Tập 23 (Quyển 563-575)

09/05/201012:00 SA(Xem: 27866)
Tập 23 (Quyển 563-575)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 23 (Quyển 563-575)

 02

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành như thế là hành chỗ nào?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp đang hành đều chẳng chuyển động vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành nghĩa đế nào?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành Thắng nghĩa đế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát hành Thắng nghĩa đế thì đối với Thắng nghĩa đếthủ tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế tuy chẳng thủ tướnghành tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với tướng Thắng nghĩa đế đã chẳng hành tướng thì hoại tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại tướng thì khiển tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại, khiển thì làm sao có thể dứt được tưởng chấp thủ tướng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này chẳng nghĩ: Ta dứt tưởng tướng hoại, tướng khiển; cũng chưa tu học đạo dứt tưởng. Nếu các Bồ-tát tinh tấn tu hành đạo dứt tưởng mà chưa đầy đủ Phật pháp, thì đúng ra phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo nên mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ tướng biết là rất lỗi lầm, nhưng chẳng hoại, khiển để mau dứt tưởng này, chứng tướng không. Vì sao? Vì chưa viên mãn tất cả pháp Phật vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng tu hành ba môn giải thoát thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xalợi ích chăng? Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành ba môn giải thoát, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã có lợi ích thì trong giấc mộng họ tu cũng có lợi ích. Vì sao? Vì Phật dạy: mộng, thức không sai khác vậy.

Thiện Hiện thưa:

- Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã được gọi là an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này trong giấc mộng, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng được gọi là an trụ ba môn giải thoát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có lợi ích như thế; hoặc mộng, hoặc thức, nghĩa không sai khác.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong giấc mộng tạo nghiệp có thành không?

Phật dạy:

- Các pháp chẳng thật như mộng, nên sự tạo ra các nghiệp ở trong mộng cũng không thành; cần phải đến lúc thức dậy, nhớ tưởng phân biệt mới thành.

Thiện Hiện thưa:

- Nếu các hữu tình trong giấc mộng thấy giết hại sinh mạng, đến khi thức dậy nhớ tưởng phân biệt, rất vui mừng, thì sự tạo nghiệp của người đó chẳng thành ư?

Xá-lợi Tử thưa:

- Việc không có sở duyên, hoặc nghĩ, hoặc buộc lòng tin, nghiệp chẳng thể sanh; cần phảisở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sanh. Nghiệp suy nghĩ trong giấc mộng duyên đâu mà sanh?

Thiện Hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Hoặc trong mộng, hoặc lúc thức, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh. Cần phải có duyên suy nghĩ, nghiệp mới sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì cần phải đối với các tướng thấy nghe, hiểu biết, có tác động của sự hiểu biết, do đó mới phát sanh nhiễm hoặc phát sanh tịnh. Nếu không có các tướng: Thấy, nghe, hiểu biết thì không có tác dụng của sự hiểu biết, cũng không nhiễm tịnh. Do đó nên biết, hoặc trong mộng, hoặc lúc thức có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp mới sanh. Nếu khôngsở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Phật thuyết sở duyên đều lìa tự tánh. Như thế thì làm sao có thể nói có sở duyên suy nghĩ nghiệp mới phát sanh, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh?

Thiện hiện đáp:

- Mặc dù các nghiệp suy nghĩsở duyên đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp thủ tướng phân biệt, nên thế tục đặt bày nói là có sở duyên phát sanh các nghiệp suy nghĩ, chẳng phải sở duyên này lìa tâm riêng có.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng làm việc bố thí. Bố thí xong, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này có phải là thật đem bố thí hồi hướng Bồ-đề Vô thượng Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đắc đại Bồ-đề, nên có thể thưa hỏi, nhất định Ngài sẽ đáp.

Xá-lợi Tử theo lời Thiện Hiện, cung kính thưa hỏi Bồ-tát Từ Thị.

Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị bảo Xá-lợi Tử:

- Những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị mà bảo có thể đáp lời tôn giả hỏi?

Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là sắc không chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức không chăng? Vả lại, sắc chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị, nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi.

Không của sắc, chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ-tát Từ Thị, cũng hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng đáp, có pháp sở đáp, nơi chốn đáp, thời gian đáp và do đây đáp.

Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp thọ ký, có pháp bị thọ ký, nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký và do đây thọ ký. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bản tánh tất cả pháp đều Không. Suy tìm rốt ráo chẳng thể đắc vậy.

Xá-lợi Tử hỏi Từ Thị:

- Pháp mà Nhân giả đã nói có phải là như chỗ đã chứng chăng?

Từ Thị đáp:

- Pháp tôi nói chẳng phải như chỗ đã chứng. Vì sao? Vì pháp tôi đã chứng chẳng thể nói vậy.

Xá-lợi Tử nghĩ: Bồ-tát Từ trí tuệ sâu xa, từ lâu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể nói như thế.

Khi ấy, Thế Tôn biết ý nghĩ của Xá-lợi Tử, liền bảo:

- Ý ông thế nào? Ông do pháp này thành A-la-hán thì có thể thấy pháp này là có thể nói chăng?

Xá-lợi Tử bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Chẳng thể.

Phật dạy:

- Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như thế, chẳng thể tuyên thuyết. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo, chẳng nghĩ: Ta do pháp này đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký Đại Bồ-đề. Chẳng nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng Bồ-đề. Các Bồ-tát có thể hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với việc đắc Bồ-đề cũng không sợ hãi, quyết định tự biết: Ta sẽ chứng, nên các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm.

Các Bồ-tát này nếu ở nơi đồng hoang, chỗ có thú dữ cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, thường nghĩ: Các thú dữ v.v... muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ bố thí giúp cho chúng được no đủ. Nhờ căn lành này khiến cho ta bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả bàng sanh, ngạ quỉ.

Các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, ưa tu các việc lành, đối với thân mạng, tài sản không chút luyến tiếc, thường nghĩ: Nếu các hữu tình đến tranh giành, cướp đoạt các của cải của ta, hoặc do như thế mà hại thân mạng của ta thì ta chẳng hận họ. Nhờ nhân duyên này làm cho ta an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả oán tặc cướp hại. Do cõi Phật của ta rất thanh tịnh nên cũng không có các thứ xấu khác.

Nếu các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ không có nước cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tuyên thuyết diệu pháp Vô thượng, dứt bệnh khát ái của các hữu tình. Giả sử ta do cơn khát này bức ngặt mà chết, đối với các loài hữu tình quyết chẳng rời bỏ ý đại bi, bố thí cho họ nước diệu pháp. Kỳ lạ thay! Hữu tình này bạc phước nên ở tại thế giới không có nước như thế. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả đồng hoang v.v... thiếu nước, cháy khát như thế. Ta sẽ phương tiện khuyên các hữu tình tu nghiệp thắng phước, tùy theo ở chỗ nào đều làm cho đầy đủ nước tám công đức.

Các Bồ-tát này ở chỗ đói kém cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tinh tấn nghiêm tịnh cõi Phật. Khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả sự đói kém như thế. Các loài hữu tình đầy đủ sự vui sướng, tùy ý cần dùng gì, nghĩ đến liền có ngay, như chư thiên nghĩ gì liền được. Ta sẽ phát khởi tinh tấn bền vững, làm cho nguyện ước của các hữu tình được đầy đủ. Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải không thiếu thốn. Nếu các Bồ-tát không lo sợ việc này thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Các Bồ-tát này khi gặp bệnh dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường tư duy kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có người bệnh, tất cả đều Không, chẳng nên sợ hãi. Ta sẽ siêng năng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta các loài hữu tình v.v... không có ba thứ bệnh, tinh tấn tu hành pháp lành thù thắng như Phật đã dạy, thường không lười biếng bỏ bê.

Các Bồ-tát này nếu nghĩ Bồ-đề, trải qua thời gian lâu mới đắc, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn kiếp số đời trước tuy có vô lượng, nhưng trong một niệm nhớ nghĩ phân biệt chứa nhóm là thành. Giới hạn kiếp số đời sau nên biết cũng như thế. Thế nên Bồ-tát chẳng nên ở trong đó khởi tưởng lâu xa mà sanh sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn trước, giới hạn sau của kiếp số dài, ngắn đều trong một sát-na tương ưng với tâm vậy. Bồ-tát đối với những việc đáng sợ như thế, luôn tư duy kỹ, chẳng sanh sợ hãi, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XVIII. PHẨM TỶ MUỘI

Bấy giờ trong hội có một thiên nữ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Con ở trong đây cũng không sợ hãi, nguyện đời tương lai sẽ được thành Phật, cũng vì hữu tình thuyết pháp như thế.

Thưa như vậy xong, nàng lấy hoa vàng đẹp cung kính chí thành rải cúng Như Lai. Nhờ thần lực của Phật khiến hoa vàng ấy bay lên trụ rực rỡ trên hư không.

Đức Thế Tôn mỉm cười, từ miệng phát ra ánh sáng sắc vàng chiếu khắp mười phương, rồi trở lại nhập vào nơi đỉnh đầu.

Khi ấy, A-nan-đà thấy nghe việc như thế xong, cung kính chấp tay bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Do nhân gì mà Ngài mỉm cười như thế? Chư Phật mỉm cười chẳng phải là không có nhân duyên?

Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:

- Thiên nữ này ở đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, kiếp tên Tinh Dụ, Phật hiệu Kim Hoa.

Khánh Hỷ nên biết! Thiên nữ này chính là thân nữ cuối cùng của nàng. Xả thân này xong, liền thọ thân nam, cùng tận đời vị lai không còn thọ lại thân nữ. Từ đây mạng chung, sanh đến quốc độ của Phật Bất Động ở phương Đông, siêng tu phạm hạnh. Người nữ này ở cõi kia tên là Kim Hoa, từ thế giới Phật Bất Động mạng chung, sanh ở thế giới của Phật phương khác. Bất cứ sanh chỗ nào cũng thường không xa lìa Phật. Như vua Chuyển luân, từ điện đài này đến điện đài khác, sung sướng hưởng lạc cho đến chết, chân không chạm đất… Người nữ này cũng thế, từ nước Phật này đến nước Phật khác, tùy theo sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường tu phạm hạnh cho đến giác ngộ.

Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Nay tỷ muội này khi thành Phật, cũng sẽ giống như chúng hội Bồ-tát hôm nay. Phật biết ý nghĩ đó, bảo Khánh Hỷ:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng như điều ông nghĩ. Bồ-tát Kim Hoa khi thành Phật cũng sẽ tuyên thuyết cho chúng hội Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Số Bồ-tát ở trong hội nhiều hay ít cũng như chúng hội Bồ-tát của Ta ngày nay. Số đệ tử Thanh văn khó biết, chỉ có thể nói tổng quát là vô lượng, vô số thế giới của đức Phật kia hoàn toàn không có thú dữ, giặc ác, đói khát, bệnh tật v.v... Cũng không có các sự phiền não sợ hãi khác.

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người tỷ muội này trước đây ở chỗ Phật nào phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đầu tiên, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Người nữ này quá khứ ở chỗ Phật Nhiên Đăng đầu tiên phát đại tâm, cũng dùng hoa vàng dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện nên nay được gặp Ta.

Khánh Hỷ nên biết! Thời quá khứ, Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, dùng năm cành hoa dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện. Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết các căn của Ta đã thuần thục, thọ ký cho Ta: “Ông đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Năng Tịch, cõi tên Kham Nhẫn, kiếp hiệu là Hiền.”

Bấy giờ, Thiên nữ nghe Phật kia thọ ký cho Ta đại Bồ-đề, vui mừng hớn hở, liền dùng hoa trời dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện: “Mong sao đời sau của con, khi Bồ-tát này được thành Phật, cũng như hôm nay, Phật hiện tiền thọ ký Đại Bồ-đề, cũng thọ ký cho con như thế”. Nên nay Ta thọ ký cho nàng.

Khánh Hỷ nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Người tỷ muội này từ lâu đã tu tập tâm đại Bồ-đề, hồi hướng phát nguyện, nay được thành thục.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hiện nhập định Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, khi quán như thế không làm cho tâm loạn. Nếu tâm không loạn thì như thật thấy pháp, tuy như thật thấy pháp nhưng không chứng đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao tuy thấy pháp là Không, mà không chứng đắc?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này khi quán pháp Không, trước hết nghĩ: Ta nên quán tướng các pháp đều Không, mà ở trong đó chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán pháp Không, chẳng vì chứng mà quán pháp Không. Nay là thời gian học, chẳng phải thời gian chứng. Các Bồ-tát này chưa nhập vào ngôi vị định, nhiếp tâm ở cảnh chẳng phải cảnh khi nhập định. Bấy giờ, Bồ-tát chẳng thối thất pháp Bồ-đề phần, chẳng sạch các lậu. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thành tựu căn lành trí tuệ rộng lớn, có thể tự nghĩ kỹ: Ta đối với pháp Không, bây giờ là thời gian học, chẳng phải thời gian đắc. Ta nên giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán các pháp Không, viên mãn tất cả pháp Bồ-đề phần. Nay không nên chứng thật tế (Niết-bàn), rơi vào địa vị Nhị thừa, không đắc Bồ-đề.

Giống như có người lực lưỡng, dũng mãnh, đứng đi vững chắc, hình dáng đoan nghiêm, sáu mươi bốn tài năng đều đầy đủ. Đối với các kỹ thuật khác, học đến chỗ rốt ráo; đầy đủ nhiều công đức giới luật tối thắng, thông minh trí tuệ, nói năng khéo léo, thường giỏi đối đáp, đủ từ đủ nghĩa; có thế lực lớn, làm bất cứ điều gì đều có thể thành tựu sự nghiệp tốt đẹp, nên ít công lợi nhiều; do đó mọi người đều kính mến. Có nhân duyên nên người ấy đem cha mẹ, vợ con, quyến thuộc đi đến nơi khác. Giữa đường, ngang qua đồng hoang, hiểm nạn, trong đó có nhiều thú dữ, oán tặc; thân thuộc lớn bé đều rất kinh hoàng. Người đó nhờ vào nhiều kỹ thuật, sức mạnh, sự dõng mãnh nên thân ý thư thái, an ủi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc: “Chớ có lo buồn, chắc chắn con sẽ giúp thoát khổ, mau vượt qua đồng hoang, đến chỗ an ổn.”

Bấy giờ, người kia hóa làm các thứ binh trượng bén nhọn, gặp các oán địch làm cho bọn họ trông thấy, tự nhiên giải tán. Nên tráng sĩ kia ở giữa đồng hoang, ác thú, oán tặc mà không bị tổn hại, phương tiện khéo léo đưa các quyến thuộc nhanh chóng vuợt qua đồng hoang, đến chỗ an vui.

Các chúng Bồ-tát cũng như thế, thương xót các loài hữu tình bị khổ sanh tử, luôn luôn an trụ từ, bi, hỷ, xả, bảo vệ căn lành thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo như Phật đã hứa khảhành trì, đem các công đức, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tuy tu viên mãn pháp Không, nhưng chẳng chứng đắc, hết lòng thương xót, nghĩ đến tất cả hữu tình; đối với các hữu tình muốn ban cho họ sự an lạc.

Các Bồ-tát này vượt các loại phiền não, cũng vượt các loại ma và địa vị Nhị thừa. Tuy trụ định Không nhưng chẳng hết các lậu, tuy trụ học Không mà chẳng chứng đắc. Bấy giờ Bồ-tát trụ trong định Không, tuy chẳng chấp tướng mà chẳng chứng vô tướng. Như chim có cánh khỏe, bay lượn giữa hư không, nhào liệng tự tại, lâu mà không bị rơi xuống. Tuy nương hư không đùa giỡn mà chẳng trụ hư không, cũng chẳng bị hư không làm trở ngại. Các chúng Bồ-tát này cũng như thế, tuy học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng trụ không, vô tướng, vô nguyện. Cho đến khi Phật pháp chưa được viên mãn cùng cực thì hoàn toàn không nương nơi đó, dứt hẳn các lậu.

Như có người khỏe mạnh, thông thạo nghệ thuật bắn cung, muốn biểu diễn tài nghệ của mình, ngửa mặt bắn lên hư không, vì muốn mũi tên ở trên hư không không rơi xuống đất nên lại lấy mũi tên sau bắn đuôi mũi tên trước... Lần lượt như thế, trải qua nhiều giờ, mũi tên trước, mũi tên sau nương nhau không rơi xuống đất. Nếu muốn cho rơi xuống thì ngưng bắn mũi tên sau, thì các mũi tên mới rơi xuống.

Các Bồ-tát này cũng như thế, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, giữ gìn phương tiện thiện xảo thù thắng, cho đến khi căn lành chưa cùng cực thuần thục thì nửa đường hoàn toàn chẳng chứng thật tế. Nếu khi căn lành đã thuần thục, liền chứng thật tế, đắc đại Bồ-đề.

Thế nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo đều nên như thế, quán sát kỹ pháp tánh sâu xa. Nếu chưa cùng cực viên mãn pháp của chư Phật thì chẳng nên chứng đắc.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Thật kỳ lạ, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu, kính bạch Thiện thệ! Các Bồ-tát này thường làm việc khó làm, tuy học pháp sâu xa nhưng không chứng đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các Bồ-tát này thề không xả bỏ tất cả hữu tình nên có thể làm xong việc như thế. Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm rộng lớn, vì giải thoát khổ sanh tử cho hữu tình nên tuy luôn phát khởi ba môn giải thoát mà ở nửa đường chẳng chứng thật tế. Vì sao? Vì muốn độ thoát họ nên chẳng bỏ vậy. Được phương tiện thiện xảo hộ trì nên trong thời gian đó chẳng chứng thật tế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát đối với chỗ sâu xa, muốn dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa quán sát kỹ thì đó là cách thức tu hành ba pháp môn giải thoát Đẳng trì là: Không, vô tướng, vô nguyện. Các Bồ-tát này nên nghĩ: Hữu tình luôn luôn phát khởi tưởng hữu tình, chấp có sở đắc, đưa đến các nẻo tà kiến xấu, luân hồi sanh tử, chịu khổ không cùng. Ta vì dứt trừ nẻo tà kiến xấu kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên vì các hữu tình thuyết pháp sâu xa Không, làm cho dứt trừ chấp kia để ra khỏi khổ sanh tử. Thế nên tuy học pháp môn giải thoát Không, mà chẳng chứng thật tế trong khoảng thời gian đó.

Các Bồ-tát này do phát khởi niệm phương tiện thiện xảo này, tuy ở trong khoảng thời gian đó chẳng chứng thật tế, mà không thối thất bốn pháp Thắng định là: Từ, bi, hỷ, xả. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi (thất giác chibát chánh đạo) càng tăng trưởng lợi ích.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát này nên nghĩ: Hữu tình từ lâu ở trong các tướng phát khởi các loại chấp trước, do đây luân hồi chịu khổ không cùng. Ta vì dứt các tướng chấp kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp vô tướng cho các hữu tình, khiến cho dứt tướng chấp để ra khỏi khổ sanh tử. Do đây thường nhập Đẳng trì vô tướng. Các Bồ-tát này do trước đây thành tựu phương tiện thiện xảo và đã phát sanh tác ý, nên tuy luôn hiện nhập Đẳng trì vô tướngtrong khoảng thời gian đó chẳng chứng thật tế, chẳng thối thất bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi càng thêm tăng trưởng lợi ích.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghĩ: Hữu tình từ lâu tâm chúng thường phát khởi tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh, do đó phát sanh chấp trước điên đảo, luân hồi sanh tử chịu khổ không cùng. Ta vì dứt bốn điên đảo nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp không điên đảo cho các hữu tình. Nghĩa là nói sanh tử không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, duy chỉ có Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu, đầy đủ các thứ công đức chơn thật. Do đó thường nhập Đẳng trì vô nguyện. Các Bồ-tát này do trước đây thành tựu phương tiện thiện xảophát khởi tác ý, nên tuy thường hiện nhập Đẳng trì vô nguyện, nhưng các Phật pháp chưa rốt ráo viên mãn, thì trong khoảng thời gian đó không chứng thật tế, chẳng thối thất bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi càng thêm tăng trưởng lợi ích.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghĩ: Hữu tình trước đây đã luôn luôn hành có sở đắc, nay cũng hành có sở đắc; trước đã hành có tướng, nay cũng hành có tướng; trước đã hành điên đảo, nay cũng hành điên đảo; trước đã hành tưởng hòa hiệp, nay cũng hành tưởng hòa hiệp; trước đã hành tưởng hư vọng, nay cũng hành tưởng hư vọng; trước đã hành tà kiến, nay cũng hành tà kiến. Do đây luân hồi chịu khổ không cùng. Ta vì dứt trừ tội lỗi như thế cho hữu tình nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp sâu xa cho họ, khiến lỗi lầm của họ đều dứt trừ hẳn, chẳng còn luân hồi chịu khổ sanh tử, mau chứng Niết-bàn thường lạc chơn tịnh.

Các Bồ-tát này nhờ rất thương xót nghĩ đến tất cả hữu tình nên mới thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, thường ưa quán sát pháp tánh sâu xa, đó là: Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, thật tế.

Các Bồ-tát này thành tựu tri kiến thù thắng như thế, nếu rơi vào pháp vô tướng, vô tác, hoặc trụ ba cõi thì hoàn toàn không có điều đó.

Các Bồ-tát này thành tựu công đức thù thắng như thế mà xả bỏ hữu tình để thẳng đến viên tịch, chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng lợi ích hữu tình, cũng không có diều đó.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì cần nên thưa hỏi các Bồ-tát khác: Bồ-tát làm sao tu tập tất cả pháp Bồ-đề phần? Phát khởi tâm nào để có thể làm cho Bồ-tát học không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, thật tế, mà không chứng đắc nhưng vẫn tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Nếu các Bồ-tát khác khi được hỏi như thế mà trả lời: Các chúng Bồ-tát chỉ nên tư duy về không, vô tướng v.v... chứ chẳng dạy: Cần phải ghi nhớ, không từ bỏ tất cả hữu tìnhcứu độ bằng phương tiện thiện xảo thù thắng, thì nên biết Bồ-tát đó trước đây chưa từng được chư Phật thọBất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia chưa có thể chỉ dạy và phân biệt rõ ràng về địa vị Bất thối chuyểnpháp tướng Bất cộng của các chúng Bồ-tát; vì chẳng biết rõ ràng về điều người ta thưa hỏi về các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển và cũng chẳng thể trả lời được.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Có nhân duyên nào để biết được đó là các Bồ-tát Bất thối chuyển không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Cũng có nhân duyên để biết các Bồ-tát đó là Bất thối chuyển. Nghĩa là có các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc nghe, hoặc chẳng nghe, cũng có thể trả lời đúng những điều người ta thưa hỏi trước đây và có thể thực hành đúng các hạnh của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển. Do nhân duyên đó nên biết, Bồ-tát đó là Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có nhiều Bồ-tát hành hạnh Bồ-đề mà lại ít có vị có thể trả lời đúng được?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Mặc dù có nhiều Bồ-tát hành hạnh Bồ-đề nhưng có ít Bồ-tát được thọ ký đắc trí tuệ vi diệuđịa vị Bất thối chuyển như thế. Nếu có vị nào được thọ ký như thế thì vị ấy có thể trả lời đúng.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này căn lành trong sáng, trí tuệ rộng sâu. Trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian không thể phá hoại tâm đại Bồ-đề.

 
XIX. PHẨM MỘNG HÀNH

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng chẳng đắm trước ba cõi và cũng chẳng ca ngợi địa vị Nhị thừa, tuy quán các pháp như những gì thấy trong giấc mộng, nhưng đối với Niết-bàn có thể chẳng thủ chứng, thì đó là tướng Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Phật thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn Đại chúng vây quanh, hoặc thấy tự thân có việc như thế thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Phật đủ các tướng tốt, có hào quang chiếu sáng rực rỡ bao chung quanh một tầm, cùng vô lượng chúng phóng lên hư không, hiện các đại thần thông, giảng thuyết các điều cốt yếu của chánh pháp và hóa làm người biến hóa, bảo đi đến vô biên cõi Phật ở phương khác làm các Phật sự. Hoặc thấy tự thân có việc như thế thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy kẻ giặc dữ phá hoại thành ấp, hoặc thấy lửa cháy bùng lên thiêu đốt xóm làng, hoặc thấy thú dữ muốn đến hại mình, hoặc thấy oan gia muốn chém đầu mình, hoặc thấy cha mẹ sắp chết, hoặc thấy mình bị các việc khổ đến bức bách…; tuy thấy các việc sợ hãi như thế nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng lo buồn, khi thức dậy luôn tư duy đúng đắn: Ba cõi chẳng chơn thật, đều như chiêm bao. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ thuyết pháp cho các hữu tình biết ba cõi đều là hư vọng, đều như cảnh chiêm bao, thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng thấy có các loài hữu tìnhcảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, liền nghĩ: Ta phải siêng năng tu hạnh Bồ-tát, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở trong cõi Phật của ta không có những cảnh giới và tên xấu ác như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ… Khi thức dậy cũng nghĩ như thế. Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát ấy khi thành Phật, quốc độ thanh tịnh, không có nẻo ác và tên của cõi kia, thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát trong giấc mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v..., hoặc lại thấy thiêu đốt xóm làng, thành ấp, liền phát nguyện: “Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển thì nguyện lửa dữ này tắt ngay, biến thành mát mẻ.” Khi Bồ-tát này khi phát nguyện như thế, trong giấc mộng thấy lửa lập tức tắt ngay, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này khi phát nguyện như thế mà trong giấc mộng thấy lửa chẳng tắt ngay, thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Khi thức dậy, thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, theo nguyện, lửa tắt hay chẳng tắt cũng như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, liền nghĩ: Nếu ta thật có tướng Bất thối chuyển thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ. Nghĩ xong, nói ra nhưng lửa chẳng tắt ngay, lại còn thiêu đốt từ làng này lan qua làng khác, hoặc thiêu đốt từ nhà này lan qua nhà khác. Lần lượt như thế lửa đó mới tắt, thì nên biết các Bồ-tát này cũng đã được thọ ký Bất thối chuyển, nhưng bị thiêu đốt là do ương họa của hủy báng chánh pháp còn lại, hoặc biểu hiện tướng khổ của hủy báng chánh pháp ở tương lai.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát thấy có nam tử hoặc nữ nhơn đang bị phi nhơn mê hoặc, chịu các khổ não, chẳng thể xa lìa, liền nghĩ: Nếu các đức Như Lai biết ta đã được ý muốn thanh tịnh, biết ta đã được thọ ký Bất thối chuyển, đã xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v..., chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nguyện các ngài rủ lòng thương xót, soi xét tâm niệm của ta đã nghĩ. Nếu ta thật có thể tu hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp dứt khổ sanh tử cho hữu tình thì nguyện nam tử hoặc nữ nhơn này chẳng bị phi nhơn làm não loạn. Chúng theo lời ta nói sẽ lập tức bỏ đi. Các Bồ-tát này khi nói như thế, nếu phi nhơn kia chẳng chịu bỏ đi thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu phi nhơn kia lập tức bỏ đi, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát thật chưa được thọ ký đắc Bất thối chuyển, thấy nam tử hoặc nữ nhơn đang bị phi nhơn mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa, bỗng dưng liền phát lời chân thật, chí thành: “Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển thì khiến cho nam tử hoặc nữ nhơn này chẳng bị phi nhơn làm rối loạn. Phi nhơn vâng theo lời ta sẽ nhanh chóng bỏ đi.” Khi ấy, ác ma vì dối gạt người kia nên liền xua đuổi, hối thúc, làm cho phi nhơn lập tức bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma mạnh hơn phi nhơn, nên phi nhơn vâng lời ma lập tức bỏ đi. Khi ấy Bồ-tát kia nghĩ: Phi nhơn bỏ đi là nhờ oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn kia vâng theo lời thệ nguyện của ta, lập tức buông thả những nam tử, nữ nhơn này, chứ không do nguyên nhân nào khác. Các Bồ-tát này chẳng thể biết rõ được là việc làm của ma, mà bảo là do năng lực của mình, sanh tăng thượng mạn, khinh chê các Bồ-tát khác. Nên tuy siêng năng tinh tấn nhưng hoàn toàn chẳng thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rơi vào hàng Nhị thừa, luôn bị ác ma mê hoặc. Do đó Bồ-tát nên hiểu biết rõ về việc tu các thiện nghiệp của các ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát thật chưa được thọ ký đắc Bất thối chuyển, xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên chưa khỏi bị ma dối gạt. Nghĩa là có các ác ma vì muốn lừa gạt nên phương tiện biến hóa ra các thứ hình tướng, đi đến chỗ Bồ-tát nói thế này: “Bạn có biết không? Chư Phật quá khứ đã từng thọ ký cho bạn đại Bồ-đề. Tên tuổi sai khác trong bảy đời của bạn cho đến quyến thuộc, ta đều biết hết. Bạn sanh ở phương đó, nước đó, thành đó, ấp đó, trong xóm làng đó. Bạn sanh năm đó, tháng đó, ngày đó, giờ đó, sanh vào ngôi sao của Thiên vương đó…”

Như thế, ác ma nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh yếu đuối, các căn ám độn, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước bẩm thọ căn tánh đã từng như thế.”

Nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh kiên cường, các căn sáng suốt, lanh lợi, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước cũng từng như thế.”

Nếu thấy Bồ-tát đầy đủ các công đức Đầu-đà và hạnh thù thắng khác, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước cũng từng như thế, đầy đủ các công đức, nên tự vui mừng, chớ nên tự khinh.”

Bấy giờ, các Bồ-tát kia nghe ác ma nói về các công đức quá khứ, hiện tại của mình, vui mừng hớn hở, sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác. Ác ma biết xong, lại bảo: “Bạn nhất định thành tựu công đức thù thắng, chư Phật đã thọ ký cho bạn đại Bồ-đề nên đã có tướng điềm lành thù thắng hiện tại hiện ra như thế.”

Ác ma vì làm rối loạn nên lại dối hiện làm các thứ hình tướng, đi đến chỗ Bồ-tát tỏ vẻ thân ái, nói: “Bạn nay đã đủ đức Bất thối chuyển, nên tự kính trọng, chớ nên tôn kính người.” Khi Bồ-tát này nghe những lời của ác ma xong, lòng tăng thượng mạn lại càng vững chắc thêm, khiến cho vốn đã xa trí nhất thiết trí lại càng xa hơn. Cho nên, Bồ-tát muốn đắc Bồ-đề phải biết rõ về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chẳng thể biết rõ danh tự thật tướng, chỉ nghe danh tự hư dối, sanh chấp trước. Có ác ma phương tiện biến hóa các thứ hình tướng, đến bảo Bồ-tát: “Sự tu hành của bạn, hạnh nguyện đã viên mãn, không lâu sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Khi bạn thành Phật sẽ được danh hiệu tôn quícông đức thù thắng như thế.” Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này luôn luôn ước nguyện: Khi ta thành Phật sẽ được danh hiệu tôn quí như thế, nên ác ma theo ước nguyện đó mà thọ ký cho. Khi ấy, Bồ-tát này vì xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghe ma thọ ký nên suy nghĩ: Lạ thay! Người này thọ ký cho ta sẽ thành Phật với danh hiệu tôn quý, tương ưng với ước nguyện từ lâu của ta. Vậy chắc chắn ta sẽ thành Phật với danh hiệu tôn quý hơn người khác. Ác ma thọ ký danh hiệu cho người kia như thế, như thế… Vì vậykiêu mạn tăng mãi, khinh miệt các Bồ-tát có thật đức khác. Do đó càng xa lìa Vô thượng Bồ-đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.

Các Bồ-tát này hoặc có thân như thế, gần gũi bạn lành, chí thành sám hối, tuy trôi lăn trải qua nhiều đời sanh tử, nhưng cuối cùng sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Hoặc có thân này, chẳng gặp bạn lành chí thành sám hối thì người kia nhất định trôi lăn sanh tử, nhiều đời ngu si điên đảo. Về sau mặc dù có tinh tấn tu các nghiệp lành nhưng vẫn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, kiêu mạn khinh chê các Bồ-tát khác, như thế tội nặng hơn tứ trọng và ngũ vô gián gấp vô lượng lần. Thế nên Bồ-tát phải hiểu rõ về sự thọ ký với danh hiệu hư dối v.v... là việc làm vi tế của ma, không nên kiêu mạn khinh chê Bồ-tát khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát ở núi rừng, đồng hoang, tu hạnh viễn ly. Bấy giờ có ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó, cung kính khen ngợi, nói thế này: “Đại sĩ thường tu hạnh chơn thật viễn ly, hạnh viễn ly này Hiền Thánh khen ngợi, chư Thiên, long thần đều bảo vệ.”

Thiện Hiện nên biết! Ta chẳng khen ngợi hạnh viễn ly này cho là chơn thật.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Hạnh viễn ly này nếu chẳng phải chơn thật thì còn có hạnh nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát ở thành ấp, hoặc ở núi rừng, đồng hoang, chỉ xa lìa phiền não, tác ý Nhị thừa, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì gọi là hạnh chơn viễn ly của Bồ-tát. Hạnh viễn ly này chư Phật Thế Tôn chấp nhận, khen ngợi. Bồ-tát nên học, làm cho các Bồ-tát mau chứng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Ma khen ngợi người thường ở núi rừng, đồng hoang, ngồi yên tịnh tư duy, nhưng còn xen tạp phiền não, tác ý Nhị thừa, xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Có các Bồ-tát tuy ưa tu hành pháp hạnh viễn ly, được ma khen ngợi mà sanh lòng khinh miệt các Bồ-tát khác thường ở xóm làng thành ấp tu hạnh chơn viễn ly, thì Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy trải qua thời gian lâu ở núi sâu, đồng hoang, tu hạnh viễn ly, nhưng chẳng biết rõ pháp chơn viễn ly, tăng thêm kiêu mạn, càng sanh ưa đắm địa vị Nhị thừa, hoàn toàn chẳng thể đắc Vô thượng Bồ-đề, chẳng phải là điều Phật Thế Tôn khen ngợi, chấp nhận; cũng chẳng phải chỗ nên tu hành của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Ta khen ngợi pháp chơn tịnh viễn ly của các chúng Bồ-tát. Các Bồ-tát này hoàn toàn chẳng thành tựu hạnh ấy. Ở trong hạnh chơn tịnh viễn ly cũng chẳng thấy có hành tướng tương tợ, nhưng các ác ma vì lừa gạt Bồ-tát kia, làm cho sanh kiêu mạn, khinh Bồ-tát khác, nên đi đến trong không trung ân cần khen ngợi: Đây là pháp hạnh chơn tịnh viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này ở núi rừng, đồng hoang nhưng tâm náo loạn, chẳng thể tu học hạnh chơn viễn ly. Có các Bồ-tát tuy ở xóm làng, thành ấp nhưng tâm tịch tĩnh, thường hay tu học hạnh chơn viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với các chúng Bồ-tát thường tu học hạnh chơn viễn ly, khinh chê hủy báng như kẻ hàng thịt; còn đối với các chúng Bồ-tát chẳng thể tu học hạnh chơn viễn ly thì cung kính, cúng dường, tôn trọng như Phật Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát sanh các thứ phân biệt chấp trước, nghĩ: Sự tu học của ta là chơn viễn ly, nên được phi nhơn đi đến chỗ ta khen ngợi, hộ niệm. Người ở thành ấp thân tâm rối loạn, ai mà hộ niệm, khen ngợi, kính trọng! Các Bồ-tát này tâm nhiều kiêu mạn, ác nghiệp phiền não ngày đêm tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với chúng Bồ-tát là kẻ hàng thịt, làm nhơ nhớp chúng Đại Bồ-tát, cũng là kẻ giặc lớn trên cõi trời, trong loài người; dối gạt trời, người, A-tố-lạc v.v... Thân tuy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm thường ưa ôm ấp ý như kẻ giặc. Những bậc phát tâm hướng đến Bồ-tát thừa thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường họ. Vì sao? Vì những hạng người này ôm lòng tăng thượng mạn, bề ngoài thì giống như Bồ-tát nhưng bên trong lại nhiều phiền não, ác nghiệp dẫy đầy.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát chân thật chẳng bỏ trí nhất thiết trí, cầu chứng Vô thượng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho khắp tất cả loài hữu tình thì không nên gẫn gũi hạng người ác như thế.

Thiện Hiện nên biết! Các chúng Đại Bồ-tát phải thường tinh tấn tu sự nghiệp chơn tịnh, nhàm lìa sanh tử, chẳng đắm trước ba cõi, đối với hạng người hàng thịt và ác tặc kia luôn phát tâm từ bi hỷ xả, nghĩ: Ta chẳng nên phát khởi tội lỗi như kẻ ác kia. Giả sử lúc bị thất niệm, thoáng khởi lên như họ, liền tỉnh giác trừ diệt.

Thế nên Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải tỉnh giác biết rõ việc của các ác ma, siêng năng tinh tấn xa lìa, trừ diệt tội lỗi như Bồ-tát kia đã tạo, siêng năng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các Bồ-tát học như thế thì chính là khéo tỉnh giác về việc làm của ma.

Quyển thứ 563
HẾT

 
XX. PHẨM THẮNG Ý LẠC

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát với ý muốn thù thắng, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì thường nên gần gũi cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi bạn lành chơn tịnh.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những ai là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Chư Phật đều là bạn lành của Bồ-tát. Nếu người nào có thể tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo truyền trao cho các chúng Bồ-tát, làm cho ngộ nhập pháp môn sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng được gọi là bạn lành của Bồ-tát. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết cũng là bạn lành của Bồ-tát. Như vậy, sáu pháp Ba-la-mật-đa là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay về, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các Bồ-tát. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba-la-mật-đa mà được thành tựu sự nghiệp công đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa như thế có khả năng thu nhiếp, hộ trì khắp tất cả Phật pháp.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên học sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán sát nghĩa lý, kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cầu xin xác quyết điều nghi ngờ. Vì sao? Vì kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể làm tôn chỉ, làm người dẫn đường, làm mẹ sinh đẻ nuôi dưỡng cho sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát muốn được hạnh không theo người khác chỉ dạy, muốn trụ bậc không theo người khác chỉ dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện cho tất cả hữu tình, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy gì làm tướng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô ngại làm tướng.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhiều nhân duyên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có tướng vô ngại; tất cả các pháp khác cũng có được chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có nhân duyên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có tướng vô ngại, các pháp khác cũng có thể nói là có. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là Không, viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều là Không, viễn ly, thì tại sao hữu tình có nhiễm, có tịnh? Vì sao? Vì chẳng phải pháp Không, viễn ly có thể nói có nhiễm có tịnh, chẳng phải pháp Không, viễn ly có thể chứng Bồ-đề, chẳng phải lìa pháp Không, viễn ly, riêng có pháp có thể đắc. Làm sao để con hiểu được nghĩa như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hữu tình thường có ngã v.v... và tâm chấp ngã v.v... không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hữu tình do chấp ngãngã sở mà có Không, viễn ly phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hữu tình do chấp ngã, ngã sở nên lưu chuyển sanh tử phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hữu tình lưu chuyển sanh tử như thế nên tạo ra có tạp nhiễmthanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nên nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó chẳng có sự tạp nhiễm. Do các hữu tình không chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh, nhưng ở trong đó chẳng có sự thanh tịnh.

Thế nên, này Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp đều Không, viễn ly, nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ-tát luôn thực hành như thế thì gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Tuy tất cả pháp đều Không, viễn ly, nhưng các hữu tình có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ-tát có thể hành như thế thì chẳng hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức; thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... đều chẳng thể chế phục, hơn tất cả hạnh tu hành của Thanh vănĐộc giác, đạt đến chỗ không gì hơn.

Các Đại Bồ-tát này do tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nên ngày đêm an trú phương tiện thiện xảo, hướng thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này đồng một lúc đều được thân người, rồi đều phát tâm Bồ-đề, trọn đời bố thí; lại đem việc bố thí này hồi hướng Bồ-đề. Do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Rất nhiều! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu có Bồ-tát dù chỉ một ngày an trụ tác ý tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Bồ-tát như thế, đúng như thật an trụ tác ý tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, như thế thì có thể làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Do Bồ-tát này phát sanh tâm từ nên các loài hữu tình không ai bằng, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Bồ-tát như thế đầy đủ trí tuệ thù thắng vi diệu. Do trí tuệ thù thắng vi diệu nên thấy các hữu tình chịu khổ não lớn như bị hình phạt chém giết, sanh lòng đại bi. Lại dùng thiên nhãn thấy loài hữu tình lãnh thọ nghiệp vô gián, đọa chốn vô gián, chịu các khổ não, hoặc bị lưới tà kiến phủ che, chẳng thấy được đường chánh. Thấy xong thương xót, càng sanh lòng nhàm chán, sợ hãi duyên khắp tất cả hữu tìnhthế gian, khởi tác ý tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm bậc thầy dẫn đường lớn để cho tất cả hữu tình thoát khỏi các khổ. Mặc dầu nghĩ như thế nhưng không an trú tưởng này, cũng chẳng an trú tưởng khác. Như thế gọi là Bồ-tát có ánh sáng trí tuệ lớn.

Do an trú trên sự an trú này nên có thể làm ruộng phước cho tất cả thế gian. Tuy chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng đối với Bồ-đề không còn thối chuyển, có thể thọ nhận tất cả sự cúng dường của thí chủ. Bồ-tát như thế là an trú Bát-nhã ba-la-mật-đa, đã có thể đền ơn thí chủ một cách trọn vẹn, cũng gần gũi trí nhất thiết trí.

Thế nên, Bồ-tát muốn chẳng nhận lãnh sự cúng dường của tín thí thế gian một cách hư dối, muốn chỉ dạy con đường chơn tịnh cho hữu tình, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, muốn làm ánh sáng lớn cho thế gian, muốn giải thoát cho hữu tình ra khỏi lao ngục sanh tử, muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh, thì thường nên an trú tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Do tác ý này nên nói ra điều gì cũng đều tương ưng với nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các tác ý khác không bao giờ khởi lên. Vì sao? Vì Bồ-tát tác ý tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tiếp nối lưu chuyển.

Ví như có người trước kia chưa từng có ngọc báu mạt-ni, sau có được, hoan hỷ vui mừng, nhưng gặp duyên bị mất, lòng rất buồn khổ, luôn nhớ nghĩ than tiếc khôn nguôi, suy nghĩ nên tìm phương kế gì để được lại ngọc ấy. Do đó người kia luôn nhớ nghĩ đến ngọc báu này không lúc nào quên. Bồ-tát cũng thế, thường an trú tác ý tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu chẳng an trú tác ý như thế thì làm tiêu tan mất tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và các tác ý đều lìa tự tánh thì vì lẽ gì Bồ-tát chẳng lìa tác ý tương ưng trí nhất thiết trí của Bát-nhã?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát biết tất cả pháp và các tác ý đều lìa tự tánh thì các Bồ-tát chẳng lìa trí nhất thiết trí của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của Bát-nhã sâu xa và các tác ý, tự tánh đều Không, không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh thường là Không, không tăng, không giảm thì làm sao Bồ-tát tăng trưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa để có thể gần gũi Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết tất cả pháp không tăng, không giảm thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không tăng, không giảm. Nếu các Bồ-tát có thể nghe biết tất cả pháp không tăng, không giảm như thế mà chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, thì các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã đạt đến rốt ráo, an trụ địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Không, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Không mà có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đahành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có pháp có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đahành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đahành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải xa lìa Không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đahành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì Bồ-tát dùng những pháp nào để có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và hành Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đahành Không chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có Bát-nhã ba-la-mật-đa và thấy có Không là chỗ hành của các Bồ-tát chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp mà ông không thấy, pháp này có thể đắc được chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp chẳng thể đắc đó có sanh chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có thật tướng của pháp mà ông chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu nhẫn như thế thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng gọi là đạo Vô sở úy của Như Lai. Nếu các Bồ-tát siêng năng hành đạo này mà chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trí đại, trí diệu, trí tự nhiên, trí nhất thiết trí và trí Như Lai thì không có lẽ đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát vì các pháp vô sanh mà được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải vậy.

- Bạch Thế Tôn! Nếu thế thì làm sao các Bồ-tát có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp để thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không! Con chẳng thấy có pháp có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật, cũng chẳng thấy có người có thể chứng đắc quả vị giác ngộ của Phật, thời gian chứng, nơi chốn chứng và do đây chứng, hoặc có pháp được chứng cũng đều chẳng thấy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì tất cả pháp bất khả đắc nên chẳng nên nghĩ: đây là năng chứng, đây là sở chứng quả vị giác ngộ của Phật.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, rốt ráo xa lìa, chẳng phải với chút ít căn lành mà các loài hữu tình có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng.

Bấy giờ Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này đều thành tựu mười thiện nghiệp đạo, phước như thế so với phước đạt được của người có thể biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.

Khi ấy có Bí-sô bảo với trời Đế Thích:

- Nếu có người biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đạt được công đức hơn ngài?

Trời Đế Thích thưa:

- Các loài hữu tình kia chỉ cần khi mới phát tâm đầu tiên, còn hơn tôi, huống là biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bí-sô nên biết! Loài hữu tình đó chính là Bồ-tát. Bồ-tát ấy đạt được lượng phước hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... Lượng phước mà Bồ-tát ấy đã đạt được cũng hơn tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác; cũng hơn tất cả Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tu hạnh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Ba-la-mật-đa và các công đức khác.

Bí-sô nên biết! Nếu các Bồ-tát đúng như lời dạy dùng phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... Thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... đều nên cúng dường. Vì sao? Vì các Bồ-tát này có thể đúng theo như lời dạy mà tu hành rốt ráo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Bồ-tát này có thể tiếp nối chủng tánh trí nhất thiết trí không mất, thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường không xa lìa tòa Bồ-đề vi diệu, thường có thể cứu vớt các loài hữu tình chìm đắm trong bùn sanh tử.

Các Bồ-tát này khi tu học như thế, thường học pháp cần nên học của Bồ-tát, chẳng học pháp nên học của Nhị thừa. Các thiên thần v.v... thường theo ủng hộ, bốn Đại Thiên Vương đi đến chỗ của người đó cung kính, cúng dường, đồng thưa: “Lành thay Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn tu học pháp cần nên học của chúng Bồ-tát, sẽ mau được an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như Thiên vương xưa kia dâng bốn bát, con cũng sẽ dâng.”

Bí-sô nên biết! Đối với các Bồ-tát này, Thiên Đế chúng con còn đi đến chỗ của vị ấy cung kính, cúng dường, huống là các thiên thần khác.

Bí-sô nên biết! Các Bồ-tát này khi học như thế, tất cả Như Lai và các Bồ-tát, chư thiên, rồng v.v... thường theo hộ vệ. Do nhân duyên này, tất cả hiểm nạn nguy khốn ở thế gian làm cho thân tâm buồn khổ chẳng thể làm tổn hại, cũng chẳng có thể phát sanh các thứ bệnh.

Bí-sô nên biết! Các Bồ-tát này đạt được những lợi ích thù thắng hiện tại như thế, và công đứcđời sau thì vô lượng vô biên.

Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Thiên chủ Đế Thích tự mình có biện tài khen ngợi công đức của Bồ-tát như thế, hay là nhờ oai thần của Như Lai gia bị?

Trời Đế Thích nương oai thần của Phật, biết được ý nghĩ của A-nan-đà, nên bạch:

- Thưa Đại đức! Chẳng phải biện luận tài của tôi mà nhờ oai thần của Như Lai gia bị.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Hôm nay trời Đế Thích nương oai thần của Phật nên có thể nói như thế.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu lúc Bồ-tát tư duy, tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì khi ấy tất cả ác mathế giới Tam thiên đại thiên đều sanh tâm nghi ngờ, sợ hãi nghĩ: Các Bồ-tát này đang ở giai đoạn chứng Niết-bàn, hay thối lui vào địa vị Nhị thừa, hay là thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm cảnh giới của ta trống không.

 
XXI. PHẨM TU HỌC

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngày đêm siêng năng thường không lìa bỏ thì lúc ấy quyến thuộc của ma như bị tên găm vào tim, run sợ lo buồn, hoảng hốt, ngồi đứng chẳng yên.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngày đêm tinh chuyên sẽ đạt đến Niết-bàn, thì lúc ấy quyến thuộc của ma đi đến chỗ của Bồ-tát, biến làm các sự việc đáng sợ, muốn làm cho thân tâm Bồ-tát khủng khiếp, kinh sợ, đủ để thối lui dần tâm Đại Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa đều bị ác ma làm rối loạn hết cả. Nếu các Bồ-tát nào đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì các Bồ-tát ấy khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghi ngờ do dự là có hay không có, thì các Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát xa lìa bạn lành, bị bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do chẳng nghe nên chẳng thấy, chẳng biết làm thế nào để tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát bị pháp tà khống chế, khi ấy ác ma liền nghĩ: Bồ-tát này là bạn của ta, làm cho vô lượng người xả bỏ chánh pháp, làm cho nguyện của ta được viên mãn, thì các Bồ-tát này tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bảo với các Bồ-tát khác: “Bát-nhã ba-la-mật-đa này lý thú sâu xa, khó tin khó hiểu, như thế thì biên chép, thọ trì, đọc tụng mà làm gì? Nguồn gốc này chính ta còn chẳng thể đạt được, huống là những người trí cạn phước mỏng kia”, thì các Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát khinh chê Bồ-tát khác, nói thế này: “Ta có thể an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều chẳng có.” Bấy giờ ác ma vui mừng hớn hở thì các Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi các Bồ-tát tự ỷ vào tên tuổi, dòng họcông đức tu hạnh Đầu-đà của mình, mà khinh miệt các chúng Bồ-tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng chê bai các vị khác. Họ thật không có các tướng hành trạng của Bất thối chuyển mà cho mình có, nên phát sanh phiền não. Khi ấy, ác ma rất vui mừng, nghĩ: Bồ-tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, mà còn tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Khi ấy ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy lực biện tài, do đó được nhiều người tin nhận lời của người kia. Nhân đó, khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não thêm mạnh, vì tâm điên đảo nên phát sanh ba nghiệp, luôn nhận quả chẳng đáng ưa. Do nhân duyên này thêm nẻo ác, làm cho cung điện của ma càng thêm đông đảo. Cho nên ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm điều gì đều tùy ý tự tại, thì các Bồ-tát này tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ-tát cầu Thanh văn, Độc giác thừa, chê bai, gây gỗ, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma nghĩ: Nay Bồ-tát này tuy xa Bồ-đề nhưng chẳng xa lắm, tuy gần nẻo ác nhưng chẳng gần lắm. Nếu khi Bồ-tát cùng với thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, chê bai gây gỗ, phỉ báng nhau thì khi ấy ác ma nghĩ: Hai Bồ-tát này rất xa Bồ-đề, rất gần nẻo ác. Nghĩ xong, ma rất vui mừng hớn hở và oai lực của chúng tăng thêm, làm cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn chẳng dứt, khiến vô lượng, vô biên hữu tình khác đều rất nhàm chán Đại thừa. Các Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển Bồ-đề, đối với các Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ-đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, chê bai, mắng nhiếc, phỉ báng, tùy theo các Bồ-tát này phát khởi bao nhiêu tâm niệm chẳng lợi ích thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, lại chịu bấy nhiêu đời sanh tử ràng buộc. Nếu chẳng xả bỏ tâm Đại Bồ-đề thì trở lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, rồi sau mới được bù đắp lại bấy nhiêu công đức.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này đã phát khởi tâm ác sanh tử tội khổ, thì cần phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi? Các Bồ-tát này bị thối lui thắng hạnh thì cần phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp không lúc nào gián đoạn, rồi sau đó mới được bù đắp hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như trước?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn nói cách xuất tội và phục hồi lại thiện pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát sau khi tạo tội này mà tâm không hổ thẹn, ôm ấp ác không bỏ, chẳng chịu như pháp tỏ bày sám hối, thì Ta nói: hạng người ấy ở nửa chừng không có nghĩa xuất tội khổ và phục hồi thiện pháp. Nếu các Bồ-tát sau khi tạo tội này càng sanh lòng hổ thẹn, chẳng ôm ấp tâm ác, tìm người như pháp phát lồ sám hối, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi như thế, làm cho mất lợi hành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm tổn hại chúng! Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn khinh miệt, hủy nhục chúng! Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của tất cả hữu tình, sao lại đem lời nói và hành động tàn bạo đáp lại chúng! Ta nên hòa giải tất cả hữu tình, làm cho kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng! Ta nên chịu đựng tất cả hữu tình dẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như chiếc cầu, sao lại trở lại lăn nhục chúng! Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho đạt được Niết-bàn an vui rốt ráo, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt. Giả sử có bị chém đứt đầu, chân, cánh tay, hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia, ta quyết không khởi ác. Nếu ta khởi ác thì liền thối thất tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chướng ngại cho sự cầu trí nhất thiết trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình. Này Khánh Hỷ nên biết! Ta nói các Bồ-tát này nửa chừng có thể thoát khỏi tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng cần phải trải qua nhiều kiếp số như thế, chẳng bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các chúng Bồ-tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như thế, chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên cùng ở chung. Giả sử cùng ở chung với họ thì chẳng nên cùng họ bàn luận, xác quyết, lựa chọn nghĩa lý, chớ nhân việc này để tâm phát sanh giận dữ, hoặc lại phát sanh lời lẽ thô ác, chướng ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát cùng thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa cùng ở chung thì nên xem nhau như bậc Đại sư, cung kính, tôn trọng, vâng lời. Lại nghĩ: Chúng Bồ-tát kia là bạn lành chơn tịnh của chúng ta, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng đến một chỗ, đồng một sự nghiệp, cùng học một thời gian, cùng học một nơi chốn và học một giáo pháp. Nếu học như thế thì không khác nhau.

Lại nghĩ: Nếu Bồ-tát kia trụ ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ không học chung với Bồ-tát ấy. Nếu Bồ-tát kia lìa ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ thường cùng học tập với họ. Nếu có Bồ-tát khi học như thế thì mau chứng sở cầu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát vì tận nên học, vì bất sanh nên học, vì viễn ly nên học, vì diệt nên học, là học trí nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát khi học như thế thì chẳng phải học trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào, khi Bồ-tát học như thế, chẳng phải học trí nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Phật chứng chơn như rất viên mãn nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chơn như có thể gọi là tận cho đến diệt chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! không! Vì sao? Vì chơn như vô tướng, không thể nói là tận cho đến diệt vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên, Bồ-tát khi học như thế chẳng phải là học trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát chẳng vì tận nên học, cho đến chẳng vì diệt nên học, thì khi học như thế là học trí nhất thiết trí, cũng là học Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng học Địa, Lực, Vô sở úy v.v... của Phật và vô biên Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo của tất cả sự học. Thiên ma, ngoại đạo chẳng thể chinh phục; dứt trừ các điều ác, viên mãn các điều lành. Phần ít hữu tình có thể học như thế. Thế nên Bồ-tát muốn dự vào số hữu tình rất ít ấy thì phải siêng năng tu học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

 
XXII. PHẨM TRỒNG CĂN LÀNH

01

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì không phát sanh tâm tương ưng với nhu nhược, không phát sanh tâm tương ưng với keo kiệt, phạm giới, sân giận, lười biếng, tán loạn, ác tuệ, do dự.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì có thể bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa. Ví như thân kiến có thể bao gồm đầy đủ sáu mươi hai kiến. Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa. Giống như mạng căn có thể bao gồm khắp tất cả các căn khác, khi mạng căn diệt thì các căn cũng diệt theo. Cũng như thế, Bát-nhã ba-la-mật-đa bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa, nếu mất Bát-nhã ba-la-mật-đa thì mất tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể giữ gìn tất cả pháp lành thù thắng, có thể diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện. Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn giữ gìn tất cả Ba-la-mật-đa thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì thành tối tôn tối thắng đối với các hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Các hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên này có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ, số đó còn nhiều huống là trong cõi Tam thiên.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên đều thành Bồ-tát, mỗi một Bồ-tát này đều dùng nhạc cụ thượng diệu, trọn đời cúng dường tất cả hữu tình, thì theo ý ông thế nào? Các Bồ-tát này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu có Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa bằng khoảng khảy móng tay, phước của người đó còn hơn người kia vô lượng vô biên. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầy đủ lợi ích, có thể hộ trì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm thượng thủ của tất cả hữu tình, muốn lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm chỗ nương tựa cho tất cả hữu tình, muốn chứng viên mãn tất cả Phật pháp, muốn đi nơi cảnh giới chư Phật đã đi, muốn du hý chỗ Phật đã du hý, muốn rống tiếng đại Sư tử của chư Phật đã rống, muốn dùng một âm thanh tuyên thuyết chánh pháp cho tất cả hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên, làm cho tất cả đều đạt được lợi ích lớn, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Ta chưa từng thấy có các Bồ-tát nào tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chẳng đạt được công đức lợi ích thù thắng thế gianxuất thế gian.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lẽ nào cũng đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, các Bồ-tát cũng đều có thể đắc nhưng tâm không ưa thích an trú nơi đó, dùng cái thấy của thắng trí nên không quán sát điên đảo, vượt qua địa vị của Thanh vănĐộc giác, mở bày chỉ dạy cho hữu tình, khiến đều được chứng đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi học như thế thì chính là ruộng phước chơn tịnh của tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v..., vượt lên trên ruộng phước của các Thanh văn, Độc giácthế gian, mau có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, thường không xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bồ-tát nếu có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đã được Bất thối chuyển trí nhất thiết trí, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát nghĩ như vầy: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nên có thể phát sanh trí nhất thiết trí, thì các Bồ-tát này chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng thấy, chẳng biết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát chẳng nghĩ: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nên mới có thể phát sanh trí nhất thiết trí, thì các Bồ-tát này chính là người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng có thể biết, có thể thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng nghe, chẳng hiểu, chẳng biết Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thấy, nghe, hiểu biết các pháp và cũng chẳng phân biệt để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa còn hơn tất cả loài hữu tình, huống là chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nghe nói về danh tự của trí nhất thiết trí càng sanh tin hiểu, còn đạt được lợi lành trong loài người và được mạng sống tối thắngthế gian, huống là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc có thể lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các hữu tình này, thế gian rất kính mến nên có thể điều phục tất cả hữu tình.

Nghĩ như thế xong, liền hoá ra hương hoa vi diệu dâng lên đức Như Lai và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, phát nguyện:

- Nếu các Bồ-tát cầu thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì xin đem công đức căn lành đã phát sanh của con, nguyện cho người kia mau được viên mãn Phật pháp. Nguyện sự cầu pháp Nhất thiết trí và pháp vô lậu của người kia mau được viên mãn.

Phát nguyện như thế xong, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con hoàn toàn chẳng sanh một niệm khác làm cho người đó thối thất tâm Đại Bồ-đề. Con hoàn toàn chẳng sanh một niệm khác làm cho các Bồ-tát nhàm chán Đại Bồ-đề, lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác. Con hoàn toàn không phát sanh một niệm ý khác, làm cho các Bồ-tát thối thất tác ý tương ưng với đại bi. Nếu các Bồ-tát đã phát tâm lớn, con nguyện cho tâm của vị đó càng thêm tăng tiến. Nguyện cho Bồ-tát đó thấy các thứ khổ trong sanh tử xong, vì muốn lợi ích an vui cho thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v..., phát sanh vô số nguyện lớn bền vững: Con đã tự độ mình rồi, cũng phải siêng năng tinh tấn độ cho người chưa được độ. Con đã tự mình được giải thoát rồi, cũng phải siêng năng tinh tấn giải thoát cho người chưa được giải thoát. Con đã tự an ổn rồi, cũng phải siêng năng tinh tấn an ổn cho người chưa được an. Con đã tự mình chứng Niết-bàn rốt ráo rồi, cũng phải siêng năng tinh tấn làm cho người chưa chứng được chứng đắc Niết-bàn rốt ráo.

Bạch Thế Tôn! Nếu loài hữu tình đối với công đức của Bồ-tát mới phát tâm, hết lòng tùy hỷ thì được bao nhiêu phước? Đối với công đức của các Bồ-tát từ lâu đã phát tâm tu hành các thắng hạnh, đối với công đức của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, đối với công đức của Bồ-tát chỉ còn ràng buộc một đời, hết lòng tùy hỷ thì được bao nhiêu phước?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có thể biết được số cân lượng của núi Diệu Cao (Tu-di), nhưng chẳng thể biết được phước đức của loài hữu tình do tâm tùy hỷ phát sanh này, cho đến có thể biết được số cân lượng của thế giới Tam thiên đại thiên, song chẳng thể biết được phước đức của loài hữu tình do đồng lòng tùy hỷ sanh ra này.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình đối với các Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến được thành Phật, chẳng thể sanh tâm tùy hỷ đối với công đức căn lành của vị ấy, hoặc chẳng nghe, chẳng biết về công đức tùy hỷ của người kia, thì nên biết những người như thế đều đã bị ma khống chế, bị ma mê hoặc, là bạn bè của ma, từ cõi Thiên ma chết rồi sanh đến nơi này. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát đắc Bất thối chuyển, đạt đến địa vị cứu cánh; lại có người có thể đối với người kia phát sanh tâm tùy hỷ thì nhất định có thể phá hoại được quyến thuộc của chúng ma, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu các hữu tình hết lòng kính mến Phật, Pháp, Tăng bảo, bất kỳ ở chỗ nào cũng thường muốn thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng thì đối với công đức căn lành của các Bồ-tát càng nên tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, chẳng sanh chấp trước. Nếu có thể thường được như thế thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phá dẹp chúng ma, lợi ích an vui cho hữu tình.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các Bồ-tát, hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì mau có thể viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì các hữu tình này đầy đủ thế lực lớn, thường có thể phụng thờ chư Phật Thế Tôn, biết rõ nghĩa lý của kinh điển sâu xa, bất kỳ sanh ở chỗ nào, tất cả thế gian đều cung kính cúng dường, chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe tiếng không hay, chẳng ngửi mùi hôi, chẳng nếm vị dở, chẳng xúc chạm ô nhiễm, chẳng tư duy pháp ác, chẳng thấy nẻo ác, sanh trong trời, người thường nhận sự vui thù thắng.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các hữu tình này có thể đối với vô lượng công đức của Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, căn lành tăng trưởng, mau có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi ích an vui cho vô lượng vô số hữu tình, làm cho trụ cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho vô biên các loài hữu tình.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tâm đã như huyễn thì làm sao Bồ-tát có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có tâm như huyễn chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có huyễn chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu chẳng thấy huyễn, chẳng thấy tâm như huyễn, hoặc cái không thấy huyễn, không thấy tâm như huyễn, ông thấy có tâm như thế thì có thể đắc Bồ-đề chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu lìa chỗ huyễn, lìa tâm như huyễn, ông thấy có pháp như thế có thể đắc Bồ-đề chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! không! Con hoàn toàn chẳng thấy ngay nơi pháp lìa tâm có những pháp nào hoặc có hoặc không. Vì tất cả pháp hoàn toàn ly, nên chẳng thể trình bày là có hay là không. Nếu pháp chẳng thể trình bày là có hay là không, thì chẳng thể nói có thể đắc Bồ-đề, chẳng phải pháp không sở hữu có thể đắc Bồ-đề. Do đó, Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng hoàn toàn ly, nên chẳng nên tu tập hay lìa bỏ, cũng không nên có sự phát sanh, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng hoàn toàn ly, thì làm sao có thể nói các chúng Bồ-tát y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chứng Bồ-đề. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đúng ra chẳng thể nói có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì pháp ly không thể đắc được pháp ly vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều hoàn toàn ly Vô thượng Bồ-đề, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn ly, nên đắc Vô thượng Bồ-đề hoàn toàn ly. Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải hoàn toàn ly thì chẳng phải đúng là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thế nên, này Thiện Hiện! Chẳng phải chẳng y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà đắc Đại Bồ-đề. Tuy chẳng phải pháp ly có thể đắc pháp ly nhưng đắc Bồ-đề. Chẳng phải chẳng nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà đắc Đại Bồ-đề. Thế nên, Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Quyển thứ 564
HẾT

 

02

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này hành nghĩa sâu xa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các Bồ-tát này hành nghĩa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này có thể làm việc khó làm. Đó là ý nghĩa đã hành tuy rất sâu xa, nhưng đối với pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác có thể chẳng chứng đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Theo con hiểu nghĩa Phật dạy: Việc làm của các Bồ-tát này chẳng khó, chẳng nên nói các Bồ-tát ấy có thể làm việc khó làm. Vì sao? Vì nghĩa sở chứng sâu xa của Bồ-tát này đã bất khả đắc, nên năng chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng bất khả đắc. Nếu các Bồ-tát nghe lời này, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này khi hành như thế chẳng thấy các tướng, cũng chẳng thấy ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa để gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v....

Các Bồ-tát này đối với việc như thế cũng chẳng phân biệt. Ví như hư không, chẳng nghĩ: Ta cách vật kia hoặc xa, hoặc gần. Vì sao? Vì hư không không động, không phân biệt vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, chẳng nghĩ: Thanh văn, Độc giác xa ta, Vô thượng Bồ-đề gần ta. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Ví như người biến hóa chẳng nghĩ: Chất huyễn, thầy huyễn gần ta. Chúng bàng quan v.v... cách xa ta. Vì sao? Vì người huyễn không phân biệt vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng thế, chẳng nghĩ: Thanh văn, Độc giác cách xa ta, Vô thượng Bồ-đề gần ta. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt tất cả pháp vậy.

Nên biết! Các dụ về bóng hình cũng như thế, giống như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không ưa không ghét tất cả pháp. Vì sao? Vì Như Lai đoạn trừ hẳn tất cả phân biệt về thương ghét vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng thế, không ưa không ghét tất cả pháp. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều dứt hẳn tất cả phân biệt vậy.

Ví như người được Như Lai biến hóa ra, tuy có hành động nhưng không phân biệt. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, mặc dù có thể thành tựu sự nghiệp đã làm nhưng không phân biệt. Ví như có người thợ khéo chế tạo ra các loại người máy, hoặc nam hoặc nữ v.v... Các người máy này tuy có hành động nhưng không phân biệt. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, tuy có làm các thứ việc cần làm nhưng không phân biệt.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp bền chắc hay là hành pháp chẳng bền chắc?

Thiện Hiện thưa:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp không bền chắc, không hành pháp bền chắc.

Khi ấy có vô lượng thiên tử cõi Dục nghĩ: Nếu các Bồ-tát có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì mặc dù hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng thường chẳng chứng đắc Niết-bàn, chẳng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên rất là hiếm có, thường làm được những việc khó làm, tất cả thế gian đều nên kính lễ.

Cụ thọ Thiện Hiện biết ý nghĩ của các Thiên tử nên bảo với họ:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng chứng Niết-bàn, chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác thì chẳng phải là việc hy hữu, chưa phải là việc khó làm. Nếu các Bồ-tát biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn chẳng có, đều bất khả đắcphát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng vô biên hữu tình, giúp vào cảnh giới Vô dư Bát Niết-bàn, thì đó mới thật là hy hữu, thường làm được việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Nếu các Bồ-tát mặc dù biết các pháp và các hữu tình đều bất khả đắc, nhưng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mặc giáp tinh tấn là vì muốn điều phục các loài hữu tình; như có người vì muốn điều phục hư không, mặc áo giáp bền chắc chiến đấu cùng hư không. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hư không viễn ly nên hữu tình cũng viễn ly. Hữu tình viễn ly nên áo giáp cũng viễn ly. Hữu tình viễn ly nên sự nhiêu ích cũng viễn ly. Hữu tình viễn ly nên năm uẩn cũng viễn ly. Hữu tình viễn ly nên tất cả pháp cũng viễn ly. Nếu các Bồ-tát nghe lời này, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, chẳng kinh, chẳng sợ, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì mà các Bồ-tát nghe lời như thế, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, chẳng kinh, chẳng sợ?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều viễn ly vậy, không sở hữu vậy. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đối với tất cả pháp hoặc chìm đắm v.v... hoặc bị chìm đắm v.v... hoặc nơi chốn chìm đắm, thời gian chìm đắm, người chìm đắm v.v... do đây chìm đắm v.v... đều không sở đắc. Do tất cả pháp bất khả đắc vậy. Nếu các Bồ-tát nghe việc như thế, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, chẳng kinh, chẳng sợ, thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát khi hành như thế thì các trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương v.v... chủ thế giới đều cùng kính lễ.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì chẳng phải chỉ thường làm cho các trời Đế thích, Đại Phạm Thiên Vương v.v... chủ thế giới đều cung kính đảnh lễ, mà các Bồ-tát này cũng được hơn thế nữa. Đó là trời Cực Quang Tịnh, hoặc trời Biến Tịnh, hoặc trời Quảng Quả, hoặc trời Tịnh Cư và trời, rồng, A-tố-lạc v.v... khác cũng đều kính lễ, cũng được chư Phật và Bồ-tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương đều hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này thường được chư Phật, các chúng Bồ-tát và các trời, rồng, A-tố-lạc v.v... nhớ nghĩ, bảo vệ. Công đức căn lành từng niệm từng niệm tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này đã trụ được địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát. Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới chư Phật như cát sông Hằng trong mười phương đều biến thành ma, các chúng ma này đều hóa làm chừng ấy ác ma. Các ác ma này đều có vô lượng vô biên thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm trở ngại các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc thối lui Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm trở ngại. Hai pháp đó là:

1- Quán sát tất cả pháp đều Không.

2- Không xả bỏ tất cả hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại. Hai pháp đó là:

1- Đúng như lời nói, có thể thực hành tất cả.

2- Thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát thành tựu hai pháp thù thắng như thế thì các thiên thần v.v... thường đến lễ kính, phát khởi sự siêng năng, tinh tấn, gần gũi, cúng dường, thưa hỏi, nói thế này:

“Lành thay Đại sĩ! Ngài có thể dùng phương tiện thiện xảo như thật hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau có thể an trụ địa vị trí tuệ của chư Phật, có thể làm chỗ nương tựa cho tất cả hữu tình không có nơi nương tựa, có thể cứu hộ kẻ không có người cứu hộ, có thể làm nhà cửa cho kẻ không có nhà cửa, có thể làm nơi hướng đến cho người không có nơi hướng đến, có thể làm hòn đảo cho người không có hòn đảo, có thể làm chỗ quay về nương tựa cho người không có nơi quay về nương tựa, có thể làm ánh sáng cho người tối tăm, có thể làm tai mắt cho người đui, điếc. Vì sao? Này thiện nam tử! Nếu ai có thể dùng phương tiện thiện xảo an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tất cả ác ma chẳng thể làm trở ngại.”

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát có thể an trụ đúng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì được chư Phật Thế Tônvô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức. Như Ta ngày nay, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán Bồ-tát Bảo Tràng và các Bồ-tát v.v... về danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức, đang an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tịnh tu phạm hạnhcõi Phật Bất Động.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều ở giữa chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán tất cả danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của Bồ-tát chăng?

Phật bảo:

- Chẳng phải vậy! Nếu các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có Bồ-tát nào chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mà được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, công đức chăng?

Phật dạy:

- Cũng có, đó là các Bồ-tát tuy chưa đắc Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng tu phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này cũng được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức. Như có Bồ-tát khi theo Phật Bất Động làm Bồ-tát, đã học việc tu và an trú sự thực hành để tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại có Bồ-tát theo Bồ-tát Bảo Tràng v.v... đã học việc tu và an trú sự thực hành để tu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì Bồ-tát ấy tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tánh vô sanh của tất cả pháp tuy rất tin hiểu nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn; đối với tánh rốt ráo Không của tất cả pháp, tuy rất tin hiểu nhưng chưa được tự tại; đối với địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát tuy an trụ tánh vắng lặng của các pháp, nhưng chưa được nhập vào địa vị Bất thối chuyển; các Bồ-tát này cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức, thì các Bồ-tát này vượt khỏi địa vị Nhị thừa, gần Đại Bồ-đề, hoặc đã được thọ ký Bất thối chuyển, hoặc sẽ gần được thọ ký Bất thối chuyển.

 
XXIII. PHẨM PHÓ CHÚC

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa, rất tin hiểu, không nghi, không ngờ, chẳng mê mờ, chẳng hoang mang, chỉ nghĩ: Lý thú như Phật đã dạy tất nhiên quyết định không điên đảo. Các Bồ-tát này quyết định sẽ ở chỗ Phật Bất Động và chỗ các Đại Bồ-tát nghe tất cả Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với nghĩa thú sâu xa có thể tin hiểu; tin hiểu rồi siêng năng tu phạm hạnh, sẽ được an trụ địa vị Bất thối chuyển; an trụ địa vị này rồi, mau chứng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ-tát chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là hết lòng tin hiểu, y như lời dạy tu hành, thì các Bồ-tát này gần Nhất thiết trí, an trụ chơn như, mau chứng Bồ-đề, tuyên thuyết pháp yếu.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp lìa chơn như không thể riêng đắc, thì nói pháp nào gần Nhất thiết trí, an trụ chơn như, người nào chứng Bồ-đề, người nào thuyết pháp yếu?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Pháp lìa chơn như, hoàn toàn không thể đắc, thì nói những pháp nào gần Nhất thiết trí, có thể an trụ chơn như, mau chứng Bồ-đề, tuyên thuyết pháp yếu! Tự tánh chơn như còn chẳng thể đắc, huống là có pháp khác có thể tạo tác. Nhưng vì thuận theo thế tục nên nói như thế.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế lý thú sâu xa, rất khó tin hiểu. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy biết các pháp đều chẳng thể đắc, nhưng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho hữu tìnhviệc làm rất khó. Các chúng Bồ-tát nghe nói lời này tâm chẳng chìm đắm, không nghi, không ngờ, chẳng mê mờ, cũng chẳng hoang mang, thì việc như thế rất là hy hữu.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Như lời ông nói: các chúng Bồ-tát nghe nói lời này tâm chẳng chìm đắm, không nghi, không ngờ, chẳng mê mờ, cũng chẳng hoang mang, thì việc như thế rất là hy hữu.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán các pháp đều Không, hoàn toàn không sở hữu thì ai chìm, ai đắm, ai nghi, ai ngờ, ai mê mờ, ai hoang mang? Thế nên việc này chưa phải là hy hữu, nhưng vì hữu tình ngu si điên đảo, chẳng thể thông đạt các pháp đều là Không, nên cầu Bồ-đề, muốn tuyên thuyết phương tiện thiện xảo cho họ thì chẳng phải là việc khó.

Trời Đế Thích thưa:

- Tôn giả Thiện Hiện! Những điều ngài nói ra đều y vào Không, thế nên những điều nói ra thường không ngăn ngại. Như có người đem mũi tên, ngửa mặt bắn lên hư không, hoặc gần hoặc xa đều không ngăn ngại.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì con và tôn giả Thiện Hiện đã luận bàn là thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy phápnói đúng chăng?

Thế Tôn bảo trời Đế Thích:

- Những sự luận bàn của ông và Thiện Hiện đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy phápluận bàn đúng. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiệnbiện tài mới trình bày được rằng không có gì là chẳng nương Không. Vì sao? Vì cụ thọ Thiện Hiện quán sát thấy tất cả pháp đều hoàn toàn Không. Bát-nhã ba-la-mật-đa còn chẳng đắc, huống là có người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trí nhất thiết trí còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc trí nhất thiết trí. Chơn như còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc chơn như, thành Như Lai. Tánh Vô sanh còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc tánh Vô sanh. Bồ-tát còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Bồ-đề Phật. Mười lực, bốn vô sở úy còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu mười lực, bốn vô sở úy. Pháp còn chẳng đắc, huống là có người thuyết pháp!

Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ, trụ viễn ly, trụ vô sở đắc. So với hạnh trụ vi diệu của các chúng Bồ-tát đã trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến vô số phần cũng chẳng bằng một.

Kiều-thi-ca! Vì sự an trụ hạnh trụ vi diệu Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Bồ-tát so với sự trụ của các Bồ-tát, Thanh văn, và Độc giác khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, chỉ trừ sự an trụ của Như Lai. Vì thế nên, này Kiều-thi-ca! Muốn là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong tất cả chúng hữu tình thì phải trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trong chúng có vô lượng vô số chư thiêncõi trời Ba mươi ba nghe pháp, hoan hỷ, đều đem hương hoa trời thượng diệu dâng lên Thế Tôn và các Bồ-tát. Sáu trăm Bí-sô đều từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ sát đất, chấp tay hướng về Phật, nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay của mỗi vị tự nhiên đầy dẫy hương hoa vi diệu. Chúng Bí-sô này vui mừng hớn hở, đều đem hoa này rải lên cúng Phật. Rải cúng hoa xong, đồng phát nguyện:

- Chúng con nhờ năng lực căn lành thù thắng này, nguyện thường an trụ hạnh vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn mỉm cười, như thường pháp của chư Phật, từ nơi miệng phóng ra các thứ hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích lục, màu kim ngân, pha lê chiếu khắp vô biên quốc độ của chư Phật, trên đến Phạm Thế, dưới thấu Phong luân (thế giới thấp nhất) và dần dần trở lại xoay quanh bên phải Phật ba vòng rồi nhập vào nơi đỉnh đầu.

A-nan-đà từ tòa đứng dậy lễ Phật, chấp tay bạch:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân nào, duyên nào mà Ngài hiện mỉm cười như thế?

Phật bảo A-nan-đà:

- Các Bí-sô này trong kiếp Tinh Dụ ở đời đương lai đều được thành Phật, đồng danh hiệuTán Hoa, đầy đủ mười hiệu. Số Thanh văn Tăng tất cả đều bằng nhau, tuổi thọ của Phật cùng đồng hai mươi ngàn kiếp, tùy theo ở chỗ nào trời đều mưa hoa năm sắc, do nhân duyên này nên Ta mỉm cười. Nếu các Bồ-tát muốn được an trụ Tối thắng trụ, thì phải trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát muốn được an trụ Như Lai trụ, thì phải trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát tinh tấn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa được rốt ráo thì các Bồ-tát ấy đời trước, hoặc từ trong loài người sanh trở lại nơi này, hoặc từ trên trời Đổ-sử-đa sanh lại nhơn gian. Vì sao? Vì hai chỗ này dễ hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải chỗ khác vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện thấy: Nếu các Bồ-tát siêng năng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không đoái hoài đến thân mạng, tài sản thì nhất định được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chỉ dạy, khuyến khích, dắt dìu, khen ngợi, chúc mừng thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v... thì các Bồ-tát ấy quá khứ từng ở chỗ vô lượng chư Phật trồng các căn lành, chứ chẳng phải chỉ ở chỗ Thanh văn, Độc giác v.v....

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng kinh, chẳng sợ, thọ trì đọc tụng, buộc niệm tư duy, hoặc pháp, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc ý… đều thông suốt hoàn toàn, tùy thuận tu hành thì các Bồ-tát ấy chính là đang thấy chúng taNhư Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà hết lòng tin hiểu, chẳng hủy báng, chẳng ngăn cản, phá hoại thì các Bồ-tát ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật đã trồng nhiều căn lành, cũng được vô lượng bạn lành hộ trì.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các hữu tình có thể trồng các căn lành nơi ruộng phước tối thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy nhất định chứng đắc hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác, hoặc quả Như Lai, nhưng muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì cần phải thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không ngăn ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát, làm cho viên mãn.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phó chúc cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đọc tụng cho thông suốt, chớ để quên mất.

Khánh Hỷ nên biết: Trừ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ra, thọ trì các pháp khác mà Ta đã thuyết. Giả sử có quên mất, tội đó còn nhẹ, nhưng đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thọ trì đúng, cho đến quên mất chỉ một câu, tội đó rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đến có thể thọ trì đúng một câu chẳng quên mất thì đạt được phước vô lượng. Còn nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thọ trì đúng, cho đến quên mất, dù chỉ một câu, thì mắc tội rất nặng; còn lượng phước đồng như trước.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ân cần phó chúc cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đọc tụng cho thông suốt, như lý tư duy, giảng thuyết, phân biệt chỉ dạy cho khắp tất cả, làm cho người thọ trì hiểu rõ rốt ráo văn nghĩa, ý thú. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo, như lý tư duygiảng thuyết, phân biệt chỉ dạy rộng rãi cho mọi người, giúp cho họ dễ hiểu, thì các Bồ-tát này chính là người thọ trì tạng pháp sâu xa của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tạituyên thuyết chỉ dạy rộng rãi cho các hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các loài hữu tình phát tâm ân cần thanh tịnh, đang ở chỗ Ta muốn đem các thứ đồ cúng dường thượng diệu, cung kính cúng dường không mỏi mệt, thì nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu hành, như lý tư duy, phân biệt giảng thuyết rộng rãi cho hữu tình, hoặc biên chép, trang nghiêm đẹp đẽ bằng các thứ, cung kính cúng dường chẳng nên rời bỏ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chính là hiện tiền cung kính cúng dường tôn trọng, khen ngợi Ta và chư Phật mười phương ba đời.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, yêu mến, thì chính là phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, yêu mến chư Phật quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khánh Hỷ! Nếu ông yêu mến Ta, chẳng rời xa Ta, thì cũng nên yêu mến, chẳng rời xa kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, dù trải qua một kiếp cho đến trải qua kiếp số nhiều như cát sông Hằng cũng chẳng thể hết. Nói tóm lại, như Ta đã là Đại sư của các ông thì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên biết cũng là Đại sư của các ông. Như chư Phật ba đờiĐại sư Vô thượng của chư thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... thì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên biết cũng là Đại sư Vô thượng của trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian. Các ông, thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... kính trọng Ta thì cũng nên kính trọng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho ông, ông nên thọ trì, đừng để quên mất. Ta nay đem Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ở trước vô lượng đại chúng chư thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... phó chúc cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Nay Ta chân thật bảo ông: Có các thiện nam tử v.v… với lòng tin thanh tịnh, nếu muốn không bỏ Phật, Pháp, Tăng bảo, và chư Phật Vô thượng Bồ-đề ba đời thì nhất định chẳng nên rời bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như thế gọi là pháp của chư Phật chúng Ta dạy bảo trao truyền các đệ tử.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu có người nào ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, như lý tư duy, biên chép, giảng thuyết thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì quả vị quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát sanh.

Thế nên, này Khánh Hỷ! Nếu các Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của các Đại Bồ-tát, có thể làm cho các Bồ-tát mau chứng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu khi pháp của các Bồ-tát sắp diệt thì hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là hộ trì trí nhất thiết trí của chư Phật ba đời, cũng là hộ trì tạng pháp vô thượng của chư Phật ba đời.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát siêng năng tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba-la-mật-đa phó chúc cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa như thế là tạng pháp vô tận của chư Phật ba đời.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đã giảng thuyết đều là lưu xuất từ tạng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa. Phật và đệ tử mười phương ba đời đều nương vào tạng pháp vô tận như thế tinh tấn tu học, đã chứng, đang chứng, sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử ông vì hạng người Thanh văn thừa nói pháp Thanh văn, do pháp này nên tất cả hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên đều đắc quả A-la-hán, thì còn chưa vì Ta làm việc của đệ tử, đối với việc làm của ông, Ta chưa thật tùy hỷ. Nếu ông có thể vì người Bồ-tát thừa tuyên thuyết một câu pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì gọi là vì Ta làm việc làm của đệ tử. Ta đối với việc làm này rất tùy hỷ.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên đồng một lúc chứng đắc quả A-la-hán, sự thành tựu các việc phước nghiệp như tánh bố thí, trì giới, tu hành kia thì theo ý ông thế nào? Có nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều!

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu có Thanh văn có thể vì Bồ-tát tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, trải qua một ngày đêm lần lượt cho đến trải qua khoảng khảy móng tay, thì vị Thanh văn này đạt được lượng phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Vì vị Thanh văn này đạt được lượng phước vượt hơn tất cả các căn lành của Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu có Bồ-tát vì Thanh văn thuyết pháp Thanh văn, giả sử tất cả hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới do pháp này mà tất cả đều chứng quả A-la-hán, thì theo ý ông thế nào? Bồ-tát như thế đạt được phước có nhiều không?

Khánh Hỷ đáp:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu có Bồ-tát vì các hữu tình tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa trải qua một ngày đêm, lần lượt cho đến trải qua khoảng khảy móng tay, Bồ-tát như thế đạt được lượng phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vượt hơn tất cả pháp thí tương ưng với Thanh văn, Độc giác và các căn lành của hai thừa kia.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát thành tựu nhớ nghĩ căn lành như thế, mà lại thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không có lẽ đó.

 
XXIV. PHẨM KIẾN BẤT ĐỘNG PHẬT

Bấy giờ bốn chúng vây quanh, Như Lai khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa, giao phó, dạy bảo A-nan-đà thọ trì xong, lại đối với tất cả Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược v.v... giữa hội đại chúng, bằng năng lực thần thông làm cho chúng đều thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, với đại chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh tuyên thuyết chánh pháp cho đại hội như biển lớn chẳng động, và thấy tướng nghiêm tịnh của cõi kia. Thanh văn Tăng cõi đó đều là A-la-hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn thật tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được điêu luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, đạt được lợi ích cho chính mình, dứt các kiết sử, chánh trí giải thoát, đạt đến tâm tự tại rốt ráo đệ nhất. Bồ-tát Tăng ở cõi đó, tất cả đều là những vị mà mọi người đều biết. Các ngài đã đắc Đà-la-ni và vô ngại biện, thành tựu vô lượng công đức vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường.

Phật thu hồi thần lực, làm cho bốn chúng, trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược v.v... này chẳng còn thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát và đại chúng khác cùng tướng trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật kia. Chúng hội và cõi trang nghiêm thanh tịnh của Phật kia đều chẳng phải là đối tượng của nhãn căn ở cõi này thấy tới được. Vì sao? Vì Phật thu hồi thần lực nên không thể thấy được cảnh ở xa kia.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Ông có còn thấy cõi nước và chúng hội của Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác không?

A-nan-đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con chẳng còn thấy những việc đó, vì chẳng phải cảnh giới của mắt này đạt tới.

Phật bảo A-nan-đà:

- Như chúng hội và cõi nước của Như Lai kia, chẳng phải là cảnh giới của mắt ở cõi này đạt tới, nên biết các pháp cũng như thế, chẳng phải cảnh giớinhãn căn v.v.... đạt tới được.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tất cả pháp tánh không thể tu, không thể thấy, không thể biết, không thể chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không tác dụng. Năng thủ, sở thủ đều như hư không, vì tánh viễn ly vậy, vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, năng, sở nghĩ bàn đều như người do biến hóa, vì tánh xa lìa vậy; vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát thường tu như thế thì gọi là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, không chấp trước tướng các pháp. Nếu các Bồ-tát thường học như thế thì gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đối với tất cả pháp không thủ, không xả.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát muốn được mau chóng viên mãn tất cả Ba-la-mật-đa, đạt rốt ráo tất cả pháp đến bờ kia thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì người học như thế đối với các pháp học là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, lợi ích an lạc cho tất cả thế gian.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ-tát có thể học như thế, là làm nơi nương tựa giúp đỡ cho người không có nơi nương tựa giúp đỡ; chư Phật Thế Tôn chấp nhận, khen ngợi tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật, Bồ-tát học pháp học này xong, an trụ trong đó, có thể dùng ngón tay phải hoặc ngón chân phải nhấc thế giới Tam thiên đại thiên ném qua phương khác, hoặc trả lại chỗ cũ, mà hữu tình trong đó chẳng hay chẳng biết, không tổn hại, không sợ hãi. Vì sao? Vì công đức oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với quá khứ, vị lai, hiện tạipháp vô vi đều đạt được tri kiến vô ngại.

Thế nên, này Khánh Hỷ! Ta bảo: Thường học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với trong các pháp học là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm lấy lượng và biên giới của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm lấy lượng và biên giới của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không lượng, không biên giới vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Ta hoàn toàn chẳng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như danh, thân v.v... có biên giới, có hạn lượng. Vì sao? Vì danh, cú, văn, thân là pháp có hạn lượng; còn công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là pháp chẳng có hạn lượng, Chẳng phải danh, thân v.v... có thể lường được công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa là đối tượng suy lường của những thứ kia.

Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào, nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là vô lượng?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì tánh vô tận, vì tánh viễn ly nên nói là vô lượng.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều học Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hoàn toàn viên mãn, tuyên thuyết chỉ dạy cho các hữu tình, mà Bát-nhã ba-la-mật-đa này vẫn thường còn, không dứt hết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như hư không, rộng lớn chẳng thể cùng tận vậy. Nếu có người muốn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cùng tận tức là muốn biên giới của hư không cùng tận.

Thế nên, này Khánh Hỷ! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nói là vô tận. Do vô tận nên nói là vô lượng.

Bấy giờ Thiện Hiện nghĩ: Điều này sâu xa, ta nên thưa hỏi Phật. Nghĩ như vậy xong, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì lẽ gì Như Lai dạy là không cùng tận?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa giống như hư không, chẳng thể cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các chúng Bồ-tát nên quán các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán vô minh cho đến lão tử đều vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy, này Thiện Hiện! Các chúng Bồ-tát nên làm như thế để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi, xa lìa hai bên như thế; quán sát mười hai duyên khởi không chính giữa, không chung quanh như thế, đó là diệu quán bất cộng của các Bồ-tát. Nghĩa là cần phải an tọa tòa Bồ-đề vi diệu mới có thể quán sát đúng đắn lý thú sâu xa như hư không rộng lớn, chẳng thể cùng tận của mười hai nhân duyên như thế, nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết: Nếu Đại Bồ-tát đem hành tướng như hư không vô tận hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi thì chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ-tát nào thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là do chẳng nương vào tác ý phương tiện thiện xảo như thế. Các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chẳng hiểu biết đúng, thì nên dùng hành tướng vô tận nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, để quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi.

Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ-tát nếu thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là do xa lìa phát khởi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ-tát nếu chẳng thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì tất cả đều do nương vào phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đaphát khởi. Các Bồ-tát ấy nhờ nương vào phương tiện thiện xảo như thế để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi; khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng thấy có một pháp nào là do nhân mà sanh, chẳng thấy có một pháp nào tánh tướng thường trụ, chẳng thấy có một pháp nào có người tạo tác và lãnh thọ. Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận, quán sát đúng mười hai duyên khởi để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết: Nếu khi Bồ-tát quán sát đúng như thật mười hai duyên khởi, phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì bấy giờ Bồ-tát hoàn toàn chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thấy thế giới của Phật này, chẳng thấy thế giới của Phật kia, chẳng thấy có pháp có thể thấy thế giới của chư Phật này, chư Phật kia.

Nếu các Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì khi ấy ác ma rất buồn khổ như trúng tên độc. Ví như người có cha mẹ chết, thân tâm buồn khổ, ác ma cũng như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma thấy các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất buồn khổ như trúng tên độc, hay là tất cả ác ma khắp thế giới Tam thiên đại thiên cũng đều như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả ác ma đầy khắp thế giới Tam thiên đại thiên thấy các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất lo buồn như trúng tên độc, mỗi người chẳng thấy yên ổn ngay chỗ ngồi của mình. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trời, người, A-tố-lạc v.v... ở thế gian xét tìm lỗi của vị đó đều chẳng thể được, cũng chẳng thể làm rối loạn, thối lui. Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên siêng năng an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các Bồ-tát có thể siêng năng an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể tu viên mãn Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát có thể chính mình tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể tu hành viên mãn tất cả phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa. Các việc ma phát sanh đều có thể như thật biết để xa lìa.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chính mình thủ hộ phương tiện thiện xảo, thì nên chính mình hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Nếu khi Bồ-tát tu hành phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì khi ấy có chư Phật Thế Tônvô lượng vô biên các thế giới đều cùng hộ niệm. Các Bồ-tát này nên nghĩ: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh Nhất thiết trí. Nghĩ như thế xong, lại nên suy nghĩ: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng đắc pháp, ta cũng sẽ chứng.

Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát tu hành phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tư duy như thế trải qua khoảng khảy móng tay, thì lượng phước phát sanh hơn công đức đạt được về sự tu hành bố thí trải qua số đại kiếp nhiều như cát sông Hằng của các chúng Bồ-tát có sở đắc, huống là có thể trong một ngày hoặc nửa ngày. Các Bồ-tát ấy chẳng bao lâu sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển, thường được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng hộ niệm. Các chúng Bồ-tát này nếu được chư Phật hộ niệm, thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... chắc chắn không còn sanh vào các nẻo ác, thường sanh trong cõi trời, người, chẳng xa lìa chư Phật. Nếu các Bồ-tát tu hành phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhớ nghĩ tư duy công đức của chư Phật trải qua khoảng khảy móng tay, thì công đức lợi ích thù thắng còn đạt được vô biên, huống là trải qua một ngày hay hơn một ngày, tinh tấn dõng mãnh tu hành phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhớ nghĩ tư duy công đức của chư Phật như các chúng Bồ-tát Hương Tượng v.v... ở chỗ Phật Bất Động thường tu phạm hạnh, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi đức Bạt-già-phạm thuyết kinh này xong, vô lượng chúng Đại Bồ-tát, Bồ-tát Từ Thị làm thượng thủ, cụ thọ Thiện Hiện, Xá-lợi Tử v.v... các đại Thanh văn và các trời, rồng, Kiền-đạt-phược v.v... tất cả đại chúng nghe Phật giảng đều rất vui mừng, tin thọ phụng hành.

Quyển thứ 565
HẾT

 
HỘI THỨ 6
I. PHẨM DUYÊN KHỞI

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bạc-già-phạm ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng với chúng đại Bí-sô bốn vạn hai ngàn người đều là bậc A-la-hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được tập luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, đã đạt được lợi ích, dứt hết các kiết sử, chánh trí giải thoát, đạt đến âm tự tại rốt ráo đệ nhất; các ngài đó là: Cụ thọ Giải Kiều-trần-na, Đại Ca-diếp-ba, Cấp-phòng-bát-để, Hạt-lệ-phiệt-đa, Đại Thải-thục-để, Đại Ca-đa-diễn-na, Tất-lan-đà-phiệt-tha, Xá-lợi Tử, Mãn Từ Tử, Bạt-câu-la, Ưu-ba-ly, La-hổ-la, Vô Diệt, Thiện Hiện làm thượng thủ. Trừ một mình A-nan-đà còn ở địa vị hữu học đắc quả Dự lưu.

Lại có bảy vạn hai ngàn Đại Bồ-tát đều đã thông đạt pháp tánh sâu xa, đã điều thuận, dễ dàng giáo hóa, diệu hạnh bình đẳng, đắc pháp môn Đà-la-ni vô ngại biện, là bạn lành chơn tịnh của tất cả hữu tình, có thể chuyển vận bánh xe chánh pháp vi diệu bất thối, thương xót thế gian, hộ trì tạng pháp, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai, tiếp nối làm hưng thịnh ba ngôi báu, thường khiến cho không dứt tuyệt, thông đạt cảnh giới sâu xa của chư Phật, còn một đời làm đệ tử chơn thật của đấng Pháp vương, thường có thể tiếp nối Phật, chuyển vận bánh xe chánh pháp; mặc dù ở thế gian nhưng không bị nhiễm. Các ngài đầy đủ vô lượng công đức như thế, từ nước Phật này hoặc từ phương khác, vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. Đó là: Bồ-tát Bảo Tướng, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Bảo Phong, Bồ-tát Bảo Hải, Bồ-tát Bảo Diễm, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Kim Tràng, Bồ-tát Tịnh Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Định Tạng, Bồ-tát Trí Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Âm, Bồ-tát Phổ Giới, Bồ-tát Phổ Hành, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Quảng Nhãn, Bồ-tát Liên Hoa Nhãn, Bồ-tát Trí Tuệ, Bồ-tát Thượng Tuệ, Bồ-tát Thắng Tuệ, Bồ-tát Liên Hoa Tuệ, Bồ-tát Kim Cang Tuệ, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Trí Quang, Bồ-tát Trí Đức, Bồ-tát Hiền Đức, Bồ-tát Hoa Đức, Bồ-tát Nhật Quán, Bồ-tát Nguyệt Quán, Bồ-tát Vô Nhiễm, Bồ-tát Diệu Âm, Bồ-tát Đại Âm Vương, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Sư Tử Du Hý, Bồ-tát Hiền Thủ, Bồ-tát Thập Lục Hiền, Bồ-tát Từ Thị v.v...

Các Bồ-tát ở Hiền kiếp: Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Diệu Cát Tường làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chúng trời: Tứ Đại vương, Tứ Đại Thiên vương làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Ba mươi ba, Thiên vương Đế Thích làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Dạ-ma, Thiên vương Tô-dạ-ma làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Đổ-sử-đa, Thiên vương San-đổ-sử-đa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Nhạo Biến Hóa, Thiên vương Thiện Hóa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tha Hóa Tự Tại, Thiên vương Tự Tại làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Phạm Chúng v.v... Thiên vương Đại Phạm làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tịnh Cư, trời Tự Tại làm thượng thủ... Các Thiên vương ấy dẫn quyến thuộc đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng vua A-tố-lạc, trong đó có: Vua A-tố-lạc Cụ Lực, vua A-tố-lạc Kiêm Uẩn, vua A-tố-lạc Tạp Oai, vua A-tố-lạc Bộc Chấp làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại Lực Long vương, trong đó có: Long vương Vô Nhiệt, Long vương Mãnh Ý, Long vương Hải Trụ, Long vương Công Xảo làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại thần Dược-xoa, nhơn phi nhơn v.v... và các quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng khoảng bốn mươi do-tuần, đại chúng đông đủ cả mặt đất và giữa hư không, chẳng có chỗ nào trống.

Thế Tôn ngồi ở tòa Sư tử, vô lượng đại chúng vây quanh trước sau, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, chấp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan.

Như Lai hiện năng lực thần thông, từ nơi miệng phát ra các thứ sắc hào quang chiếu khắp vô biên thế giới trong mười phương, hiện việc hy hữu rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và trở vào nơi mặt.

Bấy giờ, ở phương Đông, cách cõi Phật này hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Trang Nghiêm, Phật hiệuPhổ Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật Bạc-già-phạm, khi ấy đang an ẩn trú trì cõi kia, tuyên thuyết chánh pháp tương ưng với Nhất thừa cho các chúng Đại Bồ-tát. Ở thế giới của Phật kia, từ Nhị thừa còn chẳng nghe, huống là có người siêng năng tu tập pháp đó. Các Bồ-tát kia đều đắc Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các hữu tình kia chẳng thọ thực như cõi phàm, chỉ sống bằng thiền định giải thoát. Cõi đó chẳng cần ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chỉ có hào quang nơi thân Phật ngày đêm thường chiếu. Cõi đó không có gai độc, sỏi đá, khe, lạch, hang, núi, gò… đất bằng như bàn tay. Ở đó có Bồ-tát tên là Ly Chướng, đã thấy hào quang này, tâm còn do dự, cùng các chúng Đại Bồ-tát đi đến trước Phật, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà có điềm lành này?

Khi ấy, Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Về phương Tây, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni Như Lai, mười hiệu đầy đủ, đang thuyết Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát. Do nhân duyên này nên hiện điềm lành.

Bồ-tát Ly Chướng nghe xong, bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nay con xin qua thế giới Kham Nhẫn quan sát, đảnh lễ, cúng dường Như Lai Thích-ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Nay đã đúng thời, ông nên mau đi.

Bồ-tát Ly Chướng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở liền cùng với vô lượng chúng Bồ-tát đồng đi đến Thứu Phong, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ngồi một bên.

Về phương Nam, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Hoa, Phật hiệu Nhật Quang, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Nhật Tạng.

Về phương Tây, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bảo Hoa, Phật hiệu Công Đức Quang Minh, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Công Đức Tạng.

Về phương Bắc, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh, Phật hiệu Tự Tại Vương, ở đó có Bồ-tát tên là Quảng Văn.

Về phương Đông nam, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Hỏa Diệm, Phật hiệu Cam Lồ Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Bất Thối Chuyển.

Về phương Tây nam, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Công Đức, Phật hiệu Trí Cự, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Đại Tuệ.

Về phương Tây bắc, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Duyệt Ý, Phật hiệu Diệu Âm Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Công Đức Tụ.

Về phương Đông bắc, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Tuệ Trang Nghiêm, Phật hiệu Trí Thượng, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Thường Hỷ.

Về phương trên, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bất Động, Phật hiệu Kim Cang Tướng, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Bảo Tràng.

Về phương dưới, cách đây hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Nguyệt Quang Minh, Phật hiệuKim Cang Bảo Trang Nghiêm Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ-tát tên là Bảo Tín.

Như thế, tất cả đều như phương Đông.

 
II. PHẨM THÔNG ĐẠT

Khi ấy, có Thiên vương tên là Tối Thắng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Thế Tôn:

- Con có chút nghi, muốn hỏi Phật, nếu được Thế Tôn cho phép, con mới dám thưa rõ.

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tùy theo sự nghi vấn sẽ giải thích cho ông.

Trời Tối Thắng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm sao tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Ông có thể thưa hỏi Như Lai nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ giải đáp điều nghi cho ông.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn! Con nguyện được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể thông đạt bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể thông đạt bố thí Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành diệu pháp thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là dùng tâm thanh tịnh không có điều mong cầu, thuyết pháp cho người chẳng cầu danh lợi, chỉ vì diệt khổ, chẳng thấy mình là người thuyết pháp cho người kia, chẳng thấy người kia nghe pháp; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Vô úy thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là quán hữu tình giống như cha mẹ, anh em, bà con thân thích, làm cho tất cả mọi người đều gần gũi mình. Vì sao? Vì từ vô thỉ đến giờ lưu chuyển trong sáu nẻo đều làm bà con thân thích. Nếu các hữu tình ở chỗ nguy nan sợ hãi, còn đem thân mạng mà cứu giúp họ, huống lại đem tâm não hại họ. Chẳng thấy mình là người bố thí sự không sợ hãi cho người kia, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Tư sanh thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần dùng những vật gì thì bố thí cho họ những vật ấy và dạy cho họ tu hành mười thiện nghiệp đạo. Chẳng thấy mình là người bố thí của cải cho người kia, chẳng thấy kia là người thọ nhận; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Vong báo thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là khi hành bố thí chẳng mong cầu quả báo. Bồ-tát bố thí tự nhiên như thế, chẳng thấy mình là người bố thí, chẳng cầu quả báo và chẳng thấy quả báo của sự bố thí; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Đại bi thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là thấy hữu tình nghèo cùng, già bệnh, không có người cứu giúp, phát khởi tâm đại bi mà phát thệ nguyện: Khi ta đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm chỗ nương tựa cho các hữu tình, vì các hữu tình nên đem chút căn lành hồi hướng Bồ-đề, cũng chẳng phân biệt mình là người cứu giúp, kia là người nhận lãnh; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Cung kính thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần vật gì, liền tự kính dâng, chẳng để cho mỏi mệt, chẳng thấy mình là người hành thí cung kính, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tôn trọng thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là đối với hữu tình phát sanh tưởng như bậc Sư tăng, hoặc tưởng như cha mẹ, với tâm tôn trọngbố thí. Nếu không có tài vật để ban cho thì dùng lời nói thiện mà cho, chẳng thấy mình là người hành thí tôn trọng, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Cúng dường thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là thấy bảo tháp, hoặc thấy chỗ ở của chư Tăng thì nên dọn quét, rưới nước, đem các thứ hương hoa và ánh sáng đèn v.v... cúng dường. Nếu thấy tôn tượngchánh pháp bị hư hoại thì nên siêng năng sửa sang, cúng dường. Nếu thấy Tăng chúng thì nên đem thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men để cúng dường, chẳng thấy mình là người làm việc cúng dường, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì thường hành Vô y thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là khi thực hành bố thí chẳng nghĩ: Nguyện nhờ bố thí này được sanh cõi trời, người, làm vua trời, người, giàu sang, phu quý, hưởng thọ sự vui suớng, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng chấp thủ, mong cầu, vì không sở đắc vậy.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, có thể thông đạt bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tịnh giới Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát suy nghĩ: Phật ở trong tịnh chỉ dạy Tỳ-nại-da, thuyết giới kinh tương ưng với Biệt giải thoát, Bồ-tát nên học, chẳng thấy giới tướng và người thọ trì, chẳng đắm trước giới kiến, cũng chẳng chấp trước ngã; tất cả đều không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát suy nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng phải chỉ thọ trì tịnh giới liền đắc, mà cần phải học tất cả giới hạnh của Bồ-tát, giới tánh mát mẻ, vắng lặng, chẳng phát khởi; tất cả đều không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, nghĩa là các Bồ-tát suy nghĩ: Thế nào là trì giới có thể dứt trừ phiền não?

Phiền não có ba thứ là: Tham, sân, si. Mỗi phiền não này lại có ba bậc là thượng, trung, hạ. Muốn dứt trừ phiền não phải biết đối trị. Người mà tham tăng trưởng thì quán bất tịnh, quán đầy đủ ba mươi sáu vật trong thân. Người mà sân tăng trưởng thì tu quán từ bi. Người mà si tăng trưởng thì tu quán duyên khởi; chẳng thấy năng quán và pháp sở quán, cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát suy nghĩ: Thế nào là Bồ-tát phải xa lìa suy nghĩ bất chánh? Là các Bồ-tát chẳng phát khởi tâm: Mình hành tịch tịnh, hành ly, hành Không, còn các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... khác đều ở chỗ huyên náo tạp nhiễm, chẳng ưa thích hạnh vắng lặng. Thấy không hai, không khác, biết tự tánh viễn ly, liền có thể xa lìa tư duy bất chánh.

Nếu Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát tuy biết các pháp viễn ly mà càng sợ các tội. Như Phật đã dạy, nên trì tịnh giới, tu các phước nghiệp cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tội nhỏ thì phải mang một nỗi sợ to lớn, chẳng cho móng khởi, vì Thế Tôn dạy: Ví như thuốc độc, nhiều hay ít đều có hại.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát thường sanh sợ hãi tương ưng với Tín hạnh. Giả sử ở chỗ vắng vẻ đơn độc một mình, không có bạn bè, có Sa-môn v.v... đem các thứ vật báu như vàng, bạc, lưu ly, chân châu gởi cho Bồ-tát. Bồ-tát không khởi tâm tham lấy các thứ đó, mà suy nghĩ: Thế Tôn thường dạy, thà phải tự cắt thịt nơi thân mình mà ăn, chứ của cải của người không cho thì chẳng lấy.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát trì giới vững vàng. Nếu các ác maquyến thuộc của ma dùng sắc đẹp để thử Bồ-tát, Bồ-tát đối với sắc đẹp kia tâm chẳng dao độngtư duy: Thế Tôn thường dạy, sắc v.v... các pháp đều như mộng, huyễn hóa, không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát tuy siêng năng trì giới nhưng chẳng mong cầu ngôi vua trời, người, thân lìa ba lỗi, miệng dứt bốn lầm, ý tránh ba tội. Trì giới chẳng thấy ta trì, chẳng thấy giới tướng; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt an nhẫn Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành an nhẫn Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát thường học nội nhẫn, hoàn toàn chẳng lệ thuộc ưu sầu khổ não, cũng học ngoại nhẫn. Nếu người đánh đập, mắng chửi, khi dễ, cướp đoạt, lăng nhục, hoàn toàn không sân giận, cũng học pháp nhẫn như Thế Tôn dạy: Thật tánh sâu xa không pháp, không ngã, không sanh, tịch tịnh, tức là Niết-bàn.

Nghe nói như thế, tâm không kinh sợ, suy nghĩ: Chẳng học pháp ấy làm sao có thể đắc sở cầuquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể lợi ích an vui cho các loài hữu tình cùng tận vị lai. Suy nghĩ kỹ: Các độc tham, sân, si như thế là ở chỗ nào khởi lên? Nhân duyên nào sanh? Nhân duyên nào diệt? Quán sát đúng như thật đều chẳng thấy có năng sanh, sở sanh, năng diệt, sở diệt. Tâm nhẫn như thế liên tục chẳng dứt, ngày đêm các thời không xen hở; đối với cảnh nhẫn không có tâm lựa chọn, nghĩa là đối với quốc vương, cha mẹ, sư trưởng v.v… và mình phải tu nhẫn cả sự gia hại khác.

Bồ-tát hành nhẫn chẳng vì sự trả ơn, danh lợi, nhân nghĩa, sợ hãi, xấu hổ. Bồ-tát nên hành nhẫn tự nhiên như thế. Nếu người kia gia hại, đánh đập, nhục mạ, xâm chiếm, cướp đoạt, khinh khi, lăng nhục, tâm cũng chẳng lay động. Nếu Bồ-tát ở ngôi vua, địa vị đại thần v.v... có người bần tiện hủy mắng, sỉ nhục, hoàn toàn không vội vàng tỏ thái độ thị uy: Ta ở ngôi vị cao sang nên theo pháp là phải quở phạt, mà chỉ nghĩ: Thuở xưa ta ở chỗ Phật Thế Tôn phát thệ nguyện rộng lớn là địa vị tất cả hữu tình ta đều cứu giúp, khiến cho được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nay nếu khởi tâm sân thì trái với nguyện xưa.

Ví như thầy thuốc giỏi, phát lời thề như vầy: Thế gian đui mù ta đều chữa lành. Nếu mắt mình không sáng thì đâu có thể chữa lành cho ai được. Như thế, Bồ-tát vì trừ tối tăm cho người mà tự mình phát sanh giận dữ thì làm sao cứu họ cho được? Chẳng thấy mình nhẫn và sự nhẫn được; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào làm các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tinh tấn Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết, nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát chưa diệt, khiến diệt, chưa độ khiến độ, chưa thoát khiến thoát, chưa an khiến an, chưa giác khiến giác. Khi Bồ-tát hành tinh tấn như thế, có các ác ma làm các việc trở ngại, nói với Bồ-tát: “Thiện nam tử! Bạn chớ tu hạnh này, luống chịu khổ nhọc. Vì sao? Vì ta xưa kia từng tu hạnh này: Chưa diệt khiến diệt, chưa độ khiến độ, chưa thoát khiến thoát, chưa an khiến an, chưa giác khiến giác, luống chịu khổ nhọc nhưng hoàn toàn không có lợi ích chân thật. Ta từ xưa đến nay thấy nhiều Bồ-tát tu học hạnh này và đều thối lui. Bạn nên hồi tâm tu đạo Nhị thừa, lấy quả Nhị thừa để tự diệt độ.”

Bồ-tát nghe xong liền biết là ác ma, bảo: “Ngươi hãy lui đi! Tâm ta vững chắc giống như kim cương, chẳng phải lời sai lầm của ngươi có thể làm thối lui được. Ngươi cố gây trở ngại, luôn luôn tự khổ.” Ma nghe lời này liền ẩn mất. Nếu Bồ-tát khác chưa đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu năm pháp Ba-la-mật-đa trước, trải qua trăm ngàn kiếp, khi Bồ-tát hành tinh tấn như thế còn chưa có thể vượt qua, huống là bậc Nhị thừa. Như thế, Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành tựu Phật pháp, đều lìa các việc ác. Mặc dù hành tinh tấn, chẳng mau chẳng chậm mà có thể phát khởi nguyện lớn thù thắng: Khiến ta cảm được thân đồng với Như Lai, có nhục kế trên đỉnh đầu, lông trắng giữa chặng mày, Phật chuyển pháp luân, ta cũng như thế.

Ví như vàng ròng, các ngọc báu trang sức thì đẹp đẽ, Bồ-tát tinh tấn cũng như thế, lìa các cấu uế, nghĩa là lìa các sự lười nhác biếng trể, mỏi mệt, chẳng tự rõ biết, chẳng suy nghĩ đúng... nhờ đấy có thể đạt được phước đức trí tuệ thanh tịnh thù thắng để trang nghiêm, thân chẳng mỏi mệt, tâm chẳng chán lười. Tất cả pháp ác bất thiện làm ngăn ngại đạo đều làm diệt trừ, các pháp trợ đạo hướng đến Niết-bàn đều khiến tăng trưởng; một chút ác chẳng khởi, huống là nhiều.

Giả sử thế giới như cát sông Hằng khắp mười phương, trong đó tràn đầy lửa lớn như ngục Vô gián, ở thế giới này chỉ có một hữu tình có thể độ được. Bồ-tát vì hữu tình ấy còn đưa ra khỏi nơi đó, huống là nhiều hữu tình. Các Bồ-tát này chẳng nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng dễ đắc được. Bồ-tát tu hành như cứu đầu cháy, cần phải trải qua trăm ngàn ức kiếp, gánh nặng như thế thật khó mang vác, mà chỉ nghĩ: Chư Phật quá khứ, hiện tại đều tu hạnh này, chứng đại Bồ-đề. Ta cũng như thế, nên chính mình tu tập. Thà trăm ngàn kiếp ở trong địa ngục độ thoát các hữu tình, chứ hoàn toàn không bỏ họ để mau tới Niết-bàn.

Bồ-tát khi tinh tấn tu hành như thế, tâm chẳng tự cao, đối với người chẳng tự ti, chẳng thấy pháp năng hành và sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tịnh lự Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành tịnh lự Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát trồng sâu căn lành, đối với Đại thừa, đời đời kiếp kiếp tu nhiều diệu hạnh, gần gũi bạn lành, chẳng sanh trong nhà bần tiện, tà kiến v.v... thường sanh trong dòng họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn v.v... chánh tín Tam bảo, tăng trưởng pháp lành; nhờ căn lành đời trước, phát khởi ý nghĩ: Hữu tình ngày đêm trôi lăn các nẻo, luân hồi trong khổ chẳng dừng, đều do tham ái. Bồ-tát nghĩ xong, khởi tâm nhàm chán, xa lìa, biết từ hư vọng phân biệt mà có.

Trong kinh, Thế Tôn dùng vô số phương tiện giảng thuyết: Tội lỗi của dục như gươm dài, mâu ngắn, như dao, như rắn, như bọt, như bèo, nhơ nhớp bất tịnh, thay đổi vô thường. Vì sao người trí lại tham đắm pháp này? Vừa cạo râu tóc xuất gia tu đạo, chưa thấy cho là thấy, chưa đắc cho là đắc, chưa chứng cho là chứng; phải nghe thuyết thọ trì hoặc thế tục đế, hoặc thắng nghĩa đế, như thật tu hành, như pháp quán sát, đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, xa lìa huyên náo tạp nhiễm, chẳng màng danh dự, cũng chẳng cầu cung kính cúng dường, thân tâm tinh tấn thường không lười bỏ. Tư duy tâm này phần nhiều đi cảnh nào? Là thiện, là ác hay là vô ký? Nếu đi cảnh ác thì tức tốc chấm dứt. Nếu đi vô ký cũng nên rời bỏ. Nếu đi cảnh thiện thì lập tức siêng năng tinh tấn, cố gắng làm cho tăng trưởng căn lành thù thắng.

Vì muốn đối trị pháp ác bất thiện nên đưa ra ba mươi bảy phần Bồ-đề vi diệu. Ác bất thiện đó là: Tham, sân, si.

Tham lại có ba bậc là thượng, trung, hạ:

Tham bậc thượng là nghe tên cảnh dục, lòng vui mừng hớn hở, chẳng quán lỗi của dục, chẳng sanh nhàm lìa, tìm tòi phi lý, không có xấu hổ. Người không xấu hổ, như một mình đi đến đâu, tâm thường nghĩ về cảnh dục, liên tục chưa từng tạm nghỉ; chỉ thấy tốt đẹp, chẳng biết tội lỗi. Cha mẹ, thầy bạn quở trách sự tham dục kia cũng hoàn toàn không xấu hổ, vì chẳng biết nên phát khởi tranh cãi. Như thế gọi là người không xấu hổ. Loại này chết sẽ đọa nẻo ác.

Tham bậc trung là khi lìa cảnh dục, dục tâm chẳng khởi.

Tham bậc hạ là chỉ cùng nói cười, dục tình liền hết.

Sân cũng có ba bậc:

Sân bậc thượng là tức giận. Nếu phát khởi thì tâm mờ, mắt hoa, hoặc tạo nhiệp vô gián, hoặc hủy báng chánh pháp, hoặc tạo các nghiệp trọng tội khác, hơn ngũ vô gián nhiều gấp trăm ngàn lần.

Sân bậc trung là do sân giận, tạo các việc ác, lập tức sanh hối hận.

Sân bậc hạ là tâm không hiềm hận, chỉ miệng chê trách, liền ăn năn.

Si cũng có ba bậc, nên biết đúng lý, mặc dù quán như thế mà biết các pháp đều như huyễn, như mộng, tiếng vang, bóng hình, bóng sáng, quáng nắng, sự biến hóaảo ảnh. Vì hư vọng điên đảo, thấy chẳng thật. Cảnh giới bên ngoài diệt thì trong tâm vắng lặng, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó là các Bồ-tát chánh trí, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc tập, chẳng thấy sắc diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Vì sao? Vì tự tánh đều là Không, không có chơn thật, chỉ có danh tự giả dối trình bày mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, giáo hóa các hữu tình, hoàn toàn chẳng vì nói không nghiệp, không quả; mặc dù biết các pháp đều như huyễn, như mộng, tiếng vang, bóng hình, bóng sáng, quáng nắng, biến hóaảo ảnh, không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sinh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi mà thường tuyên thuyếtnghiệp quả.

Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, quyến thuộc của ma chẳng được tiện lợi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này gần gũi bạn lành, thành tựu trợ Bồ-đề, lìa pháp thế gian, hoan hỷ khen ngợi chánh pháp sâu xa các các đức Như Lai. Chư thiên, Ma, Phạm và Sa-môn, Bà-la-môn v.v... trừ Phật chánh trí, không ai bằng được. Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát phương tiện thiện xảo hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu thấy hoa quả thế gian tốt đẹp, thường đem cúng dường chư Phật, Bồ-tát; ngày đêm sáu thời không từng tạm nghĩ, đem thắng thiện này hối hướng Bồ-đề cũng như thấy hoa quả cây. Nếu nghe trong Khế kinh Như Lai nghĩa pháp sâu xa thì hoan hỷ tin nhận, ưa thích thọ trì đọc tụng và nói lại cho người khác, đem diệu thiện này hồi hướng Bồ-đề. Nếu thấy bảo tháphình tượng Như Lai thì liền đem các thứ hương hoa cúng dường, nguyện loài hữu tình lìa hương phá giới, được hương tịnh giới.

Giống như chư Phật quét rưới đất bụi, nguyện các hữu tình uy nghi tề chỉnh, lọng hoa che phủ, nguyện các hữu tình xa lìa nóng nảy; vào trụ xứ Tăng, nguyện các hữu tình đều vào Niết-bàn; ra khỏi chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình ra khỏi cảnh ma.

Thấy cửa Tăng mở, bèn phát nguyện: Đem trí xuất thế vì các hữu tình mở cửa chưa mở, đều khiến ngộ nhập. Nếu thấy cửa đóng, nguyện các hữu tình đóng cửa ba cõi, hoặc bốn nẻo ác.

Nếu được ngồi yên, nguyện các hữu tình ngồi tòa Bồ-đề. Nếu nằm hông phải, nguyện các hữu tình đều chứng Niết-bàn. Lúc ngồi, nằm, dậy, nguyện các hữu tình lìa các sự phát sanh mê lầm.

Nếu khi rửa chân, nguyện các hữu tình lìa đất bụi nhơ.

Nếu khi lạy Phật, nhiễu bên phải bảo tháp, nguyện các hữu tình đều sẽ thành Phật, được trời người cung kính, chẳng lấy đó làm vui mừng.

Nếu có ngoại đạo tà kiến khó giáo hóa, bèn nghĩ: Ta làm thầy họ thì họ có giữ sự kiêu mạn, chắc chắn chẳng chịu tin. Hãy làm đồng học, hoặc làm đệ tử; tuy ở trong chúng của họ mà giới hạnh đa văn hơn các ngoại đạo, nhân đây hàng phục họ, được họ tôn trọng làm thầy, thì lời nói chắc chắn được tin nhận. Hủy bỏ tà pháp, nói chánh Niết-bàn, làm cho nhập vào giáo pháp thanh tịnh của Như Lai, tấn tu phạm hạnh tịnh lự đẳng trì, đắc thần thông thù thắng, tu tất cả diệu thiện.

Thấy người đa dục hóa làm nữ nhơn đẹp nhất, khiến cho kẻ kia say mê, trong khoảng chốc lát thị hiện vô thường, nhan sắc biến đổi, sình trương bủn nát, hôi thối, khiến cho chán ghét, nhờm gớm và khởi tâm nhàm chán, xa lìa, liền hoàn phục hình cũ là hình tượng Bồ-tát, nhân đó nói pháp yếu sâu xa, khiến cho phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu hạnh Đại thừa, thành quả Vô thượng.

Thấy người Đại thừa xa lìa bạn lành quen biết, tuy siêng năng tinh tấn học đạo Nhị thừa nhưng đối với quả đó không thể chứng đắc, mất pháp lợi nơi Đại thừa Vô thượng, quán căn tánh của người kia, thuyết Đại thừa cho họ, làm cho người đó hồi tâm, nhập đạo Vô thượng. Người chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm thì khuyên khiến cho bền vững. Thấy người trì giới phạm tội nhẹ, chẳng hiểu để trình bày sám hối nên lo sợ buồn rầu, thối lui; do đó không thể tấn tu đạo cao đẹp, thì liền thuyết pháp cho họ, khiến họ mau sám hối để trừ diệt, tâm lìa buồn rầu, tấn tu đạo cao đẹp. Các chúng Bồ-tát ấy thiểu dục hỷ túc, chuyên cầu pháp lợi. Vì các hữu tình thuyết về sự cúng dường Như Lai. Do đó liền thành tựu sáu Ba-la-mật-đa:

Thuyết pháp cúng dường, đó là bố thí Ba-la-mật-đa.

Hành động chẳng trái với lời nói, đó là tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Các thiên ma v.v... chẳng thể não loạn, đó là an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Tâm tiếp nối nhau chẳng biết mỏi mệt, đó là tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Chuyên tâm nhất niệm, chẳng duyên cảnh khác, đó là tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Thuyết pháp cúng dường, lìa ngã, ngã sở, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt diệu nguyện Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành diệu nguyện Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát có các sở nguyện chẳng vì được hưởng vui sướng khoái lạc thế gian, cũng chẳng vì mình cầu ra khỏi ba cõi, tu đạo Nhị thừa, chứng Niết-bàn an lạc, mà chỉ nguyện tất cả hữu tình đều nhập vào cõi Vô dư Bát Niết-bàn trước, mình thành chánh giác sau cùng. Người chưa phát tâm thì giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm rồi thì làm cho họ tu đại hạnh. Đã tu đại hạnh rồi thì làm cho được Bồ-đề. Đắc Bồ-đề rồi thì khuyên mời thuyết pháp, lần lượt cho đến sau khi vào Niết-bàn, dùng bảy báu tốt đẹp xây tháp, tôn trí xá-lợi, thiết lập sự cúng dường, làm cho vô lượng chúng đạt được phước vô biên.

Lại phát nguyện: Các thế giới mà Phật thành chánh giác đều không có thiên ma và các ngoại đạo làm rối loạn, nguyện do tự trí phát tâm vô thượng, chẳng nhờ ngoại duyên tuy phát mà thối lui.

Lại phải nguyện: Ta thường ở thế gian thành thục hữu tình, khiến cho đạt được lợi ích an lạc. Nguyện các Bồ-tát v.v... mới phát tâm, nếu nghe Như Lai thuyết pháp sâu xa, ngộ nhập đúng như thật, tâm không kinh sợ. Nguyện các hữu tình đắc đại trí tuệ, đều thông suốt hoàn toàn vô biên Phật đạo, vô biên Phật cảnh, vô biên đại bi, làm lợi ích vô biên các loài hữu tình.

Các Bồ-tát này phần nhiều nguyện tự thân thường ở nước nhơ uế, chẳng sanh cõi tịnh. Vì sao? Vì như có người bệnh mới nhờ thầy thuốc, nếu không có bệnh tật thì thầy thuốc vô dụng. Bồ-tát khi phát diệu nguyện như thế, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt diệu nguyện Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Lực Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Lực Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát có thể hàng phục Thiên ma, dẹp trừ ngoại đạo, đầy đủ năng lực phước đức trí tuệ, tu hành tất cả Phật pháp, chứng biết tất cả Phật cảnh, dùng năng lực thần thông đem đầu sợi lông nhấc châu Thiệm-bộ hoặc cõi bốn châu, hoặc cõi Đại thiên đến vô lượng thế giới như cát sông Hằng trong mười phương, rồi để lại chỗ cũ mà không hề tổn hại; hoặc dùng năng lực thần thông, ở giữa hư không lấy các thứ báu bố thí cho loài hữu tình, có thể nghe và thọ trì tất cả pháp mà chư Phật thuyếtvô lượng, vô biên thế giới trong mười phương, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Lực Ba-la-mật-đa.

Này Thiên vương! Thế nào là Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Trí Ba-la-mật-đa?

Thiên vương nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hành Trí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là các Bồ-tát quán sát năm uẩn sanh chẳng phải thật sanh, diệt chẳng phải thật diệt, tư duy năm uẩn đều rốt ráo Không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi; phàm phu điên đảo hư vọng chấp trước, chẳng biết đúng như thật các uẩn chẳng phải ngã, chẳng biết đúng như thật ngã, chẳng phải các uẩn, trong ngã không có uẩn; do đó sanh tử luân hồi các nẻo như vòng lửa xoay. Kẻ phàm phu ngu si vọng chấp là có, nhưng tất cả pháp tự tánh vốn Không, không sanh, không diệt. Duyên hợp lại gọi là sanh, duyên lìa tan thì bảo là diệt; thật khôngsanh diệt, tánh chẳng phải vô, nên chẳng thể nói sanh; tánh chẳng phải hữu nên chẳng thể nói là diệt. Các Bồ-tát này đối với tất cả cảnh, không pháp nào là không thông suốt. Tu hành Trí Ba-la-mật-đa này, Nhị thừa, ngoại đạo chẳng thể ngăn cản. Dùng trí quán sát, từ khi mới phát tâm cho đến Niết-bàn đều thấu suốt tất cả, có thể dùng một pháp mà biết tất cả cảnh, đạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp. Vì sao? Vì chơn như là một. Thế nên khi các Bồ-tát tu trí này chẳng thấy năng tu và pháp sở tu; cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể thông đạt Trí Ba-la-mật-đa. Đó gọi là Bồ-tát tu học một pháp, có thể thông đạt tất cả pháp.

Quyển thứ 566
HẾT

III. PHẨM HIỂN TƯỚNG

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay hướng về Phật, bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy gì làm tướng?

Thế Tôn bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Như tướng đất, nước, lửa, gió, hư không v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như thế.

Tối Thắng bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như tướng đất, nước, lửa, gió, hư không v.v...?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Rộng lớn cùng khắp khó đo lường, đó là tướng đất. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế. Vì sao? Vì chơn như các pháp rộng lớn cùng khắp, khó đo lường.

Thiên vương nên biết! Tất cả cỏ cây đều nương đất mà sanh trưởng, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có thể sanh trưởng tất cả pháp lành.

Thiên vương nên biết! Ví như đại địa tăng thì chẳng mừng, giảm thì chẳng buồn, vì lìa ngã, ngã sở, không hai tướng vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, khen ngợi chẳng tăng, chê bai chẳng giảm, vì lìa ngã, ngã sở, không hai tướng vậy.

Lại như đại địa, thế gian qua lại, dở chân cất bước đều nương đó. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, hoặc cầu cõi thiện, hoặc hướng Niết-bàn, đều nương đó.

Lại như đại địa sinh ra các thứ báu, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, sanh ra các thứ công đức thế gian.

Lại như đại địa, trùng, kiến, muỗi, nhặng và các việc khổ chẳng làm dao động. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, lìa ngã, ngã sở, hoàn toàn không phân biệt, chẳng thể lay động.

Lại như đại địa, hoặc nghe tiếng Sư tử, rồng, voi v.v... hoàn toàn không kinh sợ. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, chẳng hề e sợ tất cả thiên mangoại đạo v.v... Vì sao? Vì chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có pháp, tự tánh là Không vậy.

Thiên vương nên biết! Ví như nước lớn từ trên cao đổ xuống, là chỗ nương về của loài thủy tộc. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, từ chơn pháp giới lưu chuyển vào thế gian, làm chỗ nương tựa của tất cả pháp lành.

Lại như nước nhiều thì thắm nhuần cây cỏ, sanh ra hoa trái. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, thắm nhuần các Đẳng trì, sanh ra pháp trợ đạo, thành trí nhất thiết, đắc quả Phật pháp, lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.

Lại như nước nhiều thì thấm ngấm gốc rễ, cỏ cây, làm thối gốc rễ, trốc ngã thoe dòng mà trôi đi. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có thể diệt tất cả căn bản tập khí phiền não, tà kiến vĩnh viễn chẳng còn sanh.

Lại như nước, tánh vốn trong sạch, không nhơ, không đục. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, thể tánh không phiền não nên gọi là trong sạch, có thể lìa các phiền não nên gọi là vô cấu; một tướng, chẳng phải khác nên gọi là không đục. Như người mùa hạ nóng bức gặp được nước mát mẻ; hữu tình bị phiền não thiêu đốt, được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chắc chắn được thanh lương, lìa các nhiệt não. Như người bị khát được uống nước, liền hết khát. Cầu pháp xuất thế được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xađạt được ước muốn.

Lại như nước ao suối sâu thẳm khó vào, cũng như thế, cảnh giới Bát-nhã ba-la-mật-đa của chư Phật sâu xa khó vào.

Lại như thế gian, những chỗ hầm hố, nước đều bình đẳng, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, đối với các bậc Độc giác, Thanh vănphàm phu đều bình đẳng.

Lại như nước sạch, gột rửa nhơ nhớp, làm cho được sạch sẽ; như vậy, Bồ-tát thông đạt Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa các phiền não liền được thanh tịnh. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tự tánh thanh tịnh, lìa các hoặc vậy.

Thiên vương nên biết! Ví như lửa lớn, tuy đốt tất cả cây cối, cỏ thuốc nhưng chẳng nghĩ ta đốt các vật. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, dù có thể diệt hết tất cả phiền não và các tập khí nhưng không nghĩ: Ta diệt hết.

Lại như lửa nhiều có thể làm chín tất cả vật loại. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, thành thục tất cả Phật pháp.

Lại như lửa mạnh có thể làm khô ráo các vật ẩm ướt. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, đều có thể làm khô cạn các dòng chảy mãnh liệt của lậu hoặc, làm cho vĩnh viễn không phát khởi.

Lại như đống lửa ở đỉnh núi tuyết, dù có thể chiếu soi xa một do-tuần, cho đến có thể chiếu mười do-tuần mà không nghĩ: Ta chiếu xa. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, tuy soi sáng Thanh văn, Độc giác nhưng chẳng nghĩ: Ta soi sáng cho họ.

Lại như cầm thú, ban đêm thấy lửa sáng sợ hãi tránh xa; phàm phu, Thanh văn, Độc giác phước mỏng, nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sợ hãi bỏ xa. Nghe được tên của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa còn khó, huống là có thể tu học.

Như đêm đi xa, lạc mất đường chính, nếu thấy lửa sáng, lòng rất vui mừng, biết có xóm làng nên mau qua tới đó, đến nơi an ổn, hoàn toàn không còn sợ hãi.

Trong đêm dài sanh tử, người có phước đức nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa lòng rất vui mừng, thọ trì, đọc tụng thì lìa hẳn phiền não, tâm được an vui.

Như lửa ở thế gian, sang hèn đều như nhau. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, Thánh giảphàm phu đều bình đẳng như nhau.

Như Bà-la-môn và Sát-đế-lợi đều cúng dường lửa, chư Phật Bồ-tát đều cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại như đốm lửa có thể thiêu đốt thế giới tam thiên đại thiên. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như thế, nếu nghe một câu thì có thể đốt cháy vô lượng phiền não.

Thiên vương nên biết! Ví như gió lớn có thể làm cho vạn vật tăng trưởng, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có thể làm cho tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian tăng trưởng.

Lại như gió dữ, nếu khi mạnh thì có thể phá diệt tất cả vật loại. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, nếu tu vững mạnh, có thể phá diệt tất cả sanh tử phiền não.

Lại như gió nhiều có thể làm cho khí nóng đều được mát mẻ. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có thể làm cho hữu tình bị phiền não thiêu đốt, chứng được Niết-bàn thanh lương thường lạc.

Lại như gió to di chuyển chẳng dừng, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, đối với tất cả pháp đều không có chỗ trụ.

Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lìa bẩn không dính, tịch tịnh, có vô lượng, vô biên trí tuệ, bình đẳng, thông đạt thật tánh các pháp, như tánh hư không rộng lớn không có chỗ trụ, lìa tướng cảnh giới, vượt tầm tứ v.v... hoàn toàn không phân biệt tâm và tâm sở, không sanh, không diệt, vì tự tánh xa lìa vậy.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lợi lạc hữu tình, thế gian hiếm có, giống như mặt trời mặt trăng, tất cả đều nhận được. Nghĩa là như trăng mát, có thể trừ nóng bức, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có thể trừ tất cả nhiệt độc phiền não.

Lại như trăng sáng, thế gian ưa nhìn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, được tất cả Thánh Hiền ưa thấy.

Lại như trăng sáng mỗi ngày một tăng trưởng, các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dần dần tăng trưởng.

Lại như trăng mờ, mỗi ngày một mờ dần, các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phiền não, tùy miên dần dần giảm hết.

Lại như trăng tròn đầy, các Bà-la-môn, Sát-đế-lợi v.v... đều khen ngợi; nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... đều khen ngợi.

Lại như trăng vận hành khắp bốn châu, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, biến khắp tất cả sắc tâm v.v...

Lại như trăng đẹp, thường tự trong sáng, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, tánh vốn thanh tịnh, thường tự trang nghiêm. Vì sao? Bản tánh ly nhiễm, không sanh, không diệt biến khắp tất cả pháp, vì tự tánh xa lìa vậy.

Ví như mặt trời, tuy phá tan các sự tối tăm nhưng chẳng nghĩ ta làm. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, tuy phá tất cả tùy miên từ vô thỉ nhưng chẳng nghĩ ta phá.

Lại như sức nóng của mặt trời, tuy làm cho hoa sen nở nhưng chẳng nghĩ ta làm cho hoa nở. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, dù khai tâm Bồ-tát nhưng chẳng nghĩ ta khai tâm họ.

Lại như mặt trời đẹp, tuy chiếu khắp mười phương mà chẳng nghĩ ta chiếu. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, dù chiếu khắp vô biên nhưng không có tướng chiếu.

Như thấy tướng sáng đỏ rực, hiện ở phương Đông thì chẳng lâu vầng mặt trời sẽ xuất hiện. Nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết là người cách Phật chẳng xa.

Như các tín nữ ở châu Thiệm-bộ, thấy mặt trời mọc rất hoan hỷ. Nếu khi thế giandanh tự Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất hiện, tất cả Thánh Hiền đều rất hoan hỷ.

Lại như mặt trời xuất hiện, ánh sáng của trăng và sao biến mất. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì công đức của Nhị thừa ngoại đạo đều tiêu tan.

Lại như mặt trời mọc mới thấy chỗ cao thấp của hầm hố, nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế gian mới biết đạo tà, đạo chánh. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tướng bình đẳng, không sanh không diệt, vì tánh xa lìa vậy.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phần nhiều tu hạnh Không, không chấp trước, tu tập đạo sáng suốt, diệt trừ ám chướng tối tăm, xa lìa bạn xấu, gần gũi chư Phật, tâm tâm nối nhau tưởng nhớ Phật không dứt, thông suốt bình đẳng, thuận theo pháp giới; mặc dù thần thông du hý khắp cõi nước trong mười phương mà thân an trụ ở bản xứ đều chẳng lay động, quán các Phật pháp giống như hiện thấy, tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm pháp thế gian, như chỗ bùn lầy sinh ra hoa sen.

Như thế, Bồ-tát tuy ở sanh tử, nhờ năng lực phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên chẳng nhiễm đắm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh, không diệt, tự tướng bình đẳng, chẳng thấy, chẳng chấp trước, vì tánh xa lìa vậy.

Lại như hoa sen, giọt nước chẳng đọng; cũng thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng còn một mảy may ác.

Lại như hoa sen, sanh chỗ nào hương khí đều thơm tho. Cũng như thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc tại nhơn gian, hoặc ở trên trời, xóm làng, thành ấp… đều đầy đủ hương giới.

Lại như hoa sen bẩm tánh trong sạch, Bà-la-môn v.v... đều quý mến. Cũng như thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược v.v... Bồ-tát, chư Phật đều kính mến.

Lại như hoa sen khi sắp nở thường làm vui lòng mọi người; cũng như thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mỉm cười trước khi nói, mọi người hoan hỷ.

Lại như hoa sen, trong giấc mộng được thấy cũng là tướng lành. Chư thiên v.v... cho đến trong giấc mộng nghe thấy Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là điềm tốt lành, huống là thật thấy, thật nghe.

Lại như hoa sen, khi mới bắt đầu sanh ra, nhơn phi nhơn v.v... đều yêu mến giữ gìn. Cũng như thế, Bồ-tát mới học Bát-nhã ba-la-mật-đa, chư Phật, Bồ-tát, Đế Thích, Phạm Thiên v.v... đều hộ vệ.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát khởi tâm như thế này: Ta phải đúng như lý, thông đạt tất cả Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, viên mãn Phật pháp, ngồi tòa Kim cang dưới cội Bồ-đề, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp đủ mười hai hành tướng vi diệu. Sa-môn, Bà-la-môn v.v... Thiên ma, Đế Thích, Phạm Thiênthế gian chẳng thể chuyển được. Ta hóa độ tất cả hữu tìnhvô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, bình đẳng cứu vớt ra khỏi biển sanh tử, đưa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ; người muốn thấy Phật, làm cho được thấy Phật, rống tiếng Sư tử, thần thông du hý, khen ngợi công đức của Phật, làm cho mọi người khát ngưỡng, tâm hoàn toàn thanh tịnh, chẳng lay động, ý không dua nịnh, xa lìa tà niệm.

Đó gọi là chẳng nghĩ pháp Nhị thừa, dứt các tùy miên, không còn phiền não. Thân không làm việc dối trá, xa lìa cử chỉ tà vạy. Miệng không nói dối, nói đúng sự thật. Thọ ơn thường nhớ nghĩ, ơn nhẹ đền nặng. Tâm chẳng ôm ấp giận hờn. Miệng thường nói lời dịu dàng. Tu tập tâm thanh tịnh như thế thì chẳng thấy năng hành và pháp sở hành, cả hai không hai, không khác, vì tự tánh vốn xa lìa.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tin hiểu ba pháp thanh tịnh của Như Lai, nghĩa là các Bồ-tát tư duy: Trong Khế kinh dạy, thân thanh tịnh của Như Lai gọi là pháp thân. Thân hoàn toàn vắng lặng, thân không gì bằng, thân vô lượng, thân bất cộng, thân kim cang. Đối với những thân này, chắc chắn tâm không nghi ngờ. Đó gọi là tin hiểu thân Như Lai thanh tịnh.

Lại nữa, suy nghĩ trong Khế kinh dạy: Lời nói thanh tịnh của Như Lai như thọ ký cho phàm phu thành Phật, cũng thọ ký cho Bồ-tát thành Phật, tin lời như thế, lý lẽ chẳng trái nhau. Vì sao? Vì Như Lai lìa hẳn tất cả lỗi lầm, dứt các tùy miên, không còn phiền não, vắng lặng thanh tịnh. Nếu Thiên ma, Phạm Thiên và các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... có thể tìm được lỗi nơi ngữ nghiệp của Như Lai thì không có lẽ đó. Đó gọi là tin hiểu lời nói của Như Lai thanh tịnh.

Lại nữa, suy nghĩ trong Khế kinh dạy: Ý của Như Lai thanh tịnh. Chư Phật Thế Tôn tâm nghĩ đến pháp nào, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, trời, người và hữu tình khác không thể biết. Vì sao? Vì tâm Như Lai sâu xa, khó vào, lìa các sự suy tìm, chẳng phải cảnh nghĩ lường, vô lượng, vô biên, đồng như cõi hư không. Tin biết như thế, tâm chẳng nghi ngờ, đó gọi là tin hiểu ý của Như Lai thanh tịnh.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa suy nghĩ: Như Phật đã dạy, các Đại Bồ-tát vì các hữu tình gánh vác gánh nặng kiên cố không lui bại mà chẳng sợ, chẳng mệt, thứ lớp tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa, thành tựu pháp Phật không chướng, không ngại. Pháp bất cộng vô biên không gì bằng, lời nói quyết định, tánh nó dõng mãnh, thành tựu sự nghiệp to lớn của Như Lai. Các Đại Bồ-tát này đối với sự nghiệp kia không nghi không ngờ, hết lòng tin nhận.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ: Như Phật đã dạy, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cuối cùng an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, có thể đắc trí thông thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trú, tùy niệm, lậu tận, vô ngại, thanh tịnh; ngay trong một niệm dùng trí bình đẳng thông suốt ba đời, quán sát đúng như thật tất cả thế gian: hữu tình như thế đầy đủ hạnh ác về thân, hạnh ác về lời nói, hạnh ác về ý, hủy báng Thánh hiền; do tà kiến, tạo tà nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ đọa nẻo ác. Đầy đủ diệu hạnh của thân, diệu hạnh của lời nói, diệu hạnh của ý, khen ngợi Thánh hiền; do chánh kiến, tạo chánh nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ sanh nẻo lành.

Quán sát đúng như thật cõi hữu tình rồi nghĩ: Khi xưa ta phát nguyện hành đạo Bồ-tát, tự giác, giác tha, nguyện này phải viên mãn. Các Bồ-tát này ở trong việc đó không nghi, không ngờ, đúng như thật tin nhận.

Thiên vương nên biết! Chỗ các Đại Bồ-tát thành Phật gọi là giác xứ, vì có thể tự giác nên gọi là Chánh giác; có thể giác ngộ cho hữu tình nên gọi là Chánh biến giác.

Thiên vương nên biết! Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tin biết Như Lai xuất hiện ở đời làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghe thuyết Nhất thừa có thể hết lòng tin nhận. Vì sao? Vì những điều chư Phật nói ra chơn thật chẳng hư vọng. Các thừa khác đều từ Phật thừa mà ra. Như châu Thiệm-bộ tuy có các thành ấp, xóm làng nhưng đều thuộc về châu này. Cũng như thế, các thừa khác tuy có các danh tướng sai khác cũng thuộc về Phật thừa.

Các Bồ-tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn phương tiện thiện xảo nên các pháp môn thuyết ra đều như thật, chẳng hư vọng. Vì sao? Vì chư Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Tuy nói ba thừa mà thật chỉ có một thừa.

Các Bồ-tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn phàm thuyết pháp âm thanh sâu xa chơn thật, chẳng trống rỗng. Vì sao? Vì trời Đế Thích, Phạm Thiên v.v... có ít công đức lại còn có thể phát ra âm thanh sâu xa, huống là Như Lai vô lượng ức kiếp chứa nhóm công đứcâm thanh chẳng sâu xa?

Các Bồ-tát này lại nghĩ: Như Lai thuyết pháp chẳng trái với căn cơ của chúng sanh, bậc thượng, trung, hạ đều được thành tựu. Mỗi loài hữu tình đều cho là Phật nói riêng cho mình, nhưng Phật xưa nay không thuyết, không dạy. Các Bồ-tát đối với việc ấy không nghi ngờ, hết lòng tin hiểu.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đạt được tâm vi tế, nghĩ: Thế gian thường có lửa dữ đốt cháy. Nghĩa là: Tham, sân, si là lửa khói đen ngòm, làm thế nào giúp cho tất cả hữu tình ra khỏi thế gian này. Nếu có thể thông suốt các pháp đều bình đẳng, không có tâm nhiễm đắm thì gọi là ra khỏi. Biết đúng như thật, như huyễn, như mộng v.v... quán đúng nhân duyên, chẳng phân biệt.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ: Các pháp không có nguồn gốc mà có nghiệp quả. Chư Phật, Bồ-tát dạy điều gì, ta nên hiểu ý; hiểu ý rồi suy lường nghĩa; suy lường nghĩa rồi liền thấy chơn thật; thấy chơn thật rồi cứu độ hữu tình.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo thuyết pháp cho chúng sanh, nghĩa là thuyết các pháp không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự sanh trưởng, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, người làm, người thọ, người biết, người thấy. Các pháp như thế là Không, không có sở hữu, chẳng phải tánh tự tại, vì hư vọng phân biệt, nhân duyên hiệp nên không sanh mà giống như sanh.

Thiên vương nên biết! Nếu nói các pháp không có ngã, hữu tình… cho đến cái thấy, là đúng như lý mà nói. Nếu nói các pháp không, không có sở hữu, cho đến giống như sanh, là đúng như lý mà nói.

Thiên vương nên biết! Vì là người nói pháp là tùy thuận pháp tướng, đó gọi là đúng như lý. Nếu những điều nói ra chẳng trái với pháp tướng, cùng với pháp tương ưngthể nhập bình đẳng, hiển bày nghĩa lý, gọi là khéo nói.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đắc biện tài vô ngại, nghĩa là hoặc biện luận không chấp trước, hoặc là biện luận không cùng tận, hoặc biện luận liên tục, hoặc biện luận chẳng dứt, biện luận chẳng khiếp nhược, biện luận chẳng kinh sợ, biện luận chẳng thêm, thừa, biện luận không biên giới; biện luận được tất cả trời, người đều yêu chuộng.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đắc biện luận thanh tịnh, nghĩa là biện luận chẳng quát tháo, biện luận chẳng rối loạn, biện luận chẳng sợ hãi, biện luận chẳng kiêu mạn, biện luận nghĩa đầy đủ, biện luận vị đầy đủ, biện luận trôi chảy, biện luận đúng thời phần.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lìa sự sợ hãi uy đức của đại chúng nên biện luận chẳng quát tháo, trí tuệ vững vàng sáng rõ, chẳng sợ nên biện luận chẳng rối loạn. Bồ-tát ở giữa chúng như Sư tử chúa, chẳng sợ hãi, nên biện luận chẳng sợ hãi, lìa phiền não nên biện luận không kiêu mạn, chẳng nói vô nghĩa, nói khế hợp với pháp tướng nên biện luận nghĩa đầy đủ. Hiểu rõ thơ, luận, biết rõ văn tự nên biện luận vị đầy đủ. Nhiều kiếp chứa nhóm, tập luyện lời nói nên biện luận trôi chảy. Thuyết pháp như thế hoàn toàn thuận ba thời, nghĩa là nóng, mưa, lạnh, thuyết không rối loạn; cũng thuận ba phần, nghĩa là đầu, giữa, cuối, nói chẳng xen tạp. Do đó nên nói biện luận đúng thời phần.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các biện luận đã đắc được làm cho mọi người hoan hỷ, nghĩa là tùy theo sự giáo hóa, phần nhiều là dùng ái ngữ, trước khi nói mỉm cười tươi vui. Lời nói có nghĩa, luôn đúng với sự thật. Nói ra những lời gì chẳng khinh dễ người. Lời nói quả quyết, nói các việc vui. Dùng lời nhỏ nhẹ, dịu dàng làm cho mọi người vui mừng. Dung nhan khoan thai, sắc thái ôn hòa, khiến người gần gũi; theo nghĩa mà nói, người nghe tỏ ngộ; vì lợi ích nên đúng pháp tướng mà nói, bình đẳng mà nói, tâm không thiên lệch, phe nhóm, xa lìa lời nói hư vọng, lời nói quyết định, tuỳ theo căn tánh mọi người nói các việc vui. Do nhân duyên này làm cho mọi người vui mừng.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu oai đức lớn. Vì sao? Vì chẳng phải là pháp khí thì chẳng được nghe.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này tâm bình đẳng, tại sao chẳng nói cho kẻ chẳng phải pháp khí?

Phật bảo Thiên vương:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bản tánh bình đẳng, chẳng thấy đây là pháp khí, chẳng thấy không phải là pháp khí, chẳng thấy năng thuyết, chẳng thấy sở thuyết. Hữu tình hư vọng thấy pháp khí chẳng phải pháp khí, thấy thuyết chẳng phải thuyết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh, không diệt, không có tướng phân biệt. Giống như hư không đầy khắp tất cả, hữu tình cũng như thế, không sanh, không diệt. Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai cũng như thế. Pháp không danh tự, giả lập danh tự, gọi là hữu tình, là Bát-nhã; có năng thuyết, có sở thuyết, có người nghe và có pháp được nghe. Trong thắng nghĩa đế, đều đồng một tướng, gọi là vô tướng, hoàn toàn không sai khác. Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa uy đức càng sâu, tuy thường muốn nói là phi pháp khí nhưng chẳng nghe.

Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nói cho các hữu tình phi pháp khí, chẳng nói cho kẻ ngoại đạo ác kiến, chẳng nói cho kẻ lười biếng, kiêu mạn chẳng tin; chẳng nói cho người cầu pháp mua bán đổi chác, chẳng nói cho kẻ tham ưa danh lợi, chẳng nói cho kẻ ganh ghét tham lam, chẳng nói cho kẻ mù, điếc, câm. Vì sao? Vì các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm không keo kiệt tham tiếc, chẳng giấu pháp sâu xa, từ bi thương xót loài hữu tình, cũng chẳng rời bỏ các loài hữu tình, nhưng loài hữu tình đời trước trồng căn lành, được thấy Như Lai và nghe chánh pháp. Như Lai đối với pháp vốn không có tâm giảng thuyết, cũng chẳng tác ý vì người này, vì người kia. Những kẻ nghiệp chướng sâu nặng tuy gần Như Lai mà chẳng thấy chẳng nghe. Bồ-tát cũng thế.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hữu tình nào có thể nghe chư Phật, Bồ-tát thuyết pháp?

Phật bảo Thiên vương:

- Nếu đầy đủ chánh tín, căn tánh thuần thục thì có thể làm pháp khí, đối với Phật quá khứ từng trồng căn lành, tâm không dua nịnh quanh co, uy nghi tề chỉnh, chẳng cầu danh lợi, gần gũi bạn lành, căn tánh lanh lợi thông minh, nói văn biết nghĩa, vì pháp tinh tấn, chẳng trái Thánh ý, thì những hữu tình ấy có thể nghe chư Phật, Bồ-tát thuyết pháp.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát thường làm pháp sư khéo léo thuyết pháp.

Thế nào là khéo thuyết? Nghĩa là vì lợi ích các hữu tình nên mặc dù nói Phật phápPhật pháp rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói tất cả Ba-la-mật-đa mà nói Ba-la-mật-đa rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Bồ-đề mà nói Bồ-đề rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt phiền não mà nói phiền não rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Niết-bàn mà nói Niết-bàn rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả mà nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Độc giác hoặc hướng hoặc quả, mà nói Độc giác hoặc hướng hoặc quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt ngã kiến mà nói ngã kiến rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói có nghiệp quả mà nói nghiệp quả rốt ráo bất khả đắc.

Vì sao? Vì danh tự đạt được đều chẳng phải thật pháp, pháp chẳng phải danh tự, chẳng phải phạm trù của ngôn ngữ, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải so lường của tâm. Danh tự chẳng phải pháp, pháp chẳng phải danh tự, chỉ vì thế tục hư vọng giả danh mà nói ra. Không pháp danh tự nói là danh tự, danh tự là Không, sự Không khôngsở hữu; cái không sở hữu ấy chẳng phải là chơn thắng nghĩa, chẳng phải thắng nghĩa, tức là pháp hư dối của kẻ ngu.

Thiên vương nên biết! Đó gọi là Bồ-tát khéo léo thuyết pháp. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng năng lực phương tiện đắc vô ngại biện. Tùy theo căn tánh của mọi người nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, làm cho các hữu tình đúng như thật ngộ nhập.

 
IV. PHẨM PHÁP GIỚI

01

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, che vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm thế nào tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thông suốt pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Thật khéo tác ý! Ta sẽ phân biệt giảng thuyết cho ông.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn giảng thuyết, chúng con mong muốn được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, phát khởi sự siêng năng tinh tấn, lìa các chướng ngại phiền não, tâm được thanh tịnh, cung kính tôn trọng, muốn tu tập hạnh Không, xa lìa các kiến, tu đạo như thật, thông suốt pháp giới.

Thiên vương nên biết! Các Bồ-tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi nên xa lìa các biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không, nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.

- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?

- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.

- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?

- Này Thiên vương! Tức là chơn như của các pháp.

- Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?

- Thiên vương nên biết! Chơn như sâu xa vi diệu chỉ có thể dùng trí để biết, chẳng phải ngôn ngữ diễn nói được. Vì sao? Vì chơn như các pháp vượt qua văn tự, lìa phạm trù ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa các hý luận, dứt các phân biệt, không đây, không kia; lìa tướng, vô tướng, xa lìa suy tìm, vượt cảnh tầm tứ, không có tưởng, không có tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa các chướng hoặc, chẳng phải thức thông suốt được, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã và không ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

Thiên vương nên biết! Đó là pháp giới. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu chứng pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.

Này Thiên vương! Đó gọi là thật tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa, chơn như Niết-bàn, tướng vô phân biệt, chẳng có cõi để nghĩ bàn. Cũng gọi là chơn Không và trí nhất thiết, trí thất thiết tướng, pháp giới không hai.

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Làm sao có thể chứng đắc pháp giới như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế và trí hậu sở đắc vô phân biệt có thể chứng, có thể đắc.

- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và đắc có gì khác?

- Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế có khả năng thấy đúng như thật nên gọi là chứng, hậu trí thông suốt nên gọi là đắc.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Như Phật đã dạy, văn, tư, tu tuệ đâu chẳng thông suốt thật tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa, mà lại nói có Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế và trí hậu sở đắc vô phân biệt có khả năng chứng đắc?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy! Vì sao? Vì thật tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vi diệu, văn tuệ thô thiển, cạn cợt, chẳng thể thấy được. Vì là thắng nghĩa nên tư tuệ chẳng thể lường được. Vì là pháp xuất thế nên tu tuệ chẳng thể hành được.

Thiên vương nên biết! Thật tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vi diệu, phàm phu, Nhị thừa chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì hạng kia như mù bẩm sanh, chẳng thấy các sắc; như trẻ con mới sinh bảy ngày chẳng thấy mặt trời; thấy còn chẳng thể, huống là có thể chứng.

Này Thiên vương! Ví như mùa hè nóng bức, có người đi về phương Tây, ở giữa đồng hoang, lại có một người từ phương Tây đi đến, hỏi người trước mặt:

“Tôi nay bị nóng khát, biết chỗ nào có nước trong và bóng mát làm ơn chỉ giúp.”

Người kia đáp:

“Từ đây đi về hướng Đông, sẽ có hai đường: một là phía bên trái, hai là phía bên phải, nên theo đường bên phải, lần hồi đi tới có ao suối nước trong và bóng cây mát mẻ.”

Này Thiên vương! Ý ông thế nào? Người nóng khát kia chỉ nghe tên suối và cây mát như thế, suy nghĩ việc đi đến thì có thể trừ nóng khát, được mát mẻ ngay chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Người kia đến nơi, vào ao tắm rửa, uống nước, nghĩ dưới gốc cây mới khỏi nóng khát và được mát mẻ.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ chẳng thể thông suốt thật tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiên vương nên biết! Nói về đồng nội tức dụ cho sanh tử, người dụ cho hữu tình, nóng dụ cho các phiền não, khát dụ cho tham ái. Người phương Đông đến, dụ cho các Bồ-tát, đường bên trái dụ cho chẳng phải chánh đạo, đường bên phải dụ cho đạo trí nhất thiết. Các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biết rõ con đường thẳng đến sanh tử. Suối dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa, cây dụ cho đại bi. Các Đại Bồ-tát hành hai pháp nên xa lìa phàm phu và đạo Nhị thừa.

Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tuy không hình tướng mà khéo nói nên khiến các hữu tình có thể chứng, có thể đắc.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể biết đúng như thật: Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Không. Cũng biết đúng như thật các giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn là Không. Cũng biết đúng như thật nội Không, ngoại Không, và nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không v.v... Mặc dù biết tất cả pháp đều Không, nhưng biết tướng Không cũng bất khả đắc, chẳng thủ tướng Không, chẳng khởi thấy Không, chẳng chấp tướng Không, chẳng nương tựa Không. Như vậy, Bồ-tát vì chẳng thủ trước nên chẳng rơi vào Không.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tìm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.

Trời Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể quán các pháp vô tướng như thế thì làm thế nào để quán Phật Bạc-già-phạm?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì lìa cảnh giới vậy. Tất cả hữu tình suy lường Phật cảnh thì tâm phát sanh cuồng loạn, chẳng biết đây kia. Vì sao? Vì tánh đồng hư không, chẳng thể suy lường, cầu chẳng thể đắc, lìa cảnh suy tầm; các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa còn chẳng thấy có cảnh phàm phu v.v... có thể suy lường được, huống là cảnh giới Phật; cũng chẳng nương tựa tất cả diệu nguyện. Mặc dù hành các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng đối với quả kia hoàn toàn không chấp đắm, đối với các công đức cho đến Niết-bàn cũng chẳng nương tựa, chấp trước. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở, không hai, không khác, vì tự tánh xa lìa vậy.

Khi Phật thuyết pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, làm cho thế giới tam thiên đại thiên này chấn động sáu cách, núi Diệu Cao Vương, núi Mục-chơn-lân-đà, núi Đại Mục-chơn-lân-đà, núi Kim Cang Luân Vi, núi Đại Kim Cang Luân Vi, núi Hương, núi Bảo, núi Hắc, núi Đại Hắc, tất cả đều chấn động, vô lượng trăm ngàn các chúng Bồ-tát đều cởi thượng y trải làm chỗ ngồi cho Phật, tòa đó cao rộng như núi Diệu Cao. Vô lượng trăm ngàn các Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế v.v... chấp tay cung kính rải cúng các thứ hoa đẹp, đó là hoa Diệu Âm, hoa đại Diệu Âm, hoa Cát Tường, hoa đại Cát Tường, hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng bốn mươi do-tuần, hoa chất đầy khắp đến tận đầu gối Như Lai. Vô lượng Thiên tử ở giữa hư không trổi các nhạc trời và xướng lên thế này:

- Lại thấy Phật xuất thế. Lại nghe chuyển pháp luân. Lành thay! Tất cả loài hữu tình châu Thiệm-bộ siêng tu công đức, trồng nhiều thiện căn nên được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, huống là tương lai có người có thể tin. Nên biết, tất cả hữu tình như thế đều đi nơi cảnh giới chư Phật Như Lai.

Lại có vô lượng trăm ngàn Long vương dùng thần lực bủa giăng mây lớn cùng khắp, rưới mưa hương rảy thấm núi Thứu Phong và cùng khắp thế giới tam thiên đại thiên. Những người nghe pháp chỉ biết thấm nhuận hương, chẳng thấy bị thấm ướt. Vô lượng Long nữ đều ở trước Phật chấp tay khen ngợi.

Lại có vô lượng thần Kiền-đạt-phược dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Các chúng Dược-xoa rải cúng các thứ hoa đẹp. A-tố-lạc v.v.. cung kính cúng dường.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô biên cõi Phật trong mười phương, tướng lông giữa chặng mày đều phóng hào quang sáng, chiếu soi những chốn tối tămthế giới tam thiên đại thiên này. Hào quang đó đều sáng rực rỡ khắp núi Thứu Phong.

Làm việc đó xong, đều trở về thế giới của mình, nhiễu quanh bên phải ba vòng và nhập vào nơi đảnh Phật. Vô lượng trăm ngàn chúng Bà-la-môn và Sát-đế-lợi, Trưởng giả, Cư sĩ đều đem các thứ hương xoa, hương bột, phan, phướn, lọng, hoa để cúng dường Phật.

Bấy giờ, trong hội có bảy mươi hai ức Đại Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình xa trần lìa cấu, sanh tịnh pháp nhãn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã tuyệt ngữ ngôn, lìa các văn tự, Đại Bồ-tát làm sao hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thuyết cho các hữu tình pháp như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thuyết cho các hữu tình pháp như thế là tu tập Phật pháp, nhưng đối với các Phật pháp hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thành thục các Ba-la-mật-đa nhưng đối với các Ba-la-mật-đa, hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thanh tịnh Bồ-đề, nhưng đối với Phật Bồ-đề rốt ráo chẳng thể đắc. Vì ly diệt Niết-bàn nhưng đối với ly diệt Niết-bàn hoàn toàn bất khả đắc. Vì bốn quả Sa-môn, nhưng đối với bốn quả Sa-môn hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì Độc giác Bồ-đề, nhưng đối với Độc giác Bồ-đề hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì dứt trừ ngã, thủ, nhưng đối với ngã, thủ hoàn toàn chẳng thể đắc. Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm chẳng phân biệt tất cả pháp tướng; năng phân biệt và sở phân biệt đều chẳng thể đắc; tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chẳng trái sanh tử. Mặc dù ở sanh tử mà chẳng trái Bát-nhã ba-la-mật-đa, tùy thuận pháp tướng.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm sao tùy thuận pháp tướng sâu xa, chẳng trái thế tục?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Bồ-tát tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng xa lìa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; chẳng xa lìa pháp nhưng không chấp trước; tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng xa lìa đạo. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực đại phương tiện thiện xảo vậy.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cái gì gọi là Bồ-tát phương tiện thiện xảo?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đó là bốn vô lượng. Các Đại Bồ-tát đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên thường có thể lợi ích an vui trong việc giáo hóa hữu tình, đó là Bồ-tát phương tiện thiện xảo.

- Kính bạch Thế Tôn! Vì sao bốn thứ này nói là Đại?

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầy đủ Từ không biên giới, Từ không phân biệt, Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ lợi ích lớn, Từ bi tánh bình đẳng, Từ bi lợi lạc khắp, Từ bi xuất thế gian. Những loại như thế v.v... gọi là Đại từ.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không có nơi quay về nương tựa, vì muốn cứu giúp nên phát tâm Bồ-đề, siêng cầu chánh pháp; đã tự mình đắc rồi, giảng thuyết cho các hữu tình:

Những người tham lam thì dạy tu bố thí.

Người không giới, phá giới thì dạy thọ trì giới.

Người tánh hung ác, dạy hành nhẫn nhục.

Người lười biếng, trễ nãi, dạy hành tinh tấn.

Người tâm tán loạn, dạy hành tịnh lự.

Người ngu si, dạy học diệu tuệ.

Vì độ hữu tình nên dù gặp phải các thứ việc khó khăn rất khổ nhọc, nhưng hoàn toàn không rời bỏ tâm đại Bồ-đề. Những việc làm như thế gọi là Đại bi.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ:

Ba cõi lửa cháy dữ dội, ta đã ra khỏi nên sanh hoan hỷ.

Dây sanh tử ràng buộc từ lâu, ta đã cắt đứt vĩnh viễn nên sanh hoan hỷ. Ở trong biển sanh tử tìm tòi chấp thủ, chấp tướng, ta đã ra khỏi hẳn nên sanh hoan hỷ.

Cờ kiêu mạn dựng từ vô thỉ, ta đã bẻ gãy nên sanh hoan hỷ.

Dùng trí Kim cang phá núi phiền não, làm cho tiêu tan hết nên sanh hoan hỷ.

Ta đã tự an ổn, lại an ổn cho người. Kẻ ngu si tối tăm, kẻ tham, sân, mạn v.v... phiền não trói buộc, ngủ lâu nơi thế gian, nay mới được thức tỉnh nên sanh hoan hỷ.

Ta nay đã thoát khỏi tất cả nẻo ác, lại có thể cứu giúp hữu tình trong nẻo ác, làm cho được ra khỏi, nên sanh hoan hỷ.

Hữu tình từ lâu ở trong sanh tử mê lầm, chẳng biết đường ra, ta nay cứu giúp chỉ dạy đường chánh, làm cho đến được thành trí nhất thiết, an vui hoàn toàn nên sanh hoan hỷ.

Các việc làm như thế v.v... gọi là Đại hỷ.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả sắc mà mắt đã thấy, tiếng mà tai đã nghe, mùi mà mũi đã ngửi, vị mà lưỡi đã nếm, xúc mà thân đã chạm, pháp mà ý đã rõ, chẳng đắm, chẳng lìa mà khởi tâm xả. Những việc làm như thế gọi là Đại xả.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu bốn vô lượng lớn như thế, do đó gọi là phương tiện thiện xảo.

Quyển thứ 567
HẾT

02

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì độ hữu tình các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thị hiện các tướng như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bất khả đắc. Vì cứu độ hữu tình nên các ngài dùng oai lực phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì chư thiên chấp thường cho rằng không bị đọa lạc nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo thị hiện các tướng vào thai mẹ để phá sự chấp trước kia. Do đó làm cho chư thiên phát sanh ý niệm vô thường, nghĩ: Bậc tối thắng, tối tôn ở trong thế gian chẳng ai sánh bằng, không nhiễm dục mà còn rơi đọa, huống nữa là chư thiên khác mà được thường ư? Cho nên chúng ta chớ có buông lung cần phải tinh tấn, giữ niệm tu đạo. Như thấy mặt trời còn có lúc lặn mất thì biết lửa đom đóm không thể tồn tại lâu dài.

Lại có chư thiên sống phóng dật say đắm dục lạc, không tu chánh pháp, mặc tình đùa giỡn. Tuy cùng với Bồ-tát ở trong thiên cung nhưng không đến lễ bái, không thưa hỏi pháp mà đều nghĩ: Lúc này, ta hãy hưởng dục, đợi đến ngày mai sẽ đến Bồ-tát để thưa hỏi pháp. Nghĩ vậy rồi bảo:

Ta cùng với Bồ-tát thường ở nơi đây thì việc tu hành đâu có muộn màng gì? Do đó, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, siêng tu tinh tấn như cứu lửa cháy đầu để phá trừ hành động buông lung nên thị hiện đọa lạc. Sự thị hiện này có hai nguyên nhân:

1- Làm cho chư thiên xa lìa sự buông lung.

2- Làm cho hữu tình đều được trông thấy.

Vì trong thế gian cũng có hữu tình hèn kém, ít có thiện căn không thể thấy Phật thành Vô thượng giác, chuyển xe diệu pháp nên Bồ-tát phải thị hiện làm trẻ con chơi giỡn ở hậu cung. Nếu làm các tướng khác để thuyết pháp thì e rằng nữ nhân trong hậu cung khó tin được. Do đó, Bồ-tát thị hiện làm trẻ con.

Người có đức hạnh cao thượng hay rời bỏ thế tục thì Bồ-tát vì người kia mà thị hiện xuất gia.

Lại có thiên nhơn suy nghĩ: Ngồi yên thọ lạc thì không đạt được thánh đạo. Bồ-tát vì người kia thị hiện khổ hạnh. Vì để hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo, nên Bồ-tát thị hiện các khổ hạnh khó hành.

Lại có thiên nhơn ngày đêm phát nguyện: Khi Bồ-tát đi đến tòa Bồ-đề thì thiên nhơn chúng ta cung kính cúng dường. Bồ-tát vì họ nên đi đến tòa Bồ-đề. Vô lượng thiên nhơn đã cúng dường rồi đều được nhân duyên Bồ-đề.

Lại có thiên nhơn nghĩ: Ác ma ngoại đạo làm chướng ngại chánh pháp, nguyện các Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề điều phục ác mangoại đạo để cho người có chánh tín đều được thấy pháp.

Sau khi Bồ-tát thành chánh giác, trong hư không khắp tam thiên đại thiên thế giới vang lên những âm thanh tán thán:

Mặt trời Phật xuất hiệnthế gian làm cho ánh sáng đom đóm lặn mất.

Chư thiên v.v… nói:

Nguyện cho tôi đời sau thành Vô thượng giác như sự chứng đắc Bồ-đề của Bồ-tát hôm nay, vì các hữu tình mà ngồi tòa Bồ-đề.

Lại có thiên nhơn v.v... nói:

Nguyện được thấy Đại sư thành trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, trí vô sư, trí tự nhiên. Đó là các hữu tình không cầu xuất lycăn tánh đã thuần thục, thâm sâu chánh pháp. Bồ-tát vì các hữu tình này mà thị hiện ba chuyển, mười hai hành tướng vô thượng pháp luân.

Lại có thiên nhơn muốn thấy viên tịch. Bồ-tát vì họ mà thị hiện viên tịch.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thị hiện các tướng biến hóa như vậy.

Thiên vương nên biết: Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chắc chắn không sanh vào cảnh giới bất an. Vì sao? Vì người không phước đức, không nghe được danh tự Bát-nhã ba-la-mật-đa vậy.

Lại nữa, các Bồ-tát thường xa lìa các ác nghiệp, không hề hủy phạm giới Phật cấm chế. Tâm không ganh ghét. Thân, miệng không phạm lỗi. Vì đã gieo trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong quá khứ, đầy đủ phước đức, trí tuệ, phương tiện thù thắng, thành tựu đại nguyện, tâm ưa tịch tịnh, siêng tu tinh tấn, bỏ sự biếng nhác.

Thiên vương nên biết: Các Bồ-tát này không có ác nghiệp đọa vào địa ngục, vì luôn thực hành mười thiện nghiệp đạo. Các Bồ-tát này không có phá giới, thường hay hộ trì giới đã thọ, khỏi đọa vào loài bàng sanh. Các Bồ-tát này không có tâm ganh ghét, không đọa vào loài ngạ quĩ, không sanh vào nhà tà kiến, thường gặp bạn lành, xa lìa bạn ác. Vì sao? Vì đã trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong thời quá khứ cho nên được sanh chỗ giàu sang, có quyền thế, đầy đủ chánh kiến. Các Bồ-tát này thọ thân đầy đủ các căn, thành tựu pháp khí của Phật. Vì sao? Vì vào thời quá khứ đã cúng dường chư Phật, lắng nghe chánh pháp, kính lễ đại chúng cho nên sanh ở chỗ nào cũng đầy đủ các căn, hình tướng xinh đẹp, thành pháp khí của Phật. Các Bồ-tát này không sanh nơi biên địa, độn căn ngu si, không biết rõ thiện ác, lời nóiý nghĩa chẳng hợp với pháp khí của Phật, không biết Sa-môn, Bà-la-môn v.v.... Vì sao? Vì Bồ-tát chắc chắn thọ sanh ở trung tâm của đất nước, các căn thông minh trí tuệ, nói năng lưu loát, biết rõ ý nghĩa về ngôn ngữpháp khí của Phật, biết rõ Sa-môn, Bà-la-môn v.v.... Vì sao? Vì đời trước Bồ-tát đầy đủ năng lực trí tuệ, phước đức thù thắng nên Bồ-tát không sanh vào cõi trời sống lâu, vì không lợi ích cho người, không được gặp Phật. Các Bồ-tát đa số sanh ở Dục giới, thị hiện ở đời, lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực phương tiện thiện xảo tối thắng. Bồ-tát không sanh vào thế giới không có Phật, không người thuyết pháp, không nghe chánh pháp, không cúng dường Tăng. Vì sao? Vì sức nguyện mạnh mẽ đời trước nên Bồ-tát sanh chỗ nào cũng đầy đủ Tam bảo. Các Bồ-tát này nghe pháp ác ở thế giới liền sanh tâm nhàm chán, xa lìa. Các Bồ-tát này tu hạnh tịch tịnh, tâm không lười biếng, tinh tấn dõng mãnh, dùng các pháp thiện diệt các pháp ác.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ tất cả nhân duyên như thế nên chắc chắn không sanh vào nơi không thuận tiện.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dù cho trong mộng cũng không quên mất đại Bồ-đề tâm, huống chi lúc thức mà lại quên ư? Vì sao? Vì các thiện pháp đều được sanh ra ở tâm này, tức là tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không có tâm này thì không có Phật. Nếu không có Phật thì không có giáo pháp, không có giáo pháp thì không có Tăng. Do có tâm này nên có Tam bảo và có trời, người tu thiện, hưởng thọ an vui. Các Bồ-tát thường xa lìa nịnh hót, lừa dối. Tâm Bồ-tát thanh tịnh, chân thật nhu hòa, không do dự đối với Phật pháp. Nếu người muốn lắng nghe, thọ nhận thì Bồ-tát không giấu ý nghĩa sâu xa. Bồ-tát xa lìa sự ganh ghétác nghiệp tam đồ. Giai đoạn trước, giữa và sau không có tướng thay đổi, hành pháp Đại thừa chẳng trái với lời nói, thấy người đồng học sanh tâm cung kính khuyên siêng tu tập, xưng tán Đại thừa. Đối với pháp sư thường tưởng như Phật, thân gần bạn lành, xa lìa bạn ác. Đó là phương tiện thiện xảo của các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên thành tựu tâm Bồ-đề như vậy, nương nơi tâm này đắc Túc trụ trí. Vì sao? Vì đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, hộ trì chánh pháp, trì giới thanh tịnh, xa lìa ác nghiệp, hoàn toàn không còn chướng ngại, tâm thường hoan hỷ, tâm siêng tu học, tâm không tán loạn, tâm trí không hao mất. Vì sao? Vì tôn trọng chánh pháp nên các Bồ-tát này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng ngại. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô số kiếp, các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rõ biết như thật về các nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với ba việc nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ bái Phật, Bồ-tát không bỏ qua lúc nào; đi đứng nằm ngồi luôn luôn học hỏi.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát nhờ trì tịnh giới nên thường được nghe danh tự công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường tu tập trợ Bồ-đề phần, không xa lìa ba môn giải thoát, thường xuyên tu tập Bốn vô lượng tâm, thường nghe Vô thượng trí nhất thiết.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do đó gần gũi bạn lành.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dù cho trong mộng còn chưa gần bạn ác huống chi là lúc thức mà lại gần gũi ư? Vì sao? Vì Bồ-tát đối với kẻ phá giới, kẻ đắm trước tà kiến, hạng bất luật nghi, người hành tà mạng, người nói vô nghĩa, người lười biếng, người ưa sanh tử, người trái ngược Bồ-đề, người ưa việc thế tục, tuy thường thương xót họ nhưng không ở chung.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nhờ đó thường xa lìa bạn ác.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên được mười thân sai khác của Như Lai. Mười thân đó là gì?

1- Thân bình đẳng.

2- Thân thanh tịnh.

3- Thân vô tận.

4- Thân tu tập viên mãn.

5- Thân pháp tánh.

6- Thân lìa tầm tứ.

7- Thân bất tư nghì.

8- Thân tịch tịnh.

9- Thân hư không.

10- Thân diệu trí.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đến địa vị nào mới đạt được mười thân của Như Lai?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ở trong sơ địa được thân bình đẳng. Vì sao? Vì thông đạt pháp tánh xa lìa tà vạy, thấy tất cả đều bình đẳng.

Trong nhị địa được thân thanh tịnh. Vì sao? Vì xa lìa sự phạm giới, mất giới nên được thanh tịnh.

Ở trong địa thứ ba được thân vô tận. Vì sao? Vì lìa dục, tham, sân nên được thắng định.

Trong địa thứ tư được thân tu tập viên mãn. Vì sao? Vì thường siêng tu tập Bồ-đề phần.

Trong địa thứ năm được thân pháp tánh. Vì sao? Vì quán các đế chứng đạt pháp tánh.

Trong địa thứ sáu được thân ly tầm tứ. Vì sao? Vì quán lý duyên khởi, xa lìa tầm tứ.

Trong địa thứ bảy được thân bất tư nghì. Vì sao? Vì thực hành đầy đủ trí phương tiện quyền xảo.

Trong địa thứ tám được thân tịch tịnh. Vì sao? Vì lìa các phiền não, hý luận.

Trong địa thứ chín được thân hư không. Vì sao? Vì thân tướng vô tận biến khắp tất cả.

Trong địa thứ mười được thân diệu trí. Vì sao? Vì tu tập viên mãn Nhất thiết chủng trí.

Khi ấy, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy thân Bồ-tát và thân Phật nào có sai khác?!

Phật bảo Tối Thắng:

- Tuy thân không sai khác nhưng công đức có sai khác, nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là thân Phật và thân Bồ-tát không có sai khác? Vì sao? Vì tất cả pháp đồng một tánh tướng. Công đức sai khác là thân Như Lai đầy đủ công đức, còn thân Bồ-tát thì không được như vậy.

Ta sẽ nói thí dụ cho ông. Thí như bảo châu được trang sức hay không được trang sức thì bảo châu ấy vẫn như nhau. Thân Phật và thân Bồ-tát cũng lại như vậy. Tuy công đức có sai khác nhưng pháp tánh không sai khác. Vì sao? Vì công đức Như Lai hoàn toàn viên mãn, cùng tận đến mười phương, biến khắp cõi hữu tình, thanh tịnh xa lìa dơ bẩn, không còn chướng ngại. Công đức của Bồ-tát chưa viên mãn nên vẫn còn chướng ngại. Ví như mặt trăng lúc khuyết, lúc tròn, nhưng tánh trăng vẫn không sai khác. Hai thân cũng vậy, đều kiên cố không thể phá hoại được giống như kim cương. Vì sao? Vì không bị ba độc phá hoại, vì không nhiễm pháp thế tục, vì không bị bức bách bởi các cảnh khổ ở cõi ác của trời người, xa lìa hẳn sanh, lão, bệnh, tử, có khả năng chế phục ngoại đạo, vượt cảnh giới ma, chẳng hướng đến Độc giácThanh văn thừa, do đó không bị phá hoại.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khéo hướng dẫn thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... đều tin cậy. Thí như có người khéo dẫn đường được quốc vương hoặc hàng thân cận vua v.v... hoặc trưởng giả, cư sĩ đều tin cậy. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát Như Lai đều xứng đáng là người dẫn đường giỏi. Thí như có người khéo dẫn đường thì quốc vương, đại thần, Bà-la-môn v.v... đều tôn kính. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát đều được trời, rồng, dạ xoa, A-tu-la v.v... và bậc hữu học, bậc vô học cúng dường. Như kẻ đi đường mệt mỏi giữa nơi hoang dã nguy hiểm gặp kẻ dẫn đường có thể được an ổn. Cũng vậy, các vị Đại Bồ-tát này dùng năng lực phương tiện hướng dẫn hữu tình ra khỏi sanh tử được an ổn.

Như người nghèo khó nương dựa vào trưởng giả giàu có mới thoát khỏi túng thiếu. Ngoại đạo, Bà-la-môn nương Bồ-tát mới ra khỏi sanh tử. Như đại trưởng giả của cải vô lượng cho mọi người đều được sử dụng. Cũng vậy, hữu tình sanh tử đều nương tựa vào các Đại Bồ-tát này. Như đại trưởng giả muốn vượt qua khỏi hiểm nạn phải nhờ nhiều bạn, đầy đủ vật thực ăn uống mới qua khỏi hiểm nạn được. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát này muốn ra khỏi hiểm nạn sanh tử chắc chắn phải nhờ phước tuệ bảo vệ các hữu tình, mới ra khỏi thế gian đến trí nhất thiết. Như người đi xa cần đem nhiều của báu mới được lợi. Cũng vậy các Đại Bồ-tát từ biển sanh tử đến trí nhất thiết cần tu tập phước báu, phước tuệ thật nhiều mới mau chứng trí nhất thiết. Như người thế gian tham cầu của vật không hề nhàm chán. Cũng vậy, Bồ-tát ưa cầu thắng pháp tâm không nhàm chán.

Như người dẫn đường cần có bốn việc hơn người: giàu có, địa vị cao, tài giỏi, lời nóiuy tín. Cũng vậy, các Bồ-tát giàu có công đức, ở địa vị tôn quý, được pháp tự tại, lời nói chắc chắn. Như người biết cách dẫn đường đi đến thành lớn. Cũng vậy, các vị Bồ-tát hướng dẫn hữu tình đến trí nhất thiết.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biết rõ con đường nên đi, con đường không nên đi, nơi tà, nơi chánh, nơi cong, nơi ngay, nơi an ổn, nơi nguy hiểm, nơi có nước, nơi không có nước, hoặc nơi có nguy hiểm thì đều biết con đường thoát ra. Các Đại Bồ-tát này biết rõ các con đường không hề nhầm lẫn, đã hướng dẫn thì không trái với căn cơ của chúng sanh, vì người cầu Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ-tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ-tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp nói đạo pháp Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ, quán để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo Niết-bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy.

Này Thiên vương! Đây là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biết rõ đường tà, đường chánh để hướng dẫn hữu tình đi ra thông suốt.

 
V. PHẨM NIỆM TRỤ

Bấy giờ, Tối Thắng từ tòa đứng dậy che áo bên vai trái, gối phải chấm đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xanăng lực biết rõ đường chánh, đường tà như vậy thì tâm ấy nương tựa vào đâu?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì tâm luôn chơn chánh không có mê loạn. Vì sao? Vì Bồ-tát tu tập viên mãn niệm trụ về thân, thọ, tâm, pháp. Hễ có đi vào thành ấp, xóm làng nghe nói lợi dưỡng tâm không tham đắm, nhiễm trước. Giống như Thế Tôn đã dạy trong giới kinh: Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền não.

Này Thiên vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khéo tu niệm trụ về thân như thế nào? Nghĩa là Bồ-tát này dùng trí như thật xa lìa pháp ác bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ đầu đến chân chỉ có các thứ bất tịnh tội lỗi, vô ngã, vô lạc, vô thường, bại hoại, tanh hôi, thúi uế, gân mạch dính liền, gớm ghiếc như vậy ai mà thèm nhìn. Quán thân như vậy rồi thì tham dục, chấp thân ngã kiến, trong thân không còn nhớ đó có năng lực thuận theo pháp lành.

Này Thiên vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa khéo tu niệm trụ về thọ như thế nào? Nghĩa là Bồ-tát này suy nghĩ: Các thọ đều khổ nhưng vì hữu tình điên đảo lầm tưởng cho là vui. Phàm phu ngu si cho khổ là vui. Thánh giả chỉ nói tất cả đều khổ, vì muốn đoạn diệt khổ nên cần phải tu tinh tấn và khuyến khích người khác nên tu pháp này. Quán như vậy rồi thường trụ niệm thọ, không tùy thuận hoạt động của thọ mà phải tu hành đoạn dứt thọ và cũng dạy cho người như vậy.

Này Thiên vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khéo tu niệm trụ về tâm như thế nào? Nghĩa là Bồ-tát này suy nghĩ: Tâm vô thường, người ngu bảo là thường trụ, khổ bảo vui, vô ngã bảo ngã, bất tịnh bảo tịnh. Tâm này không ngừng thay đổi mau chóng là căn bản của thùy miên, là cửa ngõ của cảnh giới ác, là nhân duyên của phiền não hoại diệt cõi thiện. Tâm này thường sanh tham, sân, si khó tin tưởng. Tâm dẫn đầu các pháp. Nếu biết rõ tâm thì rõ các pháp. Các pháp thế gian đều do tâm tạo. Tâm không thấy được tội lỗi, hoặc thiện, hoặc ác đều từ tâm khởi lên. Tâm tánh chuyển nhanh như vòng lửa quay chẳng dừng, như gió, như quáng nắng, như nước chảy mạnh, như lửa phừng cháy. Quán tâm như vậy rồi thì niệm không động khiến tâm tùy theo ta mà không tùy hành. Nếu điều phục tâm tức điều phục các pháp.

Này Thiên vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khéo niệm trụ về pháp như thế nào? Nghĩa là Bồ-tát này biết như thật thế gian có các pháp ác bất thiện đó là tham, sân, si và các phiền não. Cần phải tu các pháp để đối trị như tu pháp đối trị tham, sân, si và các pháp khác để đối trị phiền não. Biết như vậy rồi chẳng hành pháp kia và làm cho người xa lìa.

Này Thiên vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối cảnh khởi niệm như thế nào? Nghĩa là Bồ-tát này nếu gặp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp liền nghĩ: Đối với pháp không chân thật này mà lại sanh tham ái ư? Đây chỉ là sự đắm trước của phàm phu ngu si, ấy là bất thiện.

Như Thế Tôn dạy: Ái thì sanh đắm trước, đắm trước thì sanh mê lầm, do đó không biết pháp thiện, pháp ác. Vì vậy đọa vào cảnh giới ác. Bồ-tát không như vậy nên không rơi rớt, không đắm trước cảnh giới và khiến cho người khác cũng vậy.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa niệm A-lan-nhã. Nghĩa là Bồ-tát suy nghĩ: A-lan-nhã là chỗ không ồn ào, không người ở, là trụ xứ tịch tĩnh. Trời, rồng, Dược-xoa, có Tha tâm trí đều biết tâm, tâm sở pháp của ta. Ở đây ta không nên khởi tâm tà vạy. Do suy nghĩ vậy nên được xả ly, đối pháp chánh niệm cần tu hành.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa suy nghĩ: Thành ấp tụ lạc là nơi ồn ào chẳng phải chỗ đi lại của người xuất gia, vậy không nên đến. Đó là quán rượu, mãi dâm, vương cung, đánh bạc, ca múa, các chỗ như vậy cần phải xa lìa.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghe lợi dưỡng liền khởi chánh niệm thế này: Vì sanh phước cho người kia nên nhận tài vật này chứ chẳng phải do tham đắm để mà nhận, rồi keo kiệt lấy nuôi dưỡng vợ con, cũng không nói ta có tài vật như vậy mà đem giúp hết cho người nghèo cùng, không có tính toán và sở hữu của ta. Lại suy nghĩ: Người đều khen ta có danh tiếng bố thí. Thế gian vô thường, mau chóng hoại diệt tại sao người trí đối với vô thường, không thật, không hằng, không chủ mà lại chấp ngã, ngã sở?

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, niệm đến những cấm giớiThế Tôn đã dạy, nghĩ: Chư Phật ba đời đều học giới này để thành Vô thượng Chánh giác, chứng đại Niết-bàn biết như vậy rồi tinh tấn tu học.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xagiáo hóa hữu tình và tự tu tập, ít muốn vui đủ, mặc áo phấn tảo, tâm thường trong sạch, tín lực vững chắc, thà bỏ thân mạng chứ không phạm giới; tâm xa lìa kiêu mạn dù mặc áo xấu đi vào thành khất thực nhưng không hổ thẹn, không lười biếng, siêng tu tinh tấn, việc làm chưa xong thì không bỏ dở giữa chừng, đối với y phục phấn tảo không bị lỗi lầm, đối với y phục cũ mục hư nát không khinh chê, chỉ giữ cái đức của mình, người ly dục mới mặc y phục này, được Như Lai khen ngợi vì ngăn chặn xan tham, cũng không khen mình mặc áo này, hay chê người không mặc; người thực hành như thế được chư thiên lễ kính, được Phật tán thán, Bồ-tát hộ trì, Bà-la-môn v.v... đều cung kính cúng dường.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thường tu diệu hạnh thanh tịnh như thế.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với hạnh cao thượng cần gì mặc áo phấn tảo này?

Phật bảo:

- Này Thiên vương! Các Đại Bồ-tát vì hộ thế gian nên mặc y phục phấn tảo này. Vì sao? Vì thế gian thấy mặc y phục này thì các điều ác đều dứt và sanh điều lành.

Này Thiên vương! Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát tu hạnh cao thượng có như Thế Tôn không?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu hạnh cao thượng trăm ngàn, vạn, ức cho đến vô số cũng không sánh bằng Thế Tôn. Vì sao? Vì Phật là đấng Pháp vương đầy đủ trí nhất thiết nên không có một pháp nào mà không thể chiếu soi.

Này Thiên vương! Ý ông nghĩ sao? Phật thị hiện khổ hạnhtán thán công đức tu hạnh Đầu-đà với tất cả trời, rồng, Dược-xoa, nhơn phi nhơn v.v... để làm gì?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật thị hiện như thế là giáo hóa các hữu tình có thể độ được và nói pháp đối trị cho các Bồ-tát mới phát tâm v.v... chưa dứt được phiền não.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Bồ-tát tu hạnh cao thượng mặc y phục phấn tảo cũng lại như vậy. Cho nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầy đủ phương tiện thiện xảo làm lợi ích cho hữu tình.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xathế gian nên chỉ giữ ba y. Vì sao? Vì tâm ít muốn biết đủ nên chẳng cầu nhiều. Vì không tìm cầu nên không chứa cất, không chứa cất nên không mất mát, không mất mát nên không buồn khổ, không buồn khổ nên xa lìa phiền não, lìa phiền não nên không còn đắm trước, không đắm trước thì các lậu tận diệt.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì muốn làm lợi lạc hữu tình nên cầm bát vào thành khất thực. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát luôn huân tập tâm đại bi, quán các hữu tình đa số nghèo khổ, vì muốn cho họ giàu vui nên nhận sự cúng dường. Khi vào thành ấp oai nghi tề chỉnh, tâm ngay thẳng giữ gìn các căn, bước đi từ tốn xem trước chừng sáu khuỷu tay, chậm rãi mà đi, không nhìn ngó hai bên, theo thứ lớp khất thực như pháp không bỏ nhà nghèo, đúng lượng khất thực, không tham cầu nhiều, trong bát cơm ấy sớt một phần bố thí cho kẻ nghèo, cúng dường phước điền. Vì sao? Vì tín thí khó tiêu và vì sanh phước.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ ăn một lần không hề thay đổi. Vì sao? Vì Bồ-tát chỉ một lần ngồi tòa Bồ-đề ma đến quấy nhiễu cũng không làm khuynh động, đối với định tuệ, trí xuất thế, pháp không, thật tế, chơn như, như lý thánh đạo, Nhất thiết chủng trí đều không thay đổi. Vì sao? Vì Nhất thiết chủng trí từ một pháp mà đắc vậy. Cho nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ ăn một lần.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình thị hiện khất thực.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường siêng tu học hạnh A-lan-nhã, nghĩa là tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, ưa học hỏi, kham nhẫn tu chánh hạnh, xa lìa ngã và sự sợ hãi, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh. Các Bồ-tát này thường ưa xuất gia ở trong chánh pháp, giữ tam luân giới, biết rõ pháp tướng. Như Lai đã từng thuyết giới cho ba hạng người già, trẻ, trung niên đều được thấu hiểu, chẳng duyên ngoại cảnh, chuyên niệm tự tâm, chê pháp thế tục, khen pháp xuất gia, điều phục các căn, không chấp giữ cảnh giới ác. Ở nơi A-lan-nhã không ở nơi nạn xứ, chẳng xa chẳng gần xóm làng để tiện khất thực, nơi ấy có suối nước trong tắm rửa dễ dàng, rừng nhiều hoa quả, không có thú dữ, hang núi yên tĩnh, ít người. Cư trú những nơi thắng xứ như thế. Đối với pháp đã học đêm ngày ba thời chuyên cần đọc tụng, tiếng không cao, thấp. Tâm không duyên ngoại cảnh chỉ chuyên trì nhớ niệm. Bà-la-môn v.v... có đến chỗ ấy niềm nở, vui mừng thăm hỏi, mời ngồi. Quán biết căn tánh để thuyết pháp cho họ được hoan hỷ, tín thọ, vâng làm. Dùng đủ phương tiện khéo léo giúp họ xa lìa ngã tâm. Vì vô ngã nên ở nơi vắng vẻ không có sợ hãi, xa lìa sợ hãi nên vui hạnh tịch tĩnh. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo như thế nên thị hiện tu hành ở nơi A-lan-nhã.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán biết các hành, suy nghĩ: Các thức ăn uống đều trong sạch thơm tho, nhưng do lửa thân tiếp xúc biến thành bất tịnh, hủy hoại hôi hám. Người ngu vô trí luyến ái thân này và đồ ăn uống. Nếu theo thánh trí như thật quán sát thì sanh tâm chán ghét không còn say đắm.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy nghĩ: Nhiều hành động sân giận thì sẽ gây nghiệp ác, ta phải lìa tâm sân để hướng đến chánh đạo, suy nghĩ chân thật chứ chẳng nói suông.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy nghĩ: Các pháp sanh do nhân duyên, pháp nhân duyên lại từ duyên khởi. Vì sao đối với nhân duyên sanh pháp hư vọng này mà người trí lại tạo tội lỗi? Bồ-tát đoạn trừ những pháp chướng ngại điều thiện ở trong thân. Nếu chẳng dứt trừ những pháp chướng ngại điều thiện cho người khác thì tâm liền buông xả không nên phát sanh vô minh. Thế nào gọi là pháp chướng ngại điều thiện? Nghĩa là không cung kính Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh không kính đồng học, tự cao khinh thường những người lớn, nhỏ, già, trẻ, hướng đến năm dục, quay lưng với Niết-bàn và phát sanh ngã kiến, hữu tình kiến, cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến, chấp không rồi khởi lên đoạn kiến, chấp có, rồi khởi lên thường kiến, xa lìa Thánh hiền, gần gũi phàm phu, nương người phá giới, thân gần bạn ác, xa lìa bạn lành, pháp thâm sâu nghe rồi sanh tâm hủy báng. Thân làm việc ác luật nghi, lời nói ác, tâm nịnh hót, quanh co, bị phiền não che lấp, tham đắm lợi dưỡng, phát sanh đủ năm mạn:

1- Khinh mạn vì dòng họ cao quí.

2- Khinh mạn vì dòng họ giàu sang.

3- Khinh mạn vì hiểu biết hơn người.

4- Khinh mạn về đất nước.

5- Khinh mạn về đồ chúng.

Thấy việc ác liền giúp sức, gặp việc thiện lại tránh xa, khen ngợi sắc đẹp của đàn bà, con nít ngoại đạo, không ưa tu tập hạnh A-lan-nhã, không biết ăn uống đúng lúc, tuy có đọc tụng mà chẳng đúng thời, xa lìa sư trưởng, thấy việc thiện không tôn trọng, thấy việc ác không sợ hãi, như voi không có móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng chế ngự được, ưa sân giận, không có từ tâm, thấy người khổ không thương, gặp người bệnh không thăm hỏi, gặp người chết không lo sợ, như sống trong đống lửa mà không mong cầu ra khỏi, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm thì làm, việc không đáng suy nghĩ thì suy nghĩ, việc đáng suy nghĩ thì không suy nghĩ, việc chẳng mong cầu thì cầu, không ra khỏi bảo đã ra khỏi, chẳng phải đường gọi là đường, chưa chứng đắc cho là chứng đắc, ưa huân tập việc đại ác, xa lìa điều thiện lớn, hủy báng Đại thừa và người hành Đại thừa, khen ngợi Tiểu thừa và người học Tiểu thừa, ưa nói lời thô ác, làm loạn, đấu tranh, tâm không từ bi làm cho người khác phải khiếp sợ, nói lời thô bỉ không có một chút chơn thật, say mê theo hý luận không thể bỏ được. Các việc như vậy gọi là pháp chướng ngại điều thiện.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ-tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hộ trì pháp tạng vô thượng của Như Lai, nhận lãnh chánh pháp. Vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính. Vì muốn hộ trì hạnh Đại thừa chứ không vì danh vọng, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, giúp an lạc người không an lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn, chỉ đạo Thanh văn cho người tu Tiểu thừa, chỉ đạo Độc giác cho người tu trung thừa, chỉ đạo Vô thượng cho người tu Đại thừa, vì trí Vô thượng nên nghe pháp như thế chứ không phải vì cầu thừa thấp kém.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết rõ hoàn toàn các pháp Tỳ-nại-da khác nhau. Đó là Tỳ-nại-da, hạnh Tỳ-nại-da, sự sâu xa Tỳ-nại-da, vi tế Tỳ-nại-da, tịnh cùng bất tịnh, có lỗi không lỗi, giới bổn biệt giải thoát, Tỳ-nại-da Thanh văn, Tỳ-nại-da Bồ-tát. Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp Tỳ-nại-da như thế đều thấy biết rõ.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết rõ tất cả oai nghi giới hạnh, khéo học hỏi thọ trì giới hạnh của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát. Đã tu giới hạnh rồi, nếu thấy oai nghi nào không đúng ý mọi người thì Bồ-tát từ bỏ ngay không đi lại nơi phi xứ. Sa-môn nào có oai nghi giới hạnh đầy đủ thanh tịnh thì gần gũi họ. Nếu Bà-la-môn học các hạnh khác thì bảo họ xa lìa, khuyến khích họ tu Tỳ-nại-da. Tu tập giới hạnh thanh tịnh như vậy nên diệt sạch tâm xảo trá, tật đố. Tự hành hạnh bố thí cũng khuyên người làm theo. Tán thán hạnh bố thí làm cho người học theo, thấy người bố thí sanh tâm tùy hỷ, không có ý niệm nên bố thí cho ta đừng bố thí cho ai khác. Chỉ nên suy nghĩ: Đa số hữu tình đều bị nghèo thiếu, đói lạnh, khốn khổ, nguyện cho họ đời này được an vui, vì nghe chánh pháp nên đời sau an vui. Đời này ta phải siêng năng tu tập. Ta nguyện cùng hữu tình đều được giải thoát. Đây là Bồ-tát không có tâm tật đố, tâm luôn bình đẳng với các hữu tình. Nếu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã cho đến trí nhất thiết tướng, đều khắp vì tất cả hữu tình không có tâm phân biệt. Vì sao? Vì ý niệm pháp tu đồng với hữu tình cùng một cảnh giới mong sớm giải thoát, tự mình thoát ra khỏi lửa sanh tử thì nguyện cho hữu tình cũng được ra khỏi.

Này Thiên vương! Ví như trưởng giả có sáu người con nhỏ dại ông đều yêu thương không có phân biệt. Trưởng giả ở ngoài thấy nhà bị cháy. Ý ông nghĩ sao? Có thấy trưởng giả suy nghĩ thế này không: “Đối với sáu đứa con kia, ta cứu đứa nào trước, đứa nào sau”?

- Bạch Thế Tôn! Không có như vậy. Vì sao? Vì người cha luôn đem tâm bình đẳng đối với con cái.

- Thiên vương nên biết: Bồ-tát cũng vậy, vì những kẻ ngu si tham đắm trong sáu đường, đang ở trong nhà lửa sanh tử không biết đường ra, nên các Bồ-tát đem tâm bình đẳng dùng mọi phương tiện hướng dẫn họ đi ra, để được an ổn trong cõi tịch tịnh.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp cũng bình đẳng; vì hộ chánh pháp cúng dường Như Lai, dùng đầy đủ các thứ để cúng dường Như Lai, như thật tu hành để cúng dường Như Lai, làm lợi ích an lạc hữu tình để cúng dường Như Lai, giữ gìn thiện pháp của hữu tình để cúng dường Như Lai, tùy thuận giáo hóa, hướng dẫn hữu tình, hành Bồ-tát đạo, việc làm đi đôi với lời nói, tâm mong cầu Vô thượng giác không hề mỏi mệt, làm như thế mới gọi là cúng dường chư Phật, chẳng phải đem của cải mới gọi là cúng dường. Vì sao? Vì pháp là thân Phật. Nếu cúng dường pháp tức là cúng dường Phật. Chư Phật Thế Tôn đều đến từ chỗ tu hành như thật, vì làm lợi ích an lạc cho hữu tình, vì hộ trì thiện pháp tùy thuận hữu tình. Nếu chẳng làm như vậy là trái với bổn nguyện, lười biếng giải đãi thì không thể thành tựu tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì chí hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Bồ-tát cũng chung với hữu tình. Nếu khônghữu tình thì Bồ-tát làm sao có thể đắc đạo quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu hành chánh pháp cúng dường Như Lai gọi là chơn cúng dường. Cúng dường như thế để diệt tâm ngã mạn, xa lìa thế tục, cạo bỏ râu tóc giống như người đã chết, không còn liên hệ đến cha mẹ, anh em, bà con nội ngoại. Tướng trạng và y phục đều khác người đời, dẹp tâm ngã mạn để ôm bình bát vào thành ấp, hoặc là bà con xóm làng, hoặc là đến những nhà nghèo cùng để xin ăn, nghĩ: Mạng sống của ta tùy thuộc vào người khác. Nhờ họ cho ăn, ta mới sống, do đó trừ được tâm ngã mạn. Lại nghĩ: Ta nên hoan hỷ với tư tuởng của thầy bạn, vì xưa chưa được nghe pháp mà nay được nghe. Nếu thấy người kia sân hận, tranh cãi, nên phải nhẫn nhục, khiêm nhường tránh đi. Bồ-tát như thế là trừ được tâm ngã mạn.

Thiên vương nên biết: Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì sanh chánh tín bền chắc. Vì sao? Vì các công đứcnăng lực thiện căn đời trước đã đầy đủ nhân lành, thành tựu chánh kiến, nội tâm thanh tịnh, không chạy theo cảnh bên ngoài, tâm hạnh kiên cố chánh trực, không theo ngoại đạo, không có dối trá, các căn thông lợi, đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm được thanh tịnh, xa lìa triền cái, xa bạn ác, gần bạn lành, học hỏi lời hay, tâm không giải đãi, nghe lời thuyết pháp biết công đức Phật.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Cúi xin Đấng đại từ thương xót nói cho chúng con nghe về tướng đại oai thần công đức của Như Lai.

Phật bảo Tối Thắng:

- Này Thiên vương! Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói một phần nhỏ về oai thần công đức của Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Xin Thế Tôn nói cho.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao trùm hết hữu tìnhcảnh giới hữu tình, cho đến mười phương tận hư không giới đều được bao trùm không thể so lường được. Đức đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ-tát đều không thể có được. Vì sao? Vì pháp bất cộng cho nên không có một hữu tình nào ở mười phương thế giới mà không được đức đại bi của Như Lai bao trùm. Pháp của Như Lai nói ra rốt ráo không cùng tận. Vì các loài hữu tình khắp mười phương trải qua vô lượng kiếp, đức Như Lai đã dùng vô lượng nhân duyên nói các pháp yếu cũng không cùng tận. Nếu hữu tình dùng ngôn từ cú nghĩa để hỏi, thì chỉ trong một khảy móng tay đức Như Lai làm cho tất cả hữu tình đều phân biệt rõ ràng mà không ai có thể bắt bẻ được. Vì đức Như Lai đã đắc vô ngại tịnh lựcảnh giới thậm thâm không thể đo lường. Giả sử hữu tình ở các thế giới đều trụ thập địa Bồ-tát đến trăm ngàn kiếp, nhập vào Đẳng trì thù thắng cũng không thể đo lường cảnh định của Như Lai. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tùy thuận tâm mong thấy của hữu tình nên chỉ trong một niệm đức Như Laithể hiện vô lượng thân khác nhau. Thiên nhãn của Như Lai tối thắng thanh tịnh, đức Như Lai đều thấy rõ các hữu tình ở tất cả thế giới với sắc tướng sai khác và các loại vật không đồng nhau như xem trái xoài trong lòng bàn tay; những ai có thiên nhãn cũng không thể sánh kịp. Thiên nhĩ của Như Lai tối thắng thanh tịnh nên đối với âm thanh khác nhau của tất cả hữu tình và tất cả âm thanh của các vật khác thì chỉ trong một niệm Như Lai đều nghe và hiểu rõ ý nghĩa của nó. Tha tâm trí của Như Lai thanh tịnh nên đối với mỗi mỗi suy nghĩ tạo nghiệp thọ quả khác nhau của hữu tình cũng chỉ một niệm, trong bốn oai nghi Phật đều biết rõ. Vì sao? Vì Phật thường ở trong định, không có tán loạn.

Thiên vương nên biết: Phật không thất niệm, tâm không tán loạn, căn không duyên các cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô cấu. Người có phiền não, thất niệm, tán loạn, căn duyên các cảnh khác nhau. Đức Như Lai đắc vô lậu loại bỏ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết-bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể đo lượng, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nghe đức Như Lai trải qua ba vô số kiếp tu hành mới thành Phật. Vì sao nay nói tu vô lượng kiếp?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Nghĩa ấy không phải vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải tu vô lượng công đức mới được thành tựu, không phải trải qua chừng ấy kiếp số mà có thể chứng nhập pháp lý bình đẳng, phải tu rốt ráo mới thành Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã nói hoàn toàn pháp cốt yếu để khuyên tất cả hữu tình phát sanh các căn lành, xa lìa nghiệp chướng, muốn đạt quả Phật, tu Bồ-tát hạnh. Nếu hữu tình nào được nghe oai thần công đức của Như Lai mà sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi, tin tưởng thì nên biết hữu tình ấy sẽ mau thành tựu oai thần công đức như Phật, huống nữa là thọ trì đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng giải cho người khác thì phước đức của người ấy không thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Thiên vương! Hữu tình kia được Như Lai hộ trìtrải qua nhiều số kiếp mà người đó đã gieo trồng căn lành, hoặc ở quá khứ đã cúng dường các đức Phật nên mới được nghe oai thần công đức của Phật.

Thiên vương nên biết: Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào tâm không nghi hoặc, trong bảy ngày tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, cúng dường hương hoa, nhất tâm chánh niệm như trước đã nói về oai thần công đức của Phật, thì khi ấy Như Lai sẽ từ bi hộ niệm, hiện thân cho thấy, làm cho nguyện được đầy đủ. Nếu thiếu hương hoa v.v... cúng dường mà chỉ nhất tâm niệm công đức oai thần thì khi sắp qua đời sẽ được thấy Phật.

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có hữu tình nào nghe nói đại oai thần công đức của Như Lai như vậy mà không có lòng tin lại còn hủy báng nữa không?

Phật dạy:

- Cũng có, nghĩa là có hữu tình nghe nói pháp môn oai thần công đức của Như Lai như vậy sanh tâm sân hận, bất thiện rồi hủy báng, tưởng pháp sư là bạn ác. Người ấy sau khi qua đời sẽ đọa địa ngục chịu khổ nhiều kiếp. Nếu có hữu tình nghe nói đại oai thầncông đức của Như Lai như vậy mà vui mừng, tin thọ, tán thán, ghi nhớ, tưởng pháp sư là bạn lành thì sau khi qua đời được sanh lên trời, dần dần tiến lên thành Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài bao phủ khuôn mặt, cho đến đỉnh đầu rồi lại bao trùm khắp thân, kế đến che tòa Sư tử, rồi che che khắp đại chúng: đại chúng Bồ-tát, đại chúng Thanh văn, sau đó mới che Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế, nhơn phi nhơn v.v... Sau đó Như Lai thu tướng lưỡi và bảo đại chúng:

- Đức Như Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các ông đều nên tín thọ thì luôn được an vui.

Khi Phật thuyết pháp như vậy, ở trong đại chúng có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn tịnh, vô số hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Quyển thứ 568
HẾT

VI. PHẨM PHÁP TÁNH

Bấy giờ, Tối Thắng rời tòa đứng dậy, lệch áo che vai trái, gối phải chấm đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đức Thế Tôn đã khéo thuyết đại oai thầncông đức vi diệu cua chư Phật. Chư Phật Như Lai nhờ đâu mà đắc đại oai thần công đức vi diệu này. Nguyện Thế Tôn phân biệt giải nói.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết, hành động của Như Lai và kết quả đạt được thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn.

Tối Thắng bạch Phật:

- Phật hành pháp gì mà gọi là thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Nhân quả pháp tánh Như Lai thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn, oai thần công đức và pháp đã nói ra làm lợi lạc cho người cũng như vậy.

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao lại gọi pháp tánh thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Pháp tánh của Như Lai ở trong uẩn, xứ, giới của hữu tình từ vô thủy đến nay nối tiếp nhau chẳng nhiễm phiền não, bản tánh thanh tịnh. Tất cả tâm, ý, thức không thể Duyên khởi. Tất cả tìm cầu khác không thể phân biệt, tư duy về tà niệm không thể duyên với suy nghĩ, xa lìa tà niệm, vô minh không sanh. Do đó chẳng tùy theo thuyết mười hai Duyên khởi, gọi là vô tướng, chẳng phải là pháp được làm ra, không sanh, không diệt, vô tận, vô biên, tự tại thường trụ.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy nên không nhiễm trước, không dính mắc, xa lìa cấu uế, từ các phiền não vượt lên giải thoát. Tánh này là pháp căn bản của chư Phật, nhân đây mà sanh phước đức, trí tuệ, bản tánh minh tịnh không thể nghĩ bàn.

Này Thiên vương! Ta sẽ nói thí dụ, ông nên lắng nghe, và suy nghĩ ghi nhớ.

Thiên Vương bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Ngài nói cho.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Ví như bảo châu như ý vô giá, là vật trang sức sáng rỡ, trong sạch, khả ái, rất tròn và trong suốt không có vẩn đục, dù có chôn vùi trong đất bùn thời gian dài, ai nhặt được nó đều vui mừng giữ cất cẩn thận không cho rơi mất. Cũng vậy, pháp tánh tuy ở trong phiền não nhưng không bị nhiễm, sau rồi hiển hiện.

Này Thiên vương! Chư Phật đều biết bản tánh hữu tình đều rất thanh tịnh, nhưng bị khách trần phiền não che lấp nên chẳng ngộ nhập được. Do đó, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên suy nghĩ thế này: Ta cần tinh tấn nói nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các hữu tình để diệt trừ phiền não, được ngộ nhập. Tất cả bản tánh hữu tình thanh tịnh cần tôn trọng, không nên khinh bỉ, phải như pháp cúng dường đồng với đức Đại sư. Các Bồ-tát này do nghĩ như vậy nên có thể phát sanh Bát-nhã đại bi.

Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy liền chứng nhập địa vị Bất thối chuyển. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghĩ như thế này: Các phiền não này không có sức lực khả năng, tự thể hư vọng ngược với thanh tịnh. Vì sao? Vì các phiền não này ngược với trí nhất thiết, thuận với sanh tử. Pháp tánh thanh tịnhcăn bản của các pháp, tự tánh vốn không, các phiền não hư vọng đều do tà niệm điên đảo sanh ra.

Thiên vương nên biết! Ví như bốn đại nương vào hư không để lập, mà hư không không có chỗ nương nên phiền não cũng vậy. Bốn đại nương nơi vào pháp tánh, pháp tánh không có chỗ nương. Các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán biết rõ như thật, nên chẳng khởi trái nghịch, vì tùy thuận nên phiền não không sanh.

Các Bồ-tát quán sát phiền não nên không sanh nhiễm trước, và nghĩ như vầy: Nếu mình nhiễm trước thì làm sao nói pháp cho người khác xuất ly. Cho nên Bồ-tát đoạn diệt tâm nhiễm trước, thuyết giảng pháp như thật để mở sự trói buộc cho hữu tình.

Các Bồ-tát suy nghĩ: Nếu trong sanh tử có một phiền não làm lợi ích cho hữu tình thì ta sẽ chấp nhận nói, nhưng việc này không có nên cần phải đoạn diệt phiền não.

Các Bồ-tát lại nghĩ: Xưa kia, chư Phật hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa diệt các phiền não, ngày nay ta cũng như vậy. Vì sao? Vì ngày xưa chư Phật ở địa vị Bồ-tát cũng học như vậy để chứng Bồ-đề.

Các Bồ-tát do hai nhân duyên này, dùng phương tiện thiện xảo quán biết các pháp tánh. Pháp tánh vô lượng, vô biên bị các phiền não phủ kín, nên tùy thuận sanh tử, chìm ngập trong sáu đường, luân hồi trong đêm dài. Tùy thuận hữu tình nên gọi là hữu tình tánh.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khởi tâm nhàm chán, trừ năm cảnh dục, diệt các sự phân biệt để tu đạo Vô thượng. Tánh này được gọi là xuất ly, vượt tất cả khổ nên gọi là vắng lặng, là pháp cứu cánh mà thế gian mong cầu. Nhất thiết chủng trí thường trụ nhiệm mầu, nhờ pháp tánh này mà được tự tại, thọ ngôi Pháp vương.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát giai đoạn trước, giữa và sau pháp tánh đều bình đẳng, xưa nay vắng lặng, không bị các pháp làm chướng ngại, giống như hư không không bị sắc ngại. Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát biết rõ đúng lời chư Phật dạy, như pháp tu hành tất cả diệu hạnh. Công đức pháp tánh không thể nói hết, tướng không có hai, vượt cảnh nhất dị, bình đẳng tất cả, tìm cầu không hoạt động. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế có khả năng trừ được hai tướng: Ngã tướngpháp tướng. Tất cả phàm phu bị sự chấp trước ràng buộc không hiểu, không thấy, không rõ pháp tánh.

Các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì hay thông suốt pháp tánh như vậy. Ở chỗ hữu tình không hai, không khác. Vì sao? Vì chơn như các pháp không có tướng sai khác.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nương vào pháp tánh này để tu tập căn lành, ra vào ba cõi, làm lợi ích cho hữu tình, tuy hiện vô thường mà chẳng chơn thật. Vì sao? Vì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thật quán biết chơn pháp tánh. Nên đầy đủ phương tiện đại bi, nguyện lực không bỏ hữu tình. Nhị thừa phàm phu vì không có đại bi nguyện lực như vậy, nên không thấy pháp tánh viên mãn thanh tịnh, không thể như thật lợi ích chúng sanh.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể quán sát pháp tánh chơn tịnh như thế, tất cả Thánh giả như thật ngộ nhập. Không có người tu và pháp để tu, không có người thực hành và pháp để hành, không tâm, tâm sở, không nghiệp, không quả dị thục, không khổ, không vui. Quán sát như thế gọi là bình đẳng, không phân chia, xa lìa tùy thuận quảng đại, không ngã, không ngã sở, không cao, không thấp, chơn thật vô tận, thường trụ sáng suốt.

Vì sao? Vì tất cả Thánh pháp do đây mà thành thục, nhờ tánh này nên các bậc Thánh hiển hiện vô biên công đức và pháp bất cộng của chư Phật Như Lai đều từ tánh này sanh ra. Giới, định, tuệ của tất cả Thánh giả đều từ tánh này sanh ra. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Bồ-tát, Phật đều từ tánh này sanh ra. Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là chơn như, là cảnh thắng trí, là thắng nghĩa. Chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết-bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa một, lìa khác, vô tướng, vô danh.

Thiên vương nên biết! Các Bồ-tát này suy nghĩ: Pháp tánh lìa tướng, các pháp lìa tướng, không hai, không khác. Vì sao? Vì các pháp lìa tướng tức pháp tánh lìa tướng. Pháp tánh lìa tướng tức hữu tình lìa tướng. Hữu tình lìa tướng tức pháp giới lìa tướng. Pháp giới lìa tướng tức các pháp lìa tướng. Lìa tướng như thế cầu không thể được.

Chơn như pháp tánh, chơn như hữu tình không hai, không khác. Chơn như hữu tình, chơn như pháp tánh không hai, không khác. Chơn như pháp tánh, chơn như các pháp không hai, không khác. Chơn như các pháp, chơn như chư Phật không hai, không khác.

Chơn như pháp tánh, chơn như ba đời không trái nghịch nhau. Chơn như quá khứ, chơn như vị lai không trái nghịch nhau. Chơn như vị lai, chơn như hiện tại không trái nghịch nhau. Chơn như hiện tại, chơn như quá khứ không trái nghịch nhau.

Chơn như ba đời tức chơn như uẩn, xứ, giới. Chơn như uẩn, xứ, giới tức chơn như nhiễm tịnh. Chơn như nhiễm tịnh tức chơn như sanh tử Niết-bàn. Chơn như sanh tử Niết-bàn tức chơn như các pháp.

Thiên vương nên biết! Chơn như là không khác, không biến đổi, không sanh, không diệt, không ngăn lại, tự tánh chơn thật, vì không ngăn lại nên gọi là chơn như. Thấy biết như thật các pháp không sanh. Các pháp tuy có sanh mà chơn như chẳng động. Chơn như tuy sanh các pháp mà chơn như không sanh, gọi là Pháp thân thanh tịnh, bất biến như hư không, vô đẳng đẳng, không có một pháp nào trong tam giới có thể sánh bằng, khắp thân hữu tình không gì sánh bằng. Xưa nay thanh tịnh lìa cấu uế, chẳng nhiễm, tự tánh sáng suốt thanh tịnh, tự tánh bất sanh, tự tánh chẳng khởi. Tại tâm, ý, thức chẳng phải tâm, ý, thức. Tánh tức là không, vô tướng, vô nguyện. Khắp cõi hư không, khắp chúng hữu tình đều bình đẳng, vô lượng, vô biên, không có sai biệt. Không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không phải địa, thủy, hỏa, phong; không lìa địa, thủy, hỏa, phong. Không phải sanh, không lìa sanh. Tuy nghịch sanh tử nhưng chẳng thuận Niết-bàn. Mắt không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm, thân không thể cảm giác, ý không thể biết. Không ở tâm, ý, thức, không lìa tâm, ý, thức.

Thiên vương nên biết! Đây là pháp tánh. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì thông suốt pháp tánh này nên tu hành thanh tịnh, thường hiện sắc thân ở thành ấp, xóm làng, các châu Thiệm-bộ của ba ngàn đại thiên thế giới. Các thân hiện ra chẳng phải sắc, chẳng phải tướng mà hiện sắc tướng. Tuy chẳng phải hoạt động cảnh giới của sáu căn mà giáo hóa hữu tình không dừng nghỉ, để nói rằng thân này vô thường, vô ngã, là khổ, bất tịnh. Biết các hữu tình có tánh vắng lặng, nên thị hiện vô lượng thân hình, dùng phương tiện thiện xảo làm cho họ nhận lãnh sự giáo hóa. Vì biết tất cả thân đều không tác giả, không thọ giả, như gỗ đá v.v... nên nói hạnh thanh tịnh cho các hữu tình.

Các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thông suốt pháp tánh như thế, nên được tự tại, không có di động mà phát sanh nghiệp trí tuệ, tự tại trong thần thông, thị hiện các hành tướng. An trụ tự tại mà thường thị hiện các oai nghi, tự tại hướng đến trí nhất thiết tướng, thông suốt tất cả pháp tánh.

Thiên vương nên biết! Hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được tự tại như thế là tướng vô tận. Ở khắp các chỗ, không sắc hiện sắc. Tự tại quán sát khắp tâm hữu tình thấy tâm tánh như thật. Tự tại nhớ nghĩ vô biên, vô số kiếp nối nhau chẳng dứt. Biến hóa tự tại, trụ tướng giải thoát. Tự tại lậu tận, vì hữu tình nên chẳng chứng lậu tận. Tự tại ra đời ở cảnh thắng trí. Tự tại thâm sâu, Thanh văn, Độc giác không thể so lường được. Vì tự tại kiên cố nên ma không thể phá hoại được, ngồi tòa Bồ-đề thành tựu pháp tối thượng đệ nhất, tự tại tùy thuận chuyển pháp luân vi diệu, tự tại điều phục giáo hóa tất cả hữu tình. Tự tại nhận lãnh ngôi vị và được pháp tự tại.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, như thật thông suốt pháp tánh sâu xa nên được tự tại như thế, tu tự tại như thế nên được tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, không còn lệ thuộc vào ba cõi.

Vì sao? Vì xa lìa tất cả phân biệt hư vọng, phiền não ràng buộc chấp tướng điên đảo. Nếu muốn thọ sanh thì không còn ràng buộc, thọ sanh tự tại. Nếu muốn thị hiện diệt độ thì tùy theo sanh xứ của mình để thị hiện diệt độ, giữ gìn Đại thừathành tựu Phật pháp. Ở trong mười phương tìm cầu Phật pháp chắc chắn không thể được. Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, không thường, không đoạn.

Vì sao? Vì tìm cầu pháp này không thể được. Dùng lý như thật tìm cầu không thể được. Pháp này không thể nói có, nói không, cũng không có danh tướng, vượt cảnh giới này. Nếu lìa danh tướng tức là bình đẳng. Nếu pháp bình đẳng thì không chấp trước. Vì không chấp trước nên là pháp chơn thật. Nếu chấp chơn thật tức là hư vọng. Vì chẳng chấp trước nên chẳng hư vọng. Vì tâm không bị chấp trước nên vô ngại. Vô ngại tức vô chướng. Vô chướng tức không ngăn chặn. Nếu pháp không ngăn chặn tức đồng với hư không, chẳng lệ thuộc vào ba cõi. Nếu tất cả xứ không còn bị lệ thuộc thì pháp này vô sắc, vô tướng, vô hình. Nếu pháp vô sắc, vô tướng, vô hình, nên biết pháp ấy tùy theo cảnh giới kia nhưng lìa sự biết và đối tượng để biết.

Vì sao? Vì trong ấy không có một chút pháp nào để giác ngộ, có thể giác ngộ. Đó là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thông suốt bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quan sát pháp sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hoàn toàn không thấy ngã, không thấy hữu tình cho đến không thấy người biết và người thấy. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có sự xả bỏ; tuy trì tịnh giới nhưng lìa giới tướng; tuy tu tập an nhẫn nhưng tâm vô tận; tuy tu tập tinh tấn nhưng lìa tướng ấy; tuy tu tập tịnh lự nhưng không có sự vắng lặng; tuy tu tập Bát-nhã nhưng không có đối tượng; tuy tu tập niệm trụ nhưng không chấp chặt; tuy tu tập chánh đoạn nhưng tâm bình đẳng; tuy tu tập thần túc nhưng lìa hý luận, tuy tu tập căn lực nhưng không phân biệt các căn của hữu tìnhxa lìa lầm lỗi; tuy tu tập giác chi nhưng không phân biệt; tuy tu tập chi thánh đạo nhưng vô công dụng; tuy tu tập tịnh tín nhưng không chấp trước. Trí tuệ tự nhiên nhớ nghĩ các pháp với tâm trí bình đẳng, tu tập các diệu định tâm không phân biệt, quan sát diệu tuệ tâm không ngừng nghỉ. Tu tập quán chỉ tâm không có sự thấy, tu tập pháp quán tâm không có chỗ niệm. Tu tùy niệm Phật tâm thông suốt pháp giới bình đẳng, tu tùy niệm Pháp tâm không có chỗ trụ, tu tùy niệm Tăng nên thanh tịnh bản tâm. Giáo hóa hữu tình không có tâm phân biệt. Tâm pháp giới bao trùm tất cả pháp. Tâm như hư không, trang nghiêm cõi Phật. Tâm không có chỗ chứng đắc đạt Vô sanh nhẫn. Tâm không tiến lùi đạt Bất thối chuyển, xa lìa tâm tướng, không thấy có tướng. Ở trong tam giới dùng tâm bình đẳng, trang nghiêm tòa Bồ-đề. Tâm không có chỗ giác ngộ biết rõ tất cả pháp. Tuy chuyển pháp luân nhưng không thấy người nghe, người nói. Tuy hiện Niết-bàn nhưng biết bản tánh sanh tử bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát các pháp như vậy nhưng không thấy sự quán, không thấy có pháp để quán nên được thần thông tự tại. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh nên thấy tất cả hữu tình thanh tịnh.

Thiên vương nên biết! Ví như hư không biến khắp tất cả, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy.

Khi thuyết pháp này ở trong chúng hội có tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề, ba vạn hai ngàn Bồ-tát được Vô sanh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn tịnh, một vạn hai ngàn Bí-sô diệt sạch các lậu.

Khi ấy, Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm được thanh tịnh, thâm sâu như biển cả, phước đức trí tuệ không thể đo lường được, hay phát sanh công đức quí báu xuất thế hữu tình, sử dụng đạt đến Bồ-đề cũng không khô cạn. Phước đức Bồ-tát cũng không giảm bớt, giống như biển cả sanh nhiều châu báu. Trí tuệ Bồ-tát sâu xa khó vào được, Thanh văn, Độc giác không thể vượt qua. Thí như biển lớn thú nhỏ chẳng vào được.

Trí tuệ của Bồ-tát rộng lớn vô biên. Vì sao? Vì không chấp trước, không trụ, không sắc, không tướng. Trí tuệ của Bồ-tát từ trước về sau càng thêm sâu rộng, trước tiênBồ-đề tâm, về sau là trí nhất thiết. Pháp của Bồ-tát là vậy, không cùng ở chung với phiền não và bạn ác. Trí tuệ thế gian nếu vào trong biển trí tuệ của Phật thì chỉ là một tướng, một vị, đó là vô tướng; đạt đến trí nhất thiết là vị không phân biệt.

Trí tuệ Bồ-tát quán sát tất cả pháp không thấy thêm bớt. Vì sao? Vì đã thông suốt pháp tánh bình đẳng sâu xa. Năng lực đại từ bi của Bồ-tát chẳng trái với bản nguyện, là chỗ các bậc Thánh nương tựa để vì hữu tình thuyết pháp trong vô số kiếp không cùng tận.

Này Thiên vương! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đạt được pháp tánh sâu xa như vậy.

Này Thiên vương! Bồ-tát thông suốt hoàn toàn pháp thế tục. Tuy nói các sắc nhưng không thật có, tìm cầu sắc ấy chắc chắn không nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tuy nói địa giới nhưng không thật có, tìm cầu địa giới không nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy. Tuy nói nhãn xứ nhưng không thật có, tìm cầu nhãn xứ không nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như vậy. Tuy nói sắc xứ nhưng không thật có, tìm cầu sắc xứ không nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như vậy.

Tuy nói ngã nhưng không thật có, tìm cầu ngã này không nắm bắt được; đối với hữu tình cho đến người biết, người thấy cũng như vậy. Tuy nói thế gian nhưng không thật có, tìm cầu thế gian không nắm bắt được. Tuy nói pháp thế gian nhưng không thật có, tìm cầu pháp thế gian không nắm bắt được. Tuy nói Phật pháp nhưng không thật có, tìm cầu Phật pháp không nắm bắt được. Tuy nói Bồ-đề nhưng không thật có, tìm cầu Bồ-đề không nắm bắt được.

Thiên vương nên biết! Hễ có lời nói gọi là thế tục đế, đó chẳng phải là chơn thật. Nếu không nhờ vào thế tục đế thì không thể nói thắng nghĩa đế. Bồ-tát thông suốt thì thế tục đế chẳng trái với thắng nghĩa đế. Do thông suốt nên biết các pháp không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không đây, không kia, xa lìa ngữ ngôn văn tự hý luận.

Thiên vương nên biết! Thắng nghĩa đế xa lìa lời tịch tịnh, pháp của cảnh giới thắng trí không biến hoại. Nếu Phật ra đời hay không ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ. Đây gọi là Bồ-tát thông suốt thắng nghĩa đế.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không sanh, không diệt, tự tánh trống không, xa lìa thì làm sao có Phật xuất hiệnthế gian và chuyển pháp luân? Vì sao Bồ-tát đối với pháp không sanh mà thấy có sanh?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Vì các pháp không diệt nên không sanh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, chỉ do người thế tục thấy có sanh, có diệt, đó là sự thấy biết hư vọng, không chơn thật. Những Bồ-tát nào bằng phương tiện thiện xảo hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì thấy pháp nhân duyên, biết rõ thế tục đế là Không, vô sở hữu, không bền chắc, không có mà tợ như có, như huyễn hóa, như ảo mộng, như âm vang, như bóng dáng, như ảo ảnh, như quáng nắng, như việc biến hóa, như thành Tầm hương, lay động chẳng yên, đều do nhân duyên sanh khởi.

Các Bồ-tát này dùng Bát-nhã vi diệu quán sát các pháp Không, nói rộng cho đến từ nhân duyên sanh khởi. Các Bồ-tát này tư duy: Các pháp này thấy có sanh, có trụ, có diệt. Do nhân duyên nào mà sanh? Do nhân duyên nào mà diệt? Tư duy như vậy rồi biết rõ như thật, do vô minh sanh các hành, do hành sanh thức, nói rộng cho đến do hữu nên có sanh, do sanh nên có lão, do lão nên có tử và ưu, sầu, khổ, não. Cho nên cần phải tu hành để diệt vô minh. Nếu diệt vô minh thì mười một chi còn lại lần lượt diệt theo, như thân đã diệt thì mạng sống đều diệt theo.

Thiên vương nên biết! Tà kiến ngoại đạo mong cầu giải thoát, chỉ muốn đoạn tử chẳng biết đoạn sanh. Nếu pháp không sanh thì không có diệt. Ví như có người ném hòn đất vào sư tử, sư tử đuổi người thì hòn đất tự rớt. Cũng vậy, Bồ-tát chỉ đoạn sự sanh là tử tự diệt. Ví như con chó chỉ đuổi theo đất mà chẳng biết đuổi người. Cũng vậy, ngoại đạo chẳng biết đoạn sanh thì không thể lìa tử. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì biết rõ nhân duyên sanh diệt của các pháp.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết pháp nhân duyên Không, vô sở hữu nên không sanh ngã mạn, sanh nhà giàu sang không ngã mạn về giàu sang và tôn quý. Sanh nhà nghèo hèn, tự biết nghiệp đời trước không được thanh tịnh lắm, được quả thấp kém sanh tâm nhàm chán nên cầu xuất gia, nghĩ như vầy: Thân ta được tạo thành do các nghiệp khác nhau, cần phải tu tịnh nghiệp để được thanh tịnh và cũng dạy người khác như vậy. Tự cầu độ thoátđộ thoát cho người. Tự cầu xuất lymở trói buộc cho người. Do đó phát sanh tinh tấn, không còn lười biếng, ác pháp chướng đạo cần phải đoạn trừ, thiện pháp trợ đạo cần phải tăng trưởng. Cần tu tinh tấn, suy nghĩ thế này: Ta mang gánh nặng, cần phải tự diệt tất cả phiền não, độ thoát hữu tình không nên lười biếng.

Đối với Sư trưởng thân cận dù cho họ hiểu nhiều hay ít, có trí hay không, trì giới hay phá giới thì Bồ-tát đều tưởng như Phật, cung kính đồng học. Tư duy ta đang nương Thầy học tập, tu pháp lành chưa hoàn toàn, cần phải tu cho viên mãn, phiền não chưa diệt cần phải đoạn diệt, giữ gìn pháp lành, xa lìa pháp ác để thành trí nhất thiết, làm ruộng phước đại bi, thương xót tất cả thế gian. Bậc Thiên nhơn sư là thầy của ta được thắng lợi hoàn toàn. Tất cả trời, người đều thờ Pháp chủ làm Đại sư.

Các Bồ-tát này tư duy: Phật dạy giữ gìn tịnh giới, thà giết chết thân mạng chứ không phạm giới. Thế Tôn đã dạy: Tùy thuận giáo pháp của Phật tức là cúng dường Phật. Bà-la-môn v.v... thí chủ cúng dường các thức ăn uống thì ta như pháp thọ dụng, đừng để người kia không được kết quả. Như vậy, người cúng thí và người nhận đều được lợi ích. Bà-la-môn v.v... vì dùng danh từ Sa-môn nên tưởng như phước điền của Bồ-tát. Bồ-tát phải đúng như lý, như lượng, tu hành chánh pháp thì hiển hiện công đức Sa-môn, công đức phước điền. Bồ-tát như vậy là tự tu hànhgiáo hóa người không có dừng nghỉ.

Các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì thường tùy thuận thế gian, thấy kẻ giận dữ thì không khiêm nhường, thấy kẻ kiêu mạn thì tưởng vô ngã, thấy kẻ tà vạy thì tưởng chánh trực. Thấy kẻ nói lời dối trá thì tưởng như thật. Thấy kẻ nói ác thì dùng lời ái ngữ. Thấy kẻ cứng cỏi thì thị hiện nhu hòa. Thấy kẻ nóng giận thì sanh từ nhẫn. Thấy kẻ theo pháp tà thì sanh đại từ. Thấy kẻ khổ não thì sanh lòng đại bi. Thấy kẻ xan tham, tật đố thì hành bố thí.

Các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tùy thuận trí thế gian nên được sanh cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trì giới không thiếu khuyết, xa lìa tạp uế, tu tâm bình đẳng. Ở chỗ hữu tình đầy đủ các căn lành lớn, không đắm trước danh lợi. Có đức tin thanh tịnh, không có sự hy vọng mong cầu, cần hành tinh tấn, tu tập không biếng nhác. Tu tập các tịnh lự để xa lìa tán loạn. Dùng tuệ vi diệu để học tập đa văn. Các căn đầy đủ, trí tuệ thông minh, tu đại từ để xa lìa giận dữ não hại. Nhờ nhân duyên này được sanh về cõi Phật thanh tịnh.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Như lời Phật dạy người tu tập về các pháp trì giới v.v… và các pháp thì được sanh cõi Phật thanh tịnh. Như vậy, cần tu đầy đủ các pháp hay chỉ tu một pháp là được sanh ở cõi Phật thanh tịnh?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở trước, Bồ-tát nào chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh.


Các Bồ-tát này sanh ở cõi Phật thanh tịnh không bị bào thai làm ô uế. Vì sao? Vì Bồ-tát đã làm tượng Phật, tu sửa vườn Tăng, ở trước bảo tháp Phật, thoa đất thơm và đốt hương cúng dường, rải hoa đẹp cúng dường hoặc dùng nước thơm rưới rửa tượng Phật. Ở trong vườn Tăng, rưới nước quét dọn và láng nền. Từ tâm cung phụng cha mẹ, sư trưởng, thiện hữu đồng học và các Sa-môn, dùng tâm bình đẳng cung kính cúng dường. Đem căn lành này ban cho hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề, làm cho hữu tình đều được thanh tịnh. Bồ-tát như thế là được ly dục.

Vì sao? Vì tâm không chấp trước, chẳng đắm nhiễm theo bè đảng, quay lưng các trần cảnh, xa lìa các duyên ái. Ở trong cảnh dục tâm chẳng ái nhiễm, tu hành như thật giới Phật đã thuyết. Đối với bốn việc cúng dường ít muốn vui đủ, chỉ đủ nuôi thân, tâm thường lo sợ, thường hành tịch tĩnh, xa lìa các pháp. Bồ-tát như thế chẳng đắm trước việc thế tục, liền được mạng sống thanh tịnh. Không tà vạy, oai nghi, không dối trá, lời nói không lừa gạt. Nghĩa là trước mặt thí chủ không lừa dối bằng cách thể hiện bước đi ung dung, nhìn thẳng phía trước sáu khuỷu tay, không nhìn ngó hai bên, đó là uy nghi tà mạng. Lúc không có thí chủ thì phóng túng buông lung.

cầu lợi dưỡng nên có thí chủ thì ăn nói ngọt ngào, nhỏ nhẹ, tùy thuận theo ý họ, lúc không có thí chủ thì nói lời thô bỉ. Thấy người hành bố thí trong tâm thật có tham muốn nhưng nói rằng không cần. Khi không được của thì sanh phiền não. Lời nói biểu hiện ít muốn mà tâm tham cầu lợi dưỡng thật nhiều.

Các Bồ-tát này không có tướng cầu lợi dưỡng như thế. Nếu thấy thí chủ thì không nói rằng ba y hư rách, đồ dùng thiếu thốn, hoặc nói cần thuốc men. Lại tuyệt đối không được nói với thí chủ: “Này thí chủ Mỗ (Giáp)! Cho tôi vật này”, hoặc “Người kia nói tôi trì giới học rộng, đại bi, tinh tấn. Dù khen như thế mà tôi không có đức này, tôi chỉ siêng tu thiện để đền ơn thí chủ.”

Các Bồ-tát này không nói với bạch y những lời tự khen mình chê người để cầu danh lợi như thế. Nếu thấy thí chủ cúng thí cho người khác không sanh tâm sân hiận, phiền não, không dua nịnh quanh co để cầu nhận vật đó, không dối trá bằng cách thân thiện để hại người lấy của, chẳng mong hạ nhục người bằng cách giỡn cợt để lấy của. Thí chủ định cúng thí cho người được khen, hoặc người thuyết pháp, hoặc đại chúng, hoặc chưa dự định phần chia, hoặc đã bố thí nhưng chưa cho hẳn thì Bồ-tát không bao giờ chen vào trong ấy để nhận phần. Nếu khi nhận tài vật thì không tham đắm, đây là vật của ta, đây là sở hữu của ta, phải đem cho ngay đến các Sa-môn khác, hoặc Bà-la-môn, Sư Tăng, cha mẹ và các người nghèo cùng thiếu thốn, đều được bình đẳng sử dụng. Nếu tài vật hết không lo lắng, vài ngày không được thì tâm không khổ não.

Các Bồ-tát này thọ nhận vật của người khác cúng dường, hoặc bố thí cho người, cả hai đều được thanh tịnh. Vì hạnh thanh tịnh nên tâm chẳng mệt mỏi. Vì sao? Vì lợi ích cho hữu tình đang bị đắm chìm trong biển luân hồi sanh tử, nên các Bồ-tát này không nhàm chán. Nếu có việc ma, các khổ bức bách, tâm không bị thối lui. Nếu người muốn hành Nhị thừa thì vì họ để thuyết pháp không có nề hà, mệt nhọc. Bồ-tát tu pháp Bồ-đề phần, không hề nhàm chán.

Các Bồ-tát này tinh tấn như thế là thường tùy thuận hành theo chánh giáo của Phật. Vì sao? Vì các Bồ-tát này xa lìa sự buông lung, tâm thường cẩn thận, khéo tự giữ gìn thân, không tạo việc ác; ngữ, ý cũng vậy. Dù sống ở hiện tại nhưng sợ về vị lai, diệt sạch các pháp ác không cho sanh ra nữa. Lời nói thường dựa vào chân lý, thường thuyết đúng giáo pháp, chẳng nói những lời phi pháp. Bỏ nghiệp xấu ác, chuyên tu hạnh thanh tịnh. Không hủy giáo pháp của Phật, xa lìa phiền não và pháp bất tịnh. Đó là hộ trì chánh pháp của Như Lai, diệt sạch các pháp ác, bất thiện.

Các Bồ-tát này tùy thuận theo giáo pháp thanh tịnh của Phật, nếu thấy hữu tình thì vui vẻ, mỉm cười, không hề nhăn nhó. Vì sao? Vì tâm đã lìa tạp uế, vẩn đục, các căn thanh tịnh, xa lìa cấu bẩn, sân nhuế, tâm không có nội kết oán hận. Bồ-tát như thế tức được đa văn, quán sát sanh tử thường biết như thật về lửa tham, sân, si đốt cháy làm cho con người mê loạn. Biết như thật về các pháp hữu vi đều vô thường, tất cả hành là khổ, các pháp là vô ngã. Ở thế gian, hữu tình say đắm theo hý luận, phải hiểu như thật là trong các pháp chỉ có Niết-bàn là tối thắng, tịch tịnh. Nghe người thuyết pháp thì suy nghĩ nghĩa rồi truyền trao cho người. Phát đại từ bi, khởi niệm kiên cố. Nếu chẳng nghe pháp thì không tư, tu.

Thế nên văn tuệcăn bản của các chữ. Tất cả trí tuệ được sanh ra từ đây. Đã được đa văn thì hộ trì chánh pháp. Vào thời chánh pháp diệt tận, ở đời vị lai có các hữu tình muốn tu hành mà không gặp chánh pháp, không có người thuyết pháp thâm sâu, thì khi ấy Bồ-tát tuyên dương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để cho hữu tình tu giới, định, tuệ. Do đó khen: “Thiện nam tử! Vào thời chánh pháp diệt tận, người nên phát tâm Bồ-đề cầu Vô thượng giác, vì muốn làm lợi lạc cho hữu tình. Kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế là đối tượng để tu hành của chư Phật trong ba đời. Người siêng tu hành thì giác ngộ chẳng xa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không xa đại Bồ-đề. Như người trồng lúa, cây lúa đã trổ đồng, nên biết kết quả thu hoạch không xa. Cũng vậy, Bồ-tát cầu đại Bồ-đề mà được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì chắc chắn Bồ-tát ấy cách Phật chẳng xa.

Thiện nam tử! Xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để nương tựa vào các kinh khác cầu Vô thượng giác, hoặc có thể chứng đắc, thì điều ấy không thật có. Thí như con vua, bỏ vua cha mà đi đến người khác cầu làm thái tử chắc chắn không thể được. Cũng vậy, Bồ-tát cầu trí nhất thiết cần nương Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu nương vào kinh khác cầu trí nhất thiết thì không thể được. Thí như bò con muốn bú sữa thì phải nhờ mẹ nó, nếu tới bò khác thì không có sữa. Cũng vậy, Bồ-tát cầu đại Bồ-đề phải nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu nương pháp khác thì không thể chứng đắc.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa làm Pháp vương tử, tướng tốt trang nghiêm thân thể, các căn đầy đủ, tu hành pháp Phật đã tu, giác ngộ điều Phật đã giác ngộ. Cứu hộ khổ não cho tất cả hữu tình, thông suốt hoàn toàn giáo pháp của Phật đã thuyết, thường tu phạm hạnh, xa lìa sự vẩn đục, giữ gìn thành trì trí nhất thiết của chư Phật.

Đó là Bồ-tát làm Pháp vương tử, được Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cùng tôn trọng. Vì sao? Vì hành đạo Bồ-tát được bất thối, tất cả ác ma không thể lay động. Do đó, an trụ Phật pháp, thông suốt tất cả lý không bình đẳng, không chạy theo duyên ngoài, nên an trụ trong trí tuệ Phật pháp. Không cùng ở chung với Thanh văn, Độc giác v.v... vượt khỏi thế gian, trụ Vô sanh nhẫn.

Bồ-tát biết như thật các phẩm thượng, trung, hạ khác nhau về tham, sân, si của hữu tình, biết rõ như thật phẩm loại khác nhau về tâm thiện, tâm kiên cố của hữu tình. Khi biết như thật rồi, tùy theo mỗi một hữu tình để nói pháp đối trị, có thể giáo hóa hữu tình. Hữu tình nào muốn thấy thân Phật được độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Phật để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Bồ-tát để được độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Bồ-tát để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Độc giác để được độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Độc giác để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Thanh văn để được độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Thanh văn để thuyết pháp. Nếu muốn thấy các thân Đế Thích, Phạm Thiên, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả, Cư sĩ v.v... để được độ thoát thì Bồ-tát đều hiện các thân ấy thuyết pháp cho họ. Bồ-tát bằng phương tiện thiện xảo hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa giáo hóa, độ thoát hữu tình như thế.

Các Bồ-tát này tâm tánh từ hòa, chánh trực, uyển chuyển, không bị cấu uế như dua nịnh, ganh ghét. Tâm thường thanh tịnh, không nói lời thô ác, hành hạnh nhẫn nhục, gần gũi hữu tình.

Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì ở trú xứ ấy được an ổn. Vì sao? Vì Bồ-tát đầy đủ chánh kiếnthanh tịnh kiến, thanh tịnh hạnh, các hành động trong cảnh giới tùy tâm tương ưng. Nếu tâm trái với pháp ác bất thiện và không hoạt động trong cảnh giới uế ác thì Bồ-tát không thực sự tu hành.

Các Bồ-tát này thấy người đồng học hết lòng hoan hỷ, hoặc của cải, hoặc giáo pháp đều thọ dụng chung để hành Phật đạo, chỉ có Phật là Thầy.

Bồ-tát như thế thì được tự tại, an lạc, nắm giữ đầy pháp để giáo hóa hữu tình. Vì lợi ích nhiếp phục hữu tình nên Bồ-tát bố thí lợi ích, bố thí an lạc, hoặc bố thí tất cả, hoặc dùng lời lợi ích, lời có nghĩa, lời đúng pháp, hoặc những lời tương tự để nhiếp phục hữu tình. Đem của cải để lợi ích bình đẳng, hoặc đem thân thể lợi ích bình đẳng, hoặc đem sinh mạng để lợi ích bình đẳng, hoặc đem vật dụng để lợi ích bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Bố thí lợi ích tức là pháp thí. Bố thí an lạc tức là tài thí. Bố thí vô tận là chỉ dạy chánh đạo. Lời nóilợi ích thì sanh pháp lành. Lời nói có nghĩa thì thấy chánh lý. Lời nói như pháp thì tùy thuận giáo pháp của Phật. Lời nói chẳng sai khác thì thuyết pháp như thật. Dùng của để lợi ích bình đẳng là việc ăn uống, y phục v.v.... Dùng thân để lợi ích bình đẳngbảo vệ nhiếp phục và kẻ khác cũng được như vậy. Dùng mạng để lợi ích bình đẳng là các thứ trân bảo ngoài mạng sống. Vật dụng lợi ích bình đẳng là voi, ngựa v.v... tất cả tịnh tài. Đó là các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tự mình làm và đem cho người đều được bình đẳng.

Các Bồ-tát này sanh ra với thân hình xinh đẹp, siêng năng tu tập, oai nghi tịch tĩnh, oai nghi không dối trá, oai nghi thanh tịnh, mọi người đều muốn nhìn. Trong ngoài đều thiện, người xem không chán, làm vui lòng người, tất cả hữu tình đều yêu mến, tôn trọng. Ai nhìn thấy đều phát thiện tâm, người sân hận thấy thì tâm hòa giải.

Các Bồ-tát này xinh đẹp như thế, làm chỗ nương tựa, bình đẳng bảo hộ hữu tình diệt sạch phiền não, hướng dẫn hữu tình xa lìa sanh tử vô biên, độ thoát vô biên hữu tình vượt qua hiểm nạn của thế gian. Làm bạn thân với kẻ không quyến thuộc, làm thầy thuốc giỏi cho kẻ bệnh phiền não, làm người cứu hộ cho người không được cứu hộ, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, làm ngọn đuốc Pháp cho người không ánh sáng. Bồ-tát làm y chỉ cho các hữu tình như thế để chữa trị các bệnh, như cây Thọ vương tên là Thiện Kiến, thân cây, gốc rễ, cành lá, hoa quả, sắc hương, mùi vị đều chữa lành bệnh. Cũng vậy, các Bồ-tát này từ khi mới phát tâm cho đến cứu cánh thường chữa lành bệnh phiền não cho hữu tình. Bồ-tát có nhiều phước đức trí tuệ thì người nào được thấy nghe đều lành bệnh.

Đó là Bồ-tát có công đức tương ưng tùy theo năng lực để làm việc cúng dường Tam bảo, người có tật bệnh thì bố thí thuốc men, người đói khát thì bố thí đồ ăn uống, người lạnh rét thì bố thí y phục. Hết lòng kính thờ các vị Thân giáo sư, Quỹ phạm sư, cung kính chào hỏi người đồng học, đồng giới pháp. Tạo lập trú xứ Tăng, cấp thí ruộng vườn tùy theo tài vật của mình để bố thí đối xử như pháp đối với tôi tớ. Nếu nghe Phạm chí, Sa-môn nào có danh đức, tu chánh hạnh thì thường gần gũi để học hỏi.

Các Bồ-tát này thường phát sanh hạnh lành, đầy đủ phương tiện thiện xảo để giáo hóa cứu độ hữu tình. Thân vẫn ở yên nơi quốc độ này mà đến vô biên quốc độ khác để hỏi chánh pháp, thị hiện cúng dường vô biên Như Lai, hoặc thị hiện tu tập trợ Bồ-đề phần, hoặc thị hiện cúng dường vị Phật mới thành, hoặc thị hiện thân mình thành Đẳng chánh giác, hoặc vì chúng thị hiện chuyển pháp luân vi diệu, hoặc thị hiện Niết-bàn làm việc lợi ích lớn. Người đáng độ thì thị hiện thân hóa độ, làm cho người thấy được lợi ích. Tuy làm các việc Phật sự như thế mà chẳng tác ý, chẳng phân biệt.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm các việc biến hóa như thế nào mà tâm không phân biệt?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu soi khắp tất cả không có phân biệt: Ta phát ánh sáng và chiếu đến chỗ nào thì các loài hữu tình tùy theo nghiệp lực của mình để cảm nhận ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi ngày đêm. Cũng như vậy, các Bồ-tát này tuy hiện hóa thân mà không phân biệt. Vì sao? Vì các hữu tình đều có nghiệp lành đời trước. Xưa kia, Bồ-tát phát nguyện độ hữu tình, do sức thệ nguyệntùy theo ý niệm của họ nên hóa hiện thân không phân biệt.

Các Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo, thường làm những việc làm như thế để giáo hóa hữu tình mau chóng hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát này bố thí viên mãn, trì giới thanh tịnh, không bị lủng chảy, khiếm khuyết, giới phẩm thanh tịnh vượt hẳn hàng Thanh vănĐộc giác, đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, xảo tiện, diệu nguyện, lực, trí và các công đức bất cộng của Phật, vượt trên địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiên vương nên biết! Bồ-tát sơ địa cho đến thập địa hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu tập các hạnh như thế chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề.

Khi thuyết pháp này có hai vạn Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Ba vạn Bồ-tát được Vô sanh nhẫn. Tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề. Vô lượng trăm ngàn Kiền-đạt-phược và Khẩn-nại-lạc nhiễu quanh núi Thứu Phong, hoan hỷ chấp tay tán thán Như Lai. Vô lượng trăm ngàn Dược-xoa vui mừng chấp tay nhiễu quanh núi Thứu Phong, mưa nhiều loại hoa vi diệu để cúng dường chư Phật. Ở mười phương vô lượng hằng hà sa thế giới chư Phật đều có vô lượng Bồ-tát đến tán thán: Đức Như Lai Thế Tôn khéo thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các Bồ-tát. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà trời, người được bốn hướng, bốn quả và đạo Độc giác Bồ-đề. Cũng có Bồ-tát thập địa, thập độ, mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết v.v... Vô biên Phật pháp đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Như việc thế gian đều nương hư không, hư không không có chỗ nương. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, vì các pháp không có chỗ nương. Nguyện cho chúng tôi ở đời vị lai thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát như Thế Tôn đang tuyên thuyết ngày nay. Nói như vậy rồi cung kính rải hương hoa lên Như Laichúng hội.

Lúc ấy, có vô lượng thiên thần và các thần khác ở núi Thứu Phong trụ giữa hư không tán thán:

- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Chúng con nghĩ đã có vô lượng chư Phật đến núi Thứu Phong thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đại chúng như ngày nay không khác.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên thần ở không trung có trí tuệ gì, làm sao biết được sự sai khác gần xa của cảnh giới chư Phật trong quá khứ, mà nói có vô lượng chư Phật đã tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho chúng hội này?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Chúng thiên thần đây đều là Bồ-tát an trụ cảnh giới Bất khả tư nghì giải thoát, cho nên được sự sai khác gần xa của cảnh giới chư Phật trong quá khứ.

Này Thiên vương! Xưa kia, Ta còn làm Bồ-tát đã từng sanh trong cảnh thiên thần ấy, thấy vô lượng chư Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng bồ-đề, đã vì chúng hội tuyên thuyết diệu pháp cho đến lúc nhập Niết-bàn, Ta thường chấp tay kính lễ khen ngợi. Vì sao? Vì tuổi thọ của cảnh giới thiên thần kia lâu dài, nên thấy nghe vô biên sự việc lâu xa trong quá khứ.

Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử tên là Quang Đức rời tòa đứng dậy, lệch áo che vai trái, gối phải chấm đất, chấp tay bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát phải ở cõi Tịnh độ, chứ tại sao Thế Tôn xuất hiệnthế giới Kham Nhẫn đầy dẫy ô uế xấu ác này?

Phật bảo Quang Đức:

- Thiên tử nên biết! Chỗ ở của Như Lai không có tạp uế tức Tịnh độ.

Khi ấy, Như Lai dùng thần lực làm cho ba ngàn đại thiên thế giới đất bằng như bàn tay, đều do lưu ly tạo thành, không có các núi gò, núi đất, chông gai, nơi nơi đều có nhiều báu, hương hoa, cỏ mềm, suối hồ với nước tám công đức, thềm bậc bằng bảy báu, cỏ cây hoa quả đều thuyết về pháp luân Bất thối của Bồ-tát, không có pháp Thanh văn, Độc giác khác. Tuy có Bồ-tát từ mười phương đến, mà chẳng nghe tiếng gì khác, chỉ nghe thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Khắp nơi hoa sen nở lớn như bánh xe, với đầy đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, tía v.v… Trong các đài hoa đều có các Bồ-tát ngồi kiết già, tư duy về Đại thừa. Thấy chư Như Lai ở giữa chúng hội, thuyết pháp sâu xa cho chúng Bồ-tát; vô lượng trăm ngàn Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cung kính cúng dường vây quanh khen ngợi.

Thiên tử Quang Đức thấy việc như vậy vui mừng, hớn hở, khen ngợi Phật:

- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Hi hữu thay thưa Thiện Thệ! Pháp Như Lai đã thuyết chơn thật không hư dối. Chỗ ở của Như Lai không tạp uế, tức là Tịnh độ như Phật đã thuyết không có sai khác, hữu tình phước mỏng thấy tịnh thành uế.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… được nghe công đức danh tự Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đó là điều rất là hi hữu, huống chi là siêng năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho người khác.

Phật bảo Quang Đức:

- Thiên tử nên biết! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào ở trong vô lượng đại kiếp, đem tâm vô ngại bố thí các tài vật cho hữu tình, so với thiện nam tử, thiện nữ v.v… dùng tín tâm thanh tịnh biên chép kinh này rồi trao cho người khác thọ trì, đọc tụng thì công đức đạt được nhiều hơn người trước. Vì sao? Vì của thí chỉ trừ đói khát còn pháp thí không cùng. Vì vậy cho nên, tài thí chỉ được quả báothế gian, quả vui trời, người, được rồi lại mất. Nay tuy tạm được nhưng sau chắc mất. Nếu dùng pháp thí thì được chưa từng được, đó là Niết-bàn chắc chắn không lui mất.

Giả sửgiáo hóa hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới đều tu tập theo mười thiện nghiệp đạo. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rồi giảng thuyết cho người khác, thì được vô lượng, vô biên công đức vượt hơn người trước. Vì sao? Vì tất cả pháp lành đều được sanh ra từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Giả sử có người giáo hóa hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới đều được chứng đắc bốn hướng, bốn quả, Độc giác Bồ-đề. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì, đọc tụng, biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì công đức này vượt hơn người trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh ra. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà có Phật xuất thế. Cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ nào thì biết chỗ ấy là tòa Bồ-đề vi diệu, là chỗ Như Lai chuyển pháp luân. Thiện nam tử v.v… nên nhớ chỗ ấy thường có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh ra. Người nào cúng dường hình tượng Như Lai, thì được công đức chẳng bằng công đức cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có.

Quyển thứ 569
HẾT

 
VII. PHẨM BÌNH ĐẲNG

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai bên trái, quì gối phải chấm đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Như đức Thế Tôn dạy, pháp tánh bình đẳng. Vậy thế nào là bình đẳng? Những pháp nào gọi là bình đẳng?

Phật dạy Tối Thắng:

- Thiên vương nên biêt! Các pháp quán bình đẳng, tự tánh của nó tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh tướng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Diệt các điên đảo, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên diệt vô minh, hữu ái; vì si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng. Vì ngã và ngã sở chấp vĩnh viễn không còn nên danh sắc tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến không sanh, gọi là bình đẳng. Vì thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Tất cả phiền não chướng năng chấp, sở chấp và thiện pháp kia đều y nơi thân kiến sanh. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo thì mới có thể diệt thân kiến. Tất cả tùy miên và các phiền não đều vĩnh viễn tịch diệt, tác nguyện cũng dứt. Thí như cây lớn bị chặt đứt gốc rễ thì cành, nhánh, lá… không thể không khô chết. Như người đứt đầu thì mạng căn… chấm dứt. Tùy phiền não cũng lại như vậy, nếu đoạn thân kiến thì những pháp phiền não khác vĩnh viễn không còn. Nếu người hay quán các pháp vô ngã thì năng chấp, sở chấp đều vĩnh viễn không còn.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Khi ngã kiến khởi thì chướng ngại chân lí như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đối với năm thủ uẩn, vọng chấp cho là có ngã thì tức là khởi ngã kiến. Pháp chơn thật, tự tánh của nó bình đẳng, không có năng chấp và sở chấp ngã kiến trái nhau, nên gọi là chướng ngại.

Thiên vương nên biết! Ngã kiến như vậy không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, đều không có chỗ trụ nên gọi là tịch tĩnh, tức là bình đẳng viễn li ngã kiến. Thông đạt bình đẳng, gọi là chơn thật Không. quán sát Không, vô tướng, vô nguyện này tự tánh tịch tĩnh không sanh, không diệt, không thủ, không trước, viễn li ngã kiến nên gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Nói ngã là không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở chấp gọi là lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Các phiền não chướng gọi là lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy chủng loại Ba-la-mật-đa lìa xa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình đẳng. Bồ-tát thường duyên pháp phần Bồ-đề, không tác ý khởi Thanh văn, Độc giác, nhưng đối với phần Bồ-đề Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát không thấy dị tướng, nên gọi là bình đẳng. Tâm không ngừng nghỉ duyên trí nhất thiết, thường tu hạnh Không, do lực đại bi mà không bỏ hữu tình, nên gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm duyên vô tướng mà tu Bồ-đề, không thấy vô tướng và Bồ-đề khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyệntam giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Quán thân bất tịnh, tâm trụ thanh tịnh. Quán hành vô thường, tâm duyên sanh tử mà không chán bỏ. Quán hữu tình khổ, trụ Niết-bàn vui. Quán pháp vô ngã, khởi tâm đại bi đối với các loài hữu tình, thường vì hữu tình mà nói thuốc bất tịnh, nhưng không thấy bệnh tham; thường nói đại từ nhưng không thấy bệnh sân; thường nói duyên khởi nhưng không thấy bệnh si. Vì những kẻ bệnh như vậy mà nói thuốc vô thường, nhưng không thấy các bệnh và vô thường khác nhau. Như vậy, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, duyên pháp li tham là giáo hóa Thanh văn, duyên pháp li sân là giáo hóa Độc giác, duyên pháp li si là giáo hóa Bồ-tát. Duyên tất cả sắc, vì nguyện được diệu sắc thanh tịnh vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả âm thanh, vì nguyện được âm thanh vi diệu vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả hương, vì nguyện được giới hương thanh tịnh vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả vị, vì nguyện được tướng đại sĩ phu bật nhất trong vị vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả xúc, vì nguyện được bàn tay mền mại vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả pháp, vì nguyện được tâm tịch tĩnh vô sở đắc của Như Lai. Duyên các pháp bố thí, vì muốn thành tựu thân tướng hảo của Phật. Duyên các tịnh giới, vì muốn được cõi Phật nghiêm tịnh viên mãn. Duyên các an nhẫn, vì nguyện được âm thanh Đại phạm của chư Phật và thân quang minh thanh tịnh của chư Phật. Duyên các tinh tấn, vì nguyện độ hữu tình thường không bị gián đoạn. Duyên các tĩnh lự, vì muốn thành tựu thần thông quảng đại. Duyên các Bát-nhã, vì đoạn tất cả phiền não vọng kiến. Duyên các đại từ bình đẳng vô ngại, vì muốn các hữu tình đều được an lạc. Duyên các đại bi, vì muốn hộ trì chánh pháp, cứu độ hữu tình thoát khỏi khổ lớn sanh tử. Duyên các đại hỷ, vì muốn được vô ngại tự tại nói pháp, làm vui tất cả hữu tình. Duyên các đại xả, vì không còn kiến chấp hữu tình, phiền não, trói buộc, tùy miên.

Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy hai việc thì gọi là hành bình đẳng. Duyên tứ nhiếp pháphóa độ hữu tình. Duyên lỗi keo kiệt ganh ghét, vì bỏ tài sản, tu hành bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi sân giận, vì muốn được an nhẫn. Duyên lỗi biến nhác, vì muốn thành tựu đại lực tinh tấn của Như Lai. Duyên lỗi tán loạn, vì muốn đắc định thù thắng tịch tĩnh của Như Lai. Duyên lỗi ác tuệ, vì muốn thành tựu trí tuệ vô ngại của Như Lai. Duyên pháp nhị thừa, vì muốn thành tựu Đại thừa vô thượng. Duyên các cõi ác, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình. Duyên các cõi thiện, vì muốn hữu tình biết quả của chư thiênloài người đều sẽ tan hoại. Duyên các hữu tình, vì muốn hữu tình thông đạt tất cả chỉ là hư vọng, không bền chắc. Duyên tùy niệm Phật, vì muốn thành tựu định thù thắng trợ đạo. Duyên tùy niệm Pháp, vì muốn thông đạt các pháp bí tạng. Duyên tùy niệm Tăng, vì muốn hòa hợp chúng, tâm không thối chuyển. Duyên tùy niệm xả, vì không ái trước. Duyên tùy niệm giới, vì muốn được giới thanh tịnh. Duyên tùy niệm thiên, vì muốn thành tựu Bồ-đề, chư thiên tán thán. Duyên tướng tự thân, vì muốn được thân Phật. Duyên tướng tự ngữ, vì muốn được Phật ngữ. Duyên tướng tự ý, vì muốn được tâm bình đẳng của chư Phật. Duyên pháp hữu vi, vì muốn thành tựu Phật trí. Duyên pháp vô vi, vì muốn được tịch tĩnh.

Thiên vương nên biết! Các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có nhất tâm, nhất hạnh hư rỗng lỗi lầm mà không hồi hướng trí nhất thiết. Các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, tuy duyên khắp các pháp nhưng không chấp trước, cho nên gọi là phương tiện thiện xảo. Quán tất cả pháp đều hồi hướng đến đại Bồ-đề. Giống như tam thiên đại thiên thế giới sanh ra các vật, không một vật nào mà không được hữu tình thọ dụng. Cũng vậy, các cảnh giới mà Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa duyên vào, không có cảnh giới nào hồi hướng Bồ-đề mà không lợi ích. Ví như các sắc, không có sắc nào mà không có nhân bốn đại chủng. Cũng vậy, các cảnh giới mà Bồ-tát duyên vào, không có một pháp nào mà không hướng đến Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát tu hành đều do ngoại duyên mà được thành lập. Nghĩa là các Bồ-tát nhờ người keo kiệtthành tựu bố thí Ba-la-mật-đa; nhờ người bội ơn mà thành tựu tịnh giới Ba-la-mật-đa; nhờ người tánh ác mà thành tựu an nhẫn Ba-la-mật-đa; nhờ người biến nhác mà thành tựu tinh tấn Ba-la-mật-đa; nhờ người tán loạnthành tựu tĩnh lự Ba-la-mật-đa; nhờ người ngu sithành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Như các hữu tình làm tổn não Bồ-tát, Bồ-tát nhờ đó chiết phục sân giận. Như thấy người tu hành thiện pháp hướng đến Bồ-đề, Bồ-tát sanh tâm xem như con mình. Như thế, Bồ-tát tán thán, không ưa chê bai, không sanh sân giận. Thấy người không vui, Bồ-tát khởi tâm đại từ. Thấy người đau khổ, Bồ-tát khởi tâm đại bi. Thấy người an vui, Bồ-tát khởi tâm đại hỷ. Thấy người không khổ, Bồ-tát khởi tâm đại xả. Vì người khó giáo hóa, Bồ-tát phát khởi Xa-ma-tha (chỉ). Vì người dễ giáo hóa, Bồ-tát phát khởi Tì-bát-xá-na (quán). Vì người tín hạnh, Bồ-tát phát khởi trí tri ân. Nếu thấy hữu tình ác duyên bên ngoài mạnh hơn thiện duyên bên ngoài thì Bồ-tát khuyên nên thủ hộ. Nếu thấy người khỏe mạnh, đầy đủ năng lực thì Bồ-tát dùng đủ loại phương tiện dạy cho họ lãnh thọ giáo pháp. Nếu thấy hữu tình trí tuệ khai ngộ thì Bồ-tát tuyên thuyết pháp yếu sâu xa cho họ. Nếu thấy hữu tình giảng rộng mới ngộ thì Bồ-tát nói các pháp theo thứ lớp. Nếu các hữu tình chấp trước văn tự thì Bồ-tát nói cú nghĩa để cho họ hiểu. Nếu người đã học thiền chỉ thì Bồ-tát dạy thiền quán vi diệu. Nếu người đã học thiền quán thì Bồ-tát dạy thiền chỉ vắng lặng. Nếu người chấp chặt trì giới thì Bồ-tát nói địa ngục cho họ, nếu trì giớikhông chấp thì không nói điều này. Nếu người chấp văn tuệ thì Bồ-tát dạy tư tuệ. Nếu người chấp đẳng trì thì Bồ-tát dạy Bát-nhã. Nếu có người ưa thích A-luyện-nhã thì Bồ-tát dạy pháp tâm viễn li. Nếu có người thích nghe công đức của Phật thì Bồ-tát dạy cho họ nghe Thánh trí vô thượng.

Vì người tham dục, Bồ-tát dạy pháp bất tịnh. Vì người sân giận, Bồ-tát dạy pháp từ bi. Vì người ngu si, Bồ-tát dạy pháp duyên khởi. Vì người đẳng phần, Bồ-tát dạy các loại pháp, hoặc dạy pháp bất tịnh, hoặc dạy pháp từ bi, hoặc dạy pháp duyên khởi. Nếu người đã điều phục thì Bồ-tát dạy giới thanh tịnh, định thù thắng, tuệ vi diệu cho họ. Với người cần vào Phật thừa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ-tát nói Ba-la-mật-đa theo thứ lớp cho họ. Với người cần áp chế mới nhận sự giáo hóa thì Bồ-tát trước phải bẻ gãy ngôn từ của họ, sau mới nói pháp. Với người cần nghe nhiều ngôn từ mới nhận sự giáo hóa thì Bồ-tát nói nhân duyên thí dụ để cho họ được hiểu. Với người cần nghe pháp sâu xa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, vô ngã, vô pháp cho họ. Với người chấp thủ các kiến, Bồ-tát nên nói pháp Không. Với người nhiều tầm tứ, Bồ-tát nói pháp vô tướng. Với người chấp thủ pháp hữu vi, Bồ-tát nói pháp vô nguyện. Với người chấp thủ các uẩn, Bồ-tát nói pháp như huyễn. Với người chấp thủ các cõi, Bồ-tát nói pháp vô tánh. Với người chấp thủ các xứ, Bồ-tát nói pháp như mộng. Với người chấp thủ cõi Dục, Bồ-tát nói sự thiêu đốt hừng hực. Với người chấp thủ cõi Sắc, Bồ-tát nói pháp hành khổ. Với người chấp thủ cõi Vô sắc, Bồ-tát nói các hành vô thường. Với hữu tình khó giáo hóa, Bồ-tát tán thán Thánh chủng. Với hữu tình dễ giáo hóa, Bồ-tát nói pháp tĩnh lựvô lượng tâm. Với người nghe nói sanh thiên mới chịu sự giáo hóa thì Bồ-tát nói pháp an lạc. Với người nhờ nghe pháp Thanh văn mới chịu sự giáo hóa thì Bồ-tát nói pháp Thánh đế. Với người nhờ nghe pháp Độc giác mới chịu sự giáo hóa thì Bồ-tát nói pháp duyên khởi. Với người nhờ nghe pháp Bồ-tát mới chịu sự giáo hóa thì Bồ-tát nói tâm thanh tịnh. Với người tu hạnh Bồ-tát với pháp đại từ bi thì Bồ-tát nói pháp phước và tuệ. Với Bồ-tát bất thối thì Bồ-tát nói pháp tịnh độ. Với Bồ-tát chỉ còn một lần sanh nữa thì Bồ-tát nói pháp nghiêm tịnh tòa Bồ-đề. Với người cần nghe Phật nói mới chịu sự giáo hóa thì Bồ-tát nói trình tự nhiều lần.

Thiên vương nên biết! Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thanh tịnh như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, đạt được các tự tại, nói pháp lợi ích, không có lỗi hư rỗng.

Khi đức Thế Tôn nói pháp tự tại của Bồ-tát thì ba vạn trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn Bồ-tát đắc vô sanh nhẫn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền mỉm cười. Thường pháp của chư Phật mĩm cười như vậy thì từ miệng phóng ra vô lượng ánh sáng đủ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng và màu pha lê, chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, hiện bày việc hiếm có, rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh ba vòng, sau đó nhập vào đảnh Ngài.

Khi thấy tướng tốt lành ấy, trong lòng Xá-lợi Tử phân vân, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai bên trái, quì gối phải chấm đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài hiện tướng tốt lành này?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Này Xá-lợi Tử! Trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp quá khứ, vị trời Tối Thắng ấy đã từng ở chỗ chư Phật, tu hành tất cả Ba-la-mật-đa, vì các Bồ-tát mà thủ hộ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nhân duyên đây, nên nay ông ta được gặp Như Lai, tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, trải qua vô lượng, vô số đại kiếp đời vị lai, tu tập tư lương Bồ-đề vô thượng, sau đó chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đầy đủ mười hiệu, tên Phật là Công Đức Trang Nghiêm, cõi nước tên là Tối Cực Nghiêm Tịnh, kiếp tên là Thanh Tịnh. Cõi ấy an lạc sung túc, dân chúng hưng thịnh, đều là Bồ-tát Tăng, không có chúng Thanh văn. Đại địa cõi ấy do bảy báu hợp thành, chúng bảo trang nghiêm, bằng phẳng như bàn tay, được trang sức bởi các loại cỏ cây, hương hoa xinh đẹp, không có các đồi núi gồ ghề, trang nghiêm bằng các loại cờ phướn lọng hoa. Cõi ấy có đô thành lớn tên là Nan Phục, bên trên được bao phủ bằng lưới bảy báu, kim tuyến bao quanh, linh vàng treo lơ lửng các góc. Ngày đêm sáu thời, trên không trung tấu nhạc và tán rải các loại hương hoa vi diệu của cõi trời. Dân chúng quốc độ ấy vui thích thọ lạc, thù thắng vi diệu hơn cả Thiên cung Tha hóa tự tại; trời, người đến đi không ngăn ngại nhau, không có ba đường ác và tên gọi Nhị thừa. Hữu tình cõi ấy chỉ cầu trí Phật. Phật ấy thường vì các Đại Bồ-tát tuyên thuyết đủ loại pháp yếu thanh tịnh. Vô lượng, vô số, vô biên quyến thuộc Bồ-tát cõi ấy không có tà kiến chấp thủ, không có phá giới tà mạng, cũng không có đui, điết, câm, ngọng, gù lưng, khuyết căn… và các việc xấu ác. Thân của các vị ấy được trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Cõi ấy, đức Như Lai thọ tám tiểu kiếp, chúng trời, người không có ai chết yểu. Phật ấy có vô lượng công đức như vậy. Nếu Phật muốn nói pháp thì trước hết phóng ánh sáng. Thấy ánh sáng ấy, các chúng Bồ-tát biết đức Thế Tôn sắp nói pháp, liền cùng nhau đến nghe.

Khi ấy, chư thiên trải tòa Sư tử cho Phật. Tòa ấy cao rộng trăm do-tuần, trang nghiêm bằng đủ loại, cúng dường vô lượng. Đức Thế Tôn thăng tòa, vì chúng mà thuyết pháp. Các Bồ-tát ấy lợi căn thông minh, nghe qua một lầnlãnh hội, lìa xa ngã và ngã sở, khi ứng niệm thì các vật dụng, đồ ăn thức uống liền đến.

Lúc Phật nói pháp thọ kí Tối Thắng thì năm vạn trời, người thân tâm vui vẻ, cùng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đều nguyện đời vị lai sanh cõi Phật ấy.

Nghe Phật nói vậy, Tối Thắng vô cùng vui mừng, phấn khởi không sao tả được, bay lên hư không khoảng bảy cây Đa-la, ba ngàn cõi biến động sáu cách, kĩ nhạc chư thiên không đánh tự kêu, tán rải các loại hoa trời cúng dường Phật, Đại Bồ-tát và Thiên vương Tối Thắng.

Sau đó, Thiên vương Tối Thắng từ hư không bay xuống, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi một bên.
VIII. PHẨM HIỆN TƯỚNG

Bấy giờ, Xá-lợi-tử hỏi Tối Thắng:

- Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bằng phương tiện thiện xảo thông đạt tánh pháp. Khi ấy, tức liền ngồi tòa Bồ-đề, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển bánh xe pháp vi diệu, độ chúng hữu tình. Vậy vì nhân duyên gì mà trước phải hiện tướng sáu năm khổ hạnh, hàng phục thiên ma, sau mới thành Chánh giác?

Tối Thắng đáp:

- Đại đức nên biết! Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bằng phương tiện thiện xảo thông đạt pháp tánh, thật khôngkhổ hạnh, vì điều phục ngoại đạo nên thị hiện đó thôi. Lại nữa, Thiên ma kia là vua cõi Dục, bẩm tánh hiền hòa, thật chẳng đáng ngại, nhưng vì giáo hóa hữu tình nên thị hiện hàng phục. Vì các ngoại đạo tự xưng là mình tu khổ hạnh bậc nhất, nên Bồ-tát thị hiện tu khổ hạnh hơn các vị khổ hạnh ấy. Nghĩa là có các hữu tình thấy Bồ-tát đứng một chân, hoặc thấy Bồ-tát đứng giơ hai tay, hoặc thấy Bồ-tát đứng nhìn mặt trời, hoặc thấy Bồ-tát phơi thân dưới mặt trời, bốn bên đốt lửa chịu nóng (ngũ nhiệt chích thân), hoặc thấy Bồ-tát treo ngược thân, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên gai gốc, hoặc nằm trên phân bò, hoặc ngồi trên đá, hoặc nằm trên đất, hoặc nằm trên ván mỏng, hoặc nằm trên cái chày, hoặc nằm trên tro đất, hoặc thấy Bồ-tát chỉ mặt áo bằng ván cây, hoặc mặc áo cỏ gai, hoặc mặc áo cỏ rơm, hoặc mặc áo vỏ cây, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc lộ hình, hoặc hướng mặt về phía mặt trời, xoay chuyển theo mặt trời, hoặc thấy Bồ-tát chỉ ăn cây cỏ, hoặc ăn lúa mạch, hoặc ăn rễ cây, hoặc ăn lá cây, hoặc ăn hoa quả, hoặc ăn hoài sơn, hoặc ăn khoai sọ, hoặc ăn ngó sen, hoặc ăn đậu, hoặc ăn ngũ cốc, hoặc ăn mè, hoặc ăn gạo, hoặc sáu ngày ăn một bữa, hoặc uống nước qua ngày, hoặc trong một ngày chỉ ăn một chút bơ, hoặc một giọt mật, hoặc một giọt sữa, hoặc không ăn gì, hoặc thường ngủ say. Bồ-tát thị hiện đủ loại khổ hạnh như vậy, hơn sáu năm trường mà không thiếu khuyết buông bỏ tí nào. Nhưng thật ra, Bồ-tát không có hành khổ hạnh ấy. Với những hữu tình đáng độ, tự thấy có Bồ-tát hành khổ hạnh như vậy. Có sáu mươi triệu các chúng trời, người do thấy việc này mà an trụ nơi Tam thừa.

Lại có trời, người đời trước đã trồng thiện căn tín lực thâm sâu ưa thích Đại thừa, nên khi thấy đài bảy báu của Bồ-tát ngồi thì thân tâm bất động, nét mặt tươi vui mỉm cười, nhập vào đẳng trì tối thắng.

Trải qua sáu năm, Bồ-tát mới từ định khởi xuất, có các trời, người ưa thích Đại thừa, muốn nghe pháp ấy thì thấy Bồ-tát đoan tọa thuyết pháp trải qua hơn sáu năm.

Đại đức nên biết! Bằng phương tiện thiện xảo như vậy, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chế phục thiên ma, ngoại đạo, đại bi hóa độ hết thảy hữu tình. Đã trải qua sáu năm, từ định khởi xuất, Bồ-tát tùy thuận thế pháp, đến sông Vô cấu tẩy rửa. Sau khi tắm rửa xong, Bồ-tát lên đứng trên bờ. Tại đây, có một người nữ chăn bò lấy sữa của trăm con bò hòa chung cho một con bò uống. Sau đó, nàng ta lấy sữa của con bò này nấu thành cháo sữa, dâng cho Bồ-tát.

Lại có sáu ức trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược… đều đem đủ loại hương thơm, đồ ăn thức uống mĩ vị đến dâng cho Bồ-tát, thưa rằng: “Thưa Đại sĩ! Thưa Chánh sĩ! Cúi xin Ngài thọ nhận đồ ăn thức uống của con cúng dường.” Bồ-tát thương họ mà thọ nhận tất cả.

Khi ấy, nàng mục đồng và các trời, rồng, Kiện-đạt-phược… ai cũng thấy Bồ-tát chỉ nhận đồ cúng của mình.

Lúc đó, có vô lượng các trời, người… do thấy Bồ-tát nhận đồ cúng mà được ngộ đạo. Cho nên Bồ-tát vì họ mà thị hiện việc ấy. Thật ra, lúc bấy giờ, Bồ-tát không có tắm rữa, cũng không có thọ nhận của trời, người… cúng dường.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, thị hiện đi đến tòa Bồ-đề. Khi ấy, trời Địa cư tên là Diệu Địa cùng với các thiên thần quét dọn, trang hoàng, rưới nước hương, rải hoa thơm vi diệu khắp cả khu vực ấy.

Khắp ba ngàn đại thiên thế giới ấy, Tứ đại thiên vương thống lãnh chúng trời của mình tuôn mưa hoa vi diệu cúng dường Bồ-tát. Thiên chủ Đế Thích phân các Thiên vương thống lãnh chúng trời của mình, trụ giữa hư không tấu âm nhạc trời, tán thán Bồ-tát. Thiên vương Hỷ Túc thống lãnh chúng trời của mình, đem lưới bảy báu phủ khắp cả thế giới, bốn góc lưới ấy được treo các linh vàng, tím và phun mưa các báu cúng dường Bồ-tát. Thiên vương Thiện Hóa thống lãnh chúng trời của mình, dùng lưới vàng, tím giăng khắp cả thế giới, đánh các loại nhạc trời, làm các loại mưa hoa cúng dường Bồ-tát. Thiên vương Tự Tại thống lãnh chúng trời của mình, như các rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược… đem đủ các loại phẩm vật thượng diệu cúng dường Bồ-tát. Đại Phạm Thiên Vương, chủ thế giới Kham Nhẫn thấy Bồ-tát đến tòa Bồ-đề, liền bảo tất cả chúng Phạm thiên rằng:

“Các ông nên biết! Nay Bồ-tát này, giáp trụ kiên cố, tự trang nghiêm mình, chẳng trái với thệ nguyện xưa, tâm không biếng nhác, các hạnh Bồ-tát đều đã đầy đủ viên mãn, thông đạt vô lượng pháp hóa độ hữu tình, đều được tự tại nơi các địa Bồ-tát. Tâm Ngài thanh tịnh, khéo biết hết thảy căn tánh khác nhau của các hữu tình, thông đạt tạng bí mật sâu xa của Như Lai, giác ngộ siêu tuyệt tất cả sự nghiệp của ma, tập hợp các thiện căn chẳng dựa vào ngoại duyên, được hết thảy các đức Như Lai hộ niệm, rộng vì hàm thức mà khai mở môn giải thoát, là đại tướng Đạo sư đánh tan quân ma, dũng mãnh độc nhất trong đại thiên giới, là đại Y vương khéo cho thuốc pháp. Ngài từ bỏ sự quán đảnh, nhận ngôi vị pháp vương, phóng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp các cõi, tám pháp chẳng nhiễm thí như hoa sen, thông đạt trọn vẹn các môn tổng trì, sâu xa khó lường giống như biển lớn, an định bất động như núi Diệu Cao, trí tuệ thanh tịnh không chút cấu nhiễm, trong ngoài tinh khiết như châu mạc-ni, với các pháp tướng đều được tự tại, phạm hạnh thanh bạch đạt đến tuyệt đối. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, vì độ hữu tình mà đến tòa Bồ-đề, trải tòa, ngồi kiết già, hàng phục ma oán, thành tựu vô lượng vô biên công đức của chư Phật như: mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt và mười tám pháp Phật bất cộng…, chuyển đại pháp luân, rống tiếng Sư tử, dùng pháp thí cho khắp tất cả hữu tình được đầy đủ như sở thích của họ, làm cho các hữu tình đều được pháp nhãn thanh tịnh, hàng phục ngoại đạo bằng pháp Vô thượng. Vì muốn nêu bày sự thành tựu bổn nguyện của chư Phật nên đối với các pháp, Ngài đều được tự tại. Các ông nên đến cúng dường Bồ-tát.”

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, thị hiện đi đến tòa Bồ-đề. Khi ấy, tướng Bức luân ở dưới hai bàn chân đều phóng ra vô lượng ánh sáng vi diệu, chiếu khắp các cõi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Hữu tình trong các cõi này thấy ánh sáng đó đều lìa khổ, thân tâm an lạc. Cũng lúc ấy, trong cung rồng, Đại long vương tên Ca-lí-ca thấy ánh hào quang kia vô cùng vui mừng phấn khởi, liền bảo các rồng:

“Ánh sáng vi diệu này chiếu đến chỗ chúng ta, làm cho thân tâm chúng ta an lạc. Xưa kia, khi ta thấy ánh sáng này, thời có đức như Lai xuất hiệnthế gian. Nay lại thấy ánh sáng vi diệu này, nhất định ta biết thế gianđức Phật xuất hiện. Các ông nên chuẩn bị các loại hương hoa, chân bảo, cờ phướn, lộng hoa thù diệu và các loại âm nhạc để đến cúng dường Ngài.” Tức thời, long vương dẫn các quyến thuộc đem đủ các đồ cúng, cỡi trên các đám mây lớn, rải xuống loại mưa hương, rồi đến chỗ Bồ-tát, tấu các loại nhạc, bày các đồ cúng dường, đi nhiễu bên phải Bồ-tát, tán thán rằng:

“Ánh sáng vi diệu khiến cho tất cả an lạc, quyết định Phật tối thắng suất hiện không nghi. Đủ loại trân bảo trang nghiêm đại địa, tất cả cỏ cây đều biến thành cây báu, các dòng sông đều lặng yên, không một gợn sóng, do đây nhất định biết được Phật xuất hiệnthế gian. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, Phạm Thiên, Đế Thích đều không thể chiếu đến cõi ác, nhưng ánh sáng của Phật thì chiếu suốt không nghi. Thí như có người thất lạc cha mẹ, năm tháng trôi qua, người ấy lớn dần, bỗng gặp lại cha mẹ mình, vô cùng vui mừng phấn khởi, không sao kiềm chế được. Tất cả thế gian thấy Phật xuất hiện, đều cùng vui mừng cũng lại như vậy. Trong quá khứ, chúng ta đã từng cúng dường chư Phật, nên nay mới được gặp đấng Pháp vương, thầy của trời người. Chúng ta sanh ra thật là không uổng.”

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, ở dưới gốc cây Bồ-đề, nhận tòa ngồi bằng thảm cỏ, nhiễu phải bảy vòng, chánh niệm ngồi ngay. Các hữu tình hạ liệt thì thấy tướng như vậy. Nhưng các Bồ-tát thì thấy có tám vạn bốn ngàn Thiên tử, mỗi vị đều trải một tòa Sư tử lớn. Các tòa Sư tử này được làm bằng các báu, lưới bảy báu bao phủ trên ấy. Tại bốn góc tòa đều treo linh vàng vi diệu; cờ, phướn, kim tuyến, lọng báu giăng đầy khắp nơi. Bồ-tát biến hình, an tọa trên tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử này, nhưng các Thiên tử đều không thấy như vậy, nên cho rằng Bồ-tát chỉ ngồi trên tòa của ta mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì nhân duyên đây nên họ rất vui mừng, đối với Vô thượng Bồ-đề đều được Bất thối chuyển.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, phóng ánh sáng lớn giữa đôi chân mày, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các cung điện ma đều mất ánh sáng. Khi ấy, các ma vương đều nghĩ: Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng đây, che phủ cả cung điện uy quang của chúng ta, trừ phi Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề sắp chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nghĩ vậy, họ cùng quán sát, thấy Bồ-tát ngồi trên tòa Kim cương, dưới cội Bồ-đề. Thấy vậy, ma liền kinh sợ, triệu tập ma quân, vô lượng trăm ngàn đủ loại hình dạng, dẫn nhiều kĩ nữ, đem cờ phướn, phát ra các loại âm thanh làm cho các lỗ chân lông của người nghe đều chảy máu.

Bấy giờ, Bồ-tát dùng lực đại bi khiến cho chúng ma quân không thể phát ra âm thanh, cho nên gọi là Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nhớ nghĩ vô lượng ức kiếp quá khứ, đã tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã, từ, bi, hỷ, xả, niệm trụ chánh đoạn, thần túc căn lực, giác chi, đạo chi, tịch chỉ, diệu quán, tam minh, tám giải đều được viên mãn. Sau khi nhớ nghĩ xong, Ngài liền đưa cánh tay kim sắc xoa đảnh đầu mình cho đến khắp toàn thân, rồi nói như vầy: “Ta muốn cứu vớt các khổ của hữu tình, mà khởi tâm đại bi.”

Khi ấy, các ma vươngquyến thuộc của ma nghe Bồ-tát nói như vậy đều kinh sợ, ngã lăn xuống đất.

Bấy giờ, Bồ-tát dùng lực đại bi làm cho các chúng ma nghe âm thanh phát ra từ trong hư không rằng: “Các ngươi nên qui y đấng Đại tiên tịnh giới, người hay bố thí điều không sợ hãi, cứu hộ cho tất cả.”

Toàn thể quyến thuộc ma phủ phục lạy sát đất thưa như vầy: “Cúi xin đấng Đai tiên cứu hộ mạng chúng con.”

Bồ-tát nương vào phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phóng ánh sáng lớn. Ai gặp ánh sáng ấy đều lìa xa sự sợ hãi. Ma và quyến thuộc thấy thần biến ấy vừa kinh sợ vừa vui mừng.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, khiến cho các hữu tình đều thấy khác nhau: có hữu tình thì thấy việc hàng ma như vậy, có hữu tình thì không thấy việc ấy, hoặc thấy Bồ-tát chỉ ngồi ở tòa cỏ, hoặc thấy Bồ-tát ngồi tòa Sư tử, hoặc thấy Bồ-tát ngồi trên đất, hoặc thấy Bồ-tát ngồi tòa Sư tử giữa hư không. Ngay cả tướng cây bồ-đề, hữu tình cũng thấy khác nhau: như có người thì thấy đó là cây Tất-bát-la, có người thấy đó là cây Thiên Viên Thải, hoặc thấy cây ấy do các báu hợp thành, hoặc thấy cây ấy cao bằng bảy cây Đa-la, hoặc thấy cây ấy cao khoảng tám vạn bốn ngàn du-thiện-na, có tòa Sư tử cao bốn vạn hai ngàn du-thiện-na, Bồ-tát ngồi trên toà ấy, ở dưới gốc cây này. Hoặc thấy Bồ-tát đi dạo giữa hư không, hoặc thấy Bồ-tát ngồi dưới cội Bồ-đề. Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thị hiện đủ loại thần thông biến hóa, độ các hữu tình.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, ngồi tòa Bồ-đề, có vô lượng, vô số, vô biên Bồ-tát khắp mười phương thế giới như cát sông Hằng đều vân tập về, trụ giữa hư không, phát ra nhiều loại âm thanh khích lệ Bồ-tát, khiến cho thân Bồ-tát an lạc, tâm sanh hoan hỷ, bằng những lời như vầy: “Lành thay Đại sĩ! Tinh tấn dũng mãnh, mau chóng thành tựu kiết tường rộng lớn, tâm như kim cương chớ sanh kinh sợ, thần thông du hý lợi lạc hữu tình, có thế trong một sát-na chứng trí nhất thiết.”

Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề ma đến nhiễu loạn đều không kinh sợ. Trong một sát-na tâm, phương tiện thiện xảo, khéo tương ưng với lí thú Bát-nhã ba-la-mật-đa, thông đạt rốt ráo tất cả sở tri, kiến, giác.

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, ngồi tòa Bồ-đề, chư Phật khắp mười thế giới như cát sông Hằng đồng thanh tán thán: “Lành thay! Lành thay! Chỉ có Đại sĩ mới thông đạt trí tự nhiên, trí vô ngại, trí bình đẳng, trí vô sư, đại bi trang nghiêm.”

Đại đức nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, khéo thị hiện đủ các việc, làm cho các loài hữu tình, hoặc thấy Bồ-tát nay được Bồ-đề, hoặc thấy Bồ-tát từ lâu đã thành Phật, hoặc chỉ thấy bốn Đại thiên vương trong một thế giới đều dâng hiến bát, hoặc lại thấy bốn Đại thiên vương khắp cả mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng đều dâng hiến bát. Bấy giờ, Bồ-tát vì hữu tình nên nhận hết tất cả bát, chồng lên nhau trong lòng bàn tay, lấy tay ấn xuống hóa thành một bát. Các vị Tứ đại thiên vương đều không thấy, nên cho rằng đức Thế Tôn chỉ nhận bát của ta. Khi ấy liền có sáu vạn Thiên tử nương nguyện lực đời trước đến cúng Bồ-tát trước nhất. Trong đời quá khứ họ phát nguyện rằng: “Nếu khi Bồ-tát này thành Phật, mong Ngài nhận đồ cúng dường của chúng con đầu tiên.”

Lúc Phật nói pháp này, có ba vạn Bồ-tát đắc vô sanh pháp nhẫn, lại có ba vạn sáu ngàn Bồ-tát đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được Bất thối chuyển; tám vạn trời, người lìa xa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh; vô lượng vô biên các loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.

Đại đức nên biết! Lúc bấy giời, Bồ-tát nương vào phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, sắp thị hiện chuyển bánh xe pháp lớn thì Phạm vương Trì Kết chủ thế giới Kham nhẫn, liền cùng sáu mươi tám vạn các chúng Phạm thiên, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, chấp tay cung kính, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng, rồi thỉnh Phật ba lần: “Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn. Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn. Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn.” Sau khi thỉnh ba lần như vậy, Phạm thiên liền hóa làm tòa đại Sư tử cao rộng bốn vạn hai ngàn du-thiện-na, kiên cố an ổn, trang nghiêm bằng đủ loại báu. Khi ấy, vô lượng thiên chủ Đế Thích khắp mười phương thế giới, đều đến trải tòa Sư tử cho Như Lai, và số lượng chư thiên đến trang nghiêm tòa Sư tử cũng lại như vậy.

Bấy giờ, Bố-tát hiện sức thần thông làm cho chư thiên đều thấy Bồ-tát ngồi trên tòa ấy mà chuyển pháp luân. Sau khi ngồi trên tòa Sư tử ấy, Bồ-tát nhập vào vô biên cảnh giới Tam-ma-địa, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng v.v…, làm cho các thế giới ấy chấn động sáu cách. Trong các thế giới ấy, các khổ của hữu tình tạm ngưng, thân tâm an lạc, cũng tạm lìa xa pháp ác bất thiện, tham, sân, si... Tâm từ cùng hướng về nhau như mẹ với con. Khi đó, ba ngàn đại thiên thế giới đầy kín người, không có khe hở nào dù bằng một lỗ chân lông. Trời, rồng, Dạ-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn… đầy đủ trong ấy. Nếu các hữu tình cần nghe pháp khổ mà được thọ hóa thì nghe Phật nói khổ; cần nghe pháp vô ngã, tịch tĩnh, viễn li, vô thường mà được thọ hóa thì cũng như vậy; cần nghe pháp như huyễn mà được thọ hóa thì nghe pháp như huyễn; cần nghe pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như ánh sáng, như quáng nắng, như biến hóa, như thành Tầm hương mà được thọ hóa thì cũng lại như vậy; cần nghe pháp giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện mà được thọ hóa thì nghe Phật nói không, vô tướng, vô nguyện.

Khi ấy, có các hữu tình nghe Như Lai nói, tất cả các pháp từ nhân duyên sanh, hoặc nghe nói uẩn, hoặc nghe nói giới, hoặc nghe nói xứ, hoặc nghe nói khổ, hoặc nghe nói tập, hoặc nhe nói diệt, hoặc nghe nói đạo, hoặc nghe nói bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, sáu thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc nghe nói pháp tịch chỉ diệu quán, hoặc nghe nói các pháp Thanh văn, hoặc nghe nói các pháp Độc giác, hoặc nghe nói các pháp Bồ-tát. Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thị hiện đủ loại tướng chuyển pháp luân, tùy theo căn tánh sai biệt của các hữu tình mà được lợi lạc, thân tâm hoan hỷ.

Khi ấy, Xá-lợi-tử nói với Tối Thắng:

- Này Thiên vương! Cảnh giới mà Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thật là quá thậm thâm, khó nghĩ, khó bàn, khó biết, khó nhập.

Tối Thắng đáp:

- Thưa Đại đức! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, việc ấy thù thắng, công đức vô lượng vô biên, nay tôi có nói trăm phần, ngàn phần cho đến cực số phần cũng chẳng bằng một phần ấy. Chỉ có đức Như Lai mới có thể nói trọn vẹn. Nay một ít phần ấy của tôi nói đều là nương vào sức oai thần của đức Như Lai. Vì sao? Vì cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, các chúng Bồ-tát chỉ còn một lần sanh nói công đức ấy còn chẳng thể hết, huống nữa là các vị Bồ-tát khác.

Đại đức nên biết! Cảnh giới của chư Phật tịch tĩnh, lìa ngôn thuyết, chỉ có trí vô phân biệt và trí hậu sở đắc mới có thể hiểu được.

Đại đức nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng nhập cảnh giới của chư Phật thì phải học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, mới thông đạt rốt ráo Tam-ma-địa kiện hành, Tam-ma-địa như huyễn, Tam-ma-địa kim cương dụ, Tam-ma-địa kim cương luân, Tam-ma-địa vô động tuệ, Tam-ma-địa thông đạt khắp, Tam-ma-địa không duyên cảnh giới, Tam-ma-địa sư tử tự tại, Tam-ma-địa vua Tam-ma-địa, Tam-ma-địa công đức trang nghiêm, Tam-ma-địa tuệ tịch tĩnh, Tam-ma-địa siêu việt khắp, Tam-ma-địa vô nhiễm trước, Tam-ma-địa tuệ trang nghiêm vương, Tam-ma-địa vô đẳng đẳng, Tam-ma-địa đẳng giác, Tam-ma-địa chánh giác, Tam-ma-địa ý vui, Tam-ma-địa hoan hỷ, Tam-ma-địa thanh tịnh, Tam-ma-địa hỏa diệm, Tam-ma-địa quang minh, Tam-ma-địa nan thắng, Tam-ma-địa thường hiện tiền, Tam-ma-địa không hòa hợp, Tam-ma-địa vô sanh, Tam-ma-địa thông đạt, Tam-ma-địa tối thắng, Tam-ma-địa vượt qua cảnh giới ma, Tam-ma-địa nhất thiết trí tuệ, Tam-ma-địa tràng tướng, Tam-ma-địa đại bi, Tam-ma-địa an lạc, Tam-ma-địa ái niệm và Tam-ma-địa pháp bất kiến …

Đại đức nên biết! Nếu Đại Bồ-tát học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể thông đạt rốt ráo vô lượng, vô biên hằng hà sa số môn Tam-ma-địa này, mới có khả năng chứng nhập cảnh giới của chư Phật, thân tâm an ổn, không có kinh sợ, như sư tử chúa không sợ cầm thú. Vì sao? Vì nếu các Đại Bồ-tát tu các Tam-ma-địa bình đẳng như vậy thì hành động gì đều không kinh sợ, không thấy trước mặt mình có oán địch nào. Vì sao?

Thưa Xá-lợi-tử! Vì Đại Bồ-tát này hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Thí như có người sanh cõi Vô sắc, trong tám vạn đại kiếp chỉ có một thức, không có chỗ trụ cũng không có chỗ duyên. Bồ-tát hành phưong tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ-tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng trụ nơi mình cũng chẳng trụ nơi khác, chẳng nương vào mắt mà trụ, chẳng nương vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà trụ, chẳng nương vào sắc mà trụ, chẳng nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ. Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở hai bên. Tâm chẳng duyên pháp cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ ba đời cũng chẳng lìa ba đời.

Đại đức nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, chẳng giữ một pháp, nhưng đối với các pháp, trí thấy biết vô ngại, tâm hành thanh tịnh, thấy tất cả pháp đều không cấu nhiễm, không giữ tướng thấy, thấy không phân biệt, lìa các hí luận.

Đại đức nên biết! Các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, chẳng cùng với nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng; cũng lại chẳng cùng với tất cả thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thần cảnh, các trí lậu tận tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng.

Đại đức nên biềt! Phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cùng với tất cả pháp, đều chẳng tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp được trí bình đẳng, khéo quán tâm hành của tất cả hữu tình, đều như thật biết tất cả nhiễm tịnh, cũng không quên mất mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng… và vô lượng, vô biên công đức của chư Phật. Các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ấy, tâm không dụng công nhưng đạt tất cả pháp, vô tâm ý thức, thường tại tịch định, chẳng khởi tịch định, giáo hóa hữu tình, làm các Phật sự thường không ngưng nghỉ. Đối với pháp của chư Phật được trí vô ngại, tâm không nhiễm trước. Thí như hóa làm Phật, hóa làm Như Lai. Hóa làm Như Lai nhưng không có tâm ý thức, không có thân, không có thân nghiệp, không có ngữ, không có ngữ nghiệp, không có ý, không có ý nghiệp, nhưng làm tất cả Phật sự, lợi ích hữu tình. Vì sao? Vì là thần lực của Phật. Việc hóa làm mà Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không có thân, không có thân nghiệp, không có ngữ, không có ngữ nghiệp, không có ý, không có ý nghiệp, vô tâm dụng công, thường làm Phật sự lợi ích hữu tình. Vì sao?

Thưa Xá-lợi-tử! Vì các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông đạt các pháp đều như huyễn…, tâm không phân biệt, nhưng các hữu tình luôn nghe thuyết pháp.

Đại đức nên biết! Trí tuệ của các Bồ-tát này không trụ hữu vi, không trụ vô vi; không trụ các uẩn và các giới, xứ; không trụ trong, ngoài và hai bên; không trụ thiện, ác và thế hay xuất thế gian; không trụ nhiễm, tịnh, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi; không trụ ba đời và lìa ba đời; không trụ hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Các Bồ-tát này hành phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy tâm thường vô trụ như vậy, nhưng thông đạt tánh tướng các pháp; dùng trí vô ngại, vô tâm dụng công, tuyên thuyết các pháp thường tại tịch tĩnh, làm việc giáo hóa không có ngừng nghỉ. Nguyện lực đời trước của các Bồ-tát ấy vững mạnh, vô tâm dụng công, vì người khác mà nói pháp. Các Bồ-tát ấy nhờ phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên thường không kinh sợ. Vì sao? Vì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm có thần Chấp Kim Cang thường luôn đi theo bảo vệ Bồ-tát.

Đại đức nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà tâm không kinh sợ, không mê hoặc, không nghi ngờ thì nên biết vị ấy đã được thọ kí Bồ-đề. Vì sao? Vì người tin nhận phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa là gần cảnh giới Phật. Dùng nhất tâm này thì có thể thông đạt tất cả Phật pháp. Thông đạt Phật pháp nên lợi lạc hữu tình, nhưng không thấy hữu tìnhPhật pháp khác nhau. Vì sao? Vì lí tánh của hữu tìnhPhật pháp không hai.

Quyển thứ 570
HẾT

 

 

 
IX. PHẨM VÔ SỞ ĐẮC

Bấy giờ, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Thiện Tư hỏi Tối Thắng:

- Đức Phật đã thọ ký quả Bồ-đề cho Thiên vương ư?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký mà như trong mộng vậy.

Bấy giờ, Thiện Tư hỏi lại Tối Thắng:

- Thiên vương được thọ ký là đắc cái gì vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký nhưng không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Không đắc ấy là không đắc pháp nào?

Tối Thắng trả lời:

- Không đắc ấy là chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc sự thấy biết, chẳng đắc các uẩn và các xứ giới, hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc sanh tử, hoặc Niết-bàn, đối với hết thảy như vậy đều không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu không đắc chi thì thọ ký để làm gì?

Tối Thắng đáp:

- Vì không đắc nên đạt được sự thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu theo nghĩa mà Thiên vương nói thì có hai trí:

1. Là không đắc gì.

2. Là được thọ ký.

Tối Thắng đáp:

- Nếu có hai trí thì không có được sự thọ ký. Vì sao? Vì trí Phật không hai. Chư Phật Thế Tôn dùng trí không hai để thọ ký cho Bồ-tát.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu trí chẳng có hai thì làm sao có sự thọ ký và được thọ ký?

Tối Thắng đáp:

- Sự thọ ký và được thọ ký, khoảng đó không có hai.

Thiện Tư lại hỏi:

- Không có hai khoảng ấy thì làm sao có sự thọ ký?

Tối Thắng đáp:

- Nếu hiểu được không có hai khoảng ấy tức là có sự thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Hôm nay Thiên vương trụ trong khoảng nào mà đạt được sự thọ ký vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi trụ bờ ngã, trụ bờ hữu tình cho đến trong bờ của sự hiểu biết mà được thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ ngã v.v... này phải cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ giải thoát của chư Phật.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ giải thoát của Phật lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ vô minh, hữu, ái.

Thiện Tư hỏi:

- Vô minh, hữu, ái lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ rốt ráo không sanh.

Thiện Tư hỏi tiếp:

- Bờ không sanh này cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Bờ này phải cầu ở bờ vô tri.

Thiện Tư hỏi lại:

- Bờ vô tri ấy tức là không có sự hiểu biết, vậy thì làm sao bờ này phải cầu bờ kia?

Tối Thắng đáp:

- Nếu có sự hiểu biết mà cầu thì không thể được, vì vô tri nên mới cầu nơi bờ kia.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ này lìa sự nói năng thì làm sao có thể cầu?

Tối Thắng đáp:

- Bởi chấm dứt lời lẽ nên có thể cầu được.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lời lẽ này vì sao chấm dứt?

Tối Thắng đáp:

- Vì các pháp dựa vào ý nghĩa, chẳng dựa vào lời lẽ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Tại sao dựa vào ý nghĩa?

Tối Thắng đáp:

- Vì chẳng thấy tướng nghĩa.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng thấy?

Tối Thắng đáp:

- Vì chẳng khởi lên sự phân biệt, nghĩa là sở y (bị nương), ngã là năng y (được nương), không có hai việc này nên gọi là chẳng thấy.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu chẳng thấy nghĩa này thì cầu chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Không thấy không giữ nên gọi là cầu.

Thiện Tư hỏi lại:

- Pháp có thể cầu ấy tức là có cầu?

Tối Thắng đáp:

- Nghĩa này chẳng phải. Pháp chưa cầu ấy thật không có chỗ để cầu. Vì sao? Vì nếu thật có thể cầu tức là phi pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vậy thế nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Pháp là không văn tự, cũng lìa ngôn ngữ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Trong sự lìa văn tự ngôn ngữ thì cái nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Tánh lìa văn tự, tâm hành xứ diệt. Đây gọi là pháp. Tất cả pháp tánh đều không thể nói. Điều không thể nói cũng không thể nói. Nếu có nói ra tức là hư dối. Trong pháp hư dối hoàn toàn không có pháp thật.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chư Phật Bồ-tát thường có lời nói, vậy đều là hư dối sao?

Tối Thắng đáp:

- Chư Phật Bồ-tát từ đầu đến cuối chẳng nói một chữ, thì làm sao có hư dối?

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu có nói ra sẽ mắc lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về lời nói.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lời nói có lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về nghĩ bàn.

Thiện Tư lại hỏi:

- Pháp nào không lỗi?

Tối Thắng đáp:

- Có nói, không nói chẳng thấy hai tướng thì không có lỗi.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lỗi lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Lấy chấp trước làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chấp trước lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Lấy tâm chấp trước làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Cái gì làm gốc của chấp trước?

Tối Thắng đáp:

- Hư vọng phân biệt là gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Vin vào duyên làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Duyên theo chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Duyên theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Làm thế nào để không duyên theo?

Tối Thắng đáp:

- Nếu xa lìa ái, thủ thì không còn chỗ để duyên. Vì nghĩa này nên Như Lai thường nói các pháp bình đẳng, không thể duyên theo được. Khi nói pháp này có năm ngàn Bí-sô xa lìa trần cấu sanh pháp nhãn tịnh. Lại có một vạn hai ngàn Bồ-tát đắc Vô sanh nhẫn. Vô lượng, vô biên hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những thiện nam, thiện nữ v.v… nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, làm thế nào để những người chưa phát tâm Bồ-đề liền có thể phát tâm, tất cả đều thành tựuđạt được Bất thối chuyển, sự tu hành thường tiến tới mà không lui lại?

Phật dạy:

- Thiên vương! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ nói cho ông.

Tối Thắng thưa:

- Lành thay, Đại thánh! Cúi xin Ngài nói cho, chúng con muốn nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương phải biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đem ý thuần tịnh phát tâm Bồ-đề, đầy đủ chánh tín, gần gũi Thánh Hiền, ưa nghe chánh pháp, xa lìa sự đố kỵ, bỏn sẻn, thường tu tịch tĩnh, ưa hành bố thí, tâm không hạn ngại, lìa các uế trược, chánh tín nghiệp quả, tâm chẳng do dự, biết rõ như thật nghiệp quả đen trắng. Nếu vì thân mạng quyết chẳng làm ác. Những thiện nam, thiện nữ v.v… này tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì có thể xa lìa mười nghiệp đạo ác, tâm thường nhớ nghĩ về mười nghiệp đạo thiện. Những thiện nam, thiện nữ v.v… này hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nếu gặp các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... tinh tấn tu hành chân chánh, giới phẩm trong sạch, nghe nhiều hiểu nghĩa thì thường khởi lên chánh niệm, tâm tánh điều hoà nhu nhuyến, tịch tĩnh không loạn, thường ái ngữ, siêng tu các điều thiện, xa lìa các điều ác; chẳng đề cao mình, chẳng khinh thường người khác; lìa lời thô ác, bỏ nói vô nghĩa, chẳng bỏ niệm trụ, tâm giữ trung thực, thường dứt hung bạo, khéo nhổ tên độc, vứt bỏ hoàn toàn các gánh nặng, ra khỏi tám nạn xứ, không còn thọ thân sau. Những thiện nam, thiện nữ v.v… này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nếu gặp Bồ-tát này thì phải nương tựa gần gũi để làm bạn tốt.

Khi ấy, Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo tùy theo sự thích nghi, vì họ mà thuyết pháp:

“Các ông nên biết! Người thường bố thí sẽ được giàu vui. Thọ trì tịnh giới thì được tôn quí sanh lên trời. Lắng nghe chánh pháp được trí tuệ lớn, lại bảo:

Đây là bố thí, đây là quả của bố thí.

Đây là xan tham, đây là quả của xan tham.

Đây là tịnh giới, đây là quả của tịnh giới.

Đây là phạm giới, đây là quả của sự phạm giới.

Đây là an nhẫn, đây là quả của an nhẫn.

Đây là tức giận, đây là quả của sự tức giận.

Đây là tinh tấn, đây là quả của sự tinh tấn.

Đây là biếng nhác, đây là quả của sự biếng nhác.

Đây là tịnh lự, đây là quả của tịnh lự.

Đây là tán loạn, đây là quả của sự tán loạn.

Đây là diệu tuệ, đây là quả của diệu tuệ.

Đây là ngu si, đây là quả của sự ngu si.

Đây là nghiệp lành của thân, đây là quả của nghiệp lành nơi thân.

Đây là nghiệp ác của thân, đây là quả của nghiệp ác nơi thân.

Đây là nghiệp lành của lời nói, đây là quả của nghiệp lành nơi lời nói.

Đây là nghiệp ác của lời nói, đây là quả của nghiệp ác nơi lời nói.

Đây là nghiệp lành của ý, đây là quả của nghiệp lành nơi ý.

Đây là nghiệp ác của ý, đây là quả nghiệp ác của ý.

Đây là pháp nên làm, đây là pháp chẳng nên làm.

Nếu tu như thế thì cảm nhận được niềm vui lâu dài. Còn không tu như vậy thì chịu khổ triền miên. Những thiện nam, thiện nữ v.v… này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, gần gũi bạn lành, được nghe thuyết pháp thứ tự như vậy.”

Khi Bồ-tát này biết là pháp khí thì vì họ tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nghĩa là không, vô tướng, vô nguyện, không tạo tác, không sanh, không diệt, không ngã, không hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy. Lại tuyên thuyết duyên khởi sâu xa, nghĩa là do pháp này có nên pháp kia sanh. Khi pháp này diệt thì pháp kia cũng diệt theo. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, sầu than, khổ, ưu, não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì lão tử, sầu than, khổ, ưu, não diệt.

Khi Bồ-tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lại nói thế này:

Trong lý chân thật không có một pháp nào có thể sanh có thể diệt. Vì sao? Vì các pháp thế gian đều do nhân duyên sanh, không có ngã, hữu tình, người tạo ra, người lãnh thọ. Nhân duyên hòa hợp thì nói các pháp sanh. Nhân duyên ly tán thì nói các pháp diệt. Không một pháp thật nào để lãnh thọ sự sanh diệt, hư vọng phân biệt trong ba cõi chỉ là giả danh, tùy theo nghiệp chướng phiền não mà thọ quả báo dị thục. Nếu dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật quán sát thì tất cả pháp không sanh, không diệt, không tạo, không nhận. Nếu pháp không tạo cũng là pháp không hành, thì đối với các pháp, tâm không có sự chấp trước. Nghĩa là chẳng đắm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm nhãn xứ cho đến ý xứ; chẳng đắm sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng đắm nhãn giới cho đến ý giới; chẳng đắm sắc giới cho đến pháp giới; chẳng đắm nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Khi ấy Bồ-tát lại nói thế này:

Tự tánh các pháp đều rốt ráo Không, vắng lặng xa lìa, không nắm giữ, không đắm trước. Các thiện nam, thiện nữ v.v… nghe nói lời như vậy, sự tu hành càng tiến tới chứ không thối lui.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu muốn gặp chư Phật, ưa nghe chánh pháp, chẳng rơi vào dòng ti tiện; dù sanh ở nơi nào cũng được gặp Phật, được nghe chánh phápcúng dường chúng Tăng. Thường diện kiến chư Phật, dõng mãnh tinh tấn, chí cầu chánh pháp, chẳng đắm vợ con, tôi tớ hữu vi. Đối với của cải cung cấp cho sự sống cũng chẳng tham đắm, chẳng nhiễm các dục. Thường nương chánh giáo tu tập pháp Phật, bỏ tục xuất gia như giáo lý tu hành, lại dạy cho người khác. Tuy nói cho người khác nhưng chẳng cầu đền đáp. Thấy người nghe pháp thường khởi đại từ. Đối với loài hữu tình thường khởi đại bi, học rộng nghe nhiều chẳng tiếc thân mạng. Thường ưa hạnh xa lìa, ít muốn, vui đủ. Chỉ cầu tìm nghĩa lý, chẳng câu nệ lời nói. Thuyết pháp tu hành không chỉ vì mình, mà vì loài hữu tình được nguồn vui Vô thượng, gọi là Bồ-đề của Phật, là cảnh giới đại Niết-bàn.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu hành như vậy sẽ xa lìa sự buông lung, dõng mãnh tinh tấn, hộ trì các căn. Nếu mắt thấy sắc chẳng đắm tướng của sắc, như thật quán sát tội lỗi của sắc này. Tai tiếng, mũi hương, lưỡi vị, thân xúc, ý pháp cũng thế. Nếu buông thả các căn gọi là buông lung. Nếu thường hộ trì gọi là không buông lung. Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bằng phương tiện thiện xảo, điều phục tự tâm, giúp người giữ ý gọi là không buông lung, xa lìa tham dục, tâm thuận pháp lành, quán sát sân si chẳng phải gốc của căn lành, nghiệp ác thân ý và hai tà mạng. Tất cả nghiệp chẳng lành đều phải xa lìa gọi là không buông lung. Khi Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tâm thường chánh niệm gọi là không buông lung. Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp, lấy đức tin làm đầu. Người nào chánh tín sẽ không đọa cảnh giới ác, tâm chẳng làm ác, được Thánh Hiền khen ngợi.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu hành đúng pháp, dù sanh chỗ nào thường được gặp Phật, xa lìa nhị thừa, an trú chánh đạo, được đại tự tại, thành tựu việc lớn gọi là Chánh trí giải thoát của các Như Lai. Đại Bồ-tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu muốn cầu an lạc, thường siêng tùy thuận đạo trí nhất thiết.

Thiên vương nên biết! Nay đại chúng đây được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, là nhờ đã từng ở vô lượng đại kiếp trong quá khứ cúng dường chư Phật, tu tập căn lành. Vì vậy cần phải siêng năng tinh tấn hơn, đừng để lui mất. Nếu các trời người thường chế ngự các căn, chẳng đắm năm dục lạc, xa lìa thế gian, thường tu xuất thế, thanh tịnh ba nghiệp, tu tập pháp trợ đạo gọi là không buông lung. Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn, đạt được thắng pháp, gọi là không buông lung. Các Đại Bồ-tát muốn đủ chánh tín, tâm không buông lung, tinh tấn chánh niệm, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ niệm trí này mau chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã mong cầu. Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn liền được chánh niệm. Dùng niệm trí này biết có, biết không.

Thế nào là có, là không? Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là không.

Sáu căn: mắt v.v... Sáu cảnh: Sắc v.v... Thế tục là có. Thắng nghĩa là không.

Bồ-tát tinh tấn chứng được Bồ-đề, đây gọi là có. Bồ-tát biếng nhác chứng được Bồ-đề, đây gọi là không.

Nói năm thủ uẩn đều từ hư dối phân biệt mà sanh, đây gọi là có. Nói pháp thế tục chẳng phải do nhân duyên, tự nhiên mà khởi, đây gọi là không. Nói sắc là pháp vô thường, khổ bại hoại, đây gọi là có. Nếu nói thường vui chẳng phải pháp bại hoại, đây gọi là không.

Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Vô minh duyên hành, đây gọi là có. Nếu lìa vô minh mà hành phát sinh, đây gọi là không.

Cho đến sanh duyên lão tử, sầu than khổ não cũng lại như vậy. Bố thí được phước lớn, đây gọi là có, còn bần cùng thì gọi là không.

Thọ trì tịnh giới được sanh cõi lành, đây gọi là có, sanh vào cõi ác thì gọi là không.

Cho đến tu tuệ được thành Thánh, đây gọi là có, làm kẻ ngu si thì gọi là không.

Nếu tu tập nghe nhiều sẽ được trí lớn, đây gọi là có, còn ngu si thì gọi là không.

Nếu tu chánh niệm, thường được xuất ly, đây gọi là có, không được gọi là không.

Nếu tu tà niệm chẳng được xuất ly, đây gọi là có, thường được xuất ly là không.

Nếu lìa ngã và ngã sở thường được giải thoát, đây gọi là có. Chấp ngãngã sở nếu được giải thoát, đây gọi là không.

Nếu nói hư không ở khắp tất cả mọi nơi, đây gọi là có. Nói trong năm uẩn có ngã chơn thật, đây gọi là không.

Như thật tu trí thường được giải thoát, đây gọi là có; nếu mắc vào tà tríđược giải thoát, đây gọi là không.

Lìa các ngã kiến v.v... được không trí, đây gọi là có. Đắm vào các ngã kiến v.v... thường được trí Không, đây gọi là không.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu biết có, không của thế gian, thường tu bình đẳng, hiểu rõ các pháp do nhân duyên sanh; vì theo thế tục nên nói có, chẳng khởi thường kiến; biết pháp nhân duyên bản tánh của chúng đều là Không, chẳng sanh đoạn kiến, đối với giáo pháp của chư Phật như thật thông suốt.

Thiên vương nên biết! Phật vì Bồ-tát lược nói bốn pháp là thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn v.v... và trời Trường Thọ khởi nhiều về thường kiến, vì muốn phá chấp kiến của họ mà nói các hành là vô thường. Có những trời người nhiều tham đắm dục lạc, vì phá kiến chấp của họ nên nói tất cả khổ. Với hạng tà kiến ngoại đạo chấp thân có ngã, vì phá kiến chấp của họ nên nói thân vô ngã. Kẻ tăng thượng mạn hủy báng Niết-bàn chơn thật, vì vậy nói Niết-bàn vắng lặng, nói vô thường để họ chí tâm cầu pháp rốt ráo, nói khổ để họ mong cầu xa lìa sanh tử. Đối với người nói vô ngã thì hiển rõ Không môn để họ thông suốt, và nói tịch tĩnh để họ hiểu rõ vô tướng, xa lìa sự chấp tướng.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu học như vậy đối với các pháp lành quyết không thối lui, mau thành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu những hạnh nào để hộ trì chánh pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thực hành không trái lời và tôn trọng sư trưởng, thuận theo chánh pháp, tâm hành điều hòa nhu nhuyến, chí tánh thuần chất, các căn vắng lặng, xa lìa tất cả pháp ác bất thiện, tu căn lành thù thắng gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu ba nghiệp thân, ngữ, ý, từ bi, chẳng màng danh lợi, giữ giới thanh tịnh, xa lìa các kiến chấp, gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tâm hành chẳng theo thương, giận, sợ, si, gọi hộ trì chánh pháp. Tu tập tàm quí (hổ thẹn) gọi là hộ trì chánh pháp. Thuyết pháp tu hành đều đúng như những điều đã nghe gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Chư Phật ba đờihộ trì chánh pháp mà thuyết Đà-la-ni ủng hộ Thiên vươngNhân vương v.v..., để họ hộ trì chánh pháp được tồn tại lâu dài trên thế gian, cùng các hữu tình làm lợi ích lớn nên nói Đà-la-ni:

Đát-điệt-tha, a-hổ-lạc, quật-lạc-phạt-để, hỏa-thích-noa-tóa-lũ-đồ, giả-già, giả-già-chiếc, ni-a-bôn, nhã-sát-đa, sát-đa-sát-diên-đa, sát-dã-tóa-ha, thiểm-mạt-ni-yết-lạc, ổ-lỗ-ổ-lỗ-phạt-để-ca, la-bạt-để-ca, a-bệ-xa-để-ni-tóa-thích-ni, khư-xà, khư-xà-mạt-để, a-phạt-thủy-ni, phạt-thi-phạt-đa, phạt-đa, nô-sa-lý-ni, bộ-đa-nô-tất-một-lật-để, đề-phạt-đa-nô-tất-một-lật-để, tóa-ha.

Thiên vương nên biết! Đại thần chú này có thể làm cho tất cả trời, rồng, Dạ-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, người chẳng phải người v.v... tất cả hữu tình đều được an vui. Chư Phật ba đời nói đại thần chú này vì hộ trì chánh phápủng hộ Thiên Vương, Nhân Vương v.v... được an lạc nên dùng sức phương tiệntuyên thuyết. Do đó Thiên Vương, Nhân Vương bản thânquyến thuộc v.v… đều được an vui, chánh pháp được tồn tại lâu trên thế gian, hữu tìnhquốc độ không có tai nạn, nên mỗi mỗi đều phải tinh tấn siêng năng chí thành tụng niệm. Như vậy làm cho các oán địch, nạn tai, việc ma và chướng ngại pháp v.v... thảy đều tiêu diệt. Nhờ thần chú ấy mà chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian, các hữu tình được lợi ích lớn. Khi thuyết đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa này, các cung điện trời, núi, biển, đại địa v.v... đều chấn động. Có tám mươi ngàn loài hữu tình phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Thiên vương Tối Thắng vui mừng hớn hở, dùng lưới bảy báu che trên đức Phật, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu những pháp nào mà tâm chẳng dao động đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tinh tấn siêng năng tu tập, không ngại đại từ, không chán đại bi, thành tựu việc lớn, gia tăng tinh tấn, học đẳng trì Không, cũng thường tinh tấn siêng năng tu trí bình đẳng, với phương tiện thiện xảo hiểu rõ như thật đại trí thanh tịnh, thông suốt diệu lý bình đẳng của ba đời, không còn chướng ngại, đi theo con đường chư Phật ba đời đã đi.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu pháp như thế thì tâm chẳng dao động đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu những pháp nào mà nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng ưu, chẳng não?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát tu hành diệu tuệ, diệu trí đầy đủ, gần gũi bạn lành, ưa nghe pháp thâm sâu, hiểu rõ các pháp đều như huyễn v.v... ngộ đời là vô thường, có sanh thì phải có diệt, tâm không trụ dính mắc giống như hư không.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tu pháp như vậy nên nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng ưu não.

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu những pháp nào mà thường được tự tại dù ở bất cứ chỗ nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu năm thần thông đầy đủ không ngại. Đối với các môn giải thoát, tịnh lự, vô lượng, phương tiện Bát-nhã ba-la-mật-đa thường được tự tại dù ở bất cứ nơi nào.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chứng được những môn nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, chứng được môn Diệu trí thì có thể ngộ nhập các căn lanh lợi, chậm lụt của tất cả hữu tình; đạt được môn Diệu tuệ thì có thể phân biệt cú nghĩa của các pháp; đạt được môn Tổng trì thì hiểu rõ tất cả âm thanhlời nói; đạt được môn Vô ngại thì có thể nói các pháp rốt ráo vô tận.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu sẽ chứng được các môn như vậy.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chứng được những lực gì?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sẽ được năng lực tịch tĩnh nên thành tựu đại bi; được năng lực tinh tấn nên thành tựu bất thối; được năng lực nghe nhiều nên thành tựu đại trí; được năng lực tin ưa nên thành tựu giải thoát; được năng lực tu hành nên thành tựu xuất ly; được năng lực an nhẫn nên thương giúp hữu tình; được năng lực Bồ-đề tâm nên đoạn trừ ngã kiến; được năng lực đại bi nên giáo hóa hữu tình; được năng lực vô sanh nhẫn nên thành tựu mười lực.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được các năng lực thù thắng như vậy.

Khi Thế Tôn thuyết pháp này, năm trăm Bồ-tát đắc vô sanh nhẫn. Tám ngàn Thiên tử đắc Bất thối chuyển, một vạn hai ngàn các chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh. Bốn vạn trời người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
X. PHẨM CHỨNG KHUYẾN

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Vô số đại kiếp trong quá khứ không thể nghĩ bàn có đức Phật tên là Công Đức Bảo Vương, đầy đủ mười hiệu. Nước tên là Bảo Nghiêm, kiếp tên là Thiện Quán. Cõi ấy sung túc vui vẻ không có bệnh tật khổ não. Trời người qua lại chẳng cách ngại nhau. Đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò sỏi đá chông gai. Cỏ nhung mọc khắp, mềm mại xanh biếc như lông khổng tước, cao chừng bốn ngón tay, nếu đặt chân xuống thì cỏ liền nằm rạp xuống, cất bước lên thì cỏ trở lại như cũ. Hoa Chiêm-bác-ca, hoa Duyệt ý v.v... và các thứ cỏ mềm mọc đều khắp rất xinh đẹp. Thời tiết chẳng nóng chẳng lạnh, bốn mùa điều hòa. Đất bằng ngọc báu lưu ly. Tâm tánh của các hữu tình khi ấy ôn hòa hiền thiện. Ba độc phiền não bị chế phục nên không còn hiện hành. Hàng Thanh văn đệ tử của chư Phật Thế Tôn kia tới số một vạn hai ngàn muôn ức. Hàng đệ tử Bồ-tát có sáu mươi hai ức. Con người lúc đó tuổi thọ tới ba mươi sáu muôn năm, không có người chết yểu. Có thành tên Vô Cấu Trang Nghiêm. Thành ấy từ Nam đến Bắc dài một trăm hai mươi tám do-tuần, từ Đông sang Tây tám mươi do-tuần, thành dày mười sáu do-tuần. Tường, cửa, lầu đều do bảy báu tạo thành, mười ngàn khu vườn được trang trí trang nghiêm. Mười ngàn thành nhỏ bao vây chung quanh, có bốn khu vườn đầy hoa xinh đẹp với phong cảnh rất vừa ý. Chim khổng tước công đức dạo chơi đùa giỡn suốt bốn mùa. Có bốn ao lớn, bờ bằng bảy báu, ngang rộng đều bằng nửa do-tuần, đường đi và lề đường đều bằng vàng ròng, khắp đáy ao rải toàn cát vàng rất đẹp. Trong ao có nước đủ tám công đúc. Mùi thơm hoa báu xen lẫn. Trong đó có các vịt trời, chim nhạn, chim uyên ương tập trung nhảy nhót vui vẻ. Bờ ao có nhiều cây: Bạch đàn, Xích đàn, Thi-lợi-sa (cát tường) v.v... Trên cây có chim Oanh vũ, Xá-lợi bay nhảy vui chơi. Có vua Chuyển luân tên là Trị Thế, đầy đủ bảy báu, làm vua bốn đại châu, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành sâu nặng, có tâm đại Bồ-đề Bất thối chuyển. Quyến thuộc nội cung bảy mươi ngàn người, thân hình xinh đẹp để phục vụ Bảo nữ, đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vua Chuyển luân ấy có đủ ngàn con, sức lực dõng mãnh tráng kiện, đủ hai mươi tám tướng đại trượng phu, có thể chinh phục oán địch, cũng phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Công Đức Bảo Vương Như Lai đem các Thanh văn và chúng Bồ-tát, cùng với vô lượng trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạt-hô-lạc-già, người chẳng phải người v.v… lần lượt trước sau đi vào thành Vô Cấu Trang Nghiêm. Khi ấy, vua Chuyển luân với xe bảy báu dẫn đầu cùng với một ngàn người con và quyến thuộc trong nội cung ra thành nghinh rước, kính lễ thỉnh vào, thiết bày các thứ tuyệt diệu cúng dường.

Thế Tôn và các quyến thuộc thọ dụng đồ cúng dường xong trở về bổn xứ. Luân vương Trị Thế cùng bảy báu v.v... xuất thành cung kính đưa tiễn rồi trở về cung. Lúc ấy, bỗng nhiên vua Chuyển luân tự than:

- Thân người vô thường, giàu sang như chiêm bao, may mắn được đầy đủ các căn mà chánh tín còn khó khăn, vậy huống chi được gặp Như Lai, được nghe giáo pháp nhiệm màu, thật là là điều hiếm có, như hoa Ưu-đàm vậy! Khi ấy, ngàn người con của vua biết ý phụ vương ngưỡng mộ Thế Tôn muốn nghe chánh pháp, liền kiến tạo đài đẹp rộng lớn bằng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn, trang nghiêm bằng bảy báu. Gỗ đàn ấy một lượng trị giá bằng cả châu Thiệm-bộ. Đài này từ Nam chí Bắc dài mười ba do-tuần, từ Đông sang Tây rộng mười do-tuần. Trụ lớn bốn góc trang nghiêm bằng các thứ chân bảo. Phía dưới đài có ngàn bánh xe báu. Sau khi hoàn tất dâng lên vua cha. Vua cha nhận rồi ban lời khen:

- Hay thay! Hay thay! Rất hiểu ý ta. Ta muốn đến chỗ Phật để nghe chánh pháp.

Ngàn người con lại dựng tòa Sư tử để trong đài, an trí chỗ Phụ vương ngự, sao cho các cung nhân được hầu cận trước sau. Quanh đài có các chuông vàng rất đẹp thòng xuống, rèm treo, phan lọng, lưới che bằng bảy báu, lại rải các thứ hương hoa quý lạ, đốt hương vô giá, xoa dầu thơm. Khi ấy, ngàn vị vương tử, mỗi vị bưng một bánh xe, giống thiên nga chúa bay bổng lên hư không đến chỗ Phật, nhẹ nhàng để xuống đất và đi đến chỗ Như Lai. Đến nơi đảnh lễ chân Thế Tôn, nhiễu bên phải bảy vòng rồi lui đứng một bên. Khi ấy, các quyến thuộc trong nội cung của vua Chuyển luân kia nối theo phía dưới đài. Vua cất mão ngọc và các quyến thuộc nội cung đều cởi giày dép ngọc, đến trước chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật, đi nhiễu quanh Phật bảy vòng bên phải, lui ngồi một phía.

Khi ấy, Công Đức Bảo Vương Như Lai bảo Trị Thế:

- Đại vương! Hôm nay vì nghe chánh pháp mà ngài đến đây ư?

Vua Chuyển luân từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục thưa:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là được nghe chánh pháp?

Phật khen vua:

- Lành thay! Lành thay! Hôm nay ngài muốn cho chúng trời người được lợi ích an vui, nên lắng nghe chánh pháp thâm sâu. Vậy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ thật rốt ráo. Ta sẽ phân biệt giải nói cho Đại vương.

Trị Thế bạch Phật:

- Xin Thế Tôn cứ nói. Con rất muốn nghe.

Thế Tôn bảo vua:

- Đại vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã đạt được tánh bình đẳng của tất cả pháp, gọi là chánh pháp. Bao gồm: bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác tri, tám thánh đạo, không, vô tướng, vô nguyện v.v..., đạt được tất cả pháp tánh bình đẳng nên gọi là chánh pháp.

Trị Thế lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ở trong Đại thừa thường được thắng tiến chẳng có thối lui?

Phật bảo Trị Thế:

- Đại vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nhờ sức chánh tín mà được thắng tiến. Chánh tín là gì? Là biết các pháp bản tánh vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt. Thường được thân gần với những người tu hành chân chánh, pháp nào không nên làm thì kiên quyết không làm. Tâm lìa tán loạn, nghe nhận chánh pháp, chẳng thấy người kia nói, chẳng thấy ta nghe, siêng năng tu tập chánh hạnh, mau đắc thần thông. Những loài hữu tình nào kham lãnh được, thì ta có thể giáo hóa, nhưng không bao giờ thấy ta có thần thông có thể giáo hóa hữu tìnhhữu tình kia đã nhận sự giáo hóa của ta. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát khi hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu hoàn toàn chẳng thấy ta, chẳng thấy hữu tình, hai bên bình đẳng thì được thắng tiến không thối lui.

Đại vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, hộ trì các căn, chẳng để chấp trước, đối với đồ vật giúp cho sự sống luôn khởi tưởng vô thường, biết các pháp vắng lặng, thân mạng như mượn tạm.

Đại vương nên biết! Các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, ở trong Đại thừa tâm không buông lung.

Đại vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thậm chí trong giấc mộng còn chẳng quên mất tâm Bồ-đề, giáo hóa các hữu tình khiến họ tu Phật đạo, đem các căn lành ban cho loài hữu tình để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thấy được thần lực của Phật, vui mừng khen ngợi.

Đại vương nên biết! Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy sẽ mau thành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên đại vương phải siêng năng tinh tấn trụ ở ngôi tôn quý, chớ sanh buông lung. Đại Bồ-tát nào muốn cầu chánh pháp thì chớ đắm ngũ dục. Vì sao? Vì tất cả phàm phu không nhàm chán dục lạc, còn bậc đạt Thánh trí thì có thể bỏ được. Vì thân người vô thường, thọ mạng ngắn ngủi.

Đại vương! Ngày nay nên hiểu cho rốt ráo, chán bỏ thế gian để cầu đạo xuất thế. Đại vương nên đem căn lành đã cúng dường Như Lai, để hồi hướng cho bốn việc:

- Một là tự tại vô tận.

- Hai là chánh pháp vô tận.

- Ba là diệu trí vô tận.

- Bốn là biện tài vô tận.

Bốn việc hồi hướng này cùng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều vô tận. Đại vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên tu trì giới thân, ngữ, ý một cách thanh tịnh. Vì sao? Vì muốn hướng đến văn, tư, tu. Dùng sức phương tiện giáo hóa các hữu tình, dùng sức Bát-nhã phá dẹp các ma, thành tựu nguyện lực, việc làmlời nói không trái nhau.

Khi vua Chuyển luân nghe Phật thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vui mừng hớn hở như được điều chưa từng có, tự lấy mão ngọc, cởi chuỗi anh lạc, quỳ thẳng dâng lên cúng dường Như Lai, xả bốn đại châu dâng cúng hết cho Phật, nguyện đem phước này thường tu phạm hạnh, học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đem tâm quyết định vì loài hữu tình hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Những người cung nữ của vua nghe Phật thuyết pháp đều sanh vui mừng phát tâm Bồ-đề, đều cởi áo báu và chuỗi ngọc anh lạc dâng lên cúng cho Công Đức Bảo Vương Như Lai. Vua đem đài báu và tòa Sư Tử dâng lên Phật mà cầu xuất gia. Lúc đó đức Như Lai khen ngợi Trị Thế:

- Vua được như vậy thật quí thay! Những gì làm hôm nay chẳng trái nguyện xưa, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát-nhã. Chư Phật quá khứ nhờ tu pháp này mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chư Phật vị lai cũng lại như thế.

Bấy giờ, Trị Thế lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí có khác với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật bảo:

- Trị Thế! Nếu bố thí không có trí tuệ Ba-la-mật-đa thì chỉ được gọi tên là bố thí, chẳng phải đến bờ kia. Phải do trí tuệ Ba-la-mật-đa mới được gọi là bố thí đến bờ bên kia. Tịnh giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã cũng như vậy. Vì sao? Vì tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều bình đẳng.

Khi đức Phật thuyết pháp thậm thâm này, vua liền chứng được Vô sanh pháp nhẫn.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, phải như vua siêng cầu chánh pháp kia. Vua Chuyển luân khi ấy là Phật Nhiên Đăng, còn ngàn người con kia chính là ngàn Phật thời Hiền kiếp.

Tối Thắng bèn thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tu hành mau thành đạo đại Bồ-đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu tâm từ v.v... không làm tổn hại các hữu tình, siêng năng hành tất cả Ba-la-mật-đa và bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm và pháp phần Bồ-đề, tu học phương tiện thiện xảo của thần thông, với tất cả pháp lành đều tu viên mãn. Nếu các Bồ-tát tu hành như vậy thì có thể mau thành đạo đại Bồ-đề. Đạo Bồ-đề ấy gọi là tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm xa lìa sự dối gạt, tâm tu hành bình đẳng, tâm thí vô úy, giúp các hữu tình hoàn toàn gần gũi, siêng tu hành bố thí thì quả báo sẽ vô tận. Thọ trì tịnh giới mà không có sự chướng ngại. Tu hành an nhẫn xa lìa các sự giận dữ, siêng năng tinh tấn thêm thì sự tu hành dễ thành tựu, có tịnh lự thù thắng chẳng khởi tán loạn, đầy đủ Bát-nhã sẽ thông suốt hoàn toàn. Có đại từ nên làm lợi ích hữu tình. Có đại bi nên quyết không thối chuyển. Có đại hỷ nên thường làm vui lòng người khác. Có đại xả nên không khởi lên sự phân biệt. Không còn ba độc nên lìa các chông gai. Chẳng đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc cho nên diệt trừ các sự hý luận. Không có phiền não nên xa lìa sự thù oán. Xả bỏ niệm của nhị thừa nên tâm rộng lớn. Đủ trí nhất thiết nên thường xuất ra nhiều thứ báu. Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu hành như vậy thì có thể mau thành tựu đạo đại Bồ-đề.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, hiện ra hình tướng nào để giáo hóa loài hữu tình?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, hiện ra hình tướng không nhất định. Vì sao? Vì tùy theo sự ưa thích, Bồ-tát liền hiện ra hình tướng như vậy. Hoặc hiện ra màu vàng ròng, hoặc hiện ra màu bạc, hoặc hiện ra màu pha lê, hoặc hiện ra màu lưu ly, hoặc hiện màu thạch tàng (chử tàng – mã não), hoặc hiện màu chơn châu, hoặc hiện màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc hiện màu ngọn lửa, mặt trời, mặt trăng, hoặc hiện màu Đế Thích, hoặc hiện màu Phạm vương, hoặc hiện màu sương tuyết, hoặc hiện màu thư hoàng (khoáng chất), hoặc hiện màu châu đan, hoặc hiện màu mưa hoa, hoặc hiện màu hoa Chiêm-bác-ca (cây hoa sắc vàng ròng), hoặc hiện màu hoa Tô-mạt-na (hoa màu vàng trắng), hoặc hiện màu hoa sen xanh, hoặc hiện màu hoa sen vàng, hoặc hiện màu hoa sen đỏ, hoặc hiện màu hoa sen trắng, hoặc hiện màu trời Công đức, hoặc hiện màu con thiên nga, con công, hoặc hiện màu ngọc san hô, hoặc hiện màu châu như ý, hoặc hiện màu cõi hư không; tùy theo màu của trời, người đều hiện ra theo loại ấy.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này đều có thể thị hiện tùy theo sắc màu, hình tướng sai khác của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể nhiếp hóa khắp tất cả hữu tình, cho đến chẳng rời bỏ tất cả hữu tình. Vì sao? Vì tâm hành của tất cả hữu tình khác nhau. Thế nên Bồ-tát thị hiện nhiều thứ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này ở đời quá khứnguyện lực lớn, tùy theo các hữu tình ưa thấy thọ hóa liền thị hiện thân mà họ muốn thấy, như trong gương sáng vốn không có ảnh tượng nhưng tùy theo thể chất tốt xấu đều hiện tất cả. Nhưng gương sáng này cũng không có phân biệt: Cơ thể ta sáng sạch có thể hiện được cái sắc. Như vậy Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không có tâm phân biệt, tuỳ sự ưa muốn mà thị hiện, cũng chẳng phân biệt ta có thể hiện thân.

Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tùy theo thánh chúng ở trong chỗ ngồi, tâm họ ưa thích được thấy thân nào thuyết pháp, thì Bồ-tát hiện ngay thân ấy vì họ thuyết pháp. Nghĩa là hoặc thấy Phật, hoặc thấy Bồ-tát, hoặc thấy Độc giác, hoặc thấy Thanh văn, hoặc thấy Phạm vương, hoặc thấy Đế Thích, hoặc thấy Đại Tự Tại, hoặc thấy Tỳ-sắc-noa, hoặc thấy Hộ Thế, hoặc thấy Luân vương, hoặc thấy Sa-môn, hoặc thấy dị đạo, hoặc thấy Bà-la-môn, hoặc thấy Sát-đế-lợi, hoặc thấy Phệ-xá, hoặc thấy Thú-đạt-la, hoặc thấy trưởng giả, hoặc thấy cư sĩ, hoặc thấy ngồi trong đài báu, hoặc thấy ngồi trên hoa sen, hoặc thấy tại đất, hoặc thấy bay trên hư không, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy thiền định.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ-tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì cứu độ hữu tình nên không một kiểu hình nào và không một oai nghi nào mà không thể hiện được. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu giống như hư không, không hình, không tướng, khắp mười phương thế giới không chỗ nào không có.

Lại như hư không lìa các hý luận. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như vậy, vượt các ngôn ngữ.

Lại như hư không đời sống phải cần, với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, tất cả thánh phàm đều chung thọ dụng.

Lại như hư không xa lìa các sự phân biệt. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như vậy, không có tâm phân biệt.

Lại như hư không dung chứa các sắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng dung chứa được tất cả Phật pháp.

Lại như hư không thường hiện các sắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng thường hiện ra tất cả Phật pháp.

Lại như hư không tất cả cỏ cây, thuốc thang hoa quả đều nương vào đó mà tăng trưởng. Cũng vậy, tất cả căn lành đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâutăng trưởng.

Lại như hư không chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải pháp để nói năng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như vậy, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lìa các ngôn ngữ. Thế gian Sa-môn, Bà-la-môn v.v... cho đến Đế Thích, Phạm Thiên chẳng thể nghĩ lường Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được.

Thiên vương nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không có một pháp nào có thể làm ví dụ được. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... tin thọ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì công đức đạt được không thể nghĩ bàn. Nếu công đức này có hình sắc thì cõi hư không chẳng chứa hết được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu sanh ra tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian. Tất cả chúng trời, người, hoặc vua trời người, bốn hướng, bốn quả và các Độc giác, thập địa Bồ-tát, Ba-la-mật-đa, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, nhất thiết chủng trí, lực vô sở úy, và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... đều hoàn toàn dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuthành tựu.

Khi thuyết pháp này, năm vạn Bồ-tát chứng được Bất thối chuyển. Một vạn năm ngàn chúng thiên tử được Vô sanh pháp nhẫn. Một vạn hai ngàn chúng trời, người xa lìa trần cấu sanh mắt pháp thanh tịnh. Hằng hà sa số loài hữu tình phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trên hư không, chư Thiên trổi các kỹ nhạc và rải các thứ hương hoa đẹp của cõi trời để cúng dường Như Lai và Bát-nhã thâm sâu này. Lại có vô lượng trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạt-hô-lạc-già, người chẳng phải người v.v... cũng rải các thứ hoa và những vật báu cúng dường Như Lai và Bát-nhã thậm thâm. Khi đó, trời rồng và những chúng khác chấp tay cung kính đồng thanh cất tiếng khen ngợi Phật:

- Hay thay! Hay thay! Thế Tôn đã hoan hỷ thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy.

Quyển thứ 571
HẾT

XI. PHẨM HIỂN ĐỨC

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trải qua bao nhiêu kiếp hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cúng dường bao nhiêu đức Phật mà có thể thưa hỏi, hiển dương khen ngợi về Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như Như Lai đã thuyết cho Thiên vương Tối Thắng vậy?

Phật bảo Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Việc như thế này không thể nghĩ bàn được. Nếu chẳng phải vô lượng trăm ngàn đại kiếp tu tập các hạnh, gieo trồng các căn lành thì chẳng được nghe công đức, danh tự của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện nam tử! Số cát sông Hằng trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương còn có thể biết được, chứ Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đã trải qua bao nhiêu số kiếp, cúng dường bao nhiêu vị Phật đều không thể biết được.

Thiện nam tử! Trong quá khứ vô lượng, vô biên vô số kiếp khó nghĩ bàn, có đức Phật ra đời tên là Đa Văn đầy đủ mười hiệu, kiếp tên là Tăng Thượng, nước tên là Nhật Quang. Như Lai Đa Văn thuyết pháp môn thanh tịnh cho các Đại Bồ-tát:

“Thiện nam tử! Ông phải siêng năng tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng.

Khi đó, trong hội kia, có một vị Bồ-tát tên là Tinh Tấn Lực, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân ngài, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật:

- Đức Thế Tôn đã nói: Ông nên siêng năng tinh tấn tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng. Theo con hiểu ý nghĩa lời Phật nói là: Các Đại Bồ-tát cần phải biếng nhác, chẳng tu pháp lành, mới có thể mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Nếu các Bồ-tát siêng tu các pháp thì không thể trụ trong sanh tử lâu ngày để làm lợi lạc cho hữu tình. Nhưng các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, chấm dứt phiền não, trụ lâu trong sanh tử, quyết chẳng phải vì bản thân để mau chứng Niết-bàn, mà chỉ vì lợi lạc cho các hữu tình. Bồ-tát lấy sanh tử làm vui, chẳng lấy Niết-bàn làm vui. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát lấy sự giáo hóa hữu tình làm vui vậy. Nghĩa là tùy theo chỗ ưa muốn mà phương tiện khéo léo truyền trao pháp môn giúp họ được an lạc. Nếu siêng tu pháp lành thì mau hết phiền não, không thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Thế nên Bồ-tát quán sát sanh tử nhiều sự khổ não, khởi tâm đại bi chẳng bỏ hữu tình, thành tựu bản nguyện.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát đủ sức phương tiện ở lâu trong sanh tử, thấy được vô lượng, vô biên đức Như Lai, nghe và lãnh thọ vô lượng, vô biên chánh pháp, giáo hóa và dẫn dắt vô lượng, vô biên hữu tình. Thế nên, vì việc này mà Bồ-tát chẳng nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi quán sanh tử mà khởi lên sự chán sợ, ưa vui Niết-bàn thì sẽ rơi vào phi đạo, không thể làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, không thông suốt cảnh giới mầu nhiệm của Như Lai.

Thế nào là phi đạo?

Là ưa Thanh văn và bậc Độc giác, đối với các loài hữu tình không có tâm đại bi. Vì sao? Vì đạo mà Thanh vănĐộc giác hành trì chẳng phải đạo của các Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì Thanh vănĐộc giác chán sợ sanh tử, ưa vui với Niết-bàn, không thể đầy đủ phước đức trí tuệ, vì nghĩa này nên chẳng phải đạo Bồ-tát.

Khi ấy, Phật Đa Văn liền khen ngợi Tinh Tấn Lực:

- Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, các Đại Bồ-tát nên tu tự hành chớ tu tập theo phi đạo.

Tinh Tấn Lực thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát đã tu đạo tự hành?

Phật Đa Văn nói:

- Bồ-tát thành tựu tất cả phước tuệ, vì sức đại bi không bỏ hữu tình, xa lìa Thanh văn và bậc Độc giác, được đắc Vô sanh nhẫn nhưng chẳng bỏ ba cõi, không có sự hy vọng sanh trưởng căn lành, dùng phương tiện thiện xảo tu hành tất cả Ba-la-mật-đa. Dùng sức trí tuệ, không có tâm phân biệt, sanh trưởng căn lành, thành tựu tận trí được vô lượng công đức. Dù biết các pháp không có một pháp nào tự nó có thể sanh, chỉ phương tiện hiện sanh. Dù biết hữu tình không có một hữu tình nào là thật có mà vẫn phương tiện giáo hóa, biết tất cả pháp đều lìa tự tánh. Quán các cõi Phật đều như hư không nhưng thường dùng phương tiện khéo léo nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả pháp thân Phật không có hình dáng nhưng phương tiện thị hiện tướng hảo trang nghiêm. Tùy theo tâm các hữu tình ưa thích điều gì liền phương tiện mà trao cho họ. Thân tâm Bồ-tát tuy thường vắng lặng nhưng vẫn thuyết pháp giáo hóa hữu tình, cũng dùng phương tiện thiện xảo xa lìa sự ồn náo, tu các thiền định, biết tự tánh Không nhưng thông suốt được tất cả trí tuệ sâu xa, dùng phương tiện thuyết pháp cho người khác, không chứng quả Thanh văn, Độc giác thừa, mà siêng năng cầu chứng được quả Giải thoát của Như Lai, chẳng bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ-tát. Thiện nam tử! Đây gọi là Bồ-tát đã tự hành đạo của mình.”

Mạn-thù-thất-lợi! Khi Tinh Tấn Lực theo Như Lai để nghe nói về cảnh giới mà Bồ-tát đã tu hành chứng được là chưa từng có, liền vội vàng thưa với Phật Đa Văn:

“Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, như con hiểu ý lời Phật nói là: Bồ-tát đầy đủ phương tiện thiện xảo, quán tất cả pháp đều là đạo cả. Ví như hư không dung chứa các sắc. Như vậy Bồ-tát đầy đủ phương tiện lớn, sự hành đạo thâu nhiếp tất cả pháp. Lại như hư không, tất cả cỏ cây hoa quả đều nhờ đó mà sanh trưởng. Như vậy các vật đối với cõi hư không không thể làm nhiễm hoặc tịnh, chẳng làm giận làm vui. Đại Bồ-tát này đầy đủ phương tiện lớn là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nên quán tất cả pháp đều là đạo, nghĩa là pháp của phàm phu hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã thông suốt rồi. Ví như lửa mạnh, nếu gặp cỏ cây tất không lùi lại. Các cây cỏ này đều thuận theo, càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh thêm. Cũng vậy các pháp hoàn toàn thuận theo đạo của Bồ-tát nên gọi là Bồ-tát đạo. Thí như kim cương, thể chất nó rắn chắc, dao không thể chặt gãy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể thối rửa, độc không thể hại. Cũng vậy, với phương tiện trí tuệ của Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác, các ngoại đạo, và tất cả phiền não không thể nào làm tổn hoại được. Như ngọc thủy thanh có thể làm trong nước đục. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu của Bồ-tát có thể làm cho tất cả phiền não của hữu tình đều được thanh tịnh. Ví như thuốc tốt Diệu bảo thần châu không thể ở chung với chất độc, có khả năng làm tiêu hết các chất độc. Cũng vậy Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng ở chung với tất cả phiền não, mà có thể đoạn diệt tất cả phiền não. nhân duyên các pháp như vậy đều là đạo của Đại Bồ-tát.”

Mạn-thù-thất-lợi! Khi Tinh Tấn Lực nói về pháp này, tám vạn Bồ-tát đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Hai trăm Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Mạn-thù-thất-lợi! Tinh Tấn Lực kia chính là Thiên vương Tối Thắng hôm nay.

Bấy giờ, Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được sức kiên cố, hộ trì chánh pháp?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào thà bỏ thân mạng chứ không bỏ chánh pháp, khiêm nhường với mọi người, không sanh kiêu mạn, nhẫn nại với sự sĩ nhục của bọn hạ tiện, cho hữu tình đói khát những thức ăn ngon, ban sự không sợ hãi cho người gặp nạn, trị liệu đúng pháp cho người bệnh tật, bố thí nhiều của báu cho hữu tình nghèo thiếu, sửa sang trang nghiêm pháp miếu thờ chư Phật, diệt trừ việc xấu, phát huy việc thiện, đem sự an vui cho hữu tình buồn khổ. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy sẽ được sức kiên cố, hộ trì chánh pháp.

Mạn-thù-thất-lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể điều phục tâm?

Phật bảo Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chẳng xen vào việc của người khác, suy nghĩ trước rồi mới làm. Tâm tánh ngay thẳng điều hòa, lìa xa sự dua nịnh, lìa xa sự dua nịnh, chẳng tự khoe cao, ý thường nhu hòa. Đại Bồ-tát này có thể điều phục được tâm.

Mạn-thù-thất-lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể điều phục được tâm thì sẽ sanh về cõi nào?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể điều phục được tâm hoặc sanh lên cõi trời, hoặc sanh trong loài người. Nếu sanh lên cõi trời thì làm Đế Thích, hoặc làm Phạm vương là chủ cõi Kham Nhẫn. Nếu sanh vào loài người sẽ làm vua Chuyển luân hoặc làm các vua khác, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ. Sanh lên trời hay người cũng thường được gặp Phật. Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể điều phục tâm sẽ sanh vào cảnh giới như vậy.

Mạn-thù-thất-lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chánh tín đưa đến pháp nào?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Chánh tín dẫn đến bạn hiền chơn thật.

- Bạch Thế Tôn! Đa văn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Đa văn dẫn đến trí tuệ vi diệu.

- Bạch Thế Tôn! Bố thí đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bố thí dẫn đến phước lớn.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh giới đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh giới dẫn đến cảnh giới lành.

- Bạch Thế Tôn! An nhẫn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- An nhẫn dẫn đến sự dung nạp tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Tinh tấn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tinh tấn dẫn đến sự thành tựu tất cả Phật pháp.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh lự đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh lự dẫn đến sự xa lìa tất cả tán loạn dao động.

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bát-nhã dẫn đến sự xa lìa tất cả phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Nghe pháp đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Nghe pháp dẫn đến sự xa lìa tất cả lưới nghi.

- Bạch Thế Tôn! Hỏi đúng đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Hỏi đúng dẫn đến trí tuệ vi diệu quyết định đối với các pháp.

- Bạch Thế Tôn! Ở yên tịnh đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Ở yên tịnh dẫn đến định thù thắng và các thần thông.

- Bạch Thế Tôn! Tu đúng đắn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tu đúng dẫn đến chánh đạo.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô thường đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô thường dẫn đến sự không nắm bắt đối với cảnh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng khổ đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng khổ dẫn đến sự vô sanh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô ngã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô ngã dẫn đến sự diệt trừ chấp ngãngã sở.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng Không đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng Không dẫn đến sự tịch tĩnh.

- Bạch Thế Tôn! Chánh niệm đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Chánh niệm dẫn đến Thánh kiến.

- Bạch Thế Tôn! Thân tâm xa lìa đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thân tâm xa lìa dẫn đến tất cả thần thông diệu tịnh

- Bạch Thế Tôn! Thánh đạo đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thánh đạo dẫn đến Thánh quả.

- Bạch Thế Tôn! Thắng giải đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thắng giải dẫn đến sự thành tựu tất cả giải thoát.

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật ra đời đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Phật ra đời dẫn đến tất cả pháp phần Bồ-đề.

Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật ra đời?

Phật dạy:

- Tối Thắng! Như phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Như phát sanh đại bi.

- Bạch Thế Tôn! Sanh đại bi là thế nào?

Phật dạy:

- Chẳng bỏ tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Chẳng bỏ tất cả hữu tình là sao?

Phật dạy:

- Phải giống như chẳng bỏ Tam bảo.

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể không bỏ Tam bảo?

Phật dạy:

- Tất cả những người không có phiền não.

Tối Thắng liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật kín đáo thâm sâu mầu nhiệm, tuy nói pháp Không, không sanh, không diệt, xưa nay vắng lặng nhưng chẳng phá hoại nghiệp quả thiện ác, xa lìa đoạn thường. Bạch Thế Tôn! Có trường hợp nào mà những hữu tình nghe pháp này chẳng kính tin lại sanh tâm hủy báng không?

Phật dạy:

- Cũng có.

- Bạch Thế Tôn! Hữu tình này do đời quá khứ tu hành thiện nghiệp nên được thọ thân người. Nhưng do gần gũi bạn ác nên đối với giáo pháp thâm sâu không thể kính tin lại sanh hủy báng, thì làm uổng phí nghiệp thiện quá khứ. Ân đức của chư Phật thật là sâu nặng, giả sử có đem máu thịt của mình cúng dường chư Phật cũng chẳng đền đáp được. Nhờ ơn Phật nên ngày nay chúng ta tăng trưởng căn lành, được pháp lạc lớn, trụ đại tự tại, trời người cung kính.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên biết ơn Phật, thân gần bạn lành, phải tu hạnh của Phật, chứng quả Bồ-đề của Phật.

Khi nói pháp này, trong chúng có hai vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Vô sanh nhẫn, bốn vạn năm ngàn chúng trời người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Một vạn hai ngàn chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.

 
XII. PHẨM HIỆN HÓA

Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Tư thưa với Thiên vương Tối Thắng:

- Hóa thân của Phật có thể biến hóa nữa không?

Tối Thắng đáp:

- Nay đối với việc đó lấy Thế Tôn làm minh chứng. Hóa thân của Phật lại có thể hóa làm hằng hà sa số vô lượng hóa thân Phật nữa, với vô lượng hình tượng thần thông để thuyết pháp làm lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì nguyện lực thuở xưa của chư Phật thanh tịnh nên mới được như vậy.

Bồ-tát Thiện Tư lại hỏi:

- Thiên vương thường thuyết pháp thâm sâu một cách khéo léo. Nếu gọi nguyện lực thuở xưa của Phật thanh tịnh thì cúi xin Thiên vương thỉnh thần lực Phật làm cho Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tồn tại lâu dài trên thế gian, không bao giờ diệt mất.

Tối Thắng trả lời:

- Thiện Tư nên biết! Tất cả Như Lai thường cùng nhau hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì văn tự để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, văn tự này chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Ý nghĩa được hiển bày kia cũng chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Do đó, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu của chư Phật cũng không ẩn mất. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn yên lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất.

Bồ-tát Thiện Tư lại hỏi Thiên vương:

- Còn những người nào thường hộ trì chánh pháp?

Tối Thắng đáp:

- Những người nào chẳng trái nghịch tất cả pháp thì có thể hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì chẳng trái chánh lý, thường không tranh luận nên gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Thế nào gọi là chẳng trái chánh lý, thường không tranh luận nên gọi là hộ trì chánh pháp?

Tối Thắng đáp:

- Nếu thuận theo văn tự chẳng trái chánh lý, thường không tranh luận gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì hàng phàm phu thế gian đều đắm các kiến chấp. Người thuận theo chánh lý thời thường nói Không. Vì thế gian cùng họ tranh luận sôi nổi.

Hàng phàm phu này thì mến chuộng pháp có.

Người thuận chánh lý đối với pháp có lại coi khinh.

Thế gian nói có: Thường, lạc, ngã, tịnh.

Người thuận chánh lý nói: Vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh.

Thế nên thế gian cùng họ khởi lên tranh luận. Những hạng phàm phu thuận dòng thế gian, còn người thuận chánh lý thì nghịch dòng thế gian. Vậy nên thế gian cùng họ khởi lên tranh luận.

Phàm phu thế gian đắm uẩn, xứ, giới.

Người thuận chánh lý hoàn toàn không có sự chấp đắm.

Do đó thế gian cùng họ tranh luận.

Phàm phu thuận theo đời chẳng hành chánh lý.

Người thuận chánh lý cùng với đời trái nghịch nhau, nên thường không tranh, gọi là hộ trì chánh pháp.

Bồ-tát Thiện Tư lại hỏi Tối Thắng:

- Vậy hôm nay Thiên vương nên lấy gì?

Tối Thắng đáp:

- Thiện Tư nên biết! Ngã chẳng lấy ngã cũng chẳng lấy pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng lấy?

Tối Thắng đáp:

- Tự tánh ngã là xa lìa. Tự tánh của pháp và hữu tình cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này cũng bất khả đắc.

Tự tánh quá khứxa lìa. Tự tánh vị lai, hiện tại cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này đều bất khả đắc.

Tự tánh chư Phật chẳng phải xa lìa, tự tánh chư Phật chẳng phải không xa lìa. Tự tánh của quốc độ chư Phật chẳng phải xa lìa. Tự tánh của quốc độ chư Phật chẳng phải không xa lìa.

Tự tánh các pháp chẳng phải xa lìa, tự tánh các pháp chẳng phải không xa lìa. Thiện Tư nên biết! Hành được như vậy gọi là thuận chánh lý. Không có pháp để lấy, không lấy mới có thể hộ trì chánh pháp.

Bồ-tát Thiện Tư khen Thiên vương Tối Thắng:

- Hay thay! Hay thay! Đại sĩ chính là người có thể thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, không chấp lấy, không đắm, không văn, không tự, diệt các hý luận, lìa phân biệtpháp bị phân biệt.

Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử tên là Hiền Đức, từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì chấm đất, chấp tay cung kính thưa với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên vương Tối Thắng đã nói không có sự phân biệt, đó là pháp nào?

Phật bảo Hiền Đức:

- Thiên vương nên biết! Không có phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được lấy và bị lấy đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy gọi là pháp không phân biệt. Đại Bồ-tát nào quán như vậy thì mới có thể hộ trì chánh pháp, không thấy mình hộ trì và pháp được hộ trì.

Khi nói pháp này mười ngàn Bí-sô tâm được giải thoát, hai ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sinh pháp nhãn thanh tịnh.

Bồ-tát Thiện Tư hỏi Thiên vương Tối Thắng:

- Những biện tài nào có thể thuyết pháp thâm sâu như thế?

Tối Thắng đáp:

- Bậc không còn tất cả tập khí phiền não, đã đạt được sự biện tài thì có thể nói pháp thâm sâu này. Vượt qua đường ngôn ngữ, không thể nghĩ bàn, thắng nghĩa diệu trí, biện tài như vậy mới có thể nói được pháp thâm sâu này.

Bồ-tát Thiện Tư hỏi Thiên tử Hiền Đức:

- Vì sao trong pháp không sanh lại dùng sự biện tài để nói?

Thiên tử Hiền Đức đáp:

- Đại Bồ-tát nào chẳng trụ pháp không sanh, không diệt thì không dùng biện tài để nói pháp thâm sâu. Vì sao? Vì xa lìa sự hý luận, không thấy năng duyên, không thấy sở duyên, tâm không có chỗ trụ, vì vậy nên có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ trụ trong thắng nghĩa thanh tịnh, thế nên có thể nói.

Bồ-tát Thiện Tư liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Thiên tử Hiền Đức thật là hiếm có, chính ngài mới có thể thông suốt pháp thâm sâu, biện tài vô tận.

Phật bảo Thiện Tư:

- Thiên Tử Hiền Đức từ chỗ Phật Bất Động của thế giới Diệu Hỷ, mà đến thế giới Kham Nhẫn này nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Các ông nên biết! Thiên tử Hiền Đức đã ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập môn Đà-la-ni hiếm có, trải qua nhiều kiếp thuyết pháp cũng chẳng cùng tận.

Bồ-tát Thiện Tư lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là môn Đà-la-ni hiếm có?

Phật dạy:

- Thiện Tư! Sự hiếm có này là gọi các pháp không nhập môn Đà-la-ni. Môn Đà-la-ni vượt qua các văn tự, nói không thể nhập, tâm không thể lường, trong pháp nội ngoại đều bất khả đắc.

Thiện Tư nên biết! Không có chút pháp nào có thể nhập vào đây được, thế nên gọi là các pháp không nhập môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì pháp này bình đẳng không cao không thấp, không vào không ra, không một văn tự nào từ ngoài vào được, cũng không một văn tự nào từ trong mà ra, không một văn tự nào trụ trong pháp này, cũng không có văn tự cùng thấy được nhau, cũng chẳng phân biệt pháp khác với phi pháp. Các văn tự này nói cũng không giảm không nói cũng không tăng, từ xưa đến nay hoàn toàn không có sự làm ra và hoại diệt. Như các văn tự tâm cũng như vậy; như tâm tất cả pháp cũng như thế. Vì sao? Vì pháp lìa ngôn ngữ cũng lìa sự suy nghĩ so lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt nên không vào ra. Do đây gọi là các pháp chẳng nhập môn Đà-la-ni. Nếu người nào thông suốt được pháp môn này thì biện tài vô tận. Vì sao? Vì thông suốt pháp vô tận chẳng dứt đoạn. Nếu người có thể vào được hư không thì có nhập vào môn Đà-la-ni này.

Thiện Tư nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thông suốt được môn Đà-la-ni này, tâm được thanh tịnh, thân ngữ cũng thế, sự tu hành thuận theo lý Bát-nhã vững chắc thì các quân ma không thể quấy nhiễu. Tất cả ngoại đạo chẳng dám đối diện, các nghiệp phiền não làm gì hoại được, thần lực vững vàng, tâm lìa sự khiếp nhược, hễ có thuyết giảng thì biện tài vô tận, có thể tuyên thuyết các môn Thánh đế thậm thâm vi diệu. Trí tuệ đa văn tựa như biển cả. An trụ tịch định dụ như núi Diệu Cao, như sư tử chúa giữa chúng không sợ. Pháp thế gian chẳng nhiễm, giống như hoa sen trong sạch. Làm lợi ích hữu tình ví bằng đất lớn. Rửa sạch cấu uế như dòng nước lớn. Thành thục thế gian sánh với các lửa dữ. Tăng trưởng pháp lành đồng như gió mạnh. Mát mẻ vui lòng như ánh sáng hiền hòa của mặt trăng. Thường phá đi những sự tối tăm như ánh sáng mặt trời. Phá dẹp phiền não oán hại như dũng sĩ oai hùng. Tâm tánh điều phục như voi chúa lớn. Thường vang sấm pháp dụ như rồng lớn. Mưa pháp rưới khắp ví như đám mây lớn. Như đại lương y chữa bệnh phiền não, giống như đại quốc vương khéo ngự trị thế gian. Như Tứ Thiên vương ủng hộ hữu tìnhhộ trì chánh pháp. Như trời Đế Thích giàu sang hơn hết, đối với trong trời, người. Tâm được tự tại như Đại Phạm vương làm chủ thống lãnh cõi Kham Nhẫn một cách tự tại, thân được vô ngại. Như Yết-lộ-trà chỉ dạy hữu tình. Như người cha của thế gian thường lưu chuyển pháp bảo. Như Tỳ-sa-môn có thể sanh ra các thứ quý báu thế gian, được trang nghiêm bằng phước đức trí tuệ. Những hữu tình nào trông thấy đều mong nhờ lợi ích. Được chư Phật Thế Tôn khen ngợi, các trời, rồng v.v... cùng nhau ủng hộ.

Thiện Tư nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu đắc môn Đà-la-ni này liền được tự tại, làm lợi ích hữu tình, phương tiện thuyết pháp mà chẳng cùng tận, tâm không mỏi mệt, chẳng màng lợi dưỡng tiếng khen, pháp thí bình đẳng không có bỏn sẻn, ganh tị. Thọ trì tịnh giới, ba nghiệp không lỗi.

An nhẫn thanh tịnh lìa các sự giận dỗi, bực bội.

Tinh tấn thanh tịnh làm việc thành tựu.

Tĩnh lự thanh tịnh khéo léo điều phục tâm.

Trí Bát-nhã thanh tịnh vĩnh viễn không nghi ngờ.

Đủ bốn Vô lượng như Đại Phạm vương thường tu hành các đẳng trì, đẳng chí một cách khéo léo, vào ra tự tại, hơn hẳn các thế gian, tu nhân Đại Giác đủ các phước tuệ, nhận lãnh ngôi quán đỉnh được tự tại lớn.

Khi Phật thuyết môn Tổng trì này, trong chúng có sáu vạn bốn ngàn Bồ-tát được Bất thối chuyển, ba vạn Bồ-tát được Vô sanh nhẫn. Hai vạn trời người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Vô lượng, vô biên trời, người v.v... đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XIII. PHẨM ĐÀ-LA-NI

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Như Lai đã nói: Các Đại Bồ-tát nếu được các pháp chẳng nhập môn Đà-la-ni như vậy thì thành tựu vô lượng, vô biên công đức.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Công đức như thế, giả sử Như Lai nói trăm ngàn năm cũng chưa hết được.

Khi ấy, trong chúng có vị Bồ-tát tên là Tịch Tĩnh Tuệ liền thưa với Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu Đại Bồ-tát chứng được môn Đà-la-ni này sẽ được đức Phật Thế Tôn khen ngợi. Bồ-tát ấy được lợi lớn hoàn toàn, tự hành hóa kia đều không phải Không.

Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi bảo Bồ-tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Trong thắng nghĩa đế không pháp nào đáng khenkhông sắc không tướng. Cái không sắc tướng thì có gì đáng khen? Vì không gì đáng khen nên có cái gì để vui mừng.

Tịch Tĩnh Tuệ lại thưa:

- Tôi nghe trong Kế kinh, Như Lai nói: Tự tánh các pháp không có ngã, ngã sở, không thể làm cho vui cũng không thể làm cho giận. Pháp bình đẳng này các Bồ-tát cần nên học. Thí như đại địa dựa vào Thủy luân, nếu đào ao giếng thì được nước để dùng. Những kẻ không đào không do đâu mà có. Như vậy, cảnh pháp Thánh trí bình đẳng biến khắp tất cả pháp. Nếu ai siêng năng tu Bát-nhã liền được chứng đắc, còn người chẳng tu làm sao chứng được. Thế nên Bồ-tát mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không nên biếng nhác. Nếu siêng năng tinh tấn như đã nói thì cảnh bình đẳng của pháp sẽ hiện ra trước mắt. Như người mù bẩm sanh không thể thấy màu sắc. Cũng vậy, hữu tình bị phiền não làm mù tối thì không thể thấy pháp bình đẳng. Như người có mắt nếu không có ánh sáng bên ngoài thì không thể thấy hoàn toàn màu sắc, hình tượng đã có.

Cũng vậy, người tu hành tuy có trí tuệ nhưng không có bạn tốt thì không thể thấy pháp. Còn như người có thiên nhãn không nhờ ánh sáng ngoài, tự họ vẫn thấy được sắc. Cũng vậy, Bồ-tát nào dự vào dòng pháp thì tự nhiên thắng tiến. Ví nhưthế gian, người trong thai dần dần tăng trưởng nhưng chẳng tự thấy. Cũng vậy, những Bồ-tát siêng năng tinh tấn thì các hạnh tăng trưởng dần, dù chẳng tự thấy mà được thành tựu tất cả Phật pháp. Như trong núi Tuyết có cây thuốc ra quả mà thân cây, cành nhánh chẳng khô chẳng gãy.

Cũng vậy, Bồ-tát siêng tu tinh tấn được bao nhiêu thắng hạnh đều không lui mất. Như vua Chuyển luân xuất hiện ở đời đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề đầy đủ bảy pháp Bảo, là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã phương tiện thiện xảo. Như vua Chuyển luân dạo khắp bốn châu, tâm trải bình đẳng đến các loài hữu tình.

Cũng vậy, Bồ-tát đem bốn Nhiếp sự làm lợi ích cho hữu tình với tâm luôn bình đẳng. Như vua Chuyển luân dù ở chỗ nào cũng không có sự tranh cãi, kiện tụng. Bồ-tát như thật thuyết pháp cũng không có sự tranh luận. Ví như thế giới tam thiên đại thiên lúc mới tạo thành liền có núi Diệu Cao và biển lớn.

Cũng vậy, Bồ-tát khi mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề liền có Bát-nhã và tâm đại bi. Thí như lúc mặt trời mọc, những chỗ núi cao được ánh sáng chiếu trước. Bồ-tát cũng thế, nếu được đuốc Bát-nhã thì các Bồ-tát có hạnh thanh cao, các căn thuần thục sẽ được ánh sáng chiếu trước. Ví như đại địa có thể gánh vác tất cả cỏ, cây, hoa quả, thuốc thang thảy đều bình đẳng. Bồ-tát cũng vậy, chứng được môn Đà-la-ni này đối với các hữu tình tâm đều bình đẳng.

Bấy giờ, đức Phật khen ngợi Tịch Tĩnh Tuệ:

- Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói: Các Đại Bồ-tát nếu đắc môn Đà-la-ni như vậy thì có nói ra lời gì dù một câu một chữ cũng đều là lời Phật. Những lời đã nói ra này đều xa lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì pháp được nói ra đây chẳng phải thế tục, nên vô cùng vô tận, có thể làm cho tất cả thân tâm nhẹ nhàng thoải mái. Giả sử được nói trước trăm ngàn đức Phật cũng chẳng khiếp nhược. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này được Phật gia trì, tâm không có sự chấp đắm, nghĩa là không đắm ngã, không đắm hữu tình, không đắm các pháp. Do đó, chứng được chơn như thanh tịnh, pháp giới thanh tịnh, thật tế thanh tịnh, được pháp vô tận, văn tự vô tận, biện tài vô tận. Ngay khi ấy phát sanh sự hoan hỷ thù thắng vì được diệu tuệ, vì được diệu trí, vì không còn lưới nghi.

Lúc Phật nói môn Tổng trì này, có tám ngàn Bồ-tát đắc các pháp như vậy, không nhập môn Đà-la-ni. Lại có một vạn hai ngàn Bồ-tát đắc Bất thối chuyển. Năm ngàn Bồ-tát đắc Vô sanh nhẫn. Một vạn sáu ngàn chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng, vô biên các loài hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Phật bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Đà-la-ni này có thể chinh phục các ma, đánh dẹp ngoại đạo, phá hoại người ganh ghét pháp, đốt đèn Bát-nhã, dập tắt lửa phiền não, ủng hộ người thuyết pháp đưa họ đến Niết-bàn; điều phục nội tâm, khéo léo giáo hóa chúng ngoài; dung nghi nghiêm chỉnh, người thấy vui mừng. Vì người chánh hạnh, bình đẳng thuyết pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, truyền pháp đúng lúc không trước, không sau.

Khi Phật nói các công đức như thế, trong thế giới tam thiên đại thiên, tất cả biển cả, núi chúa Diệu Cao, đất liền, các núi khác v.v... đều chấn động. Bấy giờ, trời rưới hoa Vi Diệu Âm, hoa đại Vi Diệu Âm, hoa Diệu Linh Thụy, hoa đại Diệu Linh Thụy, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa Ca-mạt-la. Trong không trung, chư Thiên trổi các kỹ nhạc.

Đức Thế Tôn lại bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Vô lượng, vô biên, vô số kiếp không thể nghĩ bàn trong quá khứđức Phật ra đời tên là Bảo Nguyệt, đầy đủ mười hiệu, nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Đệ tử Thanh văn ba mươi hai ức. Đệ tử Bồ-tát nhiều vô lượng, vô biên. Nhưng đức Như Lai ấy trước đó không có việc khổ hạnh và hàng phạt ma mà chứng Bồ-đề.

Khi ấy, trong chúng kia có một Bồ-tát tên Bảo Công Đức đủ biện tài kỳ diệu, có thể vì hữu tình nói nhiều loại pháp. Khi đó, các chúng thỉnh cầu đức Như Lai ấy đừng vào Niết-bàn, trụ lâu ở đời. Bảo Công Đức bảo đại chúng:

- Chư Phật Thế Tôn không sanh không diệt, cần gì khuyến thỉnh chớ vào Niết-bàn. Nếu hư không ấy vào Niết-bàn thì Như Lai mới thể vào đại Niết-bàn. Nếu có chơn như pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì vào Niết-bàn thì Như Lai mới thể vào đại Niết-bàn. Vì sao? Vì pháp của Như Lai không thành, không hoại, không nhiễm, không tịnh, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi; chẳng phải thường, chẳng phải đoạn; giả sử một miệng mà có mười lưỡi, mỗi mỗi lưỡi này lại sanh ra một trăm lưỡi, mỗi lưỡi này lại sanh ra ngàn lưỡi cũng không thể nói Như Lai thành hay hoại, cho đến không thể nói có thường hay đoạn. Vì sao đại chúng lại thỉnh cầu Như Lai chớ vào Niết-bàn để trụ lâu ở đời?

Khi Bảo Công Đức nói pháp ấy, có tám vạn sáu ngàn các chúng Bồ-tát được Bất thối chuyển. Bảy ngàn chúng Đại Bồ-tát đều đắc môn Đà-la-ni và được vô biên công đức: Môn Đà-la-ni duyệt ý, Đà-la-ni vô ngại, Đà-la-ni hoan hỷ, Đà-la-ni đại bi, Đà-la-ni nguyệt ái, Đà-la-ni nguyệt quang, Đà-la-ni nhật ái, Đà-la-ni nhật quang, Đà-la-ni núi chúa Diệu Cao, Đà-la-ni biển cả sâu rộng, Đà-la-ni công đức Bảo vương. Ba vạn sáu ngàn đại chúng trời, người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.

Thế Tôn lại bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Bảo Công Đức ngày xưa nay chính là ông. Do nhân duyên này ông mới có thể nói được các loại công đức của môn Đà-la-ni.

Khi ấy, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi nói bài tụng:

Tổng trì như thuốc hay,

Chữa được các bệnh mê.

Cũng như cam lồ thiên,

Ai uống thường an vui.

Đại Bồ-tát Công Đức Hoa Vương lại nói bài tụng:

Tổng trì không văn tự,

Văn tự hiển tổng trì.

Nhờ Bát-nhã đại bi,

Lìa lời dùng lời nói.

Bấy giờ, Thiên vương San-đổ-sử-đa liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Công đức của chư Phật không thể nghĩ bàn. Những điều Phật nói không thể nghĩ bàn. Các Đại Bồ-tát đã hành thắng hạnh, đã thuyết diệu pháp không thể nghĩ bàn. Chúng con và các trời nhờ đời trước đã trồng căn lành sâu dày, được gặp Như Lai nghe thuyết diệu pháp thâm sâu như vậy, nên đem vô lượng hương hoa tốt đẹp của trời rải dâng lên cúng dường Như Lai.

Phật bảo Thiên vương:

- Thiên vương nên biết! Những người muốn cúng dường Phật Thế Tôn phải tu ba pháp:

Một là phát tâm Bồ-đề.

Hai là hộ trì chánh pháp.

Ba là như pháp tu hành.

Thiên vương nên biết! Nếu người nào có thể tu học ba pháp này mới được gọi là chơn thật cúng dường Phật. Giả sử Như Lai trụ đời một kiếp, nói về công đức đã đạt được nhờ sự cúng dường này cũng không thể hết. Vì thế Thiên vương! Nếu ai muốn cúng dường đức Phật Thế Tôn mà đủ ba pháp ấy gọi là chơn thật cúng dường.

Thiên vương nên biết! Nếu ai ủng hộ đức Phật dù chỉ là một bài tụng bốn câu, thì tức là ủng hộ chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chư Phật Thế Tôn đã chứng là từ pháp sanh. Người cúng dường pháp gọi là chơn cúng dường, là sự cúng dường đệ nhất, hơn hết trong các sự cúng dường, sự cúng dường của cải chẳng thể sánh bằng.

Thiên vương nên biết! Ta nhớ về quá khứ vô lượng, vô số kiếp không thể nghĩ bàn, khi tinh tấn siêng năng tu học đạo Bồ-tát, nghe chư Thiên trong hư không nói bài kệ:

Hai người xa lìa vua các giặc,

Kho báu lớn không bị xâm nhập.

Trăm ngàn vạn kiếp khó nghe pháp,

Được nghe không giữ, chẳng giảng dạy.

Tâm đại Bồ-đề hộ chánh pháp,

Như pháp tu hành tâm vắng lặng.

Từ lợi, lợi tha tâm bình đẳng,

Đây mới gọi chơn cúng dường Phật.

Thiên vương nên biết! Ở quá khứ khi mới nghe bài tụng này ta liền nói cho người khác. Khi ấy, có tám ngàn các loài hữu tình đồng phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Thiên vương dùng pháp cúng dườngtối thắng đệ nhất. Vì sao? Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật từ pháp mà sanh vậy.

 
XIV. PHẨM KHUYÊN RĂN

01

Bấy giờ, Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa Phật:

- Như Lai đã nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vậy trong đời vị lai khi chánh pháp sắp diệt, và trong giai đoạn chuyển tiếp có hữu tình nào có thể tin nhận không? Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nghe thuyết kinh này tin nhận không hủy báng, thì những người như vậy được công đức gì?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Trong đời vị lai khi chánh pháp sắp diệt, trong giai đoạn chuyển tiếp, có những thiện nam, thiện nữ v.v... đã từng ở chỗ của vô lượng, vô biên đức Phật tu hành tịnh giới, tịnh lự, Bát-nhã, là Phật tử chơn chánh, có thể tin kinh này, cho đến công đức đạt được không thể tính kể. Các pháp thắng thiện đều từ Bát-nhã sanh. Nếu có người tin nhận không hủy báng, thì nay Ta sẽ nói ví dụ cho ông.

Mạn-thù-thất-lợi! Châu Thiệm-bộ này chu vi bảy ngàn do-tuần, phía Bắc rộng, Nam hẹp, hình giống như chiếc thùng xe. Người ở trong đó, mặt cũng như vậy. Giả sử người ở châu Thiệm-bộ này toàn là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v… nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ v.v… đem các thứ thượng diệu ở thế gian như: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết-bàn, họ thâu xá-lợi, xây dựng bảo tháp, trang trí cúng dường; hoặc đem bảy báu đầy cả châu Thiệm-bộ chứa đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy dâng cúng đến từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ v.v... đây được phước nhiều chăng?

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... đối với kinh này thường tin nhận không hủy báng, thì sẽ được phước nhiều hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Ở châu Đông Thắng Thân, chu vi tám ngàn do-tuần, hình như bán nguyệt, mặt người ở đó cũng vậy. Giả sử người ở châu Đông Thắng Thân toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ v.v... đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết-bàn, họ thâu lấy xá-lợi, xây dựng bảo tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Đông Thắng Thân đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy dâng cúng từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ v.v... đây được phước nhiều chăng?

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... đối với kinh này thường tin nhận không hủy báng, thì sẽ được phước hơn phước bố thí ở trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Ở châu Tây Ngưu Hóa, chu vi chín ngàn do-tuần, hình như trăng tròn, mặt người ở đó cũng như vậy. Giả sử người ở châu Tây Ngưu Hóa toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ v.v... đem các thứ thượng diệu của thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết-bàn, họ thâu lấy xá-lợi, xây tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Tây Ngưu Hóa cho đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy cúng dường cho từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ v.v... đây được phước nhiều chăng?

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu đối với kinh này, các thiện nam, thiện nữ v.v... thường tin nhận, không hủy báng thì sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Ở châu Bắc Câu-lô, chu vi mười ngàn do-tuần, hình nó vuông thẳng, mặt người ở đó cũng vậy. Giả sử châu Bắc Câu-lô toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ v.v... đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết-bàn, họ thâu xá-lợi, xây tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Câu-lô cho đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy cúng dường cho từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ v.v... đây được phước nhiều chăng?

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Đối với kinh này, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... thường tin nhận, không hủy báng thì sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

Quyển thứ 572
HẾT

02

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Giả sử nghiền nát ba ngàn đại thiên thế giới Kham Nhẫn này thành cực vi, mỗi cực vi là một Thánh giả, có những thiện nam, thiện nữ v.v… với tâm thanh tịnh đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... bố thí cúng dường cho suốt cả cuộc đời dài ngắn của Thánh chúng kia; sau khi Thánh chúng nhập Niết-bàn, những thiện nam, thiện nữ ấy thâu hết xá-lợi, xây dựng bảo tháp, trang trí cúng dường, hoặc đem bảy báu đầy như số cực vi trong ba ngàn đại thiên thế giới đã nói ở trước, chứa đến trời Sắc cứu cánh, rồi đem hết bảy báu đó dâng cúng từng vị Thánh giả kia, suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ v.v… đó được phước nhiều chăng?

Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước bố thí nói trước còn khó nghĩ bàn, huống gì số phước ở đây đạt được.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam, thiện nữ v.v… nào thọ trì kinh này, rồi giảng nói truyền bá sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Đối với công đức này, nếu không hồi hướng cầu quả Bồ-đề của Phật thì phải trải qua nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Tha hóa tự tại. Lại trải qua rất nhiều số kiếp như vi trần làm vua trời Lạc biến hóa. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Đổ-sử-đa. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Dạ-ma. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Đế Thích, huống là vua Chuyển luân. Nếu đem sự hồi hướng ấy cầu trí nhất thiết, thì có thể thành tựu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử người khắp châu Thiệm-bộ này toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v… không còn chỗ trống; có người hung ác nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người ấy mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Người nào hủy báng kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử người khắp châu Đông Thắng Thân toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v… không còn chỗ trống; có người hung bạo nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Người nào hủy báng kinh điển này, tội ấy nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử người khắp châu Tây Ngưu Hóa toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v… không còn chỗ trống; có người hung bạo nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Người nào hủy báng kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử người khắp châu Bắc Câu-lô toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc-giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng v.v… không còn chỗ trống; có người hung ác nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại đại ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Người nào hủy báng kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử nghiền nát bốn đại châu này thành cực vi, mỗi cực vi là một đức Phật; có một chúng sanh tà kiến độc ác, khởi tâm hung ác muốn giết hết số đức Phật ấy, cướp đoạt tất cả của cải pháp tài, phá diệt vua pháp và thuốc pháp của thế gian. Mạn-thù-thất-lợi! Ý ông thế nào? Chúng sanh hung ác kia mắc tội có nhiều không?

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Chúng sanh kia mắc tội vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể kể hết. Đối với việc đó con còn chẳng muốn nghe huống hồ có thể nói về tội lỗi đó nhiều hay ít. Nếu hại một đức Phật còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ nhiều kiếp, huống chi giết nhiều chư Phật Thế Tôn như vậy. Chúng sanh này chắc chắn phải chịu khổ trong đại địa ngục Vô gián không hẹn ngày ra.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu có người hủy báng, cản trở kinh này, không cho truyền bá rộng rãi, không cho cúng dường, tội này nặng hơn tội trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn-thù-thất-lợi! Giả sử tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều trải qua trăm ngàn vô số đại kiếp, tu đủ tất cả hạnh của các Bồ-tát, đều chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chúng sanh ác kia vì nghiệp ác nặng nề nên vẫn chưa thoát khỏi khổ trong đại địa ngục.

Mạn-thù-thất-lợi! Đối với địa ngục Vô gián ở khắp mười phương cõi, không có địa ngục nào mà chúng sanh ác kia không trải qua nhiều kiếp chịu khổ, huống hồ các địa ngục, bàng sanh, cõi quỉ. Vì sao? Vì kẻ ngu si hủy hoại mẹ pháp thân của chư Phật trong mười phương ba đời. Nếu kẻ kia chịu khổ nặng nề trải qua nhiều kiếp như vi trần như nói ở trước, sau ra khỏi ba cảnh giới ác, sanh vào trong loài người mắc bệnh ngặt nghèo, không có thuốc thang nào chữa khỏi. Lại phải trải qua nhiều kiếp như vi trần, vừa ra đời thì không có lưỡi hoặc không có tay v.v... trải qua số kiếp như vi trần này.

Mạn-thù-thất-lợi! Ta dùng thần lực trụ đời một kiếp hay hơn một kiếp nói về tội báo của chúng sanh hủy báng, cản trở kinh này cũng không thể hết. Mạn-thù-thất-lợi! Những người có trí muốn được an lạc ngay trong đời hiện tạivị lai thì chớ nên hủy báng và ngăn cản kinh này.

 
XV. PHẨM NHỊ HẠNH

Bấy giờ, Phật bảo Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì phải thành toàn diện Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát có hai loại hạnh:

1- Thành tựu Bát-nhã.

2- Giáo hóa hữu tình.

Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thành tựu Bát-nhã, giáo hóa hữu tình?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ-tát từ khi mới hành Bát-nhã cho đến cuối cùng đều lìa tâm dụng công, thuyết pháp không cùng tận, không gián đoạn, làm cho hữu tình thoát khỏi cảnh giới ác của ba cõi, để họ an trú cảnh giới lành, hoặc giúp họ chứng được Thánh quả Tam thừa.

Mạn-thù-thất-lợi! Đây gọi là các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giáo hóa hữu tình. Mạn-thù-thất-lợi! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thành tựu vô biên, vô vi Bát-nhã. Đây gọi là các Đại Bồ-tát tự hành Bát-nhã. Vì sao? Vì hành như vậy có thể viên mãn tất cả công đức.

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu hành pháp nào đề tương ứng với trí nhất thiết?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tu pháp chân thật của trí nhất thiết, thì xa lìa sự nghĩ bàn, vô tướng nhiệm mầu, nghĩa lý thâm sâu không thể quán sát, rất khó thông đạt; thường trụ sự tịch tĩnh vắng lặng, mát mẻ biến khắp, không có phân biệt, không vướng mắc, không ngăn ngại, tùy thuận đúng lý, không chấp thủ, đạt được tịch tĩnh trong các pháp là vô thượng, vô đẳng đẳng.

Mạn-thù-thất-lợi! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát tu pháp hành này thì tương ứng với trí nhất thiết.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đối với cảnh giới nào?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Các Đại Bồ-tát quyết định hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu với cảnh giới thâm sâu, cảnh giới rộng lớn, cảnh giới công đức.

Mạn-thù-thất-lợi! Cảnh giới thâm sâubản thể vô vi, không vướng hai bên cũng chẳng lìa nhau; tự tánh thanh tịnh giải thoát các sự chướng ngại, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, chẳng cùng với tất cả Thanh vănĐộc giác.

Mạn-thù-thất-lợi! Cảnh rộng lớn là tất cả công đức của chư Phật Như Lai, hai pháp đại bi, Bát-nhã làm tánh, lìa tướng phân biệt, không có tâm dụng công, làm lợi lạc cho hữu tình không lúc nào tạm bỏ. Các pháp nói ra đều vừa ý người nghe.

Mạn-thù-thất-lợi! Cảnh giới công đức là các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tương ứng với tất cả công đức: ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tùy theo căn cơ các hữu tình ưa muốn tánh hành và các hình tướng khác nhau thế nào thì năng lực oai thần của Phật đều thị hiện như vậy. Nghĩa là thị hiện lên trời Đổ-sử-đa, hoặc thị hiện từ cõi trời hạ sanh xuống châu Thiệm-bộ, hoặc thị hiện ở trong thai, hoặc thị hiện lúc sơ sinh, hoặc thị hiện đồng tử, hoặc thị hiện cảnh đi dạo, hoặc thị hiện xuất gia, hoặc thị hiện tu khổ hạnh, hoặc thị hiện đến ngồi dưới cội Bồ-đề, hoặc thị hiện sự chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc thị hiện chuyển xe pháp, hoặc thị hiện nhập Niết-bàn. Thị hiện các tướng khác nhau như vậy đều vì sự giải thoát sanh tử của hữu tình. Mạn-thù-thất-lợi! Đó gọi là các Đại Bồ-tát đã tu hành cảnh giới của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này của Bồ-tát là cảnh giới không thể nghĩ bàn của đức Phật.

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là pháp bất cộng, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể thông suốt, chẳng phải cảnh giới của họ; ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nghĩa chơn như các pháp rất thậm thâm, tự tại, chẳng dao động, thâu nhiếp cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn sự lợi lạc. Cho nên gọi là cảnh giới của chư Phật, vượt qua đường ngôn ngữ, thâu nhiếp thắng nghĩa đế, xa lìa sự tìm tòi, phân biệt, nghĩ bàn, pháp thế gian chẳng thể nào so sánh, ví dụ kịp, là thượng phẩm trong tất cả các pháp, không ở trong sanh tử cũng chẳng trụ Niết-bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát có năm việc không thể nghĩ bàn:

1. Là tự tánh.

2. Là phương xứ.

3. Là các trụ.

4. Là nhất dị.

5. Là lợi lạc.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là tự tánh không thể nghĩ bàn?

Tức là chơn như của sắc cầu không thể được, lìa chơn như của sắc cầu cũng không thể được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Chơn như của nhãn cầu không thể được, lìa chơn như của nhãn cầu không thể được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Chơn như của sắc cầu không thể được, lìa chơn như của sắc cầu không thể được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng như vậy.

Chơn như của nhãn thức cầu không thể được, lìa chơn như nhãn thức cầu không thể được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng như vậy.

Chơn như địa giới cầu không thể được, lìa chơn như địa giới cầu không thể được. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy.

Chơn như của pháp hữu cầu không thể được, chơn như của pháp vô cầu không thể được. Nên nói tự tánh không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là phương xứ không thể nghĩ bàn?

Chơn như này nếu trụ cõi Dục thì không thể nghĩ bàn, nếu lìa cõi Dục cũng không thể nghĩ bàn. Đối với cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Hoặc trụ phương Đông không thể nghĩ bàn, hoặc lìa phương Đông không thể nghĩ bàn. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và phương trên, phương dưới cũng như vậy. Nên nói phương xứ không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là các trụ không thể nghĩ bàn?

Hoặc trụ an lạc không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vắng lặng không thể nghĩ bàn, hoặc trụ có tâm không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vô tâm không thể nghĩ bàn. Nên nói các trụ không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào gọi là nhất dị không thể nghĩ bàn? Ba đời Như Lai đồng ở một chỗ, tự tánh thanh tịnh, thâu nhiếp cõi vô lậu, hoặc là một, hoặc sai khác đều không thể nghĩ bàn. Nên nói nhất dị không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là lợi lạc không thể nghĩ bàn?

Thần lực trí tuệ đồng một pháp giới. Bát-nhã và phương tiện hai tướng bình đẳng, có thể làm cho hữu tình được vô lượng lợi lạc, không thể nói được, vượt qua cảnh giới ngôn ngữ nhưng thuận theo căn tánh khác nhau của chúng sanh, tạo ra nhiều cách nói và nhiều kiểu thị hiện: ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tùy theo tâm hữu tìnhthị hiện.

Mạn-thù-thất-lợi thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?

Phật bảo Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Tướng tốt của Như Lai vô lượng, vô biên, nếu Ta nói rộng ra không thể hết được, nhưng theo sở thích của thế gian chỉ nói gồm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào gọi là ba mươi hai tướng?

1. Dưới bàn chân Như Lai đầy đặn, vững chải khéo đẹp giống như đáy hộp. Đất dù cao hay thấp nhưng khi chân Ngài đạp lên thảy đều bằng phẳng và đều tiếp xúc chân Ngài.

2. Dưới bàn chân Như Lai có vằn nghìn căm xe và hình vành trục xe tròn trịa.

3. Tay chân Như Lai đều mềm mại như bông vải, hơn tất cả.

4. Ngón tay, chân Như Lai đều thon dài tròn đẹp hơn người, biểu lộ sự trường thọ.

5. Giữa kẻ mỗi ngón tay, chân của Như Lai có màng lưới da dính nhau, có đường vân như bức thêu màu vàng ròng, giống chim nhạn chúa.

6. Gót chân Như Lai rộng dài tròn đầy tương xứng với mu chân, khác hơn các hữu tình.

7. Mu chân Như Lai nổi cao đầy đặn, xinh đẹp mềm mại tương xứng với gót chân.

8. Hai bắp chân Như Lai thon tròn như bắp đùi nai chúa.

9. Hai cánh tay Như Lai dài thẳng tròn đầy như vòi voi chúa. Nếu đứng thẳng thì tay rờ tới đầu gối.

10. Âm tàng của Như Lai ẩn kín như ngựa, rồng, voi chúa.

11. Mỗi lỗ chân lông có một sợi lông mềm nhuận xanh biếc và xoay vòng bên phải.

12. Lông, tóc Như Lai mướt đều, uốn lên và xoay về bên phải, mềm nhuận xanh biếc, thân thể vàng rực, trang nghiêm rất khả ái.

13. Da thân Như Lai mỏng láng mịn trơn, đất bụi nước đều không bám vào được.

14. Da thân Như Lai đều màu vàng ròng, chói sáng như đài Diệu Kim, trang nghiêm bằng các thứ báu. Mọi người đều ưa nhìn.

15. Bảy chỗ: hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân, hai vai và đỉnh đầu của Như Lai đều đầy đặn, sáng láng mềm mại rất dễ ưa thích.

16. Cổ vai Như Lai tròn đầy đẹp lạ.

17. Vai nách Như Lai đều đầy đặn, chắc nịch.

18. Dung nghi Như Lai ngay ngắn hùng dũng.

19. Thân tướng Như Lai cao rộng đoan nghiêm.

20. Thể tướng Như Lai ngang rộng tương xứng, tròn đầy như cây Nặc-cù-đà.

21. Cằm, ngực và thân trên của Như Lai bằng phẳng, oai dung rộng lớn như sư tử chúa.

22. Ánh sáng từ thân Như Lai phát ra xung quanh một tầm.

23. Như Lai đủ bốn mươi chiếc răng đều nhau, khít, trắng hơn ngọc kha tuyết.

24. Bốn răng cửa của Như Lai trắng trong bén sắc.

25. Như Lai thường được thượng vị trong các mùi vị, vì mạch yết hầu thẳng nên có thể dẫn thượng vị vào nghìn gân mạch chi tiết trong thân.

26. Tướng lưỡi Như Lai rộng dài, mỏng sạch, phủ tới mặt cho đến mé tai.

27. Giọng nói Như Lai có âm vang to lớn thanh nhã, dù chúng nhiều hay ít đều được nghe. Phát âm vang rền giống như tiếng trống trời, lời nói diệu dàng trong trẻo như chim Tần-ca.

28. Lông mi Như Lai như trâu chúa, xanh biếc ngang đều chẳng rối.

29. Mắt Như Lai xanh biếc, trong sáng phân minh.

30. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy như trăng, tướng lông mày sáng xanh, cong như cung Thiên đế.

31. Giữa mày Như Lai có tướng lông trắng xoáy quanh theo chiều bên phải, mềm mại như bông vải trắng, đẹp như ngọc kha tuyết.

32. Trên đỉnh đầu Như Lai có cục thịt tròn nổi cao như búi tóc.

Đây gọi là ba mươi hai tướng của Như Lai.

Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là tám mươi vẻ đẹp?

1. Móng tay Như Lai hẹp dài, mỏng và láng bóng như hoa đồng đỏ.

2. Ngón tay, chân Như Lai tròn, thon dài, ngay thẳng, mềm mại, đốt xương không lộ.

3. Ngón tay, chân Như Lai đều ngang bằng không so le, ở các kẽ ngón đều đầy đặn.

4. Tay chân Như Lai tròn đầy như ý, mềm sạch sáng láng như hoa sen.

5. Gân mạch Như Lai kết lại bền chắc nhưng ẩn kín không lộ ra.

6. Mắt cá Như Lai ẩn kín.

7. Như Lai bước đi vững chãi, dáng vẻ ung dung như voi chúa.

8. Như Lai bước đi nghi ung nghiêm trang như sư tử chúa.

9. Như Lai bước đi bình an chừng mực, không dài không ngắn, giống như trâu chúa.

10. Như Lai bước đi oai nghi, tiến dừng như con thiên nga chúa.

11. Khi ngó lại, Như Lai đều quay về bên hữu chuyển cả toàn thân như voi chúa, như rồng.

12. Lóng đốt Như Lai lần lượt tròn đều, một sự sắp xếp khéo léo tuyệt hảo.

13. Đốt xương Như Lai kết khít không hở như rồng cuộn.

14. Đầu gối Như Lai rắn chắc tròn đẹp.

15. Chỗ kín của Như Lai có văn rất đẹp, đầy đủ uy thế, hoàn toàn sạch sẽ.

16. Thân Như Lai nhuận trơn, mềm mại, bóng bảy, sạch đẹp, bụi đất chẳng dính.

17. Nghi dung Như Lai oai nghiêm, không sợ sệt, cũng chẳng khiếp nhược.

18. Các phần của Như Lai đều rắn chắc, dày dặn, ăn khớp với nhau.

19. Thân thể Như Lai an định viên mãn, chẳng khuynh động, trọn vẹn không hư hoại.

20. Thân tướng Như Lai như Tiên vương, đoan nghiêm, sáng rực chẳng mờ.

21. Thân Như Laihào quang xung quanh, khi đi v.v… thân Như Lai luôn toả sáng.

22. Bụng Như Lai vuông thẳng không khuyết, mềm mại, chẳng lộ, các tướng trang nghiêm.

23. Rốn Như Lai sâu tròn, xoay quanh bên phải, thanh tịnh sáng rỡ.

24. Rốn Như Lai sâu, chẳng lồi, chẳng lõm, chung quanh đẹp đẽ.

25. Da của Như Lai hoàn toàn không có bệnh ghẻ lở, cũng không có nét xấu như nốt ruồi, tàn nhan, bướu v.v...

26. Lòng bàn tay Như Lai đầy đặn mềm mại, dưới lòng bàn chân bằng thẳng.

27. Vân tay Như Lai sâu dài rõ thẳng, nhuận trơn không đứt đoạn.

28. Môi Như Lai đỏ như quả Tần-bà, hai vành môi cân xứng.

29. Khuôn mặt Như Lai chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn, chẳng nhỏ, đầy đặn trang nghiêm.

30. Lưỡi Như Lai mềm mỏng, rộng, dài, màu như đồng đỏ.

31. Âm thanh Như Lai vang trầm như voi chúa rống, oai chấn tất cả.

32. Âm vận Như Lai mỹ diệu đầy đủ, như tiếng vang trong hang sâu.

33. Mũi Như Lai cao dài, ngay thẳng, lỗ mũi không lộ.

34. Răng Như Lai vuông, ngay thẳng, trắng đẹp.

35. Các răng Như Lai tròn trắng, sáng sạch, bén sắc.

36. Mắt Như Lai trong, xanh, và trắng phân minh.

37. Mắt Như Lai rộng dài như lá hoa sen xanh, rất đẹp khả ái.

38. Lông mi Như Lai trên dưới ngang thẳng, dày dặn, không trắng.

39. Đôi mày Như Lai dài, rậm, nhỏ, mềm mại, không trắng.

40. Đôi mày Như Lai mịn màng thứ tự, xanh biếc như lưu ly.

41. Đôi mày Như Lai cao, sáng như hình trăng non.

42. Tai Như Lai dày, rộng, lớn dài, hai trái tai tròn rủ xuống.

43. Hai tai Như Lai ngang bằng đẹp lạ, tránh xa lỗi lầm.

44. Dung nghi Như Lai có thể khiến mọi người thấy đều ái kính, không có sự tổn hại, không có sự ô nhiễm.

45. Trán Như Lai rộng, tròn đầy, bằng phẳng, hình tướng đẹp lạ.

46. Thân trên của thân Như Lai viên mãn như như sư tử chúa, oai nghiêm đầy đủ.

47. Tóc đầu Như Lai dài, dày dặn, xanh biếc không trắng.

48. Tóc Như Lai thơm, sạch, nhỏ, mềm, trơn, xoắn tròn.

49. Tóc Như Lai dài đều, không rối cũng chẳng kết đùm.

50. Tóc Như Lai bền chắc, chẳng đứt, hoàn toàn không rụng.

51. Tóc Như Lai trơn láng, sáng rực đẹp lạ, chẳng dính bụi bẩn.

52. Thân Như Lai vững vàng, rắn chắc như thân Na-la-diên.

53. Thân thể Như Lai cao lớn ngay thẳng.

54. Các lỗ trên thân Như Lai thanh tịnh tròn đẹp.

55. Thân Như Lainăng lực thù thắng không ai sánh bằng.

56. Thân tướng Như Lai ngắm hoài không chán.

57. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy dài rộng đúng cỡ, sáng trong rực rỡ như trăng rằm mùa thu.

58. Nhan sắc Như Lai thư thái sáng rỡ, tươi nhuận, luôn mỉm cười trước khi nói, chỉ có thuận không có trái.

59. Diện mạo Như Lai rực sáng vui tươi, không bao giờ nhăn nhó, cáu gắt v.v...

60. Thân Như Lai trong sạch không bẩn, không hôi dơ.

61. Các lỗ chân lông của Như Lai thường tỏa ra mùi thơm vi diệu.

62. Miệng Như Lai luôn tỏa ra mùi hương thơm ngát tối thượng.

63. Tướng đầu Như Lai tròn đẹp như quả Mạt-đạt-na, cũng giống như cái lọng trời.

64. Lông thân Như Lai xanh biếc, sáng sạch như lông cổ chim công, như trang sức lụa màu đồng đỏ.

65. Âm thanh thuyết pháp của Như Lai tùy theo chúng sanh lớn nhỏ nhưng chẳng tăng, chẳng giảm, đúng lý không chấp trước.

66. Tướng đỉnh đầu Như Lai không ai thấy được.

67. Ngón tay, ngón chân của Như Lai thon, phân minh, trang nghiêm đẹp đẽ như màu đồng đỏ.

68. Khi đi, chân Như Lai cách đất bốn tấc nhưng có hiện ấn văn trên đất.

69. Thân Như Lai rắn chắc, chẳng dựa vào người khác, thân không khinh động cũng không uốn éo.

70. Oai đức Như Lai vang xa chấn động tất cả, kẻ ác tâm nghe thì vui mừng, người sợ hãi thấy được yên.

71. Âm thanh của Như Lai tùy theo ý chúng sanh mà ban lời hòa nhã vui vẻ, chẳng cao, chẳng thấp.

72. Như Lai thường tùy theo ngôn ngữý muốn của chúng sanhthuyết pháp.

73. Như Lai thuyết pháp cùng một âm thanh nhưng tuỳ theo căn cơ của mỗi chúng sanh đều hiểu được cả.

74. Như Lai thuyết pháp theo thứ tự, tất cả đều có nhân duyên, không lời nào không hoàn hảo.

75. Như Lai coi chúng sanh bình đẳng như nhau: gặp thiện thì khen, gặp ác thì chê nhưng không có sự ưa ghét.

76. Phàm làm việc gì, Như Lai đều xem xét trước rồi làm sau, đúng theo qui tắc để người phân biệt một cách thanh tịnh hoàn toàn.

77. Tướng hảo của Như Lai, tất cả hữu tình ngắm không cùng tận.

78. Xương đỉnh đầu Như Lai cứng chắc tròn đầy.

79. Dung nhan Như Lai trẻ mãi không già, lớp mới luôn thay lớp cũ.

80. Tay chân và trước ngực Như Lai đều là tướng đức cát tường xoay tròn (chữ Vạn), đường vân như bức lụa thêu, màu ngọc châu đỏ.

Đây gọi là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.

 
XVI. PHẨM TÁN THÁN

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Công đức của Như Lai thật là hiếm có, không gì sánh bằng, không thể nghĩ bàn. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều không có gì khác. Nếu được thấy Như Lai hoặc nghe công đức của Ngài thì loài hữu tình này cũng khó nghĩ bàn. Lại một lần nữa, hôm nay con được thấy Phật chuyển xe pháp lớn, thật là điều chưa từng có, nên hân hoan vui mừng.

Nói lời này rồi, Đại Bồ-tát liền bay lên hư không cao bảy cây Đa-la, chấp tay khen:

Tất cả loài hữu tình,

Chỉ Phật là tối tôn.

Không có ai sánh bằng,

Huống lại có người hơn.

Ngã và pháp đều Không,

Diệu lý Vô đẳng đẳng.

Chỉ Phật Thế Tôn ta,

Sánh bằng Vô đẳng đẳng.

Phiền nãotập khí

Đều hết hẳn không còn,

Biết được tất cả pháp

Đều hoàn toàn rõ ràng,

Hoặc trí hoặc thuyết pháp

Không ai sánh bằng Phật.

Cõi Tam thiên đại thiên,

Chỉ Phật là tối tôn.

Mười lực, vô úy thảy,

Thật có chẳng hư dối.

Đế thích cùng Phạm vương,

Thảy đều không thể bằng.

Đại ân đức Thế Tôn,

Thấm khắp các hữu tình.

Việc này khó nghĩ bàn,

Nhất định không ai bằng

Thường đem tuệ vi diệu

phương tiện thiện xảo,

Giáo hóa các hữu tình,

Khiến đều được lợi vui.

Khi ấy, trong hội có một Thiên tử tên là Diệu Sắc, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ khen:

Có kẻ nói thế gian ngang Phật,

Lời ấy là hư dối chẳng thật.

Nếu nói Pháp vương rất tối tôn,

Lời này là chắc thật chẳng dối.

Những hàng trời người đang vấn nạn,

Không ai bẻ được Đại sư ta.

Thiện Thệ hàng ma dẹp ngoại đạo,

Dẫn dắt thế gian đến giải thoát.

Bốn biện thanh tịnh nói không cùng,

Thuốc diệu cam lồ ban hữu tình.

Quán khắp các pháp trí vô ngại,

Tất cả sát-na chẳng giảm mất.

Bình đẳng đại bi xem hữu tình,

Tâm luôn thanh tịnh, đời chẳng nhiễm.

Biết rõ hoàn toàn căn, dục, tánh,

Tùy sự thích nghe mà ứng nói.

Phiền não khác nhau chẳng phải một,

Chỉ bày vô lượng môn đối trị.

Duy Phật khéo nói nhân duyên kia,

Luôn vì lợi lạc chúng hữu tình.

Gặp Phật nghe pháp chẳng chứng Thánh,

Hữu tình như thế thật khó độ.

Đại danh Như Lai phải khát ngưỡng,

Kẻ nào được thấy lợi vô hạn.

Phật trí luôn làm tâm thanh tịnh,

Được nghe chánh pháp khỏi sanh tử.

Nghe danh hiệu Phật điềm lành lớn,

Thường niệm Thế Tôn luôn hỷ lạc.

Phát tâm hướng Phật sanh trí tuệ,

Như lời dạy tu thành chủng trí.

Giới phẩm thanh tịnh không bẩn đục.

Tĩnh lự đệ nhất, tâm bừng sáng.

Trí tuệ tối thắng khó khuynh động,

Biển pháp thanh tịnh như cam lồ.

Tất cả hữu tình ưa buông lung.

Chư Phật chuyên tinh, lìa thế gian.

Thương yêu hữu tình như con một,

Ơn đức sâu dày không đền được.

Trước nói pháp phá giặc phiền não,

Sau dẹp thiên ma quân huyễn hóa.

Thế Tôn đã nói lỗi ba cõi,

Rộng bày vô lượng đức Niết-bàn,

Trăm ngàn đại kiếp khó được nghe,

Nên nay con chí thành tán lễ.

Bấy giờ, trong hội có một vị Thiên tử tên là Thiện Danh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng về Phật dùng kệ khen:

Như Lai bình đẳng hành đại từ,

Nếu có thể dùng trí độ người.

Đề-bà-đạt-đa được độ trước,

Huống gì đối với hữu tình khác.

Nay tôi chẳng muốn để luống qua,

Tu trì đại hạnh đền ơn Phật.

Nếu chỉ tự chứng Diệt vô lậu,

Đối ơn Phật kia chưa đền được.

Nếu có tu hành như Phật dạy,

Mới được gọi là chơn Phật tử.

Phật chịu khổ lâu vì hữu tình.

Ơn lớn vô thượng khó trả được.

Đại từ khai rõ chơn diệu pháp,

Khiến chúng tự tu và độ người.

Nếu Phật chẳng hiện ở thế gian,

Tất cả hữu tình chịu khổ lớn,

Chỉ có ác thú không trời, người,

Nghe toàn các thứ âm thanh khổ.

Chịu khổ các cõi không ai khỏi,

Do vì phiền não buộc hữu tình.

Phật muốn cởi bỏ các gút độc,

Ngược lại buộc bằng dây đại bi.

Như Lai ruộng phước lớn của đời,

Nương pháp chánh tu lìa ác thú.

Nếu trái lời Phật chẳng tu hành,

Nhất định chẳng được sanh trời, người.

Nếu ai ác tâm với đức Phật,

Hoặc chẳng ưa nghe pháp thâm sâu,

Thì hữu tình này thật đáng thương,

Quyết định ở mãi chỗ tối tăm.

Như Phật Thế Tôn trí tự biết,

Loài kia Như Lai mới hiểu rõ.

Trí Phật chẳng phải để so lường,

Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật,

Vô úy, trí, lực, pháp bất cộng,

Chỉ Phật Thế Tôn có đầy đủ.

Tướng hảo trang nghiêm, hương vi diệu,

Người xem không chán, vượt các sắc.

Ba môn khai mở chẳng tạm dứt.

Hoa Phật thanh tịnh, nay tôi lễ.

Duy Phật hiểu đúng Vô thượng giác,

Vĩnh viễn ra khỏi các hiểm nạn.

Phật là đệ nhất bậc Vô thượng,

Cúi đầu quy mạng đấng Lưỡng túc.

Phật đem công đức nước chánh pháp,

Rửa trừ sạch hết các uế bẩn.

Thế Tôn xưa nay sạch trong ngoài,

Tôi nay đảnh lễ thân chơn tịnh.

Lúc này, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ khen:

Như Lai đầy đủ thắng phước tuệ,

Lợi lạc hữu tình chẳng tạm ngưng,

Thường rưới cam lồ cứu đói khát.

Tôi nay cúi đầu làm lợi người.

Thế gian Người khả kính hơn hết.

Tất cả loài kia đến cúng Phật,

Đầy đủ các thiện, hết các ác.

Tôi nay kính lạy bậc Vô đẳng.

Vì muốn cứu vớt các hữu tình,

Chẳng còn hạnh nào không tu học.

Vượt khỏi sanh tử được an vui.

Ta nay đảnh lễ đấng cứu thế,

Lễ lạy thân sắc vàng vi diệu,

Lễ lạy bậc thuyết pháp cam lồ,

Lễ lạy trí thanh tịnh không bẩn,

Lễ lạy tất cả rừng công đức.

Bấy giờ, Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Lành thay! Lành thay! Như điều ông khen Như Lai là thật chẳng phải hư dối. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp, chư Phật Thế Tôn đã tu tập nhiều loại phước đức trí tuệ, do đó quả vị hoàn toàn đầy đủ. Vì sao? Vì Như Lai đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ba nghiệp thân, ngữ, ý đều thanh tịnh, nên thông suốt được chơn như thật tế, vì trụ thật tế nên nói ra điều gì chẳng hư dối.

Khi ấy, đại Phạm thiên vương đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính, bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn dùng năng lực thần thông làm cho Bát-nhã ba-la-mật-đa này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất cả.

Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Tất cả Như Lai trong mười phương ba đời đều dùng đại thần thông, cùng chung hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu để trụ lâu ở thế gian, làm lợi lạc cho tất cả. Thiên ma, Phạm chí, ngoại đạo, Sa-môn đều không thể phá diệt và gây trở ngại. Vì sao? Vì Ta nhớ quá khứ có Phật tên là Bảo Nguyệt Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Phật kia có hai đệ tử Bí-sô làm đại pháp sư, khéo thuyết giáo pháp thâm sâu. Một tên là Trí Thịnh, hai tên là Đế Thọ, thường theo Phật kia chuyển xe chánh pháp. Trải qua một kiếp tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, có trăm ngàn ức chúng ma cõi Tam thiên đại thiên đều được giáo hóa phát tâm Bồ-đề. Vì thế nên các Thiên ma không có sức phá diệt và cản trở.

Đại Bồ-tát Tịch Tĩnh Tuệ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bảo Nguyệt Như Lai trụ ở chỗ nào? Vẫn còn trụ ở đời hay đã nhập Niết-bàn rồi?

Thế Tôn bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Cách phương Đông hơn mười ngàn ức thế giới chư Phật, đã từng có thế giới tên là Vô Hủy. Trong thế giới ấy, Như Lai thọ một vạn kiếp. Ở thế giới ấy, Phật thường thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Các Thiên mangoại đạo v.v... không thể làm chướng ngại kinh điển này và đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bí-sô Trí Thịnh nay chính là Mạn-thù-thất-lợi. Bí-sô Đế Thọ nay là Thiên vương Tối Thắng. Hai vị Bồ-tát này đã dùng các phương tiện thiện xảo ủng hộ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, làm cho trụ lâu ở đời. Mười phương cõi Phật nếu có thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này thì hai vị Bồ-tát ấy liền đến nghe nhận. Như ngày nay, Ta thuyết pháp môn này, phóng đại quang minh, tìm theo ánh quang minh đến đây vân tập.

 
XVII. PHẨM PHÓ CHÚC

Bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Ông nên thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, chớ để quên mất.

A-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thọ trì kinh điển này như thế nào?

Phật bảo A-nan-đà:

- Thọ trì kinh này có mười phương pháp:

1. Biên chép.

2. Cúng dường.

3. Dạy cho người khác.

4. Lắng nghe.

5. Tìm đọc.

6. Thọ trì.

7. Giảng rộng.

8. Phúng tụng.

9. Suy nghĩ.

10. Tu tập.

Dựa vào mười pháp đó mà thọ trì kinh này. Thí như ở thế gian, tất cả cỏ cây, hoa, quả, thuốc v.v... đều nương vào đại địa. Cũng vậy tất cả pháp lành thù thắng đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vua Chuyển luân nếu trụ ở đời thì bảy báu luôn xuất hiện. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như thế, nếu trụ ở đời thì Tam bảo không bị diệt.

Khi ấy, đại chúng chiêm ngưỡng tôn nhan Thế Tôn, rồi khóc than:

- Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể gánh vác trọng trách đại pháp của Thế Tôn? Nghĩa là vị ấy phải trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp tu tập mới được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Trong chúng có một vạn hai ngàn Bồ-tát vì hộ pháp này liền đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính, nói kệ:

Chúng tôi bỏ thân mạng,

Chẳng cầu phước đời sau,

Hộ trì lời Phật dạy,

Chánh pháp thâm sâu này.

Trong chúng có năm trăm Thiên tử do Hiền Vương dẫn đầu, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính, nói kệ:

Vì độ các hữu tình,

Thành tựu nguyện đại bi.

Hộ trì lời Phật dạy,

Chánh pháp thâm sâu này.

Lúc ấy, Trời Đế Thích, Phạm vương Trì Kế, Tỳ-sa-môn vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính, nói kệ:

Thuốc Bát-nhã nhiệm mầu,

Trị được tất cả bệnh.

Thế Tôn nay đã nói,

Chúng con xin thọ trì.

Thần cầm chày Kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệc y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính nói kệ:

Pháp vốn không danh tự,

Phật dùng danh tự nói.

Đại bi chơn giáo pháp,

Tôi nay xin thọ trì.

Bấy giờ, Phật bảo Phạm vương Trì Kế:

- Phạm thiên nên biết! Phật khen ba việc rất là vô thượng. Những gì là ba?

1. Phát tâm Bồ-đề.

2. Hộ trì chánh pháp.

3. Như giáo pháp tu hành.

Ba pháp này thật là vô thượng. Người nào tu hành được mới là chơn cúng dường Phật. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nói công đức ấy cũng không thể hết. Hộ trì Như Lai bằng một bài kệ bốn câu, công đức ấy nói còn không hết, huống gì hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, là mẹ ba đời chư Phật. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sanh ra, dùng pháp cúng dường là chơn cúng dường Phật. Nếu dùng tiền của thì chẳng phải chơn cúng dường. Nên cúng dường pháp là cúng dường tối thượng nhất. Nếu người nào hộ trì chánh pháp của Phật, phải biết người ấy an lạc ba đời.

Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Sau khi nhờ hộ trì pháp, ông sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ông phải siêng năng hộ trì chánh pháp.

Thế Tôn lại bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu ở chỗ nào thì biết là Như Lai đã sanh chỗ đó và chứng quả Bồ-đề ở chỗ đó, chuyển pháp luân ở đó và nhập Niết-bàn cũng ở đó. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả Bồ-tát, tất cả pháp lành, tất cả Như Lai đều từ đây mà sanh. Nếu có pháp sư nào tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này thì chỗ ấy chính là chỗ Phật đã đi. Ở chỗ pháp sư, các loài hữu tình phải sanh tâm tôn trọng và gần gũi như Phật, vui mừng, cung kính, cúng dường, ngợi khen. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp hay hơn một kiếp, nói về công đứcpháp sư đây đã truyền bá kinh này cũng không thể hết.

Kiều-thi-ca! Khi pháp sư này đi đến chỗ nào, có thiện nam tử v.v… chích máu nhỏ xuống đất cúng dường, vẫn chưa gọi là nhiều. Vì sao? Vì pháp luân vô thượng khó thọ trì vậy.

Trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, chỗ nào thuyết kinh này, con và quyến thuộc đều ủng hộ vị pháp sưbảo vệ địa phương ấy. Nếu thấy kinh này để ở chỗ nào liền sanh tâm như bốn chỗ đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen trời Đế Thích:

- Ông làm được như vậy thật quí hoá thay, quí hoá thay! Ta đem kinh này giao phó và dặn dò ông. Đời sau, ông phải ủng hộ lưu truyền.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con được sanh vào cảnh giới an lành đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa; phát tâm Bồ-đề cũng nhờ vào đây. Thế nên chúng con chẳng tiếc thân mạng, ủng hộ giáo pháp thâm sâu của Thế Tôn.

Phật lại khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Hãy làm như đã nói.

Khi đức Thế Tôn thuyết kinh này rồi, Thiên vương Tối Thắng và các Đại Bồ-tát trong mười phương cõi, tất cả Thanh văn, trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạt-hô-lạc-già, người chẳng phải người v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tin nhận phụng hành.

 

Quyển thứ 573
HẾT

HỘI THỨ 7
PHẦN MẠN-THÙ-THẤT-LỢI

01

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trụ vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa ở thành Thất-la-phiệt, cùng năm ngàn chúng Tỳ-kheo đều là A-la-hán, chỉ có A-nan-đà còn ở bậc hữu học. Xá-lợi Tử v.v... làm thượng thủ. Lại cùng một vạn Đại Bồ-tát đều là bậc Bất thối chuyển, trang nghiêm bằng mũ giáp công đức gồm Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Kiết Tường, Bồ-tát Vô Ngại Biện, Bồ-tát Bất Xả Thiện Ách làm thượng thủ.

Khi mặt trời xuất hiện, Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi rời khỏi trú xứ của mình, đi đến chỗ Như Lai nhưng đứng ở ngoài. Cùng lúc ấy, cụ thọ Xá-lợi Tử, Đại Ca-đa-diễn-na, Đại Ca-diếp-ba, Đại Thái Thúc Thị, Mãn Từ Tử, Chấp Đại Tạng, tất cả đại Thanh văn Tăng đều từ trú xứ của mình đi đến chỗ Như Lai nhưng đứng ở ngoài.

Bấy giờ, biết đại chúng đều đến tập hợp, đức Thế Tôn rời khỏi trú xứ, trải tòa như thường ngày, ngồi kết già, bảo Xá-lợi Tử:

- Hôm nay, vì cớ gì mà mới mờ sáng ông đã đứng ngoài cửa?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi đã đến đây trước, chúng con đến sau.

Thế Tôn biết mà vẫn hỏi Mạn-thù-thất-lợi:

- Thiện nam tử! Ông thật là người đã đến đây trước, vì muốn gặp Phật để đảnh lễ và gần gũi Phật?

Trước Phật, Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Vì sao? Vì đối với Như Lai con chiêm ngưỡng lễ lạy và thân cận mà không nhàm chán. Và muốn làm lợi lạc hữu tình nên thật sự con đã đến đây trước.

Bạch Thế Tôn! Nay con đến đây để thân cận lễ kínhchiêm ngưỡng Như Lai, chỉ vì lợi lạc tất cả hữu tình, chẳng phải vì sự chứng đắc quả Bồ-đề của Phật, chẳng phải vì ưa xem thân Như Lai, chẳng phải vì làm rối động chơn pháp giới, chẳng phải vì phân biệt các pháp tánh, cũng chẳng phải vì những việc khác. Con thấy Như Lai tức tướng chơn như không động, không tạo tác, không có sự phân biệt, không có sự phân biệt khác, chẳng phải phương xứ, chẳng phải lìa phương xứ, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải chính ba đời, chẳng phải lìa ba đời, không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm chẳng nhiễm, không hai chẳng hai, tâm tuyệt đường ngôn ngữ. Nếu đem tướng bình đẳng chơn như này mà quán Như Lai thì gọi là thấy Phật một cách chân thật, cũng gọi là kính lễ và gần gũi Như Lai, thật sự làm lợi lạc cho hữu tình.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông quán chiếu như vậy là để thấy những gì?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con quán như vậy nhưng hoàn toàn không thấy gì; đối với tướng các pháp cũng không có tướng pháp nào để chấp lấy.

Phật nói:

- Hay thay! Hay thay! Đồng tử! Đối với Như Lai ông đã quán được như vậy. Đối với tất cả pháp, tâm không có sự chấp thủ, cũng không phải không chấp thủ, chẳng phải tập hợp, chẳng phải ly tán.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Mạn-thù-thất-lợi:

- Ngài thường gần gũi kính lễ và quán Như Lai, được như vậy thật là hy hữu! Tuy thường thương xót hữu tình nhưng đối với hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Dù hay giáo hóa chúng sanh hướng đến Niết-bàn mà không có sự chấp thủ. Chỉ vì lợi lạc các hữu tình nên mang giáp mão lớn, nhưng ở trong ấy chẳng khởi lên phương tiện chứa nhóm hay tan hoại.

Mạn-thù-thất-lợi thưa với Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như Tôn giả nói. Vì lợi lạc hữu tình nên tôi mang giáp mão lớn khiến họ hướng tới Niết-bàn. Đối với hữu tình đã giáo hóacảnh giới Niết-bàn đã chứng không có sự chứng đắc, cũng không sự chấp thủ.

Này Xá-lợi Tử! Chẳng phải tôi thật muốn lợi lạc hữu tình mà mang giáp mão lớn. Vì sao? Vì cảnh giới của các hữu tình không tăng không giảm. Giả sử ở trong một cõi Phật đây có hằng hà sa số chư Phật, mỗi đức Phật đều trụ hằng hà sa số đại kiếp, ngày đêm thường thuyết hằng hà sa số pháp môn. Mỗi pháp môn độ được hằng hà sa số loài hữu tình của cõi Phật ấy, làm cho tất cả đều vào Vô dư Niết-bàn. Như cõi Phật đây có sự việc như vậy, nếu hằng hà sa số thế giới khắp mười phương cũng lại như thế: Tuy có vô số chư Phật Thế Tôn, qua vô số thời, thuyết vô số pháp, độ thoát vô số hữu tình đều chứng vào Vô dư Niết-bàn nhưng cõi hữu tình cũng không tăng, không giảm. Vì sao? Vì tự tánh của các hữu tình là lìa, là không bờ bến nên không thể tăng giảm.

Xá-lợi Tử nói:

- Mạn-thù-thất-lợi! Nếu tự tánh của các hữu tìnhxa lìa, không bờ bến, không tăng giảm, thì do yếu tố nào Bồ-tát cầu đại Bồ-đề muốn vì hữu tình thường thuyết diệu pháp?

Mạn-thù-thất-lợi nói:

- Xá-lợi Tử! Tôi nói hữu tình đều không thể đắc, và đâu có Bồ-tát cầu đại Bồ-đề mà muốn vì hữu tình thường thuyết diệu pháp. Vì sao? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Nếu các hữu tình đều bất khả đắc thì làm sao thiết lập cảnh giới của các hữu tình?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Cảnh giới hữu tình ấy chỉ là giả thiết lập.

Phật bảo:

- Mạn-thù-thất-lợi! Nếu có người hỏi ông: “Cõi hữu tình này có bao nhiêu?” Nếu hỏi như vậy, ông sẽ trả lời thế nào?

- Bạch Thế Tôn! Con sẽ đáp: “Số lượng cõi kia nhiều như Phật pháp vậy.”

- Mạn-thù-thất-lợi! Nếu lại hỏi ông: “Cõi hữu tình kia số lượng chừng nào?” Hỏi như vậy, ông đáp ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con đáp thế này: “Số lượng cõi hữu tình như cảnh giới chư Phật.”

- Mạn-thù-thất-lợi! Nếu có người hỏi: “Cõi hữu tình thuộc về đâu?” Hỏi như vậy, ông trả lời thế nào?

- Bạch Thế Tôn! Con sẽ đáp: “Chỗ thuộc về của cõi kia giống như Phật, rất khó nghĩ.”

- Mạn-thù-thất-lợi! Nếu có người hỏi: “Cõi hữu tình kia trụ ở chỗ nào?” Hỏi như vậy, ông trả lời thế nào?

- Bạch Thế Tôn! Con sẽ đáp: “Nếu xa lìa bờ ô nhiễm là chỗ pháp nên trụ, tức là chỗ cõi hữu tình nên trụ.”

- Mạn-thù-thất-lợi! Ông tu Bát-nhã ba-la-mật-đa được trụ chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Con tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu hoàn toàn không có chỗ trụ.

- Mạn-thù-thất-lợi! Không có chỗ trụ thì làm sao có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu?

- Bạch Thế Tôn! Do không có chỗ trụ nên con tu được Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

- Mạn-thù-thất-lợi! Đối với thiện và ác, ông tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tăng pháp nào, giảm pháp nào?

- Bạch Thế Tôn! Đối với thiện và ác, con tu Bát-nhã ba-la-mật-đa không tăng, không giảm.

Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp, con tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng không tăng không giảm.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất hiệnthế gian chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không vì vứt bỏ pháp của phàm phu v.v..., không vì nhận lấy tất cả Phật pháp. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không vì bỏ pháp này được pháp kia mà phát khởi.

Bạch Thế Tôn! Tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không vì chán lìa tội lỗi của sanh tử, không vì vui thích công đức Niết-bàn. Vì sao? Vì người tu pháp này còn không thấy sanh tử, không thấy Niết-bàn, huống gì có chán lìa, có vui thích.

Bạch Thế Tôn! Tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thấy các pháp có kém có hơn, có mất có được, nên bỏ nên lấy.

Bạch Thế Tôn! Tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không đắc các pháp nên thêm hay nên bớt. Vì sao? Vì chơn pháp giới chẳng phải có thêm hay có bớt.

Bạch Thế Tôn! Người nào tu được như vậy gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp chẳng thêm chẳng bớt, thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không sanh không diệt, thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp chẳng thấy tăng giảm, thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp chẳng thấy sanh diệt, thì gọi là chơn tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không có sự suy nghĩ, hoặc nhiều hoặc ít đều không có sự mong muốn; được mong muốn, người mong muốn và điều mong muốn đều chẳng chấp trước, thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Nếu tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy các pháp có tốt có xấu, có cao có thấp, gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khi tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, các thiện nam tử v.v… không được hơn thua trong các pháp, nghĩa là hoàn toàn không thấy pháp này hơn, pháp kia kém, đây là chơn Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế không có sự hơn kém. Nếu tu như vậy gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Diệu pháp của chư Phật không hơn sao?

Mạn-thù-thất-lợi thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Diệu pháp của chư Phật không thể nắm bắt được, nên cũng không thể nói là hơn hay kém. Chẳng lẽ Như Lai không chứng được các pháp Không?

Thế Tôn đáp:

- Đúng vậy! Đồng tử.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong các pháp Không đâu có sự hơn kém?

Thế Tôn khen:

- Hay thay! Hay thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói. Mạn-thù-thất-lợi! Pháp của Phật chẳng lẽ không phải là vô thượng?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Tất cả pháp của Phật tuy thật vô thượng, nhưng ở trong ấy không có pháp nào có thể đắc, nên không thể nói pháp của Phật là vô thượng.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khi tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, các thiện nam tử v.v… chẳng muốn nắm giữ tất cả pháp của Phật, chẳng muốn điều phục các pháp của phàm phu; Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đối với tất cả pháp của Phật và pháp của phàm phu chẳng muốn tăng thêm và điều phục, vì đối với tất cả pháp không phân biệt. Nếu tu như vậy thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thì các thiện nam tử v.v… chẳng thấy các pháp có thể suy nghĩ, có thể phân biệt.

- Mạn-thù-thất-lợi! Đối với pháp của Phật, ông không suy nghĩ ư?

- Bạch Thế Tôn! Không suy nghĩ. Nếu con thấy có pháp chơn thật của Phật thì sẽ suy nghĩ, nhưng con chẳng thấy. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng do phân biệt các pháp mà sanh khởi, nghĩa là chẳng phân biệt đây là pháp phàm phu, đây là pháp của Thanh văn, đây là pháp của Độc giác, đây là pháp của Bồ-tát, đây là pháp của Như Lai. Các thiện nam tử v.v… siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ở trong các pháp hoàn toàn không có sở đắc, cũng không có gì để nói; nghĩa là chẳng nói có pháp tánh của phàm phu, cũng chẳng nói có pháp tánh của Thanh văn, cho đến pháp tánh của Như Lai. Vì sao? Vì các pháp tánh này đều rốt ráo Không, không thể thấy. Nếu tu học như vậy gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử v.v… siêng tu Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng nghĩ: Đây là cõi Dục, đây là cõi Sắc, đây là cõi Vô sắc, đây là cõi Diệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thấy có pháp nào đáng diệt. Nếu tu như vậy gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp thì không sanh ân oán. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không giữ tất cả pháp của Phật, không vì xả bỏ pháp của phàm phu. Vì sao? Vì các thiện nam tử v.v… siêng tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, ở trong pháp của Phật chẳng muốn chứng đắc, chẳng muốn hoại diệt pháp của phàm phu v.v... Vì hiểu rõ tánh của tất cả pháp là bình đẳng. Nếu tu như vậy gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bấy giờ, Thế Tôn liền khen ngợi Mạn-thù-thất-lợi:

- Hay thay! Hay thay! Nay ông có thể thuyết được pháp thâm sâu và làm chơn pháp ấn cho chúng Đại Bồ-tát, cũng làm đại pháp ấn cho Thanh văn, bậc Độc giác và những kẻ tăng thượng mạn v.v…, khiến họ biết như thật: Những pháp trước đây họ đã thông suốt chẳng phải chơn cứu cánh.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nghe pháp thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, nên biết người này chẳng phải gieo trồng căn lành với một đức Phật, cho đến ngàn đức Phật, mà nhất định họ đã gieo trồng căn lành với vô lượng, vô biên đức Phật, mới có thể được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ.

Đồng tử Mạn-thù-thất-lợi chấp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn nói lại Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông muốn nói nữa thì cứ tùy ý.

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người nào tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đối với pháp không đắc là có thể trụ, cũng lại không đắc là không thể trụ. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này chẳng duyên vào pháp trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp khôngsở duyên. Bạch Thế Tôn! Nếu người nào tu được như vậy thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì không giữ lấy tướng của tất cả pháp.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Phải quán Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, nhưng chẳng hiện quán tánh tướng các pháp, nghĩa là đối với pháp của Phật còn không hiện quán, huống gì pháp của Bồ-tát; đối với pháp của Bồ-tát còn không hiện quán, huống gì pháp của Độc giác; đối với pháp của Độc giác còn chẳng hiện quán, huống gì pháp của Thanh văn; đối với pháp của Thanh văn còn chẳng hiện quán, huống gì pháp của phàm phu. Vì sao? Vì tánh tướng của tất cả pháp là xa lìa vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Tu theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, ở trong các pháp không có sự phân biệt; nghĩa là không phân biệt: nên nghĩ bàn hay không nên nghĩ bàn pháp tánh sai khác. Nên biết chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không có phân biệt các pháp.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Tu theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không thấy có: Đây là Phật pháp, đây chẳng phải Phật pháp, đây nên nghĩ bàn, đây chẳng nên nghĩ bàn. Vì tất cả pháp không có tánh sai khác. Nếu các hữu tình tu được Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì quán tất cả pháp đều là Phật pháp. Vì thuận với Bồ-đề, quán tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì rốt ráo Không. Các hữu tình này đã từng gần gũi, cúng dường, cung kính hơn trăm ngàn đức Phật, đã gieo trồng căn lành nên mới tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa được như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, thì phải biết trong quá khứ, vị ấy đã từng gần gũi, cung kính, cúng dường hơn trăm ngàn đức Phật, đã gieo trồng căn lành nên mới được như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nên quán Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, nếu ai siêng năng tu hành thì đối với các pháp chẳng thấy tạp nhiễm, chẳng thấy thanh tịnh. Tuy không thấy gì nhưng nếu siêng năng tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì tâm không bao giờ thấy nhàm chán mệt mỏi.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế thì đối với các pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật không có tưởng sai khác, vì đã rõ các pháp này rốt ráo Không. Nếu thấu đạt được như vậy thì gọi là chơn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông đã gần gũi cúng dường bao nhiêu Phật?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Số lượng đức Phật mà con đã gần gũi cúng dường bằng tâm và tâm sở pháp của người huyễn. Vì tất cả pháp đều như huyễn.

- Mạn-thù-thất-lợi! Đối với pháp của Phật, lẽ nào ông không mong cầu ư?

- Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp nào là không phải pháp của Phật thì cầu ở chỗ nào?

- Mạn-thù-thất-lợi! Đối với pháp của Phật, ông đã thành tựu rồi chăng?

- Bạch Thế Tôn! Nay con hoàn toàn chẳng thấy pháp nào để gọi là pháp của Phật thì thành tựu cái gì?

- Mạn-thù-thất-lợi! Ông chứng được tánh không chấp trước rồi ư?

- Bạch Thế Tôn! Con tức là tánh vô trước, lẽ nào tánh vô trước lại chứng đắc vô trước?

- Mạn-thù-thất-lợi! Ông sẽ không ngồi tòa Bồ-đề?

- Bạch Thế Tôn! Đối với tòa Bồ-đề, chư Phật còn không ngồi huống chi con mà ngồi được. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy thật tế làm định lượng. Ở trong thật tế, chỗ ngồi và người ngồi đều bất khả đắc.

- Mạn-thù-thất-lợi! Nói thật tế ấy là khái niệm nào?

- Bạch Thế Tôn! Thật tế phải biết đó là khái niệm của thân hư giả.

- Mạn-thù-thất-lợi! Vì sao thân hư giả được gọi là thật tế?

- Bạch Thế Tôn! Vì thật tế không đi không đến, chẳng phải chơn, chẳng phải ngụy, tướng thân đều bất khả đắc. Thân hư giả cũng vậy, thế nên thân hư giả tức là thật tế.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế mà tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, thì các Đại Bồ-tát này nhất định sẽ tới Bồ-đề, không còn thối lui.

Bồ-tát Từ Thị lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát nào nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy mà tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, nên biết các Bồ-tát này đã gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã hiểu rõ pháp tánh, lìa tất cả sự phân biệt như đại Bồ-đề vậy.

Mạn-thù-thất-lợi cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, thì các Bồ-tát này như Phật Thế Tôn, có thể nhận sự cúng dường cung kính của thế gian. Vì sao? Vì đã giác ngộ thật tánh của tất cả pháp.

Khi đó, có người nữ tên Vô Duyên Lự chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, thì các hữu tình này đối với pháp phàm phu, hay pháp Thanh văn, hay pháp Độc giác, hay pháp Bồ-tát hay pháp của Như Lai đều chẳng duyên lự. Vì sao? Vì đã thấu rõ tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, duyên lự và bị duyên lự đều bất khả đắc.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói, nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, thì phải biết các thiện nam, thiện nữ v.v… này đã trụ bậc Bất thối chuyển, chắc chắn sẽ đến Bồ-đề không thối lui.

Xá-lợi Tử! Các hữu tình nào nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm không chìm mất, cũng chẳng kinh sợ, lại hoan hỷ tin ưa, lắng nghe thọ trì, vì người khác thuyết giảng, tâm không nhàm chán.

Các hữu tình này có thể làm tất cả những vị thí chủ chơn thật, rộng rãi hơn hết, có thể bố thí tất cả của cải quí báu, đầy đủ bố thí Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này viên mãn tịnh giới, đủ chơn tịnh giới, đủ thắng tịnh giới, công đức tịnh giới đều đã viên mãn, đầy đủ tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này viên mãn an nhẫn, đủ chơn an nhẫn, đủ thắng an nhẫn, công đức an nhẫn đều đã viên mãn, đầy đủ an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này viên mãn tinh tấn, đủ chơn tinh tấn, đủ thắng tinh tấn, tinh tấn công đức đều đã viên mãn, đầy đủ tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này viên mãn tịnh lự, đủ chơn tịnh lự, đủ thắng tịnh lự, công đức tịnh lự đều đã viên mãn, đầy đủ tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này đều đã viên mãn trí tuệ, đủ chơn trí tuệ, đủ thắng trí tuệ, công đức trí tuệ đều đã viên mãn, đầy đủ trí tuệ Ba-la-mật-đa.

Các hữu tình này thành tựu chơn thắng từ, bi, hỷ, xả, cũng có thể vì người khác tuyên thuyết, khai thị Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ông phải quán nghĩa nào?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, con còn không có tâm trụ, huống hồ muốn chứng. Đối với Bồ-đề con không mong cầu chứng đắc. Vì sao? Vì Bồ-đề tức là con, con tức là Bồ-đề thì cầu cái gì?

Phật dạy:

- Đồng tử! Hay thay! Hay thay! Ông đã nói được nghĩa lý sâu xa một cách hoàn hảo. Đời trước ông gieo trồng nhiều căn lành với đức Phật, phát đại nguyện lâu dài, thường nương vào vô đắc, tu hành các phạm hạnh thanh tịnh.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Đối với các pháp có sở đắc, nếu người nào có thể dựa vào vô đắc mà tu phạm hạnh thanh tịnh, con hoàn toàn chẳng thấy có pháp khả đắcvô sở đắc, thì làm sao nói được dựa vào vô đắc mà tu phạm hạnh thanh tịnh?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Hôm nay, ông có thấy đức Thanh văn của Ta không?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy.

Phật dạy:

- Đồng tử! Làm sao ông thấy.

- Bạch Thế Tôn! Nay con thấy các Thanh văn chẳng phải phàm phu, chẳng phải thánh giả, chẳng phải hữu học, chẳng phải vô học, chẳng phải có thể thấy, chẳng phải không thể thấy, chẳng phải người thấy, chẳng phải chẳng có người thấy, chẳng phải nhiều, chẳng phải ít, chẳng phải nhỏ, chẳng phải lớn, chẳng phải đã điều phục, chẳng phải chưa điều phục. Con thấy như vậy nhưng không có tưởng thấy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền hỏi Mạn-thù-thất-lợi:

- Đối với Thanh văn thừa mà thấy như vậy thì làm sao ngài thấy Chánh đẳng giác thừa?

- Đại đức! Nay tôi chẳng thấy Bồ-tát, cũng chẳng thấy pháp của các Bồ-tát, chẳng thấy Bồ-đề, cũng chẳng thấy pháp hướng tới Bồ-đề, cũng chẳng thấy có hạnh hướng đến Bồ-đề, cũng chẳng thấy có pháp chứng đắc Bồ-đề, chẳng thấy có người chứng được Bồ-đề. Tôi thấy Chánh đẳng giác thừa như vậy, nghĩa là ở trong đó hoàn toàn không thấy chi cả.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Đối với Như Lai, ngài thấy thế nào?

- Đại đức! Thôi thôi! Chớ khởi lên ngôn luận đối với Như Lai là bậc Long tượng vương.

- Mạn-thù-thất-lợi! Theo như ngài nói thì Phật là khái niệm thế nào?

- Nay hỏi Đại đức! Như Đại đức đã nói thì ngã có khái niệm ra sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Ngã chỉ là giả lập danh tự, là khái niệm về Không. Đại đức nên biết! Khái niệm về Phật tức là khái niệm về ngã. Ngã và Phật đều rốt ráo Không, chỉ tùy theo thế giangiả lập danh tự. Danh từ Bồ-đề cũng là giả lập, không thể tìm chỗ này để cầu quả Bồ-đề thật. Tướng của Bồ-đề là Không, không thể biểu thị. Vì sao? Vì Bồ-đề và danh tự cả hai đều Không. Vì danh tự là Không, nên lời nói cũng Không. Không thể lấy Không để biểu thị pháp Không. Vì Bồ-đề là Không nên Phật cũng là Không, nên nói Phật là khái niệm của Không.

Lại nữa, Đại đức! Nói Phật ấy là không đến, không đi, không sanh, không diệt, không có sự chứng đắc, không có sự thành tựu, không danh, không tướng, không thể phân biệt, không ngôn ngữ, không nói năng, không thể biểu thị, chỉ có trí tuệ nhiệm mầu tự chứng biết bên trong. Nghĩa là các Như Lai đã biết được tất cả pháp rốt ráo là Không, là vắng lặng nên chứng đại Bồ-đề, tùy thuận thế gian giả lập danh tự, nên xưng là Phật, chẳng phải thật có, vì có hay không đều bất khả đắc.

Lại nữa, Đại đức! Như Lai đã chứng trí tuệ nhiệm mầu gọi là Bồ-đề, thành tựu Bồ-đề nên gọi là Phật. Vì Bồ-đề Không, nên Phật cũng là Không. Do đây, nên danh từ Phật chỉ là khái niệm của Không.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Pháp thâm sâu mà Mạn-thù-thất-lợi đã nói, kẻ sơ học không thể hiểu rõ được.

Đồng tử Mạn-thù-thất-lợi liền thưa Cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Những điều tôi nói chẳng phải chỉ có kẻ sơ học không thể hiểu rõ được, mà những vị A-la-hán với các việc làm đã xong cũng không thể hiểu nổi. Chẳng phải lời tôi nói ra có người hiểu được. Vì sao? Vì tướng Bồ-đề chẳng phải nhận biết hay được nhận biết, không thấy, không nghe, không chứng đắc, không nhớ nghĩ, không sanh, không diệt, không thể nói rõ, không thể nghe nhận, tánh tướng của Bồ-đề này là Không, là vắng lặng. Các Đại Bồ-tát còn chưa hiểu được, huống gì sự hiểu biết của nhị thừa mà hiểu nổi. Tánh tướng của Bồ-đề còn không thể nắm bắt, huống chi có người thật chứng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử nói:

- Mạn-thù-thất-lợi! Đối với pháp giới, lẽ nào Phật không chứng ư?

- Đại đức! Không phải vậy. Vì sao? Vì Phật tức pháp giới, pháp giới tức Phật. Pháp giới chẳng lẽ lại chứng pháp giới.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp Không mà nói là pháp giới. Tức pháp giới này nói là Bồ-đề. Bồ-đề và pháp giới đều lìa tánh tướng. Do đó nên nói tất cả pháp Không. Tất cả pháp Không hoặc Bồ-đề, pháp giới đều là cảnh giới của Phật, không hai, không khác. Vì không hai, không khác nên không thể hiểu rõ. Vì không thể hiểu rõ nên không có lời lẽ. Vì không lời lẽ nên không thể thiết lập hữu vi hay vô vi, có hay chẳng phải có v.v....

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tánh của tất cả pháp cũng không hai, không khác. Vì không hai, không khác nên không thể hiểu rõ. Vì không thể hiểu rõ nên không lời lẽ. Vì không lời nói nên không thể thiết lập. Vì sao? Vì bản tánh các pháp hoàn toàn không có sở hữu, không thể thiết lập ở đây, ở kia, vật này, vật nọ.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu tạo vô gián, nên biết tức là tạo ra bất khả tư nghì, cũng là tạo ra thật tế. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bất khả tư nghìngũ vô gián đều là thật tế, tánh không sai khác. Đã không có người tạo thật tế, nên vô gián, bất khả tư nghì đều không thể tạo. Do nghĩa này nên kẻ tạo nghiệp vô gián chẳng đọa vào địa ngục. Kẻ tạo nghiệp bất tư nghì chẳng được sanh lên trời. Kẻ tạo vô gián chẳng phải chìm đắm trong đêm dài sanh tử; kẻ tạo bất tư nghì cũng chẳng phải rốt ráo chứng được Niết-bàn. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bất khả tư nghì và năm vô gián đều trụ thật tế, tánh không sai khác, không sanh, không diệt, không đến, không đi, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải thiện, chẳng phải ác, chẳng phải chiêu lấy cảnh giới ác, chẳng phải cảm nhận cõi trời người, chẳng phải chứng Niết-bàn, chẳng phải chìm đắm trong sanh tử. Vì sao? Vì chơn pháp giới chẳng phải thiện, chẳng phải ác, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, không có trước, không có sau.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Bí-sô phạm trọng tội chẳng đọa địa ngục, người trì giới thanh tịnh chẳng được sanh lên trời. Bí-sô phạm trọng tội chẳng chìm sanh tử, người giữ giới thanh tịnh chẳng chứng Niết-bàn. Bí-sô phạm trọng tội chẳng bị mắng chửi, người giữ giới tịnh chẳng được khen ngợi. Bí-sô phạm trọng tội chẳng bị khinh miệt, người giữ giới thanh tịnh chẳng được cung kính. Bí-sô phạm trọng tội chẳng bị chống trái, người giữ giới thanh tịnh chẳng được hòa hợp. Bí-sô phạm trọng tội chẳng nên xa lìa, người giữ giới thanh tịnh chẳng nên thân cận. Bí-sô phạm trọng tội chẳng bị tổn giảm, người giữ giới thanh tịnh chẳng được tăng ích. Bí-sô phạm trọng tội chẳng phải không đáng cúng dường, người giữ giới thanh tịnh chẳng phải đáng cúng dường. Bí-sô phạm trọng tội chẳng phải tăng trưởng lậu hoặc, người giữ giới thanh tịnh chẳng phải tổn giảm lậu hoặc. Bí-sô phạm trọng tội chẳng phải không thanh tịnh, người giữ giới thanh tịnh chẳng phải chắc chắn thanh tịnh. Bí-sô phạm trọng tội chẳng phải không có tịnh tín, người giữ giới thanh tịnh chẳng phải có tịnh tín. Bí-sô phạm trọng tội chẳng phải không nên thọ của tín thí thanh tịnh, người giữ giới thanh tịnh chẳng phải nhất định nên nhận của tín thí thanh tịnh. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì trong chơn pháp giới, tánh của giữ giớiphạm giới đều bình đẳng không sai khác vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các loại phàm phu gọi là người hòa hợp. Bí-sô đã hết lậu gọi là chẳng hòa hợp.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ngài dựa vào nghĩa nào mà nói như vậy?

- Đại đức! Phàm phu cùng với chúng sanh hợp nên gọi là người hòa hợp. Còn các A-la-hán không có nghĩa này nên gọi là chẳng hòa hợp. Tôi dựa vào nghĩa này mà nói như vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các loại phàm phu gọi là kẻ vượt qua sự sợ hãi, còn Bí-sô hết lậu hoặc gọi là chẳng vượt qua sợ hãi.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ngài dựa vào nghĩa nào mà nói như vậy?

- Đại đức! Hàng phàm phu chẳng sợ hãi đối với pháp đáng sợ nên gọi là vượt qua sợ hãi. Các A-la-hán biết pháp đáng sợ ấy thật khôngsở hữu, không có sự sợ hãi để vượt qua. Tôi dựa vào nghĩa này mà nói như vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các hàng phàm phu đạt được Vô diệt nhẫn, còn các chúng Bồ-tát đạt được Vô sanh nhẫn.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ngài dựa vào nghĩa nào mà nói như thế?

- Đại đức! Phàm phu chẳng ưa tịch diệt gọi là đạt Vô diệt nhẫn, các chúng Bồ-tát chẳng thấy pháp sanh, gọi là được Vô sanh nhẫn. Tôi dựa vào nghĩa này mà nói như vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các hàng phàm phu gọi kẻ điều phục, còn Bí-sô đã hết lậu hoặc gọi là người chẳng điều phục.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ngài dựa vào nghĩa nào mà nói như vậy?

- Đại đức! Vì hàng phàm phu chưa điều phục cần điều phục nên gọi là kẻ điều phục. Còn các A-la-hán đã hết lậu hoặc, kiết sử, không cần điều phục nên gọi là chẳng điều phục. Tôi dựa vào nghĩa này mà nói như vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Hàng phàm phu gọi là kẻ tăng thượng tâm, vượt khỏi sự tu hành. Bí-sô hết lậu hoặc tâm hạ liệt chẳng phải vượt khỏi sự tu hành.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ngài dựa vào nghĩa nào mà nói như vậy?

- Đại đức! Tâm của phàm phu cất cao, hành động trái pháp giới, gọi là kẻ có tâm tăng thượng, vượt khỏi sự tu hành. Các A-la-hán thì tâm khiêm hạ, hành nghiệp thuận với pháp giới, gọi là tâm hạ liệt chẳng phải vượt khỏi sự tu hành. Tôi dựa vào nghĩa này mà nói như vậy.

Xá-lợi Tử khen Mạn-thù-thất-lợi:

- Hay thay! Hay thay! Ngài đã giải thích cho tôi một cách hoàn hảo ý nghĩa sâu xa này.

Mạn-thù-thất-lợi trả lời:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đại đức! Chẳng những tôi giải thích nghĩa của mật ngữ này, mà tôi cũng chính là chơn A-la-hán đã hết tất cả lậu hoặc. Vì sao? Vì tôi vĩnh viễn không khởi lên ưa muốn đối với Thanh vănĐộc giác, nên gọi là chơn A-la-hán đã hết lậu hoặc.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Có lý do nào mà nói Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Cũng có lý do Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề nhưng chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nghĩa là trong Bồ-đề không có chút pháp nào gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhưng tánh của chơn Bồ-đề vẫn không sai khác, chẳng phải hễ ngồi là có thể chứng còn chẳng ngồi được liền bỏ. Do yếu tố này nên có thể nói Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, nhưng chẳng chứng Bồ-đề, vì Bồ-đề không có tướng nên không thể chứng.

Mạn-thù-thất-lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề tức là năm vô gián; năm vô gián kia tức là Bồ-đề này. Vì sao? Vì Bồ-đề và vô gián đều là giả thiết lập, chẳng phải chơn thật có tánh của Bồ-đề, chẳng phải có thể chứng được, chẳng phải có thể tu tập, chẳng thể hiện thấy. Năm vô gián kia cũng lại như vậy. Vả lại, bản tánh của tất cả pháp rốt ráo không thể hiện thấy, ở trong ấy không có sự giác ngộ, không có người giác ngộ; không thấy, không có người thấy; không biết, không có người biết; không có sự phân biệt, không có người phân biệt; bình đẳng, lìa tướng nên gọi là Bồ-đề. Tánh của năm vô gián cũng lại như vậy, do đây Bồ-đề chẳng thể chứng được. Kẻ nào nói có thể chứng được, tu tập và hiện thấy rõ đại Bồ-đề là kẻ tăng thượng mạn.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Nay ông gọi Ta là Như Lai ư?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải. Bạch Thiện Thệ! Chẳng phải. Con chẳng gọi Phật là Như Lai thật. Vì sao? Bởi Như Lai dùng trí vi diệu chứng được chơn như. Diệu tríchơn như cả hai đều lìa tướng. Chơn như lìa tướng chẳng gọi là chơn như. Diệu trí cũng vậy, chẳng gọi là diệu trí. Đã không có diệu trí và không có chơn như cho nên Như Lai cũng chẳng phải chơn như. Vì sao? Vì chơn nhưdiệu trí chỉ là giả thiết lập. Như Lai cũng vậy, chẳng phải là hai, chẳng phải không hai. Thế nên diệu trí, chơn như hay Như Lai chỉ có giả danh mà không một sự thật nào, nên chẳng gọi Phật là thật Như Lai.

Phật bảo Đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông không nghi ngờ về Như Lai ư?

- Bạch Thế Tôn! Không. Bạch Thiện Thệ! Không phải vậy. Vì sao? Con quán Như Lai thật bất khả đắc, không sanh, không diệt nên không có sự nghi ngờ.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Chẳng lẽ Như Lai không xuất hiện ở thế gian?

- Bạch Thế Tôn! Không. Bạch Thiện Thệ! Không phải vậy. Nếu chơn pháp giới xuất hiệnthế gian, thì có thể nói Như Lai xuất hiệnthế gian. Vì chẳng phải chơn pháp giới xuất hiệnthế gian, cho nên Như Lai cũng chẳng xuất hiện.

- Mạn-thù-thất-lợi! Ông cho rằng hằng hà sa số chư Phật đã nhập Niết-bàn rồi chăng?

- Bạch Thế Tôn! Lẽ nào chẳng thấy chư Phật Như Lai đồng một tướng, cảnh giới bất tư nghì.

- Mạn-thù-thất-lợi! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói, chư Phật Như Lai đồng một tướng, cảnh giới bất tư nghì.

Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật:

- Nay đức Phật Thế Tôn đang trụ ở đời chăng?

Phật dạy:

- Đúng vậy!

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đức Phật Thế Tôn đang trụ ở đời thì hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn cũng đang trụ ở đời. Vì sao? Vì tất cả Như Lai đồng một tướng, cảnh giới bất tư nghì. Tướng bất tư nghì không sanh không diệt thì như thế nào là chư Phật có nhập Niết-bàn? Thế nên, bạch Thế Tôn! Nếu đời vị lai sẽ có Phật ra đời thì tất cả Như Lai đều sẽ ra đời. Nếu đức Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn thì tất cả Như Lai đều đã diệt độ. Nếu đức Phật hiện tại đang chứng Bồ-đề thì tất cả Như Lai đều đang chứng. Vì sao? Trong cảnh giới bất tư nghì tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều không khác nhau. Nhưng vì thế gian mê lầm chấp trước các thứ hý luận nên cho rằng đức Phật Thế Tôn có sanh, có diệt, có chứng Bồ-đề.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Pháp mà ông nói chỉ có Như Lai hoặc Bồ-tát Bất thối chuyển hay đại A-la-hán mới hiểu rõ được, ngoài ra chẳng ai hiểu nổi. Vì sao? Vì chỉ Như Lai v.v... nghe pháp sâu xa này, như thật hiểu rõ, chẳng khen, chẳng chê, biết tâm hay phi tâm đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp đều bình đẳng, tâm và phi tâm đều bất khả đắc. Do đây nên không khen, không chê pháp này.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đối với pháp này, ai sẽ khen chê?

Phật dạy:

- Đồng tử! Đối với kẻ phàm phu ngu si kia, tâm này chẳng phải thật là tánh của tâm, đồng với tánh tâm của Phật không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đối với hàng phàm phu ngu si, tánh tâm và phi tâm đồng với tánh của tâm Phật bất tư nghì phải không?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi :

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói. Vì sao? Vì Phật, hữu tình, tâm và tất cả pháp đều bình đẳngbất khả tư nghì.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật, hữu tình, tâm và tất cả pháp thảy đều bình đẳng, bất khả tư nghì, khiến cho các bậc Thánh hiền cầu Niết-bàn, siêng tu tinh tấn, há chẳng uổng công? Vì sao? Vì tánh bất khả tư nghì và tánh Niết-bàn không sai khác thì cầu làm gì! Nếu có kẻ nói: Pháp phàm phu này và pháp của Thánh giả đây có tướng khác nhau, thì nên biết kẻ ấy chưa từng gần gũi bạn lành chơn tịnh, nói như vậy làm cho hữu tình chấp vào hai pháp khác nhau, đắm chìm trong sanh tử, chẳng chứng Niết-bàn.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông muốn Như Lai là bậc tối thắng đối với loài hữu tình chăng?

- Bạch Thế Tôn! Nếu thật có hữu tình thì con nguyện Như Lai sẽ là bậc tối thắng. Nhưng vì loài hữu tình thật bất khả đắc.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông muốn Phật thành tựu pháp Bất tư nghì không?

- Bạch Thế Tôn! Nếu thật có pháp Bất tư nghì để thành tựu thì con nguyện Như Lai thành tựu pháp ấy, nhưng không có việc ấy.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông muốn Như Lai thuyết pháp điều phục các đệ tử không?

- Bạch Thế Tôn! Nếu có sự thuyết phápđiều phục được chơn như pháp giới, thì con nguyện Như Lai thuyết pháp điều phục các chúng đệ tử. Nhưng đức Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời hoàn toàn không có ân đức đối với loài hữu tình. Vì sao? Vì các loại hữu tình trụ chơn như pháp giới, không có tạp nhiễm. Ở trong đây, phàm phu hay Thánh giả, được nói hay được nghe đều không thể nắm bắt.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông muốn Như Lairuộng phước chơn chánh vô thượng của thế gian không?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các ruộng phước là thật có thì con cũng muốn Phật là bậc Vô thượng của họ. Nhưng các ruộng phước thật bất khả đắc. Thế nên chư Phật đều chẳng phải ruộng phước, chẳng phải phi ruộng phước. Vì tánh của phước, chẳng phải phước và tất cả pháp đều bình đẳng. Nhưng người làm ruộng phước cho thế gian có khả năng vô tận nên thế gian nói chung gọi vị ấy là ruộng phước Vô thượng. Chư Phật Thế Tôn chứng được phước vô tận, thế nên có thể nói Ngài là ruộng phước Vô thượng. Vả lại, người làm ruộng phước cho thế gian không có sự chuyển biến, nên đời gọi chung người ấy là ruộng Vô thượng. Chư Phật Thế Tôn chứng được phước không biến chuyển cho nên có thể nói Ngài là ruộng phước Vô thượng.

Lại nữa, người làm ruộng phước cho thế gian khó nghĩ, nên đời gọi chung vị ấy là ruộng Vô thượng. Chư Phật Thế Tôn chứng được phước khó nghĩ này, cho nên gọi là ruộng phước Vô thượng. Chư Phật tuy thật là ruộng phước Vô thượng nhưng người gieo trồng phước thì không bớt, không thêm.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ông dựa vào nghĩa nào mà nói như vậy?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tướng ruộng phước của Phật không thể nghĩ bàn, nếu có người gieo trồng vào trong đó thì hiểu rõ ngay pháp tánh bình đẳng, thông suốt tất cả pháp không tăng, không giảm, nên Phật thật là ruộng phước Vô thượng.

Bấy giờ, nhờ thần lựcpháp lực của Phật làm cho đại địa biến động sáu cách. Khi đó, trong chúng hội có mười sáu ức chúng đại Bí-sô dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát. Bảy trăm Bí-sô-ni, ba ngàn cư sĩ nam, bốn vạn cư sĩ nữ, sáu mươi muôn ức chúng trời cõi Dục xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.

Khi ấy, A-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệch y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà hôm nay đại địa biến động sáu cách như vậy?

Phật bảo A-nan-đà:

- Do Diệu Cát Tường nói về tướng ruộng phước. Nay Ta ấn chứng nên hiện điềm này. Chư Phật quá khứ cũng nói tướng ruộng phước tại nơi này, khiến cho đại địa biến động, nên lúc này hiện lên sự việc như vậy.

 

Quyển thứ 574
HẾT

02

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mạn-thù-thất-lợi thật không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì pháp tướng mà Mạn-thù-thất-lợi đã thuyết không thể nghĩ bàn.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Pháp mà ông thuyết thật khó nghĩ bàn, như cụ thọ Xá-lợi Tử đã nói.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp mà con thuyết không thể nói là có thể nghĩ bàn, cũng không thể nói không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tánh của không thể nghĩ bàn và có thể nghĩ bàn đều vô sỡ hữu, chỉ có âm thanh. Tất cả âm thanh cũng không thể nói, không thể nghĩ bàn, hay có thể nghĩ bàn. Vì đối với tất cả pháp tự tánh đều xa lìa. Người nào nói như vậy mới gọi là nói không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghì).

Phật bảo Mạn-thù-thất-lợi:

- Đồng tử! Nay ông đang nhập vào Tam-ma-địa Bất khả tư nghì ư?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không nhập vào Tam-ma-địa này. Vì sao? Vì con hoàn toàn chẳng thấy tánh Tam-ma-địa này khác với con, vì chẳng thấy có tâm có thể nghĩ bàn về ngã và định này. Tam-ma-địa Bất khả tư nghì ấy, tánh của tâm và phi tâm đều không nhập được, thì làm sao có thể nói con nhập vào định này?

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Xưa kia khi mới học, con có tác ý nhập vào Tam-ma-địa này. Nhưng bây giờ con không còn tác ý nhập vào định này nữa. Giống như người bắn giỏi, khi mới học bắn phải tập ngắm kỹ vào những đích thô rồi kéo cung. Nhưng tập lâu ngày thành thạo, có thể bắn trúng đích nhỏ như đầu sợi lông, chẳng cần ngắm vào nơi đích thô kia nữa, hễ muốn bắn chỗ nào, buông mũi tên ra là trúng ngay. Cũng vậy, trước đây khi con mới học định này cần phải buộc niệm vào chỗ bất tư nghì, sau đó mới có thể nhập vào định này. Tu tập lâu ngày thành thục, ở trong định này chẳng còn buộc tâm, mặc cho nó trụ. Vì sao? Vì con đã thiện xảo đối với định này, tuần tự vào ra không còn tác ý.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nhận thấy Đồng tử Mạn-thù-thất-lợi này chưa thể bảo hộ niềm tin. Vì sao? Dường như không thường trụ ở trong định này, tuy nhiên không có định nào khác nhiệm mầu vắng lặng như định này.

Mạn-thù-thất-lợi liền thưa với Cụ Thọ Xá-lợi Tử:

- Đại đức! Sao biết không có định nào khác vắng lặng như định này?

Xá-lợi Tử nói:

- Lẽ nào lại có định vắng lặng như định này?

Mạn-thù-thất-lợi đáp:

- Đại đức! Nếu định này có thể chứng được thì có thể nói, còn các định khác vắng lặng như định này nhưng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử nói:

- Mạn-thù-thất-lợi! Lẽ nào định này cũng bất khả đắc?

- Đại đức! Định này thật bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả định nào có thể nghĩ bàn thì có tướng khả đắc, còn định không thể nghĩ bàn thì không có tướng khả đắc. Định này đã được nói là không thể nghĩ bàn cho nên chắc chắn phải bất khả đắc.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Đối với định không thể nghĩ bàn này, tất cả hữu tình không ai không chứng được. Vì sao? Vì tất cả tánh của tâm đều lìa tánh của tâm. Sự lìa tánh của tâm được gọi là định không nghĩ bàn nên hàng hữu tình có thể chứng được.

Phật khen đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Hay thay! Hay thay! Mạn-thù-thất-lợi, trong quá khứ ông đã ở chỗ vô lượng đức Phật gieo trồng căn lành, phát nguyện lớn lâu dài, đã tu phạm hạnh, đều dựa vào sự vô đắc nên nói ra lời gì đều mang ý nghĩa sâu xa. Mạn-thù-thất-lợi! Lẽ nào chẳng phải vì ông trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên bất cứ lúc nào cũng nói được ý nghĩa sâu xa?

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu do trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà con nói được như vậy, thì trụ vào ngã tưởng và trụ vào hữu tưởng con cũng có thể nói được như vậy.

Nếu trụ ngã tưởng và trụ hữu tuởng mà nói được như vậy, thì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng có chỗ trụ.

Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có chỗ trụ thì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lấy ngã tưởng và lấy hữu tưởng làm chỗ trụ. Nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu xa lìa hai tưởng trụ và không chỗ trụ. Như chư Phật trụ chỗ vắng lặng, nhiệm mầu, không khởi, không tạo tác, không động, không chuyển, lấy đó làm chỗ trụ. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chẳng trụ pháp có, chẳng trụ pháp không, nên chỗ trụ này không thể nghĩ bàn.

Đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều không hiện hành. Phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tức là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Cảnh giới không nghĩ bàn tức là pháp giới. Pháp giới tức là cảnh giới chẳng hiện hành. Phải biết cảnh giới chẳng hiện hành tức là cảnh giới không nghĩ bàn. Phải biết cảnh giới không nghĩ bàn tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ngã giới, pháp giới, không hai, không khác; không hai, không khác tức là pháp giới. Pháp giới tức là cảnh giới chẳng hiện hành. Cảnh giới chẳng hiện hành nên biết đó chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu phải biết tức là cảnh giới không nghĩ bàn. Cảnh giới không nghĩ bàn phải biết tức là cảnh giới chẳng hiện hành. Cảnh giới chẳng hiện hành phải biết là cảnh giới không có sỡ hữu. Cảnh giới không có sỡ hữu phải biết tức là cảnh giới không sanh diệt. Cảnh giới không sanh diệt phải biết tức là cảnh giới chẳng nghĩ bàn. Cảnh giới chẳng nghĩ bàn và cảnh giới của Như Laicảnh giới ngã, cảnh giới của các pháp đều không hai, không khác.

Thế nên, bạch Thế Tôn! Nếu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa được như vậy, thì đối với Đại Bồ-tát chẳng cầu chứng quả. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tức là Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Nếu thật biết cảnh giới ngã tức biết sự không chấp trước. Nếu biết không chấp trước tức biết không có pháp. Nếu biết không có pháp Phật tức là trí Phật. Trí tức là trí chẳng nghĩ bàn. Phải biết trí Phật không có pháp nào đáng để biết, gọi là chẳng biết pháp. Vì sao? Vì trí này tự tánh hoàn toàn không có sỡ hữu.

Pháp không sở hữu làm sao có thể chuyển được chơn pháp giới? Tự tánh của trí này đã không sở hữu tức là không có sự chấp trước. Nếu không có sự chấp trước tức bản thể chẳng phải trí. Nếu bản thể chẳng phải trí tức là không có cảnh giới. Nếu khôngcảnh giới tức không có chỗ dựa. Nếu không có chỗ dựa tức không có chỗ trụ. Nếu không có chỗ trụ tức không sanh diệt. Nếu không sanh diệt tức bất khả đắc. Nếu bất khả đắc tức không có chỗ để hướng tới. Đã không có chỗ hướng tới, thì trí này không thể tạo các công đức, cũng không thể tạo phi công đức. Vì sao? Vì trí này không suy nghĩ việc tạo ra công đức hay tạo ra phi công đức.

Trí không suy nghĩ là trí không thể nghĩ bàn. Trí không thể nghĩ bàn tức là trí Phật. Vì vậy, trí này không có sự chấp thủ, cũng chẳng chấp thủ tất cả pháp, cũng chẳng phải ở khoảng trước, chẳng phải ở khoảng giữa hay khoảng sau, chẳng phải trước đây đã sanh, chẳng phải trước đây chưa sanh, không xuất hiện không chìm mất, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lại không có trí nào khác sánh với trí này.

Do đây, trí này không thể nghĩ bàn, đồng với hư không, chẳng thể so sánh, không đây, không kia, chẳng phải đẹp, chẳng phải xấu. Đã không có trí nào khác sánh với trí này được, cho nên trí này không có sự ngang bằng và chẳng có trí nào ngang bằng. Do đây nên gọi trí này là Vô đẳng đẳng.

Lại không có trí nào khác có thể nắm bắt đối với trí này. Vậy trí này vô đối, bất đối. Do đây nên gọi là trí Vô đối đối.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Diệu trí như vậy không thể động ư?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Diệu trí như vậy không thể động. Như thợ vàng đốt luyện thỏi vàng cho được tinh ròng, đúng lượng rồi thì không động đến nữa. Trí này cũng vậy, tu tập thành thục, không tạo tác, không chứng đắc, không sanh ra, không kết thúc, không khởi lên, không chìm, vững yên chẳng động.

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Ai có thể tin hiểu được diệu trí này?

Mạn-thù-thất-lợi thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu không hành được pháp nhập Niết-bàn thì cũng không thể hành được pháp sanh tử. Đối với thân kiến, hành tịch diệt hành. Đối với Niết-bàn, hành bất động hành, không đoạn tham dục, sân giận, ngu si, cũng chẳng phải không đoạn. Vì sao? Vì tự tánh của ba độc này là xa lìa, chẳng tận hay bất tận, đối với pháp sanh tử chẳng vượt qua, chẳng rơi xuống, đối với các Thánh đạo chẳng lìa, chẳng tu. Đối với trí này, người ấy có thể tin hiểu sâu xa.

Phật khen đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Hay thay! Hay thay! Ông đã nói việc này một cách đúng đắn.

Bấy giờ, cụ thọ Đại Ca-diếp-ba ở trước Phật bạch:

- Bạch Thế Tôn! Trong tương lai, ai có thể tin hiểu, tu học nghĩa lý thâm sâu của pháp và Tỳ-nại-da này?

Phật bảo cụ thọ Đại Ca-diếp-ba:

- Đời vị lai, chúng Bí-sô v.v… trong hội này đều sẽ tin hiểu, lãnh thọ, tu học nghĩa lý thâm sâu của pháp và Tỳ-nại-da đã thuyết này, cũng có thể vì người khác giảng nói và truyền bá. Như đại trưởng giả bị mất ngọc vô giá. Tâm luôn khổ não, buồn rầu, chẳng vui. Sau đó có lại được, vui mừng hớn hở. Hôm nay, chúng Bí-sô v.v… trong hội này cũng như vậy, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tin hiểu, tu học, sau không được nghe thuyết pháp môn này nữa, tâm luôn khổ não, buồn rầu chẳng vui, đều nghĩ: Chẳng biết lúc nào chúng ta sẽ được nghe lại pháp thâm sâu này. Sau đó, nếu được nghe pháp môn này vui mừng hớn hở, lại nghĩ: Hôm nay ta được nghe kinh điển này tức là được gặp Phật, gần gũi cúng dường. Như cây Viên Sinh mới đâm chồi, chư Thiên trời thứ Ba mươi ba vui mừng hớn hở nghĩ: Chẳng bao lâu cây này sẽ nở hoa, hương thơm ngào ngạt, chúng ta tha hồ dạo xem. Chúng Bí-sô cũng lại như vậy, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi tin thọ tu hành nên sanh hoan hỉ, chẳng bao lâu, tất cả pháp của Phật sẽ được hiển bày.

Ẩm Quang (Ca-diếp) nên biết! Đời vị lai, chúng Bí-sô v.v… nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này tin hiểu, tu hành, tâm chẳng quên mất, tất ở trong hội đây đã được lắng nghe, vui vẻ thọ trì, giảng nói truyền bá. Nên biết các vị ấy do nghe pháp này, vui mừng hớn hở, tín thọ tu hành, chẳng bao lâu, tất cả pháp của Phật sẽ được hiển bày. Sau khi Như Lai diệt độ, nếu vị nào thọ trì, giảng nói, truyền bá kinh điển này, phải biết người ấy nhờ sức oai thần của Phật gia hộ, khiến cho mọi việc của họ đều được thành tựu.

Ẩm Quang nên biết! Vị nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu vui mừng thọ trì, vị ấy đời quá khứ đã ở chỗ vô lượng đức Phật gieo trồng nhiều căn lành, đã được lắng nghe, chứ chẳng phải mới gặp hôm nay. Như kẻ đào ngọc bỗng nhiên gặp được ngọc Mạt-ni vô giá sanh vui mừng lớn. Phải biết kẻ ấy từng thấy ngọc này nên sanh vui mừng, chẳng phải nay mới thấy. Như vậy đời vị lai các Bí-sô v.v… thâm tâm ưa thích, lắng nghe chánh pháp, bỗng gặp được Bát-nhã ba-la-mật-đa vui mừng lắng nghe, tin thọ, tu học. Phải biết ngày trước những vị ấy đã từng ở chỗ vô lượng đức Phật nghe kinh này, chẳng phải ở thời này mới nghe được.

Ẩm Quang nên biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... nghe Diệu Cát Tường (Mạn-thù-sư-lợi) thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa vui mừng hớn hở, thích nghe không chán, lại thường ân cần cầu thỉnh thuyết giảng lại, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này trong quá khứ đã theo Mạn-thù-thất-lợi nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, vui vẻ thọ trì, tin hiểu tu học, cũng đã từng gần gũi Mạn-thù-thất-lợi cúng dường, cung kính, nên được như vậy. Thí như có người gặp dịp vào thành ấp. Người ấy đã dạo xem qua tất cả vườn rừng, ao hồ, nhà cửa, người, vật trong đó. Thời gian sau, đi ở chỗ khác, người ấy nghe người ta khen trong thành ấp này đã có nhiều thắng cảnh đẹp, liền vui mừng, xin người kia kể lại. Nếu được nghe nữa, vui mừng càng gấp bội. Bởi vì trước đây người ấy đã được thấy. Cũng vậy, đời sau các thiện nam, thiện nữ v.v... nghe Diệu Cát Tường thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa vui vẻ, thích nghe, không nhàm chán, lại ân cần thỉnh nói lại nghĩa lý thâm sâu. Nghe rồi khen ngợi, càng vui mừng hơn. Phải biết những người này đều do đời trước đã từng gần gũi Mạn-thù-thất-lợi, cúng dường, cung kính, lắng nghe và lãnh thọ pháp này, nên đời này thành tựu được như vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Đại Ca-diếp-ba liền bạch Phật:

- Như Lai đã nói một cách đầy đủ về tướng trạng các hành của các thiện nam tử v.v... trong hiện tạivị lai lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa tin hiểu tu hành.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói, Ta đã nói một cách đầy đủ về tướng trạng các hành của họ.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tướng trạng các hành của các thiện nam tử v.v... trong hiện tạiđương lai nghe pháp thâm sâu này, phải biết chẳng phải tướng trạng các hành. Vì pháp đã nghe nhiệm mầu vắng lặng, tướng trạng các hành đều bất khả đắc, thì vì sao Như Lai thuyết như vầy: “Ta đã nói một cách đầy đủ về tướng trạng các hành của họ?”

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói. Tướng trạng các hành của các thiện nam tử v.v… trong hiện tạiđương lai nghe pháp sâu xa này đều chẳng phải tướng trạng các hành. Vì pháp đã nghe nhiệm mầu vắng lặng, tướng trạng các hành đều bất khả đắc. Nhưng khi nghe thuyết pháp sâu xa, họ vui mừng, thọ trì, tin hiểu, tu học, tức ở quá khứ họ đã từng nghe, vui mừng thọ trìtu hành nên mới được như vậy. Tướng trạng các hành này đều dựa vào thế tục mà nói, chẳng phải trong thắng nghĩa có việc như vậy.

Mạn-thù-thất-lợi phải biết! Hiển bàyBát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tức là hiển rõ tất cả pháp của Phật, thông suốt việc chơn thật chẳng nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Khi xưa, Ta tu học hạnh Bồ-tát, những căn lành chứa được đều do tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà được thành tựu viên mãn. Muốn trụ địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng do tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà được thành tựu.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn tích nhóm căn lành như các Bồ-tát đã tích nhóm, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn trụ bậc Bất thối chuyển của Bồ-tát, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn thông suốt hoàn toàn tướng bình đẳng của tất cả pháp giới, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn hiểu rõ hoàn toàn tâm hành bình đẳng của tất cả hữu tình, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn mau chứng được tất cả giáo pháp của Phật, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn biết nghĩa lý huyền bí của các pháp mà Như Lai không thể hiện giác mà Phật thuyết, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì các pháp được giác ngộ và người giác ngộ đều bất khả đắc.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v.. nào muốn biết về nghĩa lý huyền bí các pháp của chư Phật mà Như Lai không thể hiện chứng như Phật thuyết, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì pháp Phật đã chứng ngộ và người chứng đều bất khả đắc.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn biết ý nghĩa huyền bí của lời Phật nói về sự đầy đủ oai nghi tướng hảoquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Như Lai không thể chứng được, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì sự chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề với oai nghi tướng tốt và người chứng đều bất khả đắc.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn biết nghĩa lý huyền bí mà Phật nói về sự không thành tựu tất cả công đức, không thể giáo hóa tất cả hữu tình của Như Lai, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì tất cả công đức, sự giáo hóa hữu tình và các Như Lai đều bất khả đắc.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn chứng được vô ngại giải đối với các pháp, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chẳng thấy các pháp có ít chơn thật, hoặc tịnh hoặc nhiễm, hoặc sanh hoặc diệt v.v...

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn biết các pháp chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai và tướng vô vi, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì chơn pháp giới chẳng phải thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai hay vô vi. Vì các pháp đều nhập vào chơn pháp giới.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn đạt được sự không nghi ngờ đối với các pháp, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn chuyển được xe pháp Vô thượng ba lần với mười hai hành tướng và ở trong đó hoàn toàn không có sự chấp trước, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn đạt được sự ban bố từ tâm trùm khắp tất cả mà trong ấy không tưởng về hữu tình nào, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn cùng thế gian nhập vào pháp tánh không có các sự tranh luận mà đối với thế gian và các sự tranh luận đều vô sở đắc, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn biết rõ khắp các cảnh xứ phi xứ hoàn toàn không bị ngăn ngại, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào muốn đạt được vô biên pháp Phật như lực vô úy của Như Lai v.v…, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Bấy giờ, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con quán Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này không có tướng vô vi, không có các công đức, không sanh, không diệt, không sức lực, không khả năng, không đến, không đi, không vào, không ra, không tổn hại, không lợi ích, không biết, không thấy, không thể, không dụng, chẳng phải người tạo tác, cũng không thể làm cho các pháp sanh diệt, không làm cho các pháp là một hay là khác, không thành, không hoại, chẳng phải tuệ, chẳng phải cảnh, chẳng phải pháp phàm phu, chẳng phải pháp Thanh văn, chẳng phải pháp Độc giác, chẳng phải pháp Bồ-tát, chẳng phải pháp Như Lai, chẳng phải chứng hay không chứng, chẳng đắc hay không đắc, chẳng phải tận hay bất tận, chẳng vào sanh tử, chẳng ra khỏi sanh tử, chẳng nhập Niết-bàn, chẳng ra Niết-bàn, đối với các pháp của Phật chẳng thành chẳng hoại, đối với tất cả pháp chẳng phải tạo tác hay không tạo tác, chẳng phải có thể nghĩ bàn hay không thể nghĩ bàn, lìa các sự phân biệt, chấm dứt sự hý luận. Bát-nhã ba-la-mật-đa này hoàn toàn không có công đức, làm sao Như Lai khuyên các hữu tình siêng năng tu học?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Những điều đã nói tức là công đức chơn thật của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các thiện nam tử v.v… nếu biết như vậy thì gọi là chơn thật tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi! Đại Bồ-tát nào muốn học Tam-ma-địa thù thắng của Bồ-tát, muốn thành tựu Tam-ma-địa thù thắng của Bồ-tát, muốn an trụ trong Tam-ma-địa này, thấy tất cả Phật, biết được danh hiệu của Phật và thấy được thế giới của chư Phật này, chứng được, thuyết được thật tướng các pháp không chướng ngại, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, ngày đêm siêng năng chớ sanh lười mỏi.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không tên, không tướng, không bờ, không bến, không chỗ về nương, chẳng phải cảnh nghĩ lường, chẳng phải tội, chẳng phải phước, chẳng phải tối tăm, chẳng phải sáng suốt, như hư không thanh tịnh và chơn pháp giới, số lượng và giới hạn đều bất khả đắc. Do các yếu tố này cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhành xứ sâu xa của các Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát hành được chỗ ấy thì đối với các cảnh giới đều được thông suốt. Hành xứ như vậy chẳng phải hành xứ của tất cả thừa. Vì sao? Vì hành xứ này không danh, không tướng, không có sự phân biệt. Thế nên gọi là chẳng phải chỗ hành xứ.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành pháp nào mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tâm không lười mỏi sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi! Đại Bồ-tát nào thường tu hành đúng đắn Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm? Các chúng Bồ-tát tu hành thế nào?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Tam-ma-địa này lấy tướng pháp giới để làm trang nghiêm, nên gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm. Đại Bồ-tát nào muốn nhập vào Tam-ma-địa thù thắng này, trước hết phải lắng nghe, thỉnh hỏi, tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Rồi sau đó mới có thể nhập vào Tam-ma-địa này.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu Đại Bồ-tát nào bất động pháp giới, biết chơn pháp giới chẳng phải dao động, không thể nghĩ bàn, không thể hý luận, như vậy mới nhập vào được Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm.

Mạn-thù-thất-lợi! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn nhập vào Tam-ma-địa này phải ở chỗ trống vắng, lìa xa chỗ ồn náo, ngồi kiết già chẳng nghĩ đến các tướng. Vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, phải chú tâm chánh niệm, thủ giữ danh tự một vị Như Lai, khéo tưởng về dung nghi của Ngài. Ngài ở phương nào thì ngồi thẳng quay về hướng ấy, niệm niệm tiếp nối nhau, niệm một Như Lai tức là đã quán khắp chư Phật ba đời. Vì sao? Mạn-thù-thất-lợi! Vì vô lượng, vô biên công đức biện tài của một đức Phật ngang bằng với tất cả Phật. Chư Phật ba đời đều nương vào một chơn như mà chứng đại Bồ-đề không sai khác.

Mạn-thù-thất-lợi! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào siêng năng tu học, được nhập vào Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, sẽ thấu rõ được vô lượng, vô biên hằng hà sa số pháp giới chư Phật không có tướng sai khác, cũng có thể tổng nhiếp chấp trì vô lượng, vô số hằng hà sa pháp luân vô thượng mà chư Phật Bồ-tát đã chuyển, chưa chuyển. Như ngài A-nan-đà đa văn trí tuệ, đối với lời Phật dạy đều nhớ, giữ gìn hết. Tuy là bậc tối thắng trong chúng Thanh văn nhưng sự nhiếp trì giáo pháp còn có phần hạn chế. Nếu vị nào chứng được Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, thì trí tuệ đa văn và sức nhớ tổng nhiếp ấy sẽ không thể nghĩ bàn, có thể thọ trì được pháp luân vô thượng của vô lượng, vô biên hằng hà sa số chư Phật Bồ-tát. Mỗi mỗi pháp môn đều được thông suốt nghĩa lý sâu xa, tuyên thuyết khai thị biện tài vô tận hơn A-nan-đà gấp trăm ngàn lần.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa kia khi chứng được Tam-ma-địa này làm sao đạt được vô lượng, vô biên công đức lợi ích?

Phật dạy:

- Đồng tử! Thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa ấy siêng năng tu học Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, thường nghĩ: Ta phải làm thế nào để thông suốt khắp pháp giới chư Phật, thọ trì tất cả pháp luân vô thượng, cùng các hữu tình làm lợi ích lớn? Do đây khi chứng được Tam-ma-địa này liền được vô biên công đức lợi ích.

Mạn-thù-thất-lợi! Thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa kia, trước đây đã nghe công đức của Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, phát khởi sự siêng năng, tinh tấn, chánh niệm tư duy, suy nghĩ về công đức của định này như vậy, như vậy. Tướng công đức hiện, đã thấy tướng này cũng như trước đã được nghe, liền sanh vui mừng, càng siêng tu tập, dần dần được nhập vào Tam-ma-địa này, công đức lợi ích thù thắng không thể nghĩ bàn. Những hữu tình nào hủy báng chánh pháp, chẳng tin thiện ác là kẻ nghiệp chướng nặng nề. Loại hữu tình ấy không thể chứng được định này.

Mạn-thù-thất-lợi! Ví như có người gặp được ngọc báu, đưa cho thợ ngọc và bảo: “Viên ngọc quí này của tôi giá trị vô lượng nhưng hình sắc của nó chưa được sáng đẹp lắm. Anh hãy mài dũa ngọc đúng khuôn mẫu giùm tôi, nhưng chỉ làm sáng đẹp chứ đừng làm hư hình sắc.” Người thọ ngọc theo lời người kia bảo, dựa theo khuôn mẫu chú tâm như vậy dũa mài viên ngọc. Cứ như vậy, như vậy, màu sắc ánh sáng phát dần thêm cho đến cực kỳ sáng và trong suốt. Khi tu sửa xong, giá trị viên ngọc thật vô lượng.

Mạn-thù-thất-lợi! Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa kia cũng như vậy, tu học Tam-ma-địa này dần dần cho đến khi chứng được Tam-ma-địa này thì được vô biên công đức lợi ích thù thắng.

Mạn-thù-thất-lợi! Ví như mặt trời chiếu sáng khắp mọi nơi, làm lợi ích lớn lao. Cũng vậy, khi chứng được Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm sẽ chiếu khắp pháp giới, cũng thông suốt được tất cả pháp môn, vì các hữu tình làm lợi ích to lớn, công đức lợi ích thù thắng không thể nghĩ bàn.

Mạn-thù-thất-lợi! Như Ta đã nói, tất cả các loại pháp môn đều đồng một vị là vị xa lìa, vị giải thoát, vị vắng lặng, không có điều chống trái. Khi chứng được Tam-ma-địa này, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa xiển dương pháp môn nào cũng cùng một vị là vị xa lìa, vị giải thoát, vị vắng lặng, không có sự chống trái. Khi chứng được Tam-ma-địa này, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa kia dù diễn giảng pháp môn nào thì tài biện thuyết cũng vô tận, mau được thành tựu viên mãn pháp phần Bồ-đề.

Thế nên, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi! Đại Bồ-tát nào thường tu hành đúng Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi! Đại Bồ-tát nào chẳng thấy các thứ sai khác và nhất tướng của pháp giới thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa chấp nhận pháp của Bồ-tát không nên tu hành, chấp nhận đại Bồ-đề không nên cầu đạt đến, vì hiểu rõ bản tánh của tất cả pháp là Không. Do họ chấp nhận những điều này nên mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thiện nam tử v.v… nào trụ Bồ-tát thừa tin tất cả pháp đều là Phật pháp, nghe tất cả là Không, tâm chẳng kinh sợ, nghi ngờ. Do nhân duyên này nên người đó mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nghe thuyết các pháp đều hoàn toàn Không, tâm chẳng mê mờ, cũng chẳng nghi ngờ, thường không lìa bỏ giáo pháp của Phật, thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, đồng tử Mạn-thù-thất-lợi nói vậy liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật quyết định do nhân duyên này mà chứng được chăng?

Phật dạy:

- Chẳng được.

Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng do nhân duyên này mà chứng được chăng?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy. Vì sao? Vì cảnh giới bất tư nghì chẳng do nhân duyên và chẳng phải nhân duyên mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, nên biết đó là cảnh giới bất tư nghì.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nghe thuyết như vậy nhưng tâm chẳng kinh sợ, Ta nói những người kia đã ở chỗ vô lượng đức Phật, phát nguyện lớn, gieo trồng căn lành. Vì vậy nên Bí-sô và Bí-sô-ni nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm chẳng kinh sợ nghi ngờ, cũng chẳng mê lầm thì họ là người chơn thật theo Phật xuất gia. Nếu các cận sự nam hay cận sự nữ v.v… nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, tâm chẳng kinh sợ, nghi ngờ cũng chẳng mê lầm thì họ thật sự là người qui y Phật, Pháp, Tăng. Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa chẳng học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì chẳng gọi là kẻ chơn thật tu học Bồ-tát thừa.

Mạn-thù-thất-lợi! Ví nhưthế gian, cỏ cây, rừng rậm, thuốc thang, vật, hạt giống v.v... tất cả đều nương vào mặt đất mà sanh trưởng. Cũng vậy, tất cả căn lành và những việc thù thắng khác ở thế gianxuất thế gian của Bồ-tát đều hoàn toàn dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà được sanh trưởng. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này bao trùm các pháp, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đều tùy thuận sự chứng đắc mà không có sự chống trái.

Đồng tử Mạn-thù-thất-lợi nghe Phật nói thế, bèn thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đời vị lai, ở châu Thiệm-bộ này, các thành ấp, xóm làng, chỗ nào diễn thuyết khai thị Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và có nhiều người tin nhận?

Phật bảo đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Nay các thiện nam tử v.v… trong hội này nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa tin nhận, tu hành, vui mừng, phát nguyện: Tôi nguyện đời sau, dù sanh chốn nào thường được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đời sau dù họ sanh đến chốn nào, nhờ nguyện lực đời trước nên chỗ họ ở liền có Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này diễn giảng, khai thị và được nhiều người tin nhận.

Mạn-thù-thất-lợi! Các thiện nam tử v.v… nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa vui mừng hớn hở, hết lòng tin nhận. Ta nói: họ đã gieo trồng căn lành lâu đời, nhờ sức nguyện đời trước mới được như vậy.

Mạn-thù-thất-lợi! Người nào muốn nghe theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ông nên bảo: “Các thiện nam tử! Tùy ý nghe thọ, chớ sanh lòng kinh sợ, nghi ngờ, không tin, lại tăng thêm sự hủy báng chống lại. Nay trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là thậm thâm, chẳng hiển bày pháp, có nghĩa là chẳng chỉ bày có sự thành hoại, bất khả đắc của pháp phàm phu, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai.”

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu có Bí-sô, Bí-sô-ni đến chỗ của con hỏi: “Vì sao Như Lai tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cho đại chúng?” Con sẽ đáp: “Phật nói các pháp không có tướng chống trái, tranh cãi. Vì sao? Vì hoàn toàn không có pháp để cùng pháp tranh cãi, cũng không có hữu tình. Phải sanh lòng tin hiểu lời Phật dạy. Vì sao? Vì các loài hữu tình đều bất khả đắc.”

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con sẽ bảo họ: “Như Lai thường nói thật tế các pháp. Vì sao? Vì các pháp bình đẳng hoàn toàn được thật tế bao trùm, trong đây chẳng nói A-la-hán v.v... thường được pháp thù thắng. Vì sao? Vì pháp chứng đắc của A-la-hán v.v... cùng với pháp phàm phu không có tướng sai khác.”

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con sẽ bảo họ: “Pháp Phật nói ra chẳng làm cho hữu tình đã, đang, sẽ được nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì các hữu tình rốt ráo Không.”

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử v.v… đi đến gặp con và thỉnh: “Bát-nhã ba-la-mật-đa mà ngài và Như Lai đã từng bàn luận, xin ngài vì chúng con mà nói, hôm nay chúng con rất muốn nghe.” Con sẽ bảo họ: “Các ông muốn nghe chớ khởi tâm lắng nghe cũng đừng buộc niệm, nên khởi tâm như huyễn, như hóa. Có như vậy mới hiểu được lời ta nói. Các ông nếu muốn nghe pháp của ta phải khởi tâm thế này: Pháp hôm nay được nghe như dấu chim trên không, như người nữ không con (thạch nữ). Như vậy mới nghe được lời ta nói. Nếu muốn nghe pháp của ta, các người chớ khởi lên hai tưởng. Vì sao? Vì pháp ta nói xa lìa hai tưởng. Nay các người không nên phá hoại ngã tưởng, chẳng khởi các kiến chấp, đối với giáo pháp của Phật không có sự mong cầu, ở trong pháp của phàm phu chẳng ưa dời động. Vì sao? Vì tướng của hai pháp là Không, không có sự lấy bỏ.”

Bạch Thế Tôn! Có những hữu tình thỉnh con thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Trước hết con dạy kinh, dạy luật, rồi đem ấn vô tướng ấn định các pháp, làm cho người mong cầu nghe pháp lìa xa tâm chấp trước. Sau đó vì họ thuyết pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Đức Phật khen ngợi đồng tử Mạn-thù-thất-lợi:

- Hay thay! Hay thay! Ông đã thuyết giáo pháp mà Ta đã nói một cách hoàn hảo và đã nói được phương tiện.

Mạn-thù-thất-lợi! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn thấy Như Lai, muốn gần gũi Phật để cúng dường, cung kính, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Những hữu tình nào muốn thỉnh chư Phật làm vị đại sư, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Những hữu tình nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hoặc chẳng muốn chứng, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Những hữu tình nào muốn được thiện xảo tất cả các định, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Những hữu tình nào muốn được tự tại phát khởi tất cả định, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì đối với các Tam-ma-địa, cần phải biết các pháp không sanh, không diệt, không tạo tác, không hành động, mới có thể tự tại phát khởi. Vì sao? Vì đã thấu rõ các pháp là Không, không có ngăn ngại. Những hữu tình nào muốn thấu rõ các pháp đều có sự xuất ly, không có một pháp nào không có sự xuất ly, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Những hữu tình nào muốn thấu rõ các pháp chỉgiả lập, không có sự chơn thật, phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Nếu muốn biết rõ các loài hữu tình tuy hướng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng không thấy có hữu tình hướng tới Bồ-đề, cũng không có sự thối lui, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì đã thấu rõ tất cả pháp tức là Bồ-đề.

Nếu muốn hiểu rõ tất cả hữu tình hành hạnh Bồ-đề, không có kẻ nào chẳng hành cũng không có sự thối lui, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì sao? Vì Bồ-đề tức là thật tánh của các pháp. Tất cả hữu tình đều hành các pháp, không có người bỏ pháp; các hành đều là Không nên không thối lui.

Nếu muốn hiểu rõ tánh tất cả pháp tức là Bồ-đề, tất cả Bồ-đề tức là pháp giới, đây tức là thật tế, thật tế tức là Không, tâm không thối lui, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Mạn-thù-thất-lợi! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chỉ rõ tác dụng khó nghĩ bàn và sự làm lợi ích hữu tình của chư Phật, cũng là chỗ mà Như Lai đã dạo qua. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thể thị hiện, không thể tuyên thuyết, là pháp không đọa, chỉ có Như Lai như thật giác ngộ và dùng phương tiện thiện xảo thuyết giảng cho hữu tình.

Mạn-thù-thất-lợi! Nếu có Bí-sô, Bí-sô-ni v.v… đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tối thiểu trọ trì dù một bài kệ bốn câu, giảng nói cho người khác, thì nhất định hướng tới Bồ-đề, an trú cảnh giới của Phật huống gì thường tu hành theo lời dạy. Nên biết người này chẳng đọa vào cảnh giới ác, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Mạn-thù-thất-lợi! Những hữu tình nào nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này tâm chẳng quên mất, cũng chẳng kinh sợ, lại hoan hỷ tin thọ, phải biết những người này nhất định sẽ chứng được tất cả pháp Phật, chắc chắn được tất cả Như Lai ấn chứng hứa khả, thâu nhận làm chúng đệ tử.

Mạn-thù-thất-lợi! Những thiện nam, thiện nữ v.v… nào tin nhận pháp ấn Vô thượng của Như Lai, là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, sẽ được phước vô lượng. Pháp ấn này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng nhau hộ niệm; các vị A-la-hán, Bồ-tát, bậc trí và các thiên thần đều cùng nhau bảo vệ giữ gìn. Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa được ấn này ấn chứng, tức đã vượt qua các cảnh giới ác, Thanh văn, Độc giác, nhất định sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, trời Đế Thích liền cùng với vô lượng Thiên tử cõi trời Ba mươi ba cầm các thứ hương hoa xinh đẹp của cõi trời: hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa Vi diệu âm, hoa Diệu linh thoại và bột hương chiên-đàn cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa, và tung rải dâng lên Như Lai.

Mạn-thù-thất-lợi, tất cả Bồ-tát và Thanh văn v.v... lại trổi các thứ âm nhạc cõi trời, ca ngợi diệu pháp để cúng dường. Lại phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng tôi thường nghe pháp ấn Vô thượng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Trời Đế Thích lại phát nguyện: Nguyện các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ thường nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, vui mừng thọ trì thành tựu giáo pháp của Phật. Thiên chúng chúng tôi thường hộ vệ, khiến cho người thọ trì không gặp trở ngại. Các loài hữu tình ít dùng công sức mà được lắng nghe, thọ trì, đọc tụng phải biết đều là oai lực của chư Thiên.

Phật khen trời Đế Thích:

- Thiên chủ! Nay ông đã phát được nguyện, nếu có người nào nghe được nguyện này, vui mừng thọ trì nhất định sẽ thành tựu các pháp của Phật, mau hướng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Cúi xin Như Lai dùng sức thần thông hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa trụ lâu ở thế gian để làm lợi ích cho tất cả.

Phật liền hiện sức thần thông lớn làm cho các núi, đại địathế giới tam thiên đại thiên rung động sáu cách. Đức Phật lại mỉm cười, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới tam thiên đại thiên.

Mạn-thù-thất-lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đây là tướng Như Lai hiện sức thần thông, hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa trụ lâu ở thế gian để làm lợi ích.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như ông nói. Ta dùng thần lực hộ trì pháp ấn Vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm cho trụ lâu ở đời để làm lợi ích cho hữu tình. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp thù thắng rồi, theo đúng pháp này đều khởi lên sức đại thần thông, hộ trì pháp này được trụ lâu ở thế gian, khiến cho các Thiên ma không thể làm gì được. Những bọn người ác không thể hủy báng. Tất cả ngoại đạo hết lòng sợ hãi. Nếu người nào siêng năng tu học pháp này thì tất cả chướng nạn đều bị tiêu diệt.

Khi đức Bạt-già-phạm thuyết kinh này rồi, tất cả chúng Đại Bồ-tát mà Mạn-thù-thất-lợi là vị đứng đầu, cùng với các Bí-sô, bốn bộ đại chúng, trời, rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc v.v... tất cả chúng hội nghe Phật thuyết pháp đều vui mừng, tin nhận, phụng hành.

Quyển thứ 575
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/06/2017(Xem: 17415)
07/06/2010(Xem: 87938)
07/06/2010(Xem: 76682)
11/03/2017(Xem: 47896)
25/02/2015(Xem: 9287)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.