ-tát đối với các bậc Sư trưởng đem lòng tin tưởng, cung kính, thăm hỏi, phụng sự, cúng dường như là phụng sự chư Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên cung kính hiếu thuận với Sư trưởng không luyến tiếc. Đó là Đại Bồ-tát đối với các bậc Sư trưởng đem lòng tin tưởng, cung kính, thăm hỏi, phụng sự, cúng dường như phụng sự chư Phật.

Thế nào là Đại Bồ-tát siêng năng mong cầu tu tập pháp Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả Ba-la-mật-đa chuyên tâm cầu học, không nghĩ đến các việc khác. Đó là Đại Bồ-tát siêng năng mong cầu tu tập pháp Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ hai đối với tám pháp này nên suy nghĩ học tập làm cho mau viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát siêng năng mong cầu nghe nhiều, thường không nhàm chán đối với pháp đã nghe không chấp văn tự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nổ lực tinh tấn, suy nghĩ như vầy: Hoặc ở cõi Phật này, hoặc ở mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng Chánh pháp tôi sẽ lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu học rốt ráo, làm cho không thiếu xót, mà ở trong Chánh pháp đó không chấp văn tự. Đó là Đại Bồ-tát siêng năng mong cầu nghe nhiều thường không nhàm chán đối với pháp đã nghe không chấp văn tự.

Thế nào là Đại Bồ-tát đem tâm không nhiễm thường hành pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào giảng thuyết Chánh pháp cho các hữu tình còn không đem thiện căn này hồi hướng quả Bồ-đề cho mình huống là mong cầu việc khác, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự thị. Đó là Đại Bồ-tát đem tâm không nhiễm thường hành pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm trang nghiêm cõi tịnh độ, gieo trồng các căn lành, tuy có hồi hướng nhưng không tự cao?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dũng mãnh tinh tấn tu tập các thiện căn, vì muốn làm trang nghiêm các cõi Phật và làm thanh tịnh cõi tâm mình, người, tuy làm việc này nhưng không tự cao. Đó là Đại Bồ-tát trang nghiêm cõi tịnh độ, gieo trồng các căn lành, tuy có hồi hướng nhưng không tự cao.

Thế nào là Đại Bồ-tát giáo hóa hữu tình, tuy không nhàm chán vô biên sanh tử nhưng không kiêu mạn, buông lung?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì muốn giáo hóa tất cả hữu tình gieo trồng các căn lành, làm nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến chưa viên mãn trí nhất thiết trí, tuy chịu vô biên khổ nhọc sanh tử nhưng không nhàm chán, cũng không tự cao. Đó là Đại Bồ-tát giáo hóa hữu tình, tuy không nhàm chán vô biên sanh tử nhưng không kiêu mạn, buông lung.

Thế nào là Đại Bồ-tát tuy an trụ tàm quýkhông chấp trước?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chuyên mong cầu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì có tàm quý nên hoàn toàn không bao giờ khởi niệm tác ý về Thanh văn, Độc giác, mà ở trong đó cũng không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát tuy an trụ tàm quýkhông chấp trước.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm pháp như vậy.

 

Quyển Thứ 415

HẾT

 

02

 

Thế nào là Đại Bồ-tát thường sống và không xa lìa nơi vắng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào siêng năng mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Đó là Đại Bồ-tát thường sống và không xa lìa nơi vắng vẻ.

Thế nào là Đại Bồ-tát thường ưa thiểu dục?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quả Bồ-đề không còn mong cầu cho mình huống là mong cầu việc thế gianNhị thừa. Đó là Đại Bồ-tát thường ưa thiểu dục.

Thế nào là Đại Bồ-tát thường ưa vui biết đủ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chỉ vì chứng đắc trí nhất thiết trí, nên đối với việc khác không có chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát thường ưa vui biết đủ.

Thế nào là Đại Bồ-tát thường không xa lìa công đức đầu-đà?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường đối với giáo pháp thâm sâu phát lòng nhẫn nại quán sát kỹ. Đó là Đại Bồ-tát thường không xa lìa công đức đầu-đà.

Thế nào là Đại Bồ-tát đối với các học xứ thường không xả bỏ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với các học xứ giữ gìn không rời bỏ. Đó là Đại Bồ-tát đối với học xứ thường không xả bỏ.

Thế nào là Đại Bồ-tát đối với các dục lạc sanh lòng rất nhàm chán xa lìa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với dục lạc ngon ngọt không phát sanh dục tâm. Đó là Đại Bồ-tát đối với các dục lạc sanh lòng rất nhàm chán xa lìa.

Thế nào là Đại Bồ-tát thường ưa phát sanh tâm câu hữu với tịch diệt?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết tất cả pháp từng không phát sanh tạo tác. Đó là Đại Bồ-tát thường ưa phát sanh tâm câu hữu với tịch diệt.

Thế nào là Đại Bồ-tát xả bỏ tất cả vật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với pháp trong ngoài đều không lãnh thọ. Đó là Đại Bồ-tát xả bỏ tất cả vật.

Thế nào là Đại Bồ-tát tâm không trầm trệ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với các thức không sanh tâm trụ vào. Đó là Đại Bồ-tát tâm không trầm trệ.

Thế nào là Đại Bồ-tát đối với tất cả vật thường không luyến tiếc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả việc đều không suy nghĩ. Đó là Đại Bồ-tát đối với tất cả vật thường không luyến tiếc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tư đối với mười pháp như vậy nên thọ trì không xả bỏ.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa nhà ở?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào ở các cõi Phật, sanh nơi nào cũng thường ưa xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thọ trì pháp phục, làm Sa-môn. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa nhà ở.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa Bí-sô ni?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường nên xa lìa các Bí-sô ni, không ở chung dù trong khoảnh khắc, cũng không sanh tâm khác. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa Bí-sô ni.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa nhà bỏn xẻn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ như vầy: Ta phải thường làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình; nay hữu tình này nhờ phước lực của mình cảm hóa được nhà thí chủ hảo tâm như vậy, nên ta ở trong đó không nên bỏn xẻn ganh tỵ, suy nghĩ rồi, xa lìa nhà bỏn xẻn. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa nhà bỏn xẻn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chúng hội tranh cãi, giận dữ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ như vầy: Nếu ở chúng hội trong đó có Thanh văn, Độc giác, hoặc nói pháp yếu tương ưng với nhị thừa, thì làm cho ta thối lui tâm đại Bồ-đề. Vì thế quyết định nên xa lìa chúng hội. Lại suy nhĩ như vầy: Những kẻ tranh cãi, giận dữ có thể làm cho hữu tình phát sanh lòng sân giận làm hại, tạo tác các nghiệp ác bất thiện, còn trái với đường thiện, huống là đại Bồ-đề. Vì thế quyết định nên xa lìa tranh cãi, giận dữ. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chúng hội tranh cãi, giận dữ.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa việc khen mình chê người?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì không thấy có các pháp trong ngoài, nên xa lìa sự khen mình chê người. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa việc khen mình chê người.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ như vầy: Mười nghiệp đạo bất thiện như vậy còn có thể chướng ngại con đường thiện trời, người huống là đối với Thánh đạođại Bồ-đề mà không làm chướng ngại? Vì thế đối với điều đó ta quyết định phải xa lìa. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa ngạo mạn tăng thượng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không thấy có pháp nào có thể phát sanh kiêu ngạo này, nên phải xa lìa. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa ngạo mạn tăng thượng.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa điên đảo?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán các việc điên đảo đều bất khả đắc. Vì thế quyết định phải xa lìa điên đảo. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa điên đảo.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa do dự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán các việc do dự đều bất khả đắc. Vì thế quyết định phải xa lìa do dự. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa do dự.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tham, sân, si?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đều không thấy có việc tham, sân, si, nên phải xa lìa ba pháp như vậy. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ năm nên thường xa lìa mười pháp như vậy.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn sáu Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào viên mãn sáu Ba-la-mật-đa vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác. Lại an trụ sáu Ba-la-mật-đa này, Phật và Nhị thừa có thể vượt qua bờ kia, biết năm pháp. Những gì là năm? Một là quá khứ; hai là vị lai; ba là hiện tại; bốn là bất khả thuyết; năm là vô vi. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn sáu Ba-la-mật-đa.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Thanh văn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm các Thanh văn chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì nhàm chán sanh tử. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Thanh văn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Độc giác?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm các Độc giác chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì ưa Niết-bàn. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Độc giác.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm nóng nảy?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm nóng nảy này chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề, nên phải xa lìa. Vì sao? Vì sợ sanh tử. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm nóng nảy.

Sao Đại Bồ-tát nên xa lìa thấy người đến xin tâm sầu lo, không vui?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm sầu lo này chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với từ bi. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa thấy người đến xin tâm sầu lo không vui.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm ưu sầu hối tiếc khi xả bỏ vật sở hữu?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm hối tiếc này chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề, nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với bổn nguyện. Nghĩa là khi mới phát tâm Bồ-đề, ta nguyện: Các vật sở hữu của ta bố thí cho người đến xin đầy đủ theo ý muốn của họ. Như vậy, sao hôm nay bố thí rồi lại hối tiếc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm ưa sầu hối tiếc khi xả bỏ vật sở hữu.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm tìm cách dối gạt khi người đến xin?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm dối gạt này chẳng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với thệ nguyện của mình. Nghĩa là khi mới phát tâm Bồ-đề ta thệ nguyện như vầy: Phàm những vật sở hữu của ta bố thí cho người đến xin đầy đủ theo ý muốn của họ. Như vậy sao hôm nay dối gạt họ. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm tìm cách dối gạt khi người đến xin.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ sáu thường phải viên mãn sáu pháp nói trước, và phải xa lìa sáu pháp nói sau.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp ngã cho đến chấp người thấy?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán ngã cho đến người thấy rốt ráo chẳng có bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp ngã cho đến chấp người thấy.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp đoạn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán nghĩa tất cả pháp rốt ráo không sanh, không đoạn diệt. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp đoạn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp thường?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh tất cả pháp đã không sanh, đó là ý nghĩa vô thường. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp thường.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tướng tưởng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán hoặc như tham v.v... đều vô sở hữu. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tướng tưởng.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát không thấy có tánh các kiến chấp. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp danh sắc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh danh sắc đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp danh sắc.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp uẩn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các uẩn đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp uẩn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp xứ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các xứ đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp xứ.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp giới?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các giới đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp giới.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp đế?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các đế đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp đế.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp duyên khởi?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh duyên khởi đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp duyên khởi.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp vướng mắc vào ba cõi?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh ba cõi đều vô sở hữu bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp vướng mắc vào ba cõi.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp tất cả pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các pháp đều như hư không bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp tất cả pháp.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp tất cả pháp như lý bất như lý?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tánh các pháp đều bất khả đắc, không có như lý bất như lý. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chấp tất cả pháp như lý bất như lý.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết kiến chấp lệ thuộc vào Phật, không được thấy Phật. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Phật.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết pháp tánh chơn thật không thể thấy. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Pháp.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Tăng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết chúng hòa hợp vô tướng, vô vi không thể thấy. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào Tăng.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào giới?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết tánh tội phước đều chẳng có. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào giới.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào không?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán không của các pháp đều vô sở hữu không thể thấy. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa kiến chấp lệ thuộc vào không.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa chán sợ tánh không?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán tự tánh tất cả pháp đều không chẳng phải không cùng với không trái nhau và hại nhau nên việc chán sợ đều bất khả đắc. Do pháp không này không nên chán sợ. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa chán sợ tánh không.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thông đạt không?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết tự tướng tất cả pháp đều không. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thông đạt không.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn chứng vô tướng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không tư duy tất cả tướng. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn chứng vô tướng.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn biết vô nguyện?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với các pháp trí ba cõi đều không sanh. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn biết vô nguyện.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn ba luân thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đầy đủ mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn ba luân thanh tịnh.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối với hữu tình không có chấp trước?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đã có lòng đại bi và làm nghiêm tịnh cõi Tịnh độ đều không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối với hữu tình không có chấp trước.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả pháp không tăng, không giảm, đều không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với các hữu tình không tăng, không giảm, đều không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thông đạt nghĩa lý chơn thật và ở trong đó không có chấp trước?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với nghĩa lý chơn thật của tất cả pháp, tuy như thật thông đạt nhưng không có gì thông đạt, đều không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thông đạt nghĩa lý chơn thật và ở trong đó không có chấp trước.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nhẫn tất cả pháp không sanh, không diệt, không tạo tác và biết danh sắc rốt ráo không sanh. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thuyết nghĩa lý nhất tướng của tất cả pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả pháp thực hành tướng không hai. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thuyết nghĩa lý nhất tướng của tất cả pháp.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với tất cả pháp không sanh phân biệt. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa các tưởng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xa lìa lớn nhỏ và vô lượng tưởng. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa các tưởng.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa các kiến?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xa lìa kiến chấp vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa các kiến.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa phiền não?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xả bỏ tất cả pháp khí phiền não hữu lậu trói buộc. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn xa lìa phiền não.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn địa chỉ quán?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn địa chỉ quán.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn điều phục tâm tánh?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không chấp trước ba cõi. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn điều phục tâm tánh.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn tâm tánh tịch tịnh?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khéo thu nhiếp sáu căn. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn tâm tánh tịch tịnh.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn tánh trí vô ngại?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu đắc Phật nhãn. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn tánh trí vô ngại.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn không có ái nhiễm?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xả bỏ sáu xứ. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn không có ái nhiễm.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu các thần thông thù thắng đến các cõi Phật, phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, thỉnh chuyển pháp luân, độ các loại hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ bảy thường phải xa lìa hai mươi pháp trước, và phải viên mãn hai mươi pháp sau.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn hiểu rõ tâm hạnh của tất cả hữu tình?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng trí nhất tâm như thật biết khắp tất cả tâm và tâm sở của hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn hiểu rõ tâm hạnh của tất cả hữu tình.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn an trụ các thần thông?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ tự tại các loại thần thông, vì muốn thân cận cúng dường Phật, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật kia mà có thể không sanh tưởng an trụ cõi Phật.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn an trụ các thần thông.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy các cõi Phật như sở kiến của mình mà tự làm nghiêm tịnh các cõi Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ một cõi Phật có thể thấy vô biên cõi Phật trong mười phương, cũng có thể thị hiện mà không khi nào sanh tưởng các cõi Phật, và giáo hóa các hữu tình hiện ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới làm Chuyển luân vương và tự trang nghiêm, cũng có thể xả bỏ mà không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thấy các cõi Phật, Phật như sở kiến của mình mà tự làm nghiêm tịnh các cõi Phật.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai như thật quán sát?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình đối với nghĩa lý giáo pháp như thật phân biệt. Như vậy, gọi là đem pháp cúng dường phụng sự chư Phật. Lại quán sát kỹ Pháp thân chư Phật. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai như thật quán sát.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ tám đối với bốn pháp này nên siêng năng để viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí căn thắng liệt?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ mười lực của Phật, như thật biết rõ các căn thắng liệt của tất cả hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí căn thắng liệt.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn làm nghiêm tịnh cõi Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, làm nghiêm tịnh tâm hạnh của tất cả hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn thường nhập các định đẳng trì như huyễn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ đẳng trì này, tuy có thể thành tựu tất cả sự nghiệp, nhưng tâm đối với pháp đều không lay chuyển. Lại tu tập đẳng trì rất thành thục, nên không hành động lại có thể thường hiện tiền. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn thường nhập các định đẳng trì như huyễn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn tùy theo các hữu tình thiện căn đã thành thục mà vào các cõi tự hiện thân giáo hóa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì muốn giáo hóa các loại hữu tình nhờ thiện căn thù thắng mà tuỳ nghiệp hữu tình vào các cõi tự hiện thọ sanh. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn tùy theo các hữu tình thiện căn đã thành thục mà vào các cõi tự hiện thân.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ chín đối với bốn pháp này nên siêng năng để viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đã tu đầy đủ sáu Ba-la-mật-đa được rất viên mãn, hoặc làm nghiêm tịnh các cõi Phật, hoặc giáo hóa các loại hữu tình, tùy theo sở nguyện đều có thể chứng đắc. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắc.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí tùy theo âm thanh của các loài khác nhau: Trời, rồng, Dược-xoa v.v...

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu tập từ vô ngại giải thù thắng, có thể hiểu biếtngôn ngữ âm thanh khác nhau của trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, người chẳng phải người v.v... Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn trí tùy theo âm thanh của các loài khác nhau: Trời, rồng, Dược-xoa v.v...

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn vô ngại biện thuyết?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu tập biện vô ngại thù thắng, có thể giảng thuyết vô tận cho các hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn vô ngại biện thuyết.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn nhập thai đầy đủ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tuy tất cả nơi sanh thật ra thường là hóa sanh, nhưng vì làm lợi ích cho hữu tình nên hiện vào trong thai tạng đầy đủ vô biên các việc thù thắng. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn nhập thai đầy đủ.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ sanh ra viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi ra khỏi bào thai thị hiện các việc hi hữu thù thắng làm cho các hữu tình trông thấy đều vui vẻ, được lợi ích an lạc lớn. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ sanh ra viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ gia tộc viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào hoặc sanh trong gia tộc lớn dòng Sát-đế-lợi, hoặc sanh trong gia tộc lớn dòng Bà-la-môn, cha mẹ chơn tịnh. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ gia tộc viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ chủng tánh viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào ở đời quá khứ thường sanh trong dòng họ các Đại Bồ-tát. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ chủng tánh viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ quyến thuộc viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường đem vô lượng, vô số chúng Đại Bồ-tát để làm quyến thuộc. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ quyến thuộc viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ sanh thân viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi mới sanh ra thân mình đầy đủ tất cả tướng hảo, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên thế giới chư Phật, cũng làm cho các thế giới ấy biến động sáu cách, hữu tình gặp được đều có lợi ích. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ sanh thân viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ xuất gia viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi xuất gia vô lượng, vô số trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng vây quanh tôn trọng, khen ngợi, đi đến đạo tràng cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, thọ trì ứng khí, hướng dẫn vô lượng, vô biên hữu tình làm cho họ nương vào ba thừa để hướng đến viên tịch. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ xuất gia viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ trang nghiêm cội Bồ-đề viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào với thiện căn thù thắng, nguyện lực rộng lớn, nên cảm ứng được cội nguồn Bồ-đề lớn như vầy: Cọng làm bằng ngọc phệ lưu ly, gốc bằng vàng rồng, nhánh, lá, hoa, quả đều làm bằng bảy báu tốt đẹp, cây ấy cao rộng lớn trùm khắp ba ngàn đại thiên cõi Phật, ánh sáng chiếu soi khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ trang nghiêm cội Bồ-đề viên mãn.

Thế nào là Đại Bồ-tát nên đầy đủ tất cả công đức thành tựu viên mãn?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đầy đủ phước tuệ tư lương thù thắng, giáo hóa hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Đó là Đại Bồ-tát nên đầy đủ tất cả công đức thành tựu viên mãn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi an trụ địa thứ mười nên siêng năng để viên mãn mười hai pháp này.

Thế nào là Đại Bồ-tát an trụ địa thứ mười nên nói không khác với chư Như Lai?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, cho đến đã viên mãn mười tám pháp Phật bất cộng; đầy đủ trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Hoặc lại đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục của phiền não rồi an trụ Phật địa. Do đó nên nói: Đại Bồ-tát nào đã an trụ địa thứ mười nên nói không khác với chư Như Lai.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát an trụ địa thứ mười hướng đến địa Như Lai?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này với phương tiện thiện xảo thực hành sáu Ba-la-mật-đa, bốn niệm trụ, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; vượt qua Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa và Bồ-tát địa. Lại có thể đoạn hẳn tất cả tập khí phiền não tương tục, thành tựu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác an trụ Như Lai địa.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát an trụ địa thứ mười hướng đến Như Lai địa.

Này Thiện Hiện! Bằng cách này nên biết Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại-thừa.

 
XIX. PHẨM XUẤT TRỤ

01

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông hỏi Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào?

Này Thiện Hiện! Đại thừa như vậy từ trong ba cõi ra, đến an trụ vào trí nhất thiết trí, nhưng lấy không hai làm phương tiện nên không xuất không trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hai pháp như vậy, hoặc Đại thừa, hoặc trí nhất thiết trí, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối nhất tướng gọi là vô tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp vô tướng chẳng phải đã xuất trụ, chẳng phải sẽ xuất trụ, chẳng phải đang xuất trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn cho không của pháp giới cũng có xuất trụ, nhưng không của pháp giới không thể từ trong ba cõixuất hiện, cũng không thể đến an trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của pháp giới, tự tánh không của pháp giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của không chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới, tịch tịnh giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của chơn như cho đến không của diệt giới, không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của chơn như, tự tánh không của chơn như là không, cho đến không của diệt giới, tự tánh không của diệt giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của sắc cũng có xuất trụ. Nhưng không của sắc không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của sắc, tự tánh không của sắc là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của thọ, tưởng, hành, thức cũng có xuất trụ. Nhưng không của thọ, tưởng, hành, thức không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của thọ, tưởng, hành, thức, tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn xứ cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhãn xứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhãn xứ, tự tánh không của nhãn xứ là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của sắc xứ cũng có xuất trụ. Nhưng không của sắc xứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của sắc xứ, tự tánh không của sắc xứ là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có xuất trụ thì muốn làm cho không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng có xuất trụ. Như không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhãn giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhãn giới, tự tánh không của nhãn giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của sắc giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của sắc giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của sắc giới, tự tánh không của sắc giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng có xuất trụ. Nhưng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giớipháp không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn thức giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhãn thức giới, tự tánh không của nhãn thức giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn xúc cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhãn xúc không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhãn xúc, tự tánh không của nhãn xúc là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng có xuất trụ. Nhưng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng có xuất trụ. Nhưng không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tự tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng có xuất trụ. Nhưng không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, tự tánh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của cảnh mộng cũng có xuất trụ. Nhưng không của cảnh mộng không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của cảnh mộng, tự tánh không của cảnh mộng là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của việc huyễn, quáng nắng, tiếng vang, bóng dáng, ảnh ảo, hoa đốm trên hư không, việc biến hóa cũng có xuất trụ. Nhưng không của việc huyễn cho đến không của việc biến hóa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của việc huyễn, tự tánh không của việc huyễn là không, cho đến không của biến hóa, tự tánh không của biến hóa là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bố thí Ba-la-mật-đa cũng có xuất trụ. Nhưng không của bố thí Ba-la-mật-đa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh không của bố thí Ba-la-mật-đa là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng có xuất trụ. Nhưng không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của pháp không nội cũng có xuất trụ, nhưng không của pháp không nội không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của pháp không nội, tự tánh không của pháp không nội là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bản tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh cũng có xuất trụ. Nhưng pháp không của không ngoại cho đến pháp không của không vô tánh tự tánh không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của pháp không ngoại, tự tánh không của pháp không ngoại là không, cho đến pháp không của không vô tánh tự tánh, tự tánh không của không vô tánh tự tánh là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn niệm trụ cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn niệm trụ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn niệm trụ, tự tánh không của bốn niệm trụ là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn chánh đoạn, tự tánh không của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi thánh đạo, tự tánh không của tám chi thánh đạo là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm… cho đến không của mười lực Phật cũng có xuất trụ. Nhưng không của mười lực của Phật không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của mười lực của Phật, tự tánh không của mười lực Phật là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn điều không sợ, tự tánh không của bốn điều không sợ là không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tự tánh không của mười tám pháp Phật bất cộng là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho các bậc Dự lưu có sanh đường ác, các bậc Nhất lai có sanh trở lại nhiều lần, các bậc Bất hoàn có sanh cõi dục, các Đại Bồ-tát có đời sống tự lợi, các A-la-hán, Độc giác, Như Lai có sanh đời sau, nhưng không có việc này. Vì sao? Vì các bậc Dự lưu v.v... sanh đường ác v.v... bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Dự lưu cũng có xuất trụ. Nhưng không của Dự lưu không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của Dự lưu, tự tánh không của Dự lưu là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai cũng có xuất trụ. Nhưng không của Nhất lai cho đến không của Như Lai không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của Nhất lai, tự tánh không của Nhất lai là không, cho đến không của Như Lai, tự tánh không của Như Lai là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết cũng có xuất trụ. Nhưng không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết, tự tánh không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết là không.

Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi cũng có xuất trụ. Nhưng không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi; tự tánh không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, Đại thừa như vậy từ trong ba cõi xuất, đến trụ trong trí nhất thiết trí. Nhưng lấy không hai làm phương tiện, nên không xuất, không trụ. Vì sao? Vì pháp vô tướng không lay chuyển.

 

Quyển Thứ 416
HẾT

02

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa mà ông hỏi như vậy trụ ở nơi nào?

Này Thiện Hiện! Đại thừa đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì chỗ trụ các pháp bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Đại thừa như vậy đem vô sở đắc làm phương tiện trụ vào vô sở trụ.

Này Thiện Hiện! Như pháp giới chẳng phải trụ chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp giới không trụ không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp giới, tự tánh không của pháp giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới, tịch tịnh giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như cho đến tự tánh diệt giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như, tự tánh không của chơn như, cho đến tự tánh diệt giới, tự tánh không của diệt giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như sắc chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc, tự tánh không của sắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như thọ, tưởng, hành, thức chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ, tưởng, hành, thức không trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ, tưởng, hành, thức, tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhãn xứ chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ, tự tánh không của nhãn xứ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như sắc xứ chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ, tự tánh không của sắc xứ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhãn giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới, tự tánh không của nhãn giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như sắc giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới, tự tánh không của sắc giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhãn thức giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới, tự tánh không của nhãn thức giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhãn xúc chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc, tự tánh không của nhãn xúc. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tự tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, tự tánh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như cảnh mộng chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng, tự tánh không của cảnh mộng. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như việc huyễn, quáng nắng, tiếng vang, bóng dáng, ảnh ảo, hoa đốm trên hư không, việc biến hóa chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa, tự tánh không của việc huyễn cho đến biến hóa. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như bố thí Ba-la-mật-đa chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh không của bố thí Ba-la-mật-đa. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tự tánh không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như pháp không nội chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp không nội không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp không nội, tự tánh không của pháp không nội. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì pháp không ngoại cho đến tự tánh của pháp không vô tánh tự tánh không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì pháp không ngoại cho đến tự tánh của pháp không vô tánh tự tánh, pháp không ngoại cho đến tự tánh không của pháp không vô tánh tự tánh. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như bốn niệm trụ chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ, tự tánh không của bốn niệm trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tự tánh tám chi thánh đạo không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tự tánh tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tự tánh không của tám chi thánh đạo. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Cho đến như mười lực của Phật chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh mười lực của Phật không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh mười lực của Phật, tự tánh không của mười lực Phật. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng trụ chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ cho đến tự tánh không của mười tám pháp Phật bất cộng. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như bậc Dự lưu sanh đường ác chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác, tự tánh không của bậc Dự lưu sanh đường ác. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như đời sống còn trở lại nhiều lần của bậc Nhất lai, đời sống cõi Dục của bậc Bất hoàn, đời sống tự lợi của bậc Bồ-tát, đời sống sau này của A-la-hán, Độc giác, Như Lai chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì đời sống còn trở lại nhiều lần của bậc Nhất lai cho đến tự tánh đời sống sau này của Như Lai không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì đời sống còn trở lại nhiều lần của bậc Nhất lai cho đến tự tánh đời sống sau này của Như Lai, đời sống còn trở lại nhiều lần của bậc Nhất lai cho đến tự tánh không đời sống sau này của Như Lai. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như Dự lưu chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Dự lưu không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Dự lưu, tự tánh không của Dự lưu. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì Nhất lai cho đến tự tánh Như Lai không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì Nhất lai cho đến tự tánh Như Lai, Nhất lai cho đến tự tánh không của Như Lai. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như danh tự giả tưởng lời nói giả thiết chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự giả tưởng lời nói giả thiết không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự giả tưởng lời nói giả thiết, tự tánh không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Như vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi, tự tánh không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, Đại thừa như vậy tuy không chỗ trụ, nhưng lấy không hai làm phương tiện nên trụ vô sở trụ.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông hỏi ai lại nương Đại thừa này mà xuất.

Này Thiện Hiện! Tất cả đều không nương Đại thừa này mà xuất. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hoặc nương chỗ nương, hoặc người hay nương, hoặc lúc, hoặc nơi, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu đều bất khả đắc. Như thế sao lại nói có chỗ nương để nương vào, có người hay nương vào, có thời gian nương vào, nơi chốn nương vào nên không thể nói thật có nương vào Đại thừa này mà xuất. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Ngã vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hữu tình cho đến người thấy cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa này cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh, chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Sắc vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Sắc giới vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Cho đến mười lực của Phật vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bậc Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Quả Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Quả vị Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, tất cả Đại Bồ-tát thực hành quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi vô sở hữu khả đắc, người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Thời gian trước, sau và hiện tại vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Hoặc qua, hoặc lại vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Hoặc đi, hoặc đứng vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Hoặc tử, hoặc sanh vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Hoặc tăng, hoặc giảm vô sở hữu bất khả đắc. Người nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Trong đây pháp nào bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Trong đây pháp giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp giới v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp không nội v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Cho đến mười lực của Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bậc Dự lưu bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Nhất lai cho đến Như Lai cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì bậc Dự lưu v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Quả Dự lưu bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Quả Nhất lai cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì quả Dự lưu v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì vô sanh v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Sơ địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc, cho đến địa thứ mười cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì sơ địa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trong đây thế nào là mười địa? Nghĩa là Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa đó là mười địa.

Này Thiện Hiện! Sơ địa trong pháp không nội bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến sơ địa trong pháp không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp không nội bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Thậm chí địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây, sơ địa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trong pháp không nội giáo hóa hữu tình bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến trong pháp không vô tánh tự tánh giáo hóa hữu tình bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây giáo hóa hữu tình v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trong pháp không nội làm nghiêm tịnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến trong pháp không vô tánh tự tánh làm nghiêm tịnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây làm nghiêm tịnh cõi Phật v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trong pháp không nội năm loại mắt bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến trong pháp không vô tánh tự tánh năm loại mắt bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây năm loại mắt chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy quán các pháp đều vô sở hữu bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh, không nương Đại thừa mà xuất trụ. Nhưng đem vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại thừa ở trong sanh tử ba cõi mà xuất, đến trụ trong trí nhất thiết trí, đến tận đời vị lai làm lợi lạc cho chúng hữu tình.

 
XX. PHẨM SIÊU THẮNG

01

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nói Đại thừa, Đại thừa là vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Bạch Thế Tôn! Đại thừa như vậy bằng với hư không, cũng như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên Đại thừa của Đại Bồ-tát tức là thừa trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Lại như hư không không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đại thừa cũng không đến, không đi, không trụ có thể thấy, không động, không trụ nên gọi là Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Lại như khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa của hư không đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa đều bất khả đắc. Ba đời bình đẳng vượt ra khỏi ba đời nên gọi là Đại thừa!?

Phật bảo Thiện Hiện: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là:

- Sáu Ba-la-mật-đa, tức là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát nghĩa là pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là tất cả môn Đà-la-ni, tất cả môn Tam-ma-địa, và các Tam-ma-địa tức là Kiện hành Tam-ma-địa cho đến Vô nhiễm trước như hư không Tam-ma-địa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô số, vô biên công đức như vậy, nên biết đều là Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói Đại thừa vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Ở trong những gì gọi là tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian, đó là Dục giới, Sắc, Vô sắc giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Dục giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn như tánh sở hữu, tất cả thường, hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, chẳng thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì Dục giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu cõi Sắc, Vô sắcchơn như chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì cõi Sắc, Vô sắc là so lường, là giả hợp, có dời đổi, có lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu sắc là chơn như chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì sắc là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu thọ, tưởng, hành, thức là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu nhãn xứ là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứchơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến không khác, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu sắc xứchơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứchơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu nhãn giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu sắc giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì sắc giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu nhãn thức giớichơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn thức giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là so lường, là giả hợp, có dời đổi, có lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu nhãn xúc là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xúc là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là chơn như, chẳng hư vọng, không biến đổi, không điên đảo, là chân thật, là chắc chắn, như tánh sở hữu, tất cả thường hằng, không biến chuyển, không thay đổi, có thật tánh ấy, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là so lường, là giả hợp, có dời đổi, lay động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến chuyển, có thay đổi, đều không có thật tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu pháp giới là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì pháp giới chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, an cảnh giới ẩn v.v... chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu pháp không nội là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu bốn niệm trụ là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Cho đến nếu mười lực của Phật là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

 

Quyển Thứ 417
HẾT

02

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu pháp Chủng tánh là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì pháp Chủng tánh chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu pháp thứ tám, pháp Dự lưu, pháp Nhất lai, pháp Bất hoàn, pháp A-la-hán, pháp Độc giác, pháp Bồ-tát, pháp Như Lai là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì pháp thứ tám cho đến pháp Như Lai chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Chủng tánh Bổ-đặc-già-la là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì Chủng tánh Bổ-đặc-già-la chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Nếu Bổ-đặc-già-la thứ tám, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì Bổ-đặc-già-la thứ tám cho đến Như Lai chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào từ sơ phát tâm cho đến an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, trong đó phát sanh vô lượng các loại tâm là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, trong đó phát sanh vô lượng các loại tâm chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trí Kim cương của Đại Bồ-tát là thật có, chẳng phải không có, thì Đại thừa này chẳng phải tôn, chẳng phải thắng, chẳng phải thượng, chẳng phải diệu, không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì trí như Kim cương của Đại Bồ-tát chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên Đại thừa này là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trí như Kim cương của Đại Bồ-tát là thật có, chẳng phải không có, thì Đại Bồ-tát không nên dùng trí như Kim cương này đạt tự tánh tất cả pháp đều không, đoạn hẳn tất cả tập khítương tục của phiền não, chứng đắc trí nhất thiết trí; cũng không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì trí như Kim cương của Đại Bồ-tát chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên các Đại Bồ-tát dùng trí như Kim cương này đạt tự tánh tất cả pháp đều không, đoạn hẳn tất cả tập khítương tục của phiền não, chứng đắc trí nhất thiết trí, cũng có thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu ba mươi hai tướng của bậc đại sĩ, tám mươi tướng tốt trang nghiêm của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thật có, chẳng phải không có, thì oai đức vi diệu của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, tám mươi tướng tốt trang nghiêm của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên oai đức vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ánh sáng là thật có, chẳng phải không có, thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ánh sáng không thể chiếu khắp hằng hà sa số thế giới trong mười phương, cũng không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ánh sáng chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ánh sáng đều không thể chiếu khắp hằng hà sa số thế giới trong mười phương, cũng có thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đủ sáu mươi âm thanh vi diệu là thật có, chẳng phải không có, thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu không thể chỉ bày, giáo hóa hữu tình trong vô lượng, vô số thế giới khắp mười phương, cũng không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu đều có thể chỉ bày giáo hóa hữu tình trong vô lượng, vô số thế giới khắp mười phương, cũng có thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu sự chuyển pháp luân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thật có, chẳng phải không có, thì sự chuyển pháp luân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thanh tịnh, cũng chẳng phải tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... trong thế gian không thể chuyển được, cũng không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì sự chuyển pháp luân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên sự chuyển pháp luân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất thanh tịnh. Đó là việc làm mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... trong thế gian không ai có thể làm được, cũng có thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu việc giáo hóa hữu tình của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thật có, chẳng phải không có, thì việc giáo hóa hữu tình của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không thể làm cho các loại hữu tình ấy nhập vào cõi Vô dư y Niết-bàn vi diệu, cũng không thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Vì việc giáo hóa hữu tình của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thật có, là chẳng có tánh, nên việc chuyển pháp luân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có thể làm cho các loại hữu tình ấy nhập vào cõi Vô dư y Niết-bàn vi diệu, cũng có thể vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Do các nhân duyên như vậy, nên nói Đại thừa là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

 
XXI. PHẨM VÔ SỞ HỮU

01

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói Đại thừa bằng với hư không. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Thí như hư không tất cả phần của các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, tất cả phần của các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới đều bất khả đắc nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như tất cả hình sắc dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, cong, thẳng trong hư không đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, tất cả hình sắc dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, cong, thẳng đều bất khả đắc nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích, lục, trắng xanh v.v... trong hư không đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích, lục, trắng xanh v.v... đều bất khả đắc nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng tiến, chẳng lùi. Đại thừa cũng vậy, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng tiến, chẳng lùi nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng nhiễm, chẳng tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không không sanh, không diệt, không trụ, không thay đổi. Đại thừa cũng vậy, không sanh, không diệt, không trụ, không thay đổi, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải thiện, chẳng phải không thiện, chẳng phải hữu ký, chẳng phải vô ký. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải thiện, chẳng phải không thiện, chẳng phải hữu ký, chẳng phải vô ký, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không không thấy, không nghe, không hiểu, không biết. Đại thừa cũng vậy, không thấy, không nghe, không hiểu, không biết nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải hiểu biết, chẳng phải thông đạt, chẳng phải biết khắp, chẳng phải đoạn hẳn, chẳng phải chứng đắc, chẳng phải tu tập. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải hiểu biết, chẳng phải thông đạt, chẳng phải biết khắp, chẳng phải đoạn hẳn, chẳng phải chứng đắc, chẳng phải tu tập, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải quả, chẳng phải có quả pháp, chẳng phải dị thục, chẳng phải có pháp dị thục. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải quả, chẳng phải có pháp quả, chẳng phải dị thục, chẳng phải có pháp dị thục, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng có pháp tham, chẳng lìa pháp tham; chẳng có pháp sân, chẳng lìa pháp sân; chẳng có pháp si, chẳng lìa pháp si. Đại thừa cũng vậy, chẳng có pháp tham, chẳng lìa pháp tham; chẳng có pháp sân, chẳng lìa pháp sân; chẳng có pháp si, chẳng lìa pháp si, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng có phát tâm ban đầu có thể đắc, cho đến chẳng có phát tâm thứ mười có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng có phát tâm ban đầu có thể đắc, cho đến chẳng có phát tâm thứ mười có thể đắc, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng có Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng có Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có thể đắc, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng rơi vào Dục giới, chẳng rơi vào Sắc giới, chẳng rơi vào Vô sắc giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng rơi vào Dục giới, chẳng rơi vào Sắc giới, chẳng rơi vào Vô sắc giới, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng có hướng Dự lưu, quả Dự lưu, hướng Nhất lai, quả Nhất lai, hướng Bất hoàn, quả Bất hoàn, hướng A-la-hán, quả A-la-hán, hướng Độc giác, quả Độc giác, Bồ-tát, Như Lai có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng có hướng Dự lưu cho đến Như Lai có thể đắc, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng có địa Thanh văn, địa Độc giác, địa Bồ-tát, địa Như Lai có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng có địa Thanh văn, địa Độc giác, địa Như Lai có thể đắc, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải tối, chẳng phải sáng. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải tối, chẳng phải sáng, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải khả đắc, chẳng phải bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải khả đắc, chẳng phải bất khả đắc, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải uẩn, giới, xứ, chẳng phải lìa uẩn, giới, xứ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải uẩn, giới, xứ, chẳng phải lìa uẩn, giới, xứ, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Này Thiện Hiện! Do các nhân duyên như vậy, nên nói Đại thừa bằng với hư không.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói giống như hư không có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hữu tình vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này, nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hữu tình hoặc hư không, hoặc Đại thừa, như vậy tất cả đều là vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hữu tình vô lượng, vô số, vô biên, nên biết hư không cũng vô lượng, vô số, vô biên. Hư không vô lượng, vô số, vô biên, nên biết Đại thừa cũng vô lượng, vô số, vô biên. Do nhân duyên này, nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hữu tình vô lượng, vô số, vô biên, hoặc hư không vô lượng, vô số, vô biên, hoặc Đại thừa vô lượng, vô số, vô biên, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hữu tình vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.

Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hữu tình, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc vậy!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã vô sở hữu nên biết hữu tình cũng vô sở hữu, hữu tình vô sở hữu nên biết mạng sống cũng vô sở hữu, mạng sống vô sở hữu nên biết sự sống cũng vô sở hữu, sự sống vô sở hữu nên biết sự nuôi dưỡng cũng vô sở hữu, sự nuôi dưỡng vô sở hữu nên biết sĩ phu cũng vô sở hữu, sĩ phu vô sở hữu nên biết Bổ-đặc-già-la cũng vô sở hữu, Bổ-đặc-già-la vô sở hữu nên biết ý sanh cũng vô sở hữu, ý sanh vô sở hữu nên biết đồng tử cũng vô sở hữu, đồng tử vô sở hữu nên biết người làm cũng vô sở hữu, người làm vô sở hữu nên biết người thọ nhận cũng vô sở hữu, người thọ nhận vô sở hữu nên biết người biết cũng vô sở hữu, người biết vô sở hữu nên biết người thấy cũng vô sở hữu, người thấy vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu, hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu, Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu, vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu, vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu, vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết pháp giới cũng vô sở hữu. Pháp giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc pháp giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... lần lượt cũng vô sở hữu. Chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết sắc cũng vô sở hữu. Sắc vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc sắc, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết thọ, tưởng, hành, thức lần lượt cũng vô sở hữu. Thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhãn xứ cũng vô sở hữu. Nhãn xứ vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lần lượt cũng vô sở hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết sắc xứ cũng vô sở hữu. Sắc xứ vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc sắc xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lần lượt cũng vô sở hữu. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhãn giới cũng vô sở hữu. Nhãn giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lần lượt cũng vô sở hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết sắc giới cũng vô sở hữu. Sắc giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc sắc giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lần lượt cũng vô sở hữu. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhãn thức giới cũng vô sở hữu. Nhãn thức giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn thức giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lần lượt cũng vô sở hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhãn xúc cũng vô sở hữu. Nhãn xúc vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn xúc, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc lần lượt cũng vô sở hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lần lượt cũng vô sở hữu. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh các thọ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết bố thí Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu. bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa lần lượt cũng vô sở hữu. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết pháp không nội cũng vô sở hữu. Pháp không nội vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc pháp không nội, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết bốn niệm trụ cũng vô sở hữu. Bốn niệm trụ vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc bốn niệm trụ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

 

Quyển Thứ 418
HẾT

02

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết cho đến mười lực của Phật cũng vô sở hữu. Mười lực của Phật vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc mười lực của Phật, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết pháp Chủng tánh cũng vô sở hữu. Pháp Chủng tánh vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc pháp Chủng tánh, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết pháp thứ tám, pháp Dự lưu, pháp Nhất lai, pháp Bất hoàn, pháp A-la-hán, pháp Độc giác, pháp Bồ-tát, pháp Như Lai lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp thứ tám cho đến pháp Như Lai vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc pháp thứ tám cho đến pháp Như Lai, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết Dự lưu cũng vô sở hữu. Dự lưu vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc Dự lưu, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai cũng vô sở hữu. Nhất lai cho đến Như Lai vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc Nhất lai cho đến Như Lai, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu nên biết Thanh văn cũng vô sở hữu. Thanh văn vô sở hữu nên biết Độc giác cũng vô sở hữu. Độc giác vô sở hữu nên biết Chánh Đẳng Giác cũng vô sở hữu. Chánh Đẳng Giác vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết Độc giác thừa cũng vô sở hữu. Độc giác thừa vô sở hữu nên biết Thanh văn thừa cũng vô sở hữu. Thanh văn thừa vô sở hữu nên biết Như Lai cũng vô sở hữu. Như Lai vô sở hữu nên biết trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu. Trí nhất thiết tướng vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này nên nói Đại thừa có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ngã cho đến người thấy, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Chánh Đẳng Giác, hoặc Đại thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, hoặc Như Lai, hoặc trí nhất thiết tướng, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, như vậy tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như cõi Niết-bàn có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do nhân duyên này nên nói như vầy: Chỉ như hư không có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có khả năng dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói còn như hư không, không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ có thể thấy ấy. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không đến, không đi cũng không trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc. Do nhân duyên này Đại thừa cũng không chó chỗ đến, chỗ đi, chỗ trụ có thể được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của sắc không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của sắc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của sắc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc cho đến thức hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của nhãn xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của nhãn xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của sắc xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của sắc xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của sắc xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc xứ cho đến pháp xứ hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của nhãn giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của nhãn giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn giới cho đến ý giới hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của sắc giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.



Này Thiện Hiện! Tự tánh của sắc giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của sắc giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc giới cho đến pháp giới hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của nhãn thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của nhãn thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của nhãn xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của nhãn xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Địa giới không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của địa giới không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của địa giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của địa giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của địa giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của địa giới cho đến thức giới hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của pháp giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp giới cho đến cảnh giới an ẩn v.v... hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bốn niệm trụ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn niệm trụ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của bốn niệm trụ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của bốn niệm trụ không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Tự tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như vậy, cho đến mười lực của Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của mười lực Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của mười lực Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của mười lực Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của mười lực Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ-đề không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; Phật-đà không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của Bồ-đề không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của Phật-đà không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của Bồ-đề không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của Phật-đà không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của Bồ-đề không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của Phật-đà không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của Bồ-đề không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của Phật-đà không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Bồ-đề, Phật-đà hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hữu vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; vô vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của hữu vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; bản tánh của vô vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Chơn như của hữu vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; chơn như của vô vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tánh của hữu vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tánh của vô vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Tự tướng của hữu vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ; tự tướng của vô vi giới không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của hữu vi giới, vô vi giới hoặc lay động, hoặc đứng yên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên nói Đại thừa không đến, không đi, không trụ có thể thấy giống như hư không.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói còn như hư không đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Ba đời bình đẳng vượt qua ba đời, nên gọi là Đại thừa. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đời quá khứ, không của đời quá khứ. Đời vị lai, không của đời vị lai. Đời hiện tại, không của đời hiện tại. Ba đời bình đẳng, không của ba đời bình đẳng. Vượt qua ba đời, không của vượt qua ba đời. Đại thừa, không của Đại thừa. Bồ-tát, không của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Không, không có một, hai, ba, bốn, năm v.v... tướng sai khác. Vì thế Đại thừa ba đời bình đẳng, vượt qua ba đời.

Này Thiện Hiện! Trong Đại thừa này tướng bình đẳng, không bình đẳng đều bất khả đắc; tướng tham, lìa tham đều bất khả đắc; tướng sân, lìa sân đều bất khả đắc; tướng si, lìa si đều bất khả đắc; tướng kiêu mạn, lìa kiêu mạn đều bất khả đắc. Như vậy, cho đến tướng thiện, chẳng phải thiện đều bất khả đắc; tướng hữu ký, vô ký đều bất khả đắc; tướng thường, vô thường đều bất khả đắc; tướng vui và khổ đều bất khả đắc; tướng ngã, vô ngã đều bất khả đắc; tướng tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc; tướng Dục giới, ra khỏi Dục giới đều bất khả đắc; tướng Sắc giới, ra khỏi Sắc giới đều bất khả đắc; tướng Vô sắc giới, ra khỏi Vô sắc giới đều bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Trong Đại thừa này tự tánh các pháp bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc quá khứ, không của sắc quá khứ; sắc vị lai, hiện tại, không của sắc vị lai, hiện tại. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, không của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ; thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại, không của thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Sắc quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc quá khứ là không, tánh không cũng không, không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Sắc vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thọ, tưởng, hành, thức quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xứ quá khứ, không của nhãn xứ quá khứ; nhãn xứ vị lai, hiện tại, không của nhãn xứ vị lai, hiện tại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xứ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn xứ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xứ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn xứ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc xứ quá khứ, không của sắc xứ quá khứ; sắc xứ vị lai, hiện tại, không của sắc xứ vị lai, hiện tại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Sắc xứ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc xứ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc xứ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc xứ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn giới quá khứ, không của nhãn giới quá khứ; nhãn giới vị lai, hiện tại, không của nhãn giới vị lai, hiện tại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc giới quá khứ, không của sắc giới quá khứ; sắc giới vị lai, hiện tại, không của sắc giới vị lai, hiện tại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Sắc giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Sắc giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có sắc giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thanh hương vi xúc pháp giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn thức giới quá khứ, không của nhãn thức giới quá khứ; nhãn thức giới vị lai, hiện tại, không của nhãn thức giới vị lai, hiện tại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn thức giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn thức giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn thức giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn thức giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xúc quá khứ, không của nhãn xúc quá khứ; nhãn xúc vị lai, hiện tại, không của nhãn xúc vị lai, hiện tại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xúc quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn xúc quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xúc vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhãn xúc vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không, không trong cũng không còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại, không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại, không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ở vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

 

Quyển Thứ 419
HẾT

03

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, không của bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ; bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại, không của bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ; không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại; không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ, không của bốn niệm trụ quá khứ; bốn niệm trụ vị lai, hiện tại, không của bốn niệm trụ vị lai, hiện tại. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo quá khứ, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như vậy, cho đến mười lực của Phật quá khứ, không của mười lực của Phật quá khứ; mười lực của Phật vị lai, hiện tại, không của mười lực của Phật vị lai, hiện tại. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại. Không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Mười lực của Phật quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực của Phật quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Mười lực của Phật vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực của Phật vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ, không của phàm phu quá khứ; phàm phu vị lai, hiện tại, không của phàm phu vị lai, hiện tại. Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ; không của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ.

Này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì phàm phu quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có phàm phu quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Phàm phu vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì phàm phu vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có phàm phu vị lai, hiện tại trong không có thể đắc. Vì ngã hữu tình cho đến người biết, người thấy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại trong không có thể đắc. Vì ngã hữu tình cho đến người biết, người thấy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc quá khứ bất khả đắc, sắc vị lai, hiện tại bất khả đắc, sắc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức đời vị lai, đời hiện tại bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xứ quá khứ bất khả đắc, nhãn xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, nhãn xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ bất khả đắc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc xứ quá khứ bất khả đắc, sắc xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, sắc xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn giới quá khứ bất khả đắc; nhãn giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc giới quá khứ bất khả đắc; sắc giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; sắc giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn thức giới quá khứ bất khả đắc; nhãn thức giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn thức giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xúc quá khứ bất khả đắc; nhãn xúc vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn xúc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ bất khả đắc; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vị lai, hiện tại bất khả đắc; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ bất khả đắc, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vị lai, hiện tại bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ bất khả đắc; Bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại bất khả đắc; Bố thí Ba-la-mật-đa trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ bất khả đắc, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại bất khả đắc, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ bất khả đắc; Bốn niệm trụ vị lai, hiện tại bất khả đắc; Bốn niệm trụ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo quá khứ bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như vậy, cho đến mười lực của Phật quá khứ bất khả đắc; mười lực của Phật vị lai, hiện tại bất khả đắc; mười lực của Phật trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ bất khả đắc; phàm phu vị lai, hiện tại bất khả đắc, phàm phu trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc. Vì ngã chúng sanh cho đến người biết, người thấy đều là vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ bất khả đắc; Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại bất khả đắc; Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc. Vì ngã chúng sanh cho đến người biết, người thấy đều là vô sở hữu bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ trong tánh ba đời bình đẳng này siêng năng tu học trí nhất thiết tướng, không chấp trước nên mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Đó gọi là Đại thừa ba đời bình đẳng của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào an trụ trong Đại thừa như vậy, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại thừa như vậy là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Các Đại Bồ-tát đời quá khứ học pháp này đã có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát đời vị lai sẽ học pháp này, có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phươnghiện tại đang học pháp này, có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Vì thế, Đại thừa là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, có thể làm chỗ nương tựa tối thắng chơn thật cho tất cả Đại Bồ-tát, và làm cho Đại Bồ-tát có thể mau chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Đại thừa siêng năng tu học mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm lợi ích an lạc cho các loại hữu tình. Vì thế, Đại thừa là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.
XXII. PHẨM TÙY THUẬN

 

Bấy giờ, Cụ thọ Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây, Như Lai bảo Tôn giả Thiện Hiện thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các đại Bồ-tát mà hôm nay sao lại giảng Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nói các nghĩa của Đại thừa sẽ không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều thuỳ thuận, không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Như vậy, tất cả không có pháp nào là không thâu nhiếp vào trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai đều thâu nhiếp vào trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc trí nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn trụ xả.

Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp thiện như vậy, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Như vậy, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa. Hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa. Hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức. Hoặc nhãn xứ; hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc pháp thiện, hoặc pháp chẳng thiện. Hoặc pháp hữu ký, hoặc pháp vô ký. Hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu. Hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi. Hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian. Hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo. Hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới. Hoặc pháp không nội, hoặc pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh. Hoặc pháp giới, hoặc chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Hoặc Đà-la-ni, hoặc Tam-ma-địa. Hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc chư Như Lai, hoặc pháp luật của Phật giác ngộ thuyết ra. Hoặc Bồ-đề, hoặc Niết-bàn. Tất cả pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, nghĩa là vô tướng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại thừa không khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác bốn niệm trụ; bốn niệm trụ không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác cho đến mười lực của Phật; mười lực của Phật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận không trái vượt qua Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu nói Đại thừa tức là nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là nói Đại thừa, vì nghĩa hai danh từ này không khác nhau.
XXIII. PHẨM VÔ BIÊN TẾ

01

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát đời quá khứ đều vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai đều vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tại đều vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Sắc giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Thanh văn thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bố thí Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bố thí Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bốn niệm trụ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn niệm trụ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp môn giải thoát không Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp môn giải thoát không Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi mười lực của Phật Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa mười lực của Phật Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp không nội Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp không nội Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi Thanh văn thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp như vậy, đem tất cả mọi thứ, mọi nơi, mọi lúc mong cầu các Đại Bồ-tát mà con hoàn toàn không thể thấy, hoàn toàn không thể được thì làm sao bảo con đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc rốt ráo không sanh? Thế nào là thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên là sắc, cũng không có tên là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn xứ rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn xứ, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc xứ rốt ráo không sanh? Thế nào là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc xứ, cũng không có tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn giới rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn giới, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc giới rốt ráo không sanh? Thế nào là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc giới, cũng không có tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn thức giới rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn thức giới, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn xúc rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn xúc, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không sanh? Thế nào là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không có tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh; những tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên bố thí Ba-la-mật-đa; cũng không có tên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là bốn niệm trụ rốt ráo không sanh? Thế nào là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên bốn niệm trụ, cũng không có tên bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp môn giải thoát không rốt ráo không sanh? Thế nào là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp môn giải thoát không, cũng không có tên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là mười lực Phật rốt ráo không sanh? Thế nào là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên mười lực của Phật, cũng không có tên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp không nội rốt ráo không sanh? Thế nào là pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp không nội, cũng không có tên pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp giới rốt ráo không sanh? Thế nào là chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp giới, cũng không có tên chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Thanh văn thừa rốt ráo không sanh? Thế nào là Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên Thanh văn thừa, cũng không có tên Độc giác thừa, Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa rốt ráo không sanh thì không có Đại Bồ-tát nào có thể hành hạnh Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy tâm không chìm đắm, cũng không lo lắng, hối hận, tâm họ không kinh hãi, sợ sệt, nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

 

Quyển Thứ 420
HẾT

 

02

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào nên nói các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các Đại Bồ-tát đời vị lai vô sở hữu bất khả đắc; các Đại Bồ-tát đời hiện tại vô sở hữu bất khả đắc? Do duyên nào nên nói: sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, cho đến Thanh văn thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế?

Do duyên nào nên nói: Ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; cho đến ngay nơi Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc?

Do duyên nào nên nói: Tôi đối với tất cả pháp này, bằng mọi cách, mọi nơi, mọi lúc, cầu các Đại Bồ-tát hoàn toàn không thấy, không thể được; làm sao bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Do duyên nào nên nói: Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát ấy chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Như nói ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Các sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh, những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh?

Do duyên nào nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc, cũng không có tên thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không có tên Thanh văn thừa, cũng không có tên Độc giác thừa, Đại thừa?

Do duyên nào nên nói: Sao tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh?

Do duyên nào nên nói: Lìa rốt ráo không sanh thì không có Đại Bồ-tát nào có thể thực hành quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

Do duyên nào nên nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy tâm không hoang man, không lo buồn hối hận, tâm họ không kinh, không sợ, nên biết Đại Bồ-tát này có khả năng thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Thưa Tôn giả, nên giảng rõ cho tôi hiểu.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị laivô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tạivô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Hữu tình vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình không nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Thanh văn vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Thanh văn thừa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khôngtự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì trong không như vậy, nên quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Hoặc không như vậy, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc Đại Bồ-tát, tất cả pháp như vậy đều không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói như vầy: Các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tại vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói sắc vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế. Cho đến Thanh văn thừa vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Này Xá-lợi Tử! Sắc như hư không, thọ; tưởng, hành, thức như hư không. Vì sao? Vì như hư không khoảng trước bất khả đắc, khoảng sau bất khả đắc, khoảng giữa bất khả đắc. Do khoảng cách trong đều bất khả đắc, nên nói là hư không. Sắc cho đến thức cũng như vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh của sắc cho đến thức đều là không.

Này Xá-lợi Tử! Khoảng trước trong không bất khả đắc, khoảng sau bất khả đắc, khoảng giữa bất khả đắc, cũng do các khoảng đó đều bất khả đắc nên nói là không.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, cho đến ba thừa cũng như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến ngay nơi Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc, tánh không của sắc; thọ, tưởng, hành, thức, tánh không của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc trong tánh không của sắc vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong tánh không của thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Chẳng phải sắc, tánh không của chẳng phải sắc. Chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, tánh không của chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì chẳng phải sắc ở trong tánh không của chẳng phải sắc vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức ở trong tánh không của chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến ba thừa cũng như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói đối với tất cả pháp này, với tất cả chủng loại, mọi nơi, mọi lúc mà mong cầu các Đại Bồ-tát tôi hoàn toàn không thể thấy, không thể được, làm sao bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát được?

Này Xá-lợi Tử! Sắc, tánh của sắc là không, sắc đối với sắc vô sở hữu bất khả đắc. Sắc đối với thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong sắc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tánh thọ là không, thọ đối với thọ vô sở hữu bất khả đắc. Thọ đối với sắc, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, tưởng, hành, thức trong thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng, tánh của tưởng là không, tưởng đối với tưởng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng đối với sắc, thọ, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, hành, thức trong tưởng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hành, tánh của hành là không, hành đối với hành vô sở hữu bất khả đắc. Hành đối với sắc, thọ, tưởng, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng, thức trong hành cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thức, tánh của thức là không, thức đối với thức vô sở hữu bất khả đắc. Thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành là vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng, hành trong thức cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ, tánh của nhãn xứ là không, nhãn xứ đối với nhãn xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong nhãn xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xứ, tánh của nhĩ xứ là không, nhĩ xứ đối với nhĩ xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong nhĩ xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xứ, tánh của tỷ xứ là không, tỷ xứ đối với tỷ xứ vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xứ đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ trong tỷ xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xứ, tánh của thiệt xứ là không, thiệt xứ đối với thiệt xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ trong thiệt xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân xứ, tánh của thân xứ là không, thân xứ đối với thân xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thân xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ trong thân xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý xứ, tánh của ý xứ là không, ý xứ đối với ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Ý xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ trong ý xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ, tánh của sắc xứ là không, sắc xứ đối với sắc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trong sắc xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thanh xứ, tánh của thanh xứ là không, thanh xứ đối với thanh xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh xứ đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ trong thanh xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hương xứ, tánh của hương xứ là không, hương xứ đối với hương xứ vô sở hữu bất khả đắc. Hương xứ đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, vị, xúc, pháp xứ trong hương xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Vị xứ, tánh của vị xứ là không, vị xứ đối với vị xứ vô sở hữu bất khả đắc. Vị xứ đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ trong vị xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Xúc xứ, tánh của xúc xứ là không, xúc xứ đối với xúc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Xúc xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ trong xúc xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Pháp xứ, tánh của pháp xứ là không, pháp xứ đối với pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ trong pháp xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới, tánh của nhãn giới là không, nhãn giới đối với nhãn giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong nhãn giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ giới, tánh của nhĩ giới là không, nhĩ giới đối với nhĩ giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong nhĩ giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ giới, tánh của tỷ giới là không, tỷ giới đối với tỷ giới vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới trong tỷ giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt giới, tánh của thiệt giới là không, thiệt giới đối với thiệt giới vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới trong thiệt giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân giới, tánh của thân giới là không, thân giới đối với thân giới vô sở hữu bất khả đắc. Thân giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới trong thân giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý giới, tánh của ý giới là không, ý giới đối với ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Ý giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới trong ý giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới, tánh của sắc giới là không, sắc giới đối với sắc giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới trong sắc giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thanh giới, tánh của thanh giới là không, thanh giới đối với thanh giới vô sở hữu bất khả đắc. Thanh giới đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, hương, vị, xúc, pháp giới trong thanh giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hương giới, tánh của hương giới là không, hương giới đối với hương giới vô sở hữu bất khả đắc. Hương giới đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới trong hương giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Vị giới, tánh của vị giới là không, vị giới đối với vị giới vô sở hữu bất khả đắc. Vị giới đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới trong vị giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Xúc giới, tánh của xúc giới là không, xúc giới đối với xúc giới vô sở hữu bất khả đắc. Xúc giới đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, pháp giới trong xúc giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới, tánh của pháp giới là không, pháp giới đối với pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, xúc giới trong pháp giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới, tánh của nhãn thức giới là không, nhãn thức giới đối với nhãn thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong nhãn thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ thức giới, tánh của nhĩ thức giới là không, nhĩ thức giới đối với nhĩ thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong nhĩ thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ thức giới, tánh của tỷ thức giới là không, tỷ thức giới đối với tỷ thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới trong tỷ thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt thức giới, tánh của thiệt thức giới là không, thiệt thức giới đối với thiệt thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới trong thiệt thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân thức giới, tánh của thân thức giới là không, thân thức giới đối với thân thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Thân thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới trong thân thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý thức giới, tánh của ý thức giới là không, ý thức giới đối với ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Ý thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới trong ý thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc, tánh của nhãn xúc là không, nhãn xúc đối với nhãn xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong nhãn xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc, tánh của nhĩ xúc là không, nhĩ xúc đối với nhĩ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong nhĩ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc, tánh của tỷ xúc là không, tỷ xúc đối với tỷ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc trong tỷ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc, tánh của thiệt xúc là không, thiệt xúc đối với thiệt xúc vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc trong thiệt xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân xúc, tánh của thân xúc là không, thân xúc đối với thân xúc vô sở hữu bất khả đắc. Thân xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc trong thân xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý xúc, tánh của ý xúc là không, ý xúc đối với ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Ý xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc trong ý xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc.

 

Quyển Thứ 421
HẾT

 

03

 

- Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa, tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong bố thí Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội, tánh của pháp không nội là không, pháp không nội đối với pháp không nội vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh trong pháp không nội cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến pháp không vô tánh tự tánh, tánh của pháp không vô tánh tự tánh là không, pháp không vô tánh tự tánh đối với pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không vô tánh tự tánh đối với pháp không nội cho đến pháp không tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội cho đến pháp không tự tánh trong pháp không vô tánh tự tánh cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ, tánh của bốn niệm trụ là không, bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô sở hữu bất khả đắc. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo trong bốn niệm trụ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến tám chi thánh đạo, tánh của tám chi thánh đạo là không, tám chi thánh đạo đối với tám chi thánh đạo vô sở hữu bất khả đắc. Tám chi thánh đạo đối với bốn niệm trụ cho đến bảy chi đẳng giác vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến bảy chi đẳng giác trong tám chi thánh đạo cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật, tánh mười lực của Phật là không, mười lực của Phật đối với mười lực của Phật vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong mười lực của Phật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh của mười tám pháp Phật bất cộng là không, mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười lực của Phật cho đến đại xả vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật cho đến đại xả trong mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa, tánh của tất cả môn Tam-ma-địa là không, tất cả môn Tam-ma-địa đối với tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa đối với tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni trong tất cả môn Tam-ma-địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni, tánh của tất cả môn Đà-la-ni là không, tất cả môn Đà-la-ni đối với tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni đối với tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa trong tất cả môn Đà-la-ni cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Chủng tánh, tánh của pháp Chủng tánh là không, pháp Chủng tánh đối với pháp Chủng tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Chủng tánh đối với pháp thứ tám, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Pháp thứ tám cho đến Như Lai trong pháp Chủng tánh cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến pháp Như Lai, tánh của pháp Như Lai là không, pháp Như Lai đối với pháp Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Như Lai đối với pháp Chủng tánh cho đến Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Chủng tánh cho đến Bồ-tát trong pháp Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tịnh quán địa, tánh của tịnh quán địa là không, Tịnh quán địa đối với Tịnh quán địa vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh quán địa đối với Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa vô sở hữu bất khả đắc. Chủng tánh địa cho đến Như Lai địa trong Tịnh quán địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai địa, tánh của Như Lai địa là không, Như Lai địa đối với Như Lai địa vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai địa đối với Tịnh quán địa cho đến Bồ-tát địa trong Như Lai địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Bồ-tát địa trong Như Lai địa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa, tánh của Cực hỷ địa là không, Cực hỷ địa đối với Cực hỷ địa vô sở hữu bất khả đắc. Cực hỷ địa đối với Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa vô sở hữu bất khả đắc; Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa trong Cực hỷ địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Pháp vân địa, tánh của Pháp vân địa là không, Pháp vân địa đối với Pháp vân địa vô sở hữu bất khả đắc. Pháp vân địa đối với Cực hỷ địa cho đến Thiện tuệ địa vô sở hữu bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Thiện tuệ địa trong Pháp vân địa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết, tánh của trí nhất thiết là không, trí nhất thiết đối với trí nhất thiết vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong trí nhất thiết cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng, tánh của trí đạo tướng là không, trí đạo tướng đối với trí đạo tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng trong trí đạo tướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng, tánh của trí nhất thiết tướng là không, trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng trong trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Dự lưu, tánh của Dự lưu là không, Dự lưu đối với Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Nhất lai cho đến Như Lai trong Dự lưu cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai, tánh của Như Lai là không, Như Lai đối với Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai đối với Dự lưu cho đến Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Bồ-tát trong Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát, tánh của Đại Bồ-tát là không, Đại Bồ-tát đối với Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Đại Bồ-tát đối với việc dạy bảo, truyền trao Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Việc dạy bảo, truyền trao Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với việc dạy bảo, truyền trao của Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Việc dạy bảo, truyền trao của Đại Bồ-tát trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo, truyền trao, tánh của dạy bảo, truyền trao là không, dạy bảo, truyền trao đối với dạy bảo, truyền trao vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo, truyền trao đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát trong dạy bảo, truyền trao cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đối với tất cả pháp này tôi đem tất cả loại ở mọi nơi, mọi lúc mong cầu Đại Bồ-tát đều vô sở hữu, cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Đối với tất cả pháp này, tôi đem tất cả loại ở mọi nơi, mọi lúc mong cầu các Đại Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc, làm thế nào bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát được.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tôn giả đã hỏi do duyên nào nên nói: Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Này Xá-lợi Tử! Vì tên các Đại Bồ-tát chỉ là tạm mượn mà có.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Tên các Đại Bồ-tát chỉ là tạm mượn mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Như tên sắc chỉ là tạm mượn mà có, tên thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Trong sắc v.v... không có tên, trong tên không có sắc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của sắc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên các Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn xứ chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Trong nhãn xứ v.v... không có tên, trong tên không có nhãn xứ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xứ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của sắc xứ chỉ là tạm mượn mà có, tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Trong sắc xứ v.v... không có tên, trong tên không có sắc xứ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc xứ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn giới chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Trong nhãn giới v.v... không có tên, trong tên không có nhãn giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của sắc giới chỉ là tạm mượn mà có, tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Trong sắc giới v.v... không có tên, trong tên không có sắc giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn thức giới chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn thức giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Trong nhãn thức giới v.v... không có tên, trong tên không có nhãn thức giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn thức giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn xúc chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn xúc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Trong nhãn xúc v.v... không có tên, trong tên không có nhãn xúc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xúc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ là tạm mượn mà có, tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là tên, tên chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là tên, tên chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... không có tên. Trong tên không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của bố thí Ba-la-mật-đa chỉ là tạm mượn mà có. Tên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tên, tên chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải tên, tên chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong bố thí Ba-la-mật-đa v.v… không có tên, trong tên không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v… Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cùng với tên tự tánh đều là không. Trong tự tánh không, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa v.v… hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của pháp không nội, chỉ là tạm mượn mà có. Tên của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Pháp không nội chẳng phải là tên, tên chẳng phải là pháp không nội. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh chẳng phải là tên, tên chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Trong pháp không nội v.v... không có tên, trong tên không có pháp không nội v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh pháp không nội v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc pháp không nội v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của bốn niệm trụ chỉ là tạm mượn mà có; tên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Bốn niệm trụ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Trong bốn niệm trụ v.v... không có tên, trong tên không có bốn niệm trụ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc bốn niệm trụ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến như tên mười lực của Phật chỉ là tạm mượn mà có; tên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng phải là tên, tên chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Trong mười lực của Phật v.v... không có tên, trong tên không có mười lực của Phật v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh mười lực của Phật v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc mười lực của Phật v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của tất cả môn Tam-ma-địa chỉ là tạm mượn mà có, tên tất cả môn Đà-la-ni cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì tất cả môn Tam-ma-địa chẳng phải là tên, tên chẳng phải là tất cả môn Tam-ma-địa. Tất cả môn Đà-la-ni chẳng phải là tên, tên chẳng phải là tất cả môn Đà-la-ni. Trong tất cả môn Tam-ma-địa v.v... không có tên, trong tên không có tất cả môn Tam-ma-địa v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh tất cả môn Tam-ma-địa v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc tất cả môn Tam-ma-địa v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến như tên trí nhất thiết chỉ là tạm mượn mà có; tên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì trí nhất thiết chẳng phải là tên, tên chẳng phải là trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải là tên, tên chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Trong trí nhất thiết v.v... không có tên, trong tên không có trí nhất thiết v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh trí nhất thiết v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc trí nhất thiết v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Như ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Ngã rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh, cho đến người thấy cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; tất cả môn Đà-la-ni cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Cho đến Thanh văn thừa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; Độc giác thừa, Đại thừa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Như ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Tự tánh các pháp hoàn toàn không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh pháp có hòa hợp là không.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tự tánh pháp nào hoàn toàn không có hòa hợp?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Tự tánh của sắc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn xứ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của sắc xứ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp.

Tự tánh của Sắc giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn thức giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn xúc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của bốn niệm trụ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh mười lực của Phật hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh của Thanh văn thừa hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của Độc giác thừa, Đại thừa cũng hoàn toàn không có hòa hợp.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói như vầy: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tự tánh pháp nào chẳng thường là cùng tận.

Này Xá-lợi Tử! Do đây nên nói pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Này Xá-lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp hữu lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp chẳng thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp hữu ký chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô ký chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tự tánh pháp nào chẳng thường là cùng tận.

Này Xá-lợi Tử! Do đây nên nói nếu pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các pháp chẳng thường cũng không hoại diệt.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng thường cũng không hoại diệt?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng thường cũng không hoại diệt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô vi chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu lậu chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô lậu chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp thiện chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp chẳng phải thiện chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu ký chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô ký chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Những sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh tất cả sắc không sanh, bản tánh tất cả thọ, tưởng, hành, thức không sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Tất cả sắc cho đến thức không có sự tạo tác nên không có sự phát sanh. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức người tạo tác, người phát khởi bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh tất cả Thanh văn thừa không sanh; bản tánh tất cả Độc giác thừa, Đại thừa không sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa không có sự tạo tác nên không có sự phát sanh. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa người tạo tác, người phát khởi bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Những sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa; cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc. Vì sao? Vì không chẳng phải sắc.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh của Thanh văn thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Thanh văn thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của Độc giác thừa, Đại thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Độc giác thừa, Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa, cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Lẽ nào tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh.

Này Xá-lợi Tử! Rốt ráo không sanh tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không sanh và Bát-nhã Ba-la-mật-đa không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Rốt ráo không sanh tức là Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát tức là rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không sanh và Đại Bồ-tát cũng không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói như vầy: Lẽ nào tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Lìa rốt ráo không sanh cũng không có Đại Bồ-tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh mà có Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh mà có Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn thức giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn xúc, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có bố thí Ba-la-mật-đa; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì hoặc bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn niệm trụ; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh nói rộng cho đếnmười lực của Phật; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có tất cả môn Tam-ma-địa, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có tất cả môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì hoặc tất cả môn Tam-ma-địa, hoặc tất cả môn Đà-la-ni cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có trí nhất thiết; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có Thanh văn thừa, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, Đại thừa cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Lìa rốt ráo không sanh cũng không có Đại Bồ-tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng chẳng lo lắng, hối hận, không kinh hãi, sợ sệt. Nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy các pháp có thật có tác dụng, chỉ thấy các pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như bóng sáng, như sóng nắng, như ảnh ảo, như thành Càn-thát-bà, như việc biến hóa, tuy hiện ra giống như là có mà thật không có. Nghe nói bản tánh các pháp đều không, sanh tâm rất hoan hỷ, xa lìa hoang mang.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng không lo lắng, hối hận, không kinh hãi, không sợ sệt. Nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

 

Quyển Thứ 422
HẾT

04

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Khi nào Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán sát các pháp thì khi ấy, Đại Bồ-tát đối với sắc không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với thọ, tưởng, hành, thức không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Đại Bồ-tát này ngay lúc ấy không thấy sắc cho đến thức. Đối với nhãn xứ không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy nhãn xứ cho đến ý xứ. Đối với sắc xứ không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Đại Bồ-tát này ngay lúc ấy, không thấy sắc xứ cho đến pháp xứ. Đối với nhãn giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy nhãn giới cho đến ý giới. Đối với sắc giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy sắc giới cho đến pháp giới. Đối với nhãn thức giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đối với nhãn xúc không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy nhãn xúc cho đến ý xúc. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Đối với bố thí Ba-la-mật-đa không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đối với pháp không nội không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Đối với bốn niệm trụ không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Như vậy, cho đến đối với mười lực của Phật không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đối với tất cả môn Tam-ma-địa không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với tất cả môn Đà-la-ni không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni. Cho đến đối với trí nhất thiết không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nhận, không lấy, không trụ, không chấp, cũng không lập ra là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngay lúc ấy, Đại Bồ-tát này không thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy sắc, cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của sắc v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy nhãn xứ, cũng không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy sắc xứ, cũng không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy nhãn giới, cũng không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy sắc giới, cũng không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì tánh của sắc giới v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy nhãn thức giới, cũng không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn thức giới v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy nhãn xúc, cũng không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì tánh của nhãn xúc v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng không thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy pháp không nội, cũng không thấy pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Vì sao? Vì tánh của pháp không nội v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy bốn niệm trụ, cũng không thấy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì tánh của bốn niệm trụ v.v... là không, không có sanh, diệt. Như vậy, cho đến không thấy mười lực của Phật, cũng không thấy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của mười lực của Phật v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy tất cả môn Tam-ma-địa, cũng không thấy tất cả môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tánh của tất cả môn Tam-ma-địa v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy pháp giới, cũng không thấy chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Vì sao? Vì tánh của Pháp giới v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng không thấy chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Vì tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát v.v... là không, không có sanh, diệt. Không thấy trí nhất thiết; cũng không thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh của trí nhất thiết v.v... là không, không có sanh, diệt.

Bạch Thế Tôn! Sắc không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế sắc không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế nhãn xứ không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế sắc xứ không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế nhãn giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Bạch Thế Tôn! Sắc giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì sắc giới v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế sắc giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế nhãn thức giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế nhãn xúc không sanh, không diệt tức là chẳng phải nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt tức là chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt tức là chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt tức là chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt tức là chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội không sanh, không diệt tức là chẳng phải pháp không nội; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh không sanh, không diệt, cũng chẳng phải pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không nội v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế pháp không nội không sanh, không diệt tức là chẳng phải pháp không nội; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh không sanh, không diệt, cũng chẳng phải pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ không sanh, không diệt tức là chẳng phải bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, cũng chẳng phải bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế bốn niệm trụ không sanh, không diệt tức là chẳng phải bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, cũng chẳng phải bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Như vậy, cho đến mười lực của Phật không sanh, không diệt tức là chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, cũng chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế mười lực của Phật không sanh, không diệt tức là chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, cũng chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Tất cả môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt tức là chẳng phải tất cả môn Tam-ma-địa; tất cả môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, cũng chẳng phải tất cả môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tất cả môn Tam-ma-địa v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế tất cả môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt tức là chẳng phải tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, cũng chẳng phải tất cả môn Đà-la-ni.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không sanh, không diệt, cũng chẳng phải chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Vì sao? Vì pháp giới v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế pháp giới không sanh, không diệt tức là chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không sanh, không diệt, cũng chẳng phải chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v.

Bạch Thế Tôn! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sanh, không diệt tức là chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chư Phật không sanh, không diệt, cũng chẳng phải quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sanh, không diệt tức là chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chư Phật không sanh, không diệt, cũng chẳng phải quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chư Phật .

Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... cùng với không sanh, không diệt, không hai, không hai chỗ. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vì thế trí nhất thiết không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Sắc không hai tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai, cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nhãn xứ không hai tức là chẳng phải nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hai, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Sắc xứ không hai tức là chẳng phải sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hai cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nhãn giới không hai tức là chẳng phải nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hai cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Sắc giới không hai tức là chẳng phải sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hai, cũng chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Nhãn thức giới không hai tức là chẳng phải nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hai cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Nhãn xúc không hai tức là chẳng phải nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hai, cũng chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hai tức là chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không hai, cũng chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Bố thí Ba-la-mật-đa không hai tức là chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không hai, cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Pháp không nội không hai tức là chẳng phải pháp không nội; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh không hai, cũng chẳng phải pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Bốn niệm trụ không hai tức là chẳng phải bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không hai, cũng chẳng phải bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Như vậy, cho đến mười lực của Phật không hai tức là chẳng phải mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không hai, cũng chẳng phải bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tất cả môn Tam-ma-địa không hai tức là chẳng phải tất cả môn Tam-ma-địa; tất cả môn Đà-la-ni không hai cũng chẳng phải tất cả môn Đà-la-ni. Pháp giới không hai tức là chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không hai, cũng chẳng phải chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Tất cả hạnh Đại Bồ-tát không hai tức là chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật không hai tức là chẳng phải quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật. Trí nhất thiết không hai tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Sắc vào pháp số không hai; thọ, tưởng, hành, thức vào pháp số không hai. Nhãn xứ vào pháp số không hai; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vào pháp số không hai. Sắc xứ vào pháp số không hai; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vào pháp số không hai. Nhãn giới vào pháp số không hai; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vào pháp số không hai. Sắc giới vào pháp số không hai; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vào pháp số không hai. Nhãn thức giới vào pháp số không hai; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vào pháp số không hai. Nhãn xúc vào pháp số không hai; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vào pháp số không hai. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vào pháp số không hai; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vào pháp số không hai. Bố thí Ba-la-mật-đa vào pháp số không hai; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vào pháp số không hai. Pháp không nội vào pháp số không hai; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh vào pháp số không hai. Bốn niệm trụ vào pháp số không hai; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vào pháp số không hai. Như vậy, cho đến mười lực của Phật vào pháp số không hai; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vào pháp số không hai. Tất cả môn Tam-ma-địa vào pháp số không hai; tất cả môn Đà-la-ni vào pháp số không hai. Pháp giới vào pháp số không hai; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vào pháp số không hai. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát vào pháp số không hai. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật vào pháp số không hai. Trí nhất thiết vào pháp số không hai; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vào pháp số không hai.

 
XXIV. PHẨM VIỄN LY

01

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Như Tôn giả nói: Khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán sát các pháp. Thế nào là Đại Bồ-tát? Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Thế nào là quán sát các pháp?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nói:

- Theo lời Tôn giả hỏi: Thế nào là Đại Bồ-tát?

Này Xá-lợi Tử! Siêng năng mong cầu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác làm lợi lạc cho hữu tình, nên gọi là Bồ-tát; hiểu biết đầy đủ như thật, có khả năng biết rõ khắp tướng tất cả pháp mà không chấp, nên còn gọi là Ma-ha-tát.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi lại Thiện Hiện:

- Thế nào là Đại Bồ-tát có khả năng biết rõ khắp tướng tất cả pháp mà không chấp?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng tất cả sắc mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả thọ, tưởng, hành, thức mà không chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả nhãn xứ mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứkhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả sắc xứkhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứkhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả nhãn giớikhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giớikhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả sắc giớikhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp giớikhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả nhãn thức giớikhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà không chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả nhãn xúc mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà không chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà không chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả bố thí Ba-la-mật-đa mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đakhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả pháp không nội mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánhkhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả bốn niệm trụ mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạokhông chấp. Như vậy, cho đến Như thật biết rõ tướng tất cả mười lực của Phật mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộngkhông chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả môn Tam-ma-địa mà không chấp; như thật biết rõ tướng tất cả môn Đà-la-ni mà không chấp. Như thật biết rõ tướng tất cả pháp giớikhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... mà không chấp. Cho đến Như thật biết rõ tướng tất cả trí nhất thiếtkhông chấp; như thật biết rõ tướng tất cả trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà không chấp.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Còn những tên nào là tướng tất cả pháp?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Nếu do tướng trạng các hành biểu hiện như vậy mà biết các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là bên trong, là bên ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi. Những tên này là tướng tất cả pháp.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tôn giả hỏi:

- Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

- Này Xá-lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng, vi diệu xa lìa những pháp cần phải xa lìa nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Trí tuệ này có thể xa lìa pháp nào?

Thiện Hiện đáp:

- Trí tuệ này có thể xa lìa các uẩn, các xứ, các giới, các phiền não kiến, và sáu cõi v.v... nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

- Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng, vi diệu đi đến chỗ xa nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Trí tuệ này có thể đi xa đến pháp gì?

Thiện Hiện đáp:

- Trí tuệ này có thể đi xa đến pháp bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trí tuệ này có thể đi xa đến pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh, nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trí tuệ này có thể đi xa đến pháp bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Như vậy, cho đến trí tuệ này có thể đi xa đến mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cho đến trí tuệ này có thể đi xa đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nói là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tôn giả hỏi: Thế nào là quán sát các pháp?

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán sát sắc cho đến thức chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát nhãn giới cho đến ý giới chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát sắc giới cho đến pháp giới chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Như vậy, cho đến quán sát mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Quán sát tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly. Như vậy, cho đến quán sát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng vô thường, chẳng vui, chẳng khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải không, chẳng phải bất không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là quán sát các pháp.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán sát các pháp như vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Do duyên nào nói như vầy: Sắc không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức? Như vậy, cho đến trí nhất thiết không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc, tánh sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức, tánh thọ, tưởng, hành, thức là không. Trong tánh không này không có sanh, không có diệt, cũng không có sắc cho đến thức. Do đây nên nói: Sắc không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến trí nhất thiết, tánh trí nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Trong tánh không này không có sanh, không có diệt, cũng không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đây nên nói: Trí nhất thiết không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Do duyên nào nên nói như vầy: Sắc không hai tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức? Như vậy, cho đến trí nhất thiết không hai tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Hoặc là sắc, hoặc không hai; hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc không hai. Tất cả như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, không sắc, không kiến, không đối, một tướng gọi là vô tướng. Do đây nên nói: Sắc không hai tức là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến hoặc trí nhất thiết, hoặc không hai; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc không hai. Tất cả như vậy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, không sắc, không kiến, không đối, một tướng gọi là vô tướng. Do đây nên nói: Trí nhất thiết không hai tức là chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai cũng chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Do duyên nào nên nói như vầy: Sắc vào pháp số không hai; thọ, tưởng, hành, thức vào pháp số không hai? Như vậy, cho đến trí nhất thiết vào pháp số không hai; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vào pháp số không hai?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc không khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, không khác sắc; sắc tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, không khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức. Do đây nên nói: Sắc vào pháp số không hai; thọ, tưởng, hành, thức vào pháp số không hai.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến trí nhất thiết không khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, không khác trí nhất thiết; trí nhất thiết tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, không khác trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đây nên nói: Trí nhất thiết vào pháp số không hai; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vào pháp số không hai.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Khi nào Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán sát các pháp, khi đó Đại Bồ-tát thấy ngã không sanh, rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy người thấy không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy sắc không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy thức không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy nhãn xứ không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy ý xứ không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy sắc xứ không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy pháp xứ không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy nhãn giới không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy ý giới không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy sắc giới không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy pháp giới không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy nhãn thức giới không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy ý thức giới không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy nhãn xúc không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy ý xúc không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy bố thí Ba-la-mật-đa không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp không nội không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy pháp không vô tánh tự tánh không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy bốn niệm trụ không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy tám chi thánh đạo không sanh rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, cho đến thấy mười lực của Phật không sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy mười tám pháp Phật bất cộng không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy tất cả môn Tam-ma-địa không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy tất cả môn Đà-la-ni không sanh rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, cho đến thấy trí nhất thiết không sanh rốt ráo thanh tịnh vậy; thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp phàm phu không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy phàm phu không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Dự lưu không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy Dự lưu không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Nhất lai không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy Nhất lai không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Bất hoàn không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy Bất hoàn không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp A-la-hán không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy A-la-hán không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Độc giác không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy Độc giác không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy tất cả pháp Bồ-tát không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy tất cả Bồ-tát không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp chư Phật không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy chư Phật không sanh rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp tất cả hữu tình không sanh rốt ráo thanh tịnh, thấy tất cả hữu tình không sanh rốt ráo thanh tịnh.

 

Quyển Thứ 423

HẾT

 

02

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Theo tôi hiểu nghĩa lời Tôn giả nói ngã cho đến sự thấy rốt ráo không sanh. Sắc cho đến thức rốt ráo không sanh. Như vậy, cho đến pháp chư Phật và chư Phật rốt ráo không sanh. Pháp tất cả hữu tình và tất cả hữu tình rốt ráo không sanh. Nếu như vậy thì sáu đường thọ sanh sẽ không sai khác, không thể nào Dự lưu đắc quả Dự lưu, không thể nào Nhất lai đắc quả Nhất lai, không thể nào Bất hoàn đắc quả Bất hoàn, không thể nào A-la-hán đắc quả A-la-hán, không thể nào Độc giác đắc quả Độc giác, không thể nào Bồ-tát đắc trí nhất thiết tướng, không thể nào Đại Bồ-tát thấy sáu đường sanh tử sanh lòng rất nhàm chán, cứu vớt chúng sanh nên đắc năm pháp Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp rốt ráo không sanh thì tại sao Dự lưu vì quả Dự lưu siêng năng tu đạo đoạn hẳn ba kiết sử. Tại sao Nhất lai vì quả Nhất lai siêng năng tu đạo đoạn thêm tham, sân, si. Tại sao Bất hoàn vì quả Bất hoàn siêng năng tu đạo đoạn hẳn hạ phần kiết sử. Tại sao A-la-hán vì quả A-la-hán siêng năng tu đạo đoạn hẳn thượng phần kiết sử. Tại sao Độc giác vì quả Độc giác siêng năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Tại sao Đại Bồ-tát vì độ vô lượng, vô biên hữu tình tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô lượng khổ lớn khó nhẫn. Tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tại sao chư Phật vì độ vô lượng hữu tình khổ nên chuyển bánh xe chánh pháp?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có sáu đường thọ sanh sai khác. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có người có thể vào Thánh đế hiện quán. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Dự lưu đắc quả Dự lưu, thấy có Nhất lai đắc quả Nhất lai, thấy có Bất hoàn đắc quả Bất hoàn, thấy có A-la-hán đắc quả A-la-hán, thấy có Độc giác đắc quả Độc giác, thấy có Bồ-tát đắc trí nhất thiết tướng. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Đại Bồ-tát nhàm chán sanh tử, đắc năm Bồ-đề. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Thanh văn tu đạo đoạn kiết sử, thấy có Độc giác siêng năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Đại Bồ-tát vì độ hữu tình nên tu nhiều hạnh khổ, chịu các khổ lớn, nhưng các Đại Bồ-tát không phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì nếu phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm, thì rốt cuộc không thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả Bồ-tát đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với các hữu tình sanh tâm đại bi, an trụ tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con và thân mình. Vì độ thoát cho họ nên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mới có thể làm lợi ích lớn cho họ.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả Bồ-tát nên nghĩ như vầy: Như tự tánh của ngã đối với tất cả pháp đem tất cả loại tất cả nơi, tất cả thời mong cầu đều bất khả đắc. Các pháp trong ngoài cũng như vậy, đều vô sở hữu bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này liền không thấy có hạnh khổ khó làm. Do đây có thể tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp, tất cả hữu tình, tất cả loại tất cả nơi, tất cả thời không có chấp lấy.

Này Xá-lợi Tử! Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình bất khả đắc.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Vì muốn dùng pháp sanh để có việc chứng đắc, hay là muốn dùng pháp vô sanh để có việc chứng đắc?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không muốn dùng pháp sanh để có việc chứng đắc, cũng không muốn dùng pháp vô sanh để có việc chứng đắc.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì lẽ nào hoàn toàn không đắc, không hiện quán sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tuy có đắc, có hiện quán nhưng thật không do hai pháp ấy chứng đắc.

Này Xá-lợi Tử! Chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc hiện quán.

Này Xá-lợi Tử! Chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra có Dự lưu, có quả Dự lưu, có Nhất lai có quả Nhất lai, có Bất hoàn có quả Bất hoàn, có A-la-hán có quả A-la-hán, có Độc giác có quả Độc giác, có Đại Bồ-tát có hạnh Đại Bồ-tát, có chư Phật có quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật chứ chẳng phải trong thắng nghĩaDự lưu v.v...

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc hiện quánDự lưu v.v... chứ chẳng phải là thắng nghĩa, thì sáu đường sai khác cũng tùy theo thế gian mà nói, lập ra chứ chẳng phải là thắng nghĩa sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có nghiệp dị thụcnhiễm tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Vì muốn làm cho pháp chưa sanh được sanh, hay là muốn làm cho pháp đã sanh sanh ra?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không muốn làm cho pháp chưa sanh, được sanh, cũng không muốn làm cho pháp đã sanh sanh ra.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những gì là pháp chưa sanh mà Tôn giả không muốn làm cho pháp đó sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc là pháp chưa sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp chưa sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không, cho đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật là pháp chưa sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những gì là pháp đã sanh mà Tôn giả không muốn làm cho pháp ấy sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc là pháp đã sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp đã sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Cho đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật là pháp đã sanh, tôi không muốn làm cho sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Vì muốn làm cho sanh sanh ra, hay là muốn làm cho không sanh sanh ra?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không muốn làm cho sanh sanh ra, cũng không muốn làm cho không sanh sanh ra. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì sanh cùng với không sanh hai pháp này đều chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Do nhân duyên này tôi không muốn làm cho sanh sanh ra, cũng không muốn làm cho không sanh sanh ra.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Đối với pháp vô sanh đã nói, Tôn giả có muốn biện thuyết tướng vô sanh không?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng không muốn biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì hoặc pháp vô sanh, hoặc tướng vô sanh, hoặc muốn biện thuyết, tất cả như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh, lời nói không sanh này cũng không sanh phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh. Nghĩa của pháp và lời này đều không sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì sắc không sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Nhãn xứ không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Sắc xứ không sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Nhãn giới không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Sắc giới không sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Nhãn thức giới không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Nhãn xúc không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Địa giới không sanh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Thân hành không sanh; ngữ hành, ý hành cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, cho đến trí nhất thiết tướng cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này, đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh; nghĩa của pháp và lời này đều không sanh.

Này Xá-lợi Tử! Nghĩa của pháp thuyết ra, hoặc người thuyết, hoặc người nghe đều vô sanh.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những người thuyết pháp, Ngài là thứ nhất, trừ Phật Thế Tôn không ai có thể bì kịp. Vì sao? Vì tùy theo các lời cật vấn về các pháp môn Ngài đều đối đáp không có trở ngại.

Thiện Hiện đáp:

- Các đệ tử chư Phật đối với tất cả pháp không nương vào chấp trước. Pháp đó đều có thể tùy theo lời cật vấn, mỗi mỗi đều đối đáp tự tại không lo sợ. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Vì sao các pháp hoàn toàn không có chỗ nương tựa?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của nhãn xứ là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc xứ là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của nhãn giới là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc giới là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của nhãn thức giới là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của nhãn xúc là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của pháp không nội là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa, cho đến pháp không vô tánh tự tánh cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của bốn niệm trụ là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa, cho đến tám chi thánh đạo cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh mười lực của Phật là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh trí nhất thiết là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này, ta nói bản tánh của các pháp là không, nên hoàn toàn không có chỗ nương tựa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa nên thanh tịnh sắc cho đến thức. Nên thanh tịnh nhãn xứ cho đến ý xứ. Nên thanh tịnh sắc xứ cho đến pháp xứ. Nên thanh tịnh nhãn giới cho đến ý giới. Nên thanh tịnh sắc giới cho đến pháp giới. Nên thanh tịnh nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nên thanh tịnh nhãn xúc cho đến ý xúc. Nên thanh tịnh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Nên thanh tịnh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nên thanh tịnh pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Nên thanh tịnh bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Như vậy, cho đến nên thanh tịnh mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cho đến nên thanh tịnh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nên thanh tịnh đạo Bồ-đề.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa làm thanh tịnh đạo Bồ-đề?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sáu Ba-la-mật-đa đều có hai loại: Một là thế gian; hai là xuất thế gian.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian? Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào làm vị đại thí chủ, có thể bố thí cho tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo, người bệnh, người đơn côi, người đi đường, người đi xin, cần thức ăn cho thức ăn, cần nước uống cho nước uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần hương hoa cho hương hoa, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần thuốc thang cho thuốc thang, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm. Như vậy tất cả các vật tùy theo người đó cần dùng vật gì sinh sống đều cho đầy đủ. Hoặc lại có người đến xin con trai cho con trai, xin con gái cho con gái, xin thê thiếp cho thê thiếp, xin quan phẩm cho quan phẩm, xin quốc thành cho quốc thành, xin ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu mắt cho đầu mắt, xin tai mũi cho tai mũi, xin tay chân cho tay chân, xin từng phần cho từng phần, xin máu thịt cho máu thịt, xin xương tủy cho xương tủy, xin tôi tớ cho tôi tớ, xin súc vật cho súc vật. Như vậy tất cả các vật bên trong, bên ngoài tùy theo người đó xin vật gì đều cho đầy đủ. Tuy bố thí như vậy mà không có sự lệ thuộc, nghĩa là suy nghĩ như vầy: Ta bố thí người, nhận, ta là thí chủ, ta không bỏn sẻn, ta theo lời Phật dạy có thể xả bỏ tất cả, ta thực hành bố thí Ba-la-mật-đa. Khi người kia hành bố thí đem hữu sở đắc làm phương tiện cho các hữu tình bình đẳng cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại suy nghĩ như vầy: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, làm cho đời này đời sau được an lạc cho đến chứng đắc Vô dư y Niết-bàn. Người kia chấp trước ba luân mà hành bố thí. Những gì là ba? Nghĩa là tưởng mình, tưởng người, tưởng vật bố thí. Do chấp trước ba luân này mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian. Do duyên nào mà bố thí này gọi là thế gian? Vì việc làm đồng với thế gian, không chuyển động, không vượt khỏi pháp thế gian. Do đây nên nói là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi hành bố thí cần phải thanh tịnh ba luân. Những gì là ba? Một là không chấp ta là người thí; hai là không chấp người kia là người nhận; ba là không chấp bố thí và quả bố thí. Đại Bồ-tát này khi hành bố thí cần phải thanh tịnh ba luân.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào lấy đại bi làm đầu, tu phước bố thí cho khắp hữu tình. Đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Tuy hữu tình bình đẳng đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng ở trong đó không thấy chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Do duyên nào bố thí này gọi là xuất thế gian? Vì việc làm không đồng với thế gian, có thể chuyển động, có thể ra khỏi pháp thế gian. Do đây nên nói là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thế gian? Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã mà nương tựa, chấp trước ba luân, thì gọi là Ba-la-mật-đa thế gian. Vì việc làm đồng với thế gian, không chuyển động, không vượt khỏi pháp thế gian. Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã mà không bị lệ thuộc ba luân thanh tịnh, thì gọi là Ba-la-mật-đa xuất thế gian, việc làm không cùng với thế gian, có thể chuyển động, có thể vượt khỏi pháp thế gian.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa làm thanh tịnh đạo Bồ-đề.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát là gì?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Chơn như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì v.v... là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy tích tụ công đức lớn vô lượng, vô biên, đều là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát.

Lúc ấy, Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Công đức lớn tích tụ như vậy, là do thế lực nhũng Ba-la-mật-đa nào làm được?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! công đức lớn tích tụ đã nói như vậy đều do thế lực Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm được. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có thể làm mẹ tất cả pháp thiện. Pháp thiện của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Phật đều từ đây mà sanh.

Này Xá-lợi Tử! Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có thể bao gồm hết tất cả pháp thiện. Pháp thiện của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Phật đều nương vào đây mà trụ.

Này Xá-lợi Tử! Chúng Đại Bồ-tát đời quá khứ tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa rất viên mãn, nên đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng Đại Bồ-tát đời vị lai tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa rất viên mãn, nên sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng Đại Bồ-tát trong vô lượng thế giới chư Phật khắp mười phương đời hiện tại tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa rất viên mãn nên hiện chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm không nghi hoặc, cũng không hoang mang. Nên biết Đại Bồ-tát này trụ như vậy là thường trụ không xả bỏ, nghĩa là đem vô sở đắc làm phương tiện, thường siêng năng cứu giúp tất cả hữu tình. Nên biết Đại Bồ-tát này thành tựu tác ý thù thắng như vậy, nghĩa là tác ý tương ưng với đại bi.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào trụ như vậy là thường không xả bỏ, thành tựu tác ý tương ưng với đại bi thì tất cả hữu tình cũng sẽ thành tựu Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình đối với việc an trụ và tác ý này cũng thường không rời bỏ; do đó các Đại Bồ-tát sẽ không khác với tất cả hữu tình?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Có thể biết như thật ý tôi muốn nói. Tuy giống như nạn vấn tôi nhưng thành ra làm rõ nghĩa tôi muốn nói. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì hữu tình chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có, hữu tình không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật, hữu tình vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh, hữu tình không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không, hữu tình viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly, hữu tình tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh, hữu tình không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Sắc cho đến thức không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Sắc cho đến thức vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Sắc cho đến thức không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Sắc cho đến thức viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Sắc cho đến thức tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Sắc cho đến thức không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Nhãn xứ cho đến ý xứ không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn xứ cho đến ý xứ không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn xứ cho đến ý xứ viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn xứ cho đến ý xứ tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn xứ cho đến ý xứ không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Sắc xứ cho đến pháp xứ không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Sắc xứ cho đến pháp xứ vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Sắc xứ cho đến pháp xứ không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Sắc xứ cho đến pháp xứ viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Sắc xứ cho đến pháp xứ tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Sắc xứ cho đến pháp xứ không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới cho đến ý giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Nhãn giới cho đến ý giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Nhãn giới cho đến ý giới vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn giới cho đến ý giới không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn giới cho đến ý giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn giới cho đến ý giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn giới cho đến ý giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới cho đến pháp giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Sắc giới cho đến pháp giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Sắc giới cho đến pháp giới vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Sắc giới cho đến không của pháp giới, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Sắc giới cho đến pháp giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Sắc giới cho đến pháp giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Sắc giới cho đến pháp giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Nhãn xúc cho đến ý xúc không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn xúc cho đến ý xúc viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn xúc cho đến ý xúc tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Địa giới cho đến thức giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Địa giới cho đến thức giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Địa giới cho đến thức giới vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Địa giới cho đến thức giới không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Địa giới cho đến thức giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Địa giới cho đến thức giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Địa giới cho đến thức giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô Thượng Bồ-đề không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này, các Đại Bồ-tát đối với việc trụ và tác ý như vậy thường không rời bỏ, cũng không khác với hữu tình, vì tất cả pháp không sai khác.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát. Việc này hoàn toàn do thần lực của Như Lai. Nếu có người nào muốn thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát đều nên thuyết giảng như ông. Đại Bồ-tát nào muốn học Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều phải theo lời thuyết giảng của ông mà học. Đại Bồ-tát nào theo lời thuyết giảng của ông mà học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát ấy mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.

Khi cụ thọ Thiện Hiện thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy cho các Đại Bồ-tát ở ba ngàn đại thiên thế giới này biến động sáu cách: Rung động, rung động mạnh, rung động mạnh đều khắp; vọt lên, vọt lên mạnh, vọt lên mạnh đều khắp; vang động, vang động mạnh, vang động mạnh đều khắp; khua đập, khua đập mạnh, khua đập mạnh đều khắp; gầm rống, gầm rống mạnh, gầm rống mạnh đều khắp; nổ vang, nổ vang mạnh, nổ vang mạnh đều khắp. Lại trong ba ngàn đại thiên thế giới này: Phía Đông vọt lên, phía Tây chìm xuống, phía Tây vọt lên, phía Đông chìm xuống, phía Nam vọt lên, phía Bắc chìm xuống, phía Bắc vọt lên, phía Nam chìm xuống, ở giữa vọt lên, bốn bên chìm xuống, bốn bên vọt lên, ở giữa chìm xuống.

Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Do nhân duyên nào Ngài mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Như ở ba ngàn đại thiên thế giới này, Ta đang thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát, vô lượng, vô số, vô biên thế giới. Nay ở phương Đông có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát. Vô lượng, vô số, vô biên thế giới ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới cũng đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát. Như ở ba ngàn đại thiên thế giới này, Ta đang thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có mười hai Na-dữu-đa trời, người, A-tố-lạc v.v... được Vô sanh pháp nhẫn. Nay ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được lợi lạc lớn.

 

Quyển Thứ 424
HẾT

 
XXV. PHẨM ĐẾ THÍCH

01

 

Bấy giờ, ở ba ngàn đại thiên thế giới thế giới Kham Nhẫn này có trời Tứ đại vương cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi (ức) các Thiên tử cõi trời Tứ đại vương đều đến hội hợp; có vua trời Thiên Đế cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Ba mươi ba đều đến hội hợp; có vua trời Tô-dạ-ma cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Dạ-ma đều đến hội hợp; có vua trời San-đổ-sử-đa cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Đổ-sử-đa đều đến hội hợp; có vua trời Diệu biến hóa cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Lạc biến hóa đều đến hội hợp; có vua trời Tự tại cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Tha hóa tự tại đều đến hội hợp; có vua trời Đại phạm cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các thiên chúng trời Đại phạm đều đến hội hợp; có trời Cực quang tịnh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ hai đều đến hội hợp; có trời Biến tịnh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ ba đều đến hội hợp; có trời Quảng quả cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ tư đều đến hội hợp; có trời Sắc cứu cánh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng trời Tịnh cư đều đến hội hợp. Thiên chúng cõi trời Tứ đại vương, cho đến thiên chúng trời Tịnh cư có nghiệp dị thục thanh tịnh thân có ánh sáng, so với ánh sáng thường hiện của thân Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, không bằng một phần Câu-chi, không bằng một phần trăm Câu-chi, không bằng một phần ngàn Câu-chi, không bằng một phần trăm ngàn Câu-chi, như vậy, cho đến số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, cho đến cũng không bằng một phần cực số. Vì sao? Vì ánh sáng thường hiện của thân Như Lai rất rực rỡ, trong các ánh sáng là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vô tỷ, vô đẳng, vô thượng, đệ nhất, che ánh sáng chư Thiên làm cho bị ẩn mất, giống như đốm lửa tim đèn đối với vàng Thiệm-bộ.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch cụ thọ Thiện Hiện:

- Hôm nay, ba ngàn đại thiên thế giới này có chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tịnh cư đều đến hội hợp, muốn nghe Tôn giả thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nguyện xin Tôn giả biết thời giảng cho.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca và các thiên chúng! Hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ nương thần lực của Phật, theo ý Như Lai, thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát có thể ở trong đó nên trụ như vậy, học như vậy.

Này Kiều-thi-ca và các Thiên chúng! Vị nào chưa phát tâm Vô Thượng Bồ-đề nay đều nên phát.

Này Kiều-thi-ca! Các vị nào đã nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác rồi thì không thể phát tâm đại Bồ-đề nữa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì những vị ấy đã chấm dứt việc sanh tử. Trong đây, nếu vị nào có thể phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì những vị thù thắng nên cầu pháp thù thắng; tôi hoàn toàn không làm trở ngại phẩm thiện thắng của họ.

Này Kiều-thi-ca! Theo ông hỏi thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát. Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho. Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc mụt ghẻ, hoặc nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển, hoặc mau diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan ức, hoặc có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín nhiệm. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt, hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử cho đến tập hợp hoàn toàn khổ lớn. Đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử diệt cho đến tập hợp hoàn toàn khổ lớn cũng diệt.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, an trụ pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. An trụ chơn như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v...

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành pháp môn giải thoát không, cho đến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Tu hành mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành tất cả môn Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán như vầy: Chỉ có các pháp bồi bổ lẫn nhau, tăng trưởng lẫn nhau, viên mãn lẫn nhau. Tư duy suy tính không ngã, ngã sở. Lại quán như vầy: Tâm hồi hướng của các Đại Bồ-tát không hòa hợp với tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng. Nghĩa là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát trong tâm Bồ-đề vô sở hữu bất khả đắc. Tâm Bồ-đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát tuy như thật quán sát các pháp nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có sự thấy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát không hòa hợp với tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng?

Thế nào là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát trong tâm Bồ-đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ-đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Tâm hồi hướng của các Đại Bồ-tát là chẳng phải tâm, tâm Bồ-đề cũng chẳng phải tâm. Không thể nào chẳng phải tâm hồi hướng chẳng phải tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng chẳng phải tâm? Chẳng phải tâm không thể nào hồi hướng đến tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng đến tâm? Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì chẳng phải tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là chẳng phải tâm, hai pháp này đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng.

Này Kiều-thi-ca! Tâm khôngtự tánh. Tánh của tâm là không nên tâm sở cũng không. Tâm và tâm sở đã không có tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa tâm hồi hướng.

Này Kiều-thi-ca! Nếu quán như vậy, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát, cũng khéo khuyên bảo các Đại Bồ-tát làm cho hoan hỷ, khuyên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ân rồi không thể nào không báo ân. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử đời quá khứ đã thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát, thị hiện dạy bảo, khen ngợi, sách tấn, vui mừng, an ủi, hướng dẫn làm cho đắc cứu cánh. Khi đó, Thế Tôn cũng học pháp này nên nay chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp làm lợi lạc cho chúng con. Nay chúng con nên theo lời Phật dạy, thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát thị hiện dạy bảo, khen ngợi, sách tấn, vui mừng, an ủi, hướng dẫn làm cho đắc cứu cánh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy gọi là báo đáp ân đức kia.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Ông hỏi Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào. Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ vào chỗ cần phải trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều-thi-ca! Sắc, sắc không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức không; Bồ-tát, Bồ-tát không; hoặc sắc không, hoặc thọ, tưởng, hành, thức không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai phần.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn xứ, nhãn xứ không, cho đến ý xứ, ý xứ không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn xứ không, cho đến hoặc ý xứ không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Sắc xứ, sắc xứ không, cho đến pháp xứ, pháp xứ không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc sắc xứ không, cho đến hoặc pháp xứ không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn giới, nhãn giới không, cho đến ý giới, ý giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn giới không, cho đến hoặc ý giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Sắc giới, sắc giới không, cho đến pháp giới, pháp giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc sắc giới không, cho đến hoặc pháp giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn thức giới, nhãn thức giới không, cho đến ý thức giới, ý thức giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn thức giới không, cho đến hoặc ý thức giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn xúc, nhãn xúc không, cho đến ý xúc, ý xúc không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn xúc không, cho đến hoặc ý xúc không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến hoặc các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Địa giới, địa giới không, cho đến thức giới, thức giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc địa giới không, cho đến hoặc thức giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Vô minh, vô minh không, cho đến lão tử, lão tử không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc vô minh không, cho đến hoặc lão tử không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Vô minh diệt, vô minh diệt không, cho đến lão tử diệt, lão tử diệt không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc vô minh diệt không, cho đến hoặc lão tử diệt không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa không, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa không, cho đến hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Pháp không nội, pháp không nội không, cho đến pháp không vô tánh tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc pháp không nội không, cho đến hoặc pháp không vô tánh tự tánh không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Bốn niệm trụ, bốn niệm trụ không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười tám pháp Phật bất cộng không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc bốn niệm trụ không, cho đến hoặc mười tám pháp Phật bất cộng không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Tam-ma-địa không; tất cả môn Đà-la-ni, tất cả môn Đà-la-ni không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc tất cả môn Tam-ma-địa không, hoặc tất cả môn Đà-la-ni không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Thanh văn thừa, Thanh văn thừa không; Độc giác thừa, Vô thượng thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc Thanh văn thừa không; hoặc Độc giác thừa, Vô thượng thừa không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Dự lưu, Dự lưu không, cho đến Như Lai, Như Lai không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc Dự lưu không, cho đến hoặc Như Lai không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Trí nhất thiết, trí nhất thiết không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc trí nhất thiết không; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Vì sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ bất cứ pháp nào?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sắc; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ nhãn xứ, cho đến không nên trụ ý xứ. Không nên trụ sắc xứ, cho đến không nên trụ pháp xứ. Không nên trụ nhãn giới, cho đến không nên trụ ý giới. Không nên trụ sắc giới, cho đến không nên trụ pháp giới. Không nên trụ nhãn thức giới, cho đến không nên trụ ý thức giới. Không nên trụ nhãn xúc, cho đến không nên trụ ý xúc. Không nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến chẳng trụ các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên trụ địa giới, cho đến không nên trụ thức giới. Không nên trụ vô minh, cho đến không nên trụ lão tử. Không nên trụ vô minh diệt, cho đến không nên trụ lão tử diệt. Không nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến không nên trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ pháp không nội, cho đến không nên trụ pháp không vô tánh tự tánh. Không nên trụ bốn niệm trụ, cho đến không nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ tất cả môn Tam-ma-địa; không nên trụ tất cả môn Đà-la-ni. Không nên trụ Thanh văn thừa; không nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Không nên trụ Dự lưu cho đến không nên trụ Như Lai. Không nên trụ trí nhất thiết; không nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ đây là sắc cho đến đây là thức. Không nên trụ đây là nhãn xứ cho đến đây là ý xứ. Không nên trụ đây là sắc xứ cho đến đây là pháp xứ. Không nên trụ đây là nhãn giới cho đến đây là ý giới. Không nên trụ đây là sắc giới cho đến đây là pháp giới. Không nên trụ đây là nhãn thức giới cho đến đây là ý thức giới. Không nên trụ đây là nhãn xúc cho đến đây là ý xúc. Không nên trụ đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến đây là các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên trụ đây là địa giới cho đến đây là thức giới. Không nên trụ đây là vô minh cho đến đây là lão tử. Không nên trụ đây là vô minh diệt cho đến đây là lão tử diệt. Không nên trụ đây là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ đây là pháp không nội cho đến đây là pháp không vô tánh tự tánh. Không nên trụ đây là bốn niệm trụ cho đến đây là mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ đây là tất cả môn Tam-ma-địa, đây là tất cả môn Đà-la-ni. Không nên trụ đây là Thanh văn thừa, đây là Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Không nên trụ đây là Dự lưu cho đến đây là Như Lai. Không nên trụ đây là trí nhất thiết, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sắc cho đến thức hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ sắc xứ cho đến pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn giới cho đến ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ sắc giới cho đến pháp giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ địa giới cho đến thức giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ vô minh cho đến lão tử hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ vô minh diệt cho đến lão tử diệt hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ Dự lưu cho đến Như Lai hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ quả Dự lưu hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ Dự lưuphước điền. Không nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, như Laiphước điền. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sơ địa cho đến không nên trụ thập địa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc. Vì sao? Vì trụ như vậy là có động chuyển.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi sẽ viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi sẽ tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi sẽ tu hành ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi tu giai đoạn đầu đã viên mãn sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi đã được nhập Chánh tánh ly sanh, sẽ trụ bậc Bất thối chuyển của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ viên mãn ngũ thông của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ trụ viên mãn ngũ thông của Bồ-tát, thường đến vô lượng, vô số cõi Phật, kính lễ chiêm ngưỡng, cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp, tư duy đúng lý, thuyết giảng cho người nghe. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ làm trang nghiêm tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ biến hóa tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ giáo hóa các loại hữu tình làm cho chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc vào Niết-bàn, hoặc an vui cõi trời, người. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ đến vô lượng, vô số cõi nước chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Lại đem cúng dường vô biên hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái, y phục, đồ nằm, ngồi, thức ăn, uống, đèn sáng, trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa (ngàn ức) các thứ nhạc trời, và vô lượng châu báu tốt đẹp. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô biên, vô số hữu tình, làm cho họ không thối chuyển quả Vô Thượng Bồ-đề. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thanh tịnh. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu các môn đẳng trì, đối với các đẳng trì được tự tại an trụ. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu các môn tổng trì, đối với các môn tổng trì đều được tự tại. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, làm cho các hữu tình trông thấy đều vui vẻ, xem không nhàm chán. Do đây chứng đắc lợi ích an lạc. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ đây là Bổ-đặc-già-la thứ tám, đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành. Không nên trụ đây là Dự lưu còn tối đa bảy lần sanh trở lại, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn. Không nên trụ đây là Bổ-đặc-già-la đứng đầu, đến khi mạng sống hết, phiền não mới hết. Không nên trụ đây là Dự lưu quyết định không đọa pháp, đây là Nhất lai đến thế gian này được dứt hết khổ. Không nên trụ đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, đến đó mới đắc Niết-bàn. Không nên trụ đây là A-la-hán chấm dứt đời sau, hiện tại chắc chắn nhập Vô dư Niết-bàn. Không nên trụ đây là Độc giác. Không nên trụ đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi đã vượt qua địa Thanh văn, Độc giác, trụ địa Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ đầy đủ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đã hiểu tất cả pháp, tất cả tướng đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục của phiền não trói buộc. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu, được thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, làm cho đắc Niết-bàn rốt ráo an lạc. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ khéo tu bốn thần túc, đã an trụ đẳng trì (định) thù thắng như vậy. Do đẳng trì (định) này tăng thêm thế lực, làm cho tuổi thọ của tôi đến hằng hà sa số thế giới đại kiếp. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ được tuổi thọ vô lượng, vô biên. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu ba mươi hai tướng, mỗi mỗi tướng này trăm phước trang nghiêm. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu tám mươi vẻ đẹp, mỗi mỗi vẻ đẹp này có vô lượng, vô số điều hy hữu thù thắng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ an trụ cõi tịnh độ trang nghiêm, cõi ấy rộng lớn như bề mặt hằng hà sa số thế giới trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ an tọa trên tòa kim cương, tòa ấy rộng lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ nghỉ ở dưới cội cây Bồ-đề, cây ấy cao rộng được trang nghiêm bằng các châu báu, phát ra hương thơm vi diệu, hữu tình ngửi được, tâm tham, sân, si v.v... mau được tiêu trừ, vô lượng, vô biên bệnh của thân cũng được lành mạnh. Người nào ngửi được mùi hương cây Bồ-đề này xa lìa tác ý các Thanh văn, Độc giác, chắc chắn được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Không nên trụ nghĩ như vầy: Nguyện cho tôi sẽ được cõi Phật nghiêm tịnh. Cõi ấy thanh tịnh không nghe tên sắc uẩn; không nghe tên thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Không nghe tên nhãn xứ; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không nghe tên sắc xứ; không nghe tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không nghe tên nhãn giới; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Không nghe tên sắc giới; không nghe tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không nghe tên nhãn thức giới; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không nghe tên nhãn xúc; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không nghe tên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không nghe tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không nghe tên địa giới; không nghe tên thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không nghe tên vô minh; không nghe tên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Chỉ có nghe tên bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến chỉ nghe tên Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Chỉ có nghe tên pháp không nội, cho đến chỉ có nghe tên pháp không vô tánh tự tánh. Chỉ có nghe tên chơn như, cho đến chỉ có nghe tên cảnh giới bất tư nghì. Chỉ có nghe tên bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chỉ có nghe tên mười tám pháp Phật bất cộng. Trong đó hoàn toàn không nghe tên Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Phàm phu v.v... Chỉ có nghe tên Đại Bồ-tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác v.v... Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Tất cả chúng Đại Bồ-tát khi trụ bậc Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ vào chỗ cần phải trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, tùy theo chỗ nên trụ, không nên trụ tướng, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử nghĩ như vầy: nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không nên trụ thì tại sao trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm Xá-lợi Tử liền nói:

- Ý ông thế nào? Tâm các Như Lai trụ ở nơi nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tâm các Như Lai hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tâm Như Lai không trụ sắc, không trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không trụ nhãn xứ; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không trụ sắc xứ; không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không trụ nhãn giới; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Không trụ sắc giới; không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không trụ nhãn thức giới; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không trụ nhãn xúc; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không trụ hữu vi giới; không trụ vô vi giới. Không trụ bốn niệm trụ, nói rộng cho đến không trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Không trụ trí nhất thiết; không trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối với tất cả pháp hoàn toàn không có chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng như vậy; tuy trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đồng với Như Lai đối với tất cả pháp hoàn toàn không có chỗ trụ cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đối với sắc chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, cho đến đối với trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các pháp sắc v.v... không có hai tướng.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, tùy theo tướng chẳng trụ chẳng phải không trụ này, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

Bấy giờ, trong hội có các Thiên tử thầm nghĩ: Câu thần chú của Dược-xoa v.v... tuy là bí mậtchúng ta còn có thể hiểu được. Tôn giả Thiện Hiện với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, tuy dùng các lời nói chỉ bày nhưng chúng ta hoàn toàn không hiểu được.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo họ:

- Này các Thiên tử! Các ông không thể hiểu được các lời ta nói sao?

Các Thiên tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo các Thiên tử:

- Tôi từng ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này không nói một chữ, các ông cũng không nghe thì hiểu chỗ nào? Vì sao? Này các Thiên tử! Trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, văn tự lời nói đều xa lìa. Do đó, người nói, người nghe và người có thể hiểu trong đây đều bất khả đắc. Việc chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thâm sâu, vi diệu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng như vậy.

Này các Thiên tử! Như việc hóa thân của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hóa thân làm bốn chúng đều đến hội hợp mà thuyết pháp. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe, người có thể hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Các Thiên tử! Tất cả pháp đều như biến hóa. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như người trong mộng, thấy có Phật thuyết giảng chánh pháp cho các đại chúng. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe, người có thể hiểu không?

Các Thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người đứng một phía, cùng phát ra tiếng khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Ý các ông thế nào? Hai tiếng vang này có thể nghe lẫn nhau và biết lẫn nhau không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như tiếng vang. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như nhà ảo thuật tài giỏi hoặc đệ tử người ấy, ở ngã tư đường ảo thuật làm bốn chúngđức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do ảo thuật biến hóa, thuyết giảng chánh pháp cho bốn chúng do ảo thuật biến hóa. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe và người có thể hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như huyễn. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Do nhân duyên này, tôi từng ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này không nói một chữ. Các ông cũng không nghe thì hiểu chỗ nào?

 

Quyển Thứ 425
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/06/2017(Xem: 17609)
07/06/2010(Xem: 88128)
07/06/2010(Xem: 76776)
11/03/2017(Xem: 47988)
25/02/2015(Xem: 9382)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.