Tập 20 (Quyển 488-500)

09/05/201012:00 SA(Xem: 25851)
Tập 20 (Quyển 488-500)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 20 (Quyển 488-500)

 07

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã nói đó, các Đại Bồ-tát chẳng mặc áo giáp đại công đức, nên biết mới là mặc áo giáp Đại thừa, vì tự tướng tất cả pháp là không. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì sắc, tướng của sắc là không; cho đến thức và tướng của thức là không. Nhãn xứ, tướng của nhãn xứ là không; cho đến ý xứ, tướng của ý xứ là không. Sắc xứ, tướng của sắc xứ là không; cho đến pháp xứ, tướng của pháp xứ là không. Nhãn giới, tướng của nhãn giới là không; cho đến ý giới, tướng của ý giới là không. Sắc giới, tướng của sắc giới là không; cho đến pháp giới, tướng của pháp giới là không. Nhãn thức giới, tướng của nhãn thức giới là không; cho đến ý thức giới, tướng của ý thức giới là không. Nhãn xúc, tướng của nhãn xúc là không; cho đến ý xúc, tướng của ý xúc là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Bố thí Ba-la-mật-đa, tướng của bố thí Ba-la-mật-đa là không; cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, tướng của Bát-nhã ba-la-mật-đa là không. Pháp nội Không, tướng của pháp nội Không là không; cho đến pháp vô tính tự tính Không, tướng của pháp vô tính tự tính Không là không. Bốn niệm trụ, tướng của bốn niệm trụ là không; cho đến tám chi thánh đạo, tướng của tám chi thánh đạo là không.

Như vậy, cho đến mười lực Như Lai, tướng của mười lực Như Lai là không; cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tướng của mười tám pháp Phật bất cộng là không. Đại Bồ-tát, tướng của Đại Bồ-tát là không. Mặc áo giáp đại công đức, tướng của mặc áo giáp đại công đức là không.

Bạch Thế Tôn! Do yếu tố này nên biết các Đại Bồ-tát mặc áo giáp công đức, tức là mặc áo giáp Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí không tạo không tác. Tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác, các phiền não kia cũng không tạo không tác. Các Đại Bồ-tát vì việc này nên mặc áo giáp Đại thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Vì nhân duyên gì mà trí nhất thiết trí không tạo không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo không tác, các phiền não kia cũng không tạo không tác, các Đại Bồ-tát vì việc này nên mặc áo giáp Đại thừa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì các tác giả bất khả đắc nên trí nhất thiết trí không tạo không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo không tác, các phiền não kia cũng không tạo không tác. Vì sao?

Thiện Hiện! Sắc cho đến thức phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ rốt ráo bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ rốt ráo bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới rốt ráo bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới rốt ráo bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới rốt ráo bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc rốt ráo bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo bất khả đắc. Ngã cho đến kiến giả phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì ngã cho đến kiến giả rốt ráo bất khả đắc. Mộng, huyễn, hóa, tiếng vang, quáng nắng, ảnh trong gương, như sự biến hóa, thành Tầm hương (ảnh ảo) v.v… phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì mộng cho đến Thành tầm hương rốt ráo bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không rốt ráo bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo rốt ráo bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện rốt ráo bất khả đắc. Nói đầy đủ cho đến mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo bất khả đắc. Chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế phi tạo phi bất tạo, phi tác, phi bất tác. Vì sao? Vì chơn như cho đến thật tế rốt ráo bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát rốt ráo bất khả đắc. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phi tạo phi bất tạo, phi tác phi bất tác. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo bất khả đắc.

Thiện Hiện! Do yếu tố này nên trí nhất thiết trí không tạo không tác, tất cả hữu tình cũng không tạo không tác, các phiền não kia cũng không tạo không tác. Các Đại Bồ-tát vì việc này nên mặc áo giáp Đại thừa.

Thiện Hiện! Do nghĩa này nên các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp công đức, phải biết đó là mặc áo giáp Đại thừa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa lời Phật nói thì sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả nói sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở ư?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Mãn Từ Tử hỏi:

- Những sắc cho đến thức nào không trói buộc, không cởi mở?

Thiện Hiện đáp:

- Như mộng cho đến thành Tầm hương, sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như vậy là vô sở hữu, là viễn ly, vắng lặng, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Quá khứ sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở. Trong vị lai sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở. Trong hiện tại sắc cho đến thức không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như thế là vô sở hữu, viễn ly, vắng lặng, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc cho đến thức thiện không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức bất thiện không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức vô ký không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức này không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc cho đến thức có tội không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức vô tội không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức này không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc cho đến thức hữu lậu không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức vô lậu không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức này không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc cho đến thức thế gian không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức xuất thế gian không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức này không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc cho đến thức tạp nhiễm không trói buộc, không cởi mở. Sắc cho đến thức thanh tịnh không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức này không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, vì vô sanh, vì vô diệt, vì vô nhiễm, vì vô tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì bố thí v.v... Ba-la-mật-đa vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả pháp nội Không v.v... vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả bốn niệm trụ v.v... vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như vậy cho đến mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì tất cả mười lực v.v... vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì các trí này vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì các hạnh của Đại Bồ-tát vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế không trói buộc, không cởi mở. Vì sao? Vì chơn như v.v... vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Mãn Từ Tử! Đối với pháp môn vi diệu không trói buộc, không cởi mở, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện nên như thật biết.

Mãn Từ Tử! Đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng không trói buộc, không cởi mở như vậy, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện siêng năng tu học.

Mãn Từ Tử! Đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng không trói buộc, không cởi mở này, các Đại Bồ-tát nên an trụ một cách đúng đắn.

Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên thành thục hữu tình, không trói buộc, không cởi mở, nên nghiêm tịnh cõi Phật không trói buộc, không cởi mở, nên thân cận cúng dường chư Phật không trói buộc, không cởi mở, nên ghi nhận pháp môn không trói buộc, không cởi mở.

Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát này thường không viễn ly chư Phật không trói buộc, không cởi mở, thường không viễn ly thần thông không trói buộc, không cởi mở, thường không viễn ly năm loại mắt không trói buộc, không cởi mở, thường không viễn ly pháp môn Đà-la-ni không trói buộc, không cởi mở, thường không viễn ly pháp môn Tam-ma-địa không trói buộc, không cởi mở.

Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát này nhất định sẽ khởi lên trí đạo tướng không trói buộc, không cởi mở, nhất định sẽ chứng trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng không trói buộc, không cởi mở. Nhất định sẽ chuyển Pháp luân không trói buộc, không cởi mở. Nhất định sẽ đem pháp yếu Tam thừa không trói buộc, không cởi mở, an lập các loại hữu tình, không trói buộc, không cởi mở, khiến cho chứng cứu cánh Niết-bàn không trói buộc, không cởi mở.

Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa không trói buộc, không cởi mở, có thể chứng tất cả pháp tánh không trói buộc, không cởi mở. Vì vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không tướng, không tác, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên không trói buộc, không cởi mở.

Mãn Từ Tử! Nên biết Đại Bồ-tát ấy được gọi là người mặc áo giáp Đại thừa, không trói buộc, không cởi mở. Đại Bồ-tát ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm lợi ích an lạc cho các hữu tình cho đến đời vị lai.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát? Như thế nào để các Đại Bồ-tát hướng đến Đại thừa? Đại thừa này từ chỗ nào ra, đến trụ nơi nào? Đại thừa này an trụ chỗ nào? Ai đi bằng Đại thừa này để xuất ly?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Câu hỏi trước tiên của ông: Những gì gọi là tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát. Thiện Hiện nên biết: Sáu pháp Ba-la-mật-đa là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát. Sáu pháp đó là gì? Một là bố thí Ba-la-mật-đa, hai là tịnh giới Ba-la-mật-đa, ba la an nhẫn Ba-la-mật-đa, bốn là tinh tấn Ba-la-mật-đa, năm là tịnh lự Ba-la-mật-đa, sáu là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nào gọi là Bố thí Ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự xả tất cả sở hữu trong và ngoài; cũng khuyên người khác xả các vật trong và ngoài. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là bố thí Ba-la-mật-đa.

Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự thọ trì mười thiện nghiệp đạo; cũng khuyên người khác thọ trì mười thiện nghiệp đạo. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự đầy đủ an nhẫn tăng thượng. cũng khuyên người khác đủ an nhẫn tăng thượng. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, đối với năm Ba-la-mật-đa siêng tu không xả bỏ; cũng khuyên người khác siêng tu chẳng bỏ năm Ba-la-mật-đa. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự phương tiện thiện xảo nhập vào các tịnh lự, không tùy theo thế lực của các định kia thọ sanh, cũng khuyên người khác phương tiện thiện xảo nhập vào các tịnh lự, không tùy theo thế lực của các định kia thọ sanh. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu, tự như thật quán sát tất cả pháp tánh. Không chấp thủ các pháp tánh; cũng khuyên người khác như thật quán sát tất cả pháp tánh, không chấp thủ các pháp tánh. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát ấy, là những gì gọi là pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, đại Không, Không Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, vô tán Không, bản tính Không, tướng Không, nhất thiết pháp Không, vô tính Không, vô tính tự tính Không.

Thế nào là pháp nội Không? Nội là nội pháp, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nên biết trong đây mắt do mắt không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó là như vậy. Cứ như thế cho đến ý do ý không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp nội Không.

Thế nào là pháp ngoại Không? Ngoại là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nên biết trong đây sắc do sắc không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Cứ như thế cho đến pháp do pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp ngoại Không.

Thế nào là pháp nội ngoại Không? Nội ngoạinội ngoại pháp, tức là sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Nên biết trong đây nội pháp do ngoại pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Nghĩa là đối với sáu nội xứ do sáu ngoại xứ không. Ngoại pháp do nội pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy, nghĩa là đối với sáu ngoại xứ do sáu nội xứ không. Đó là pháp nội ngoại Không.

Thế nào là pháp đại Không? Đại là mười phương. Trong đây nên biết phương đông do phương đông không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Cứ như thế cho đến hạ phương do hạ phương không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp đại Không.

Thế nào là pháp Không Không? Không trong đây là tất cả pháp không. Không đây lại do pháp Không Không nên không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp Không Không.

Thế nào là pháp thắng nghĩa Không? Thắng nghĩa trong đây tức là Niết-bàn. Nên biết Niết-bàn do Niết-bàn không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp thắng nghĩa Không.

Thế nào là pháp hữu vi Không? Hữu vi trong đây tức là ba cõi. Nên biết cõi Dục do cõi Dục không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Cõi sắc, cõi Vô sắc do cõi Sắc, cõi Vô sắc không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp hữu vi Không.

Thế nào là pháp vô vi Không? Vô vi là pháp vô sanh, vô dị, vô diệt. Nên biết vô vi do pháp vô vi Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp vô vi Không.

Thế nào là pháp rốt ráo (tất cánh) Không? Rốt ráo nghĩa là pháp nào rốt ráo bất khả đắc. Nên biết rốt ráo do rốt ráo không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp rốt ráo Không.

Thế nào là pháp vô tế Không? Vô tế là không có sơ biên tế, hậu biên tế và trung biên tế khả đắc. Pháp nào không sơ biên tế, hậu biên tế và trung biên tế khả đắc thì pháp ấy không có chỗ đến cũng không có chỗ đi. Nên biết không biên tế do pháp vô tế Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp vô tế Không.

Thế nào là pháp vô tán Không? Vô tán nghĩa là các pháp có phóng có bỏ, có xả khả đắc. Pháp nào không phóng, bỏ, xả khả đắc thì gọi là pháp vô tán (không tán). Trong không tán do pháp vô tán Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp vô tán Không.

Thế nào là pháp bản tánh Không? Bản tánh là tất cả pháp hoặc tánh hữu vi, hoặc tánh vô vi. Bản tánh này chẳng phải do Thanh văn tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Bồ-tát tạo ra, chẳng phải chư Phật tạo ra, cũng chẳng phải do ai khác tạo ra mà tánh của nó là như vậy, nên gọi là bản tánh. Nên biết bản tánh do bản tánh Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp bản tánh Không.

Thế nào là pháp tướng Không? Tướng là tự tướngcộng tướng các pháp. Trong đây nên biết tướng do pháp tướng Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp tướng Không.

Thế nào là pháp nhất thiết pháp Không? Tất cả (nhất thiết) pháp là sắc cho đến thức, nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, gọi là tất cả pháp. Trong đây tất cả pháp do pháp tất cả (nhất thiết) pháp Không chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp nhất thiết pháp Không.

Thế nào là pháp vô tính Không? Vô tính là trong đó không có chút tính nào có thể nắm bắt được. Nên biết vô tính (không tính) do pháp vô tính Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp vô tính Không.

Thế nào là pháp vô tính tự tính Không? Vô tính tự tính là tất cả pháp không pháp nào có thể hòa hợp nên tánh có chỗ hòa hợp là vì tự tánh các duyên sanh. Nên biết vô tính tự tính do pháp vô tính tự tính Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh do hữu tánh không, vô tánh do vô tánh không, tự tánh do tự tánh không, tha tánh do tha tánh không.

Thế nào là hữu tánh do hữu tánh không? Hữu tánh là pháp hữu vi, tức là năm uẩn. Như vậy, hữu tánh do hữu tánh không, vì sắc v.v... năm uẩn bất khả đắc, vì tánh vô sanh.

Thế nào là vô tánh do vô tánh không? Vô tánhpháp vô vi. Trong đây vô vi pháp do vô vi pháp không, tức là vô tánh do vô tánh không.

Thế nào là tự tánh do tự tánh không? Nghĩa là tự tánh của tất cả pháp đều là không. Ở đây chẳng phải do trí tạo ra. Chẳng phải do kiến tạo ra, cũng chẳng phải do pháp nào khác làm ra, nên nói tự tánh do tự tánh không.

Thế nào là tha tánh do tha tánh không? Nghĩa là tất cả pháp, dù Như Lai ra đời hoặc không ra đời, pháp trụ, pháp định, pháp giới, chơn như, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, thật tế là như vậy. Bởi tha tánh không, nên nói tha tánh do tha tánh không.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là Kiện hành Tam-ma-địa, Bảo ấn Tam-ma-địa, Sư tử du hý Tam-ma-địa, Diệu nguyệt Tam-ma-địa, Nguyệt tràng tướng Tam-ma-địa, Nhất thiết pháp dũng Tam-ma-địa, Quán đỉnh Tam-ma-địa, Pháp giới quyết định Tam-ma-địa, Quyết định tràng tướng Tam-ma-địa, Kim cương dụ Tam-ma-địa, Nhập pháp ấn Tam-ma-địa, Đẳng trì vương Tam-ma-địa, Thiện an lập Tam-ma-địa, Phóng quang Tam-ma-địa, Lực chúng Tam-ma-địa, Đẳng dũng Tam-ma-địa, Nhập ngôn từ quyết định Tam-ma-địa, Đẳng nhập tăng ngữ Tam-ma-địa, Quán phương Tam-ma-địa, Trì ấn Tam-ma-địa, Vô vong thất Tam-ma-địa, Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam-ma-địa, Biến phú hư không Tam-ma-địa, Kim cương luân Tam-ma-địa, Vô-lượng-quang Tam-ma-địa, Vô trước vô chướng Tam-ma-địa, Đoạn chư pháp luân Tam-ma-địa, Xả bảo Tam-ma-địa, Biến chiếu Tam-ma-địa, Bất luyến Tam-ma-địa, Vô tướng trụ Tam-ma-địa, Bất tư duy Tam-ma-địa, Vô cấu đăng Tam-ma-địa, Vô biên quang Tam-ma-địa, Phát quang Tam-ma-địa, Phổ chiếu Tam-ma-địa, Tịnh kiên Tam-ma-địa, Vô cấu quang Tam-ma-địa, Phát diệu lạc Tam-ma-địa, Điển đăng Tam-ma-địa, Vô tận Tam-ma-địa, Cụ oai quang Tam-ma-địa, Ly tận Tam-ma-địa, Bất khả hủy Tam-ma-địa, Khai phát Tam-ma-địa, Nhật đăng Tam-ma-địa, Tịnh nguyệt Tam-ma-địa, Tịnh quang Tam-ma-địa, Vô động Tam-ma-địa, Pháp minh Tam-ma-địa, Ưng tác bất ưng tác Tam-ma-địa, Trí tràng tướng Tam-ma-địa, Kim cương man Tam-ma-địa, Trụ tâm Tam-ma-địa, Phổ minh Tam-ma-địa, Thiện trụ Tam-ma-địa, Bửu tích Tam-ma-địa, Diệu pháp ấn Tam-ma-địa, Pháp bình đẳng tánh Tam-ma-địa, Xả ái lạc Tam-ma-địa, Pháp dũng mãnh Tam-ma-địa, Phiêu tán Tam-ma-địa, Phân biệt pháp cú Tam-ma-địa, Bình đẳng tự tướng Tam-ma-địa, Ly văn tự tướng Tam-ma-địa, Đoạn sở duyên Tam-ma-địa, Vô biến dị Tam-ma-địa, Vô phẩm loại Tam-ma-địa, Nhập danh tướng Tam-ma-địa, Vô tướng hành Tam-ma-địa, Ly ế ám Tam-ma-địa, Cụ hành Tam-ma-địa, Bất biến động Tam-ma-địa, Độ cảnh giới Tam-ma-địa, Ly tập chúng đức Tam-ma-địa, Quyết định trụ Tam-ma-địa, Tịnh diệu hoa Tam-ma-địa, Cụ giác chi Tam-ma-địa, Vô biên biện Tam-ma-địa, Vô đẳng đẳng Tam-ma-địa, Phổ siêu nhất thiết Tam-ma-địa, Quyết phán nhất thiết Tam-ma-địa, Tán do dự Tam-ma-địa, Vô sở trụ Tam-ma-địa, Nhất tướng trang nghiêm Tam-ma-địa, Dẫn phát hành tướng Tam-ma-địa, Nhất hành tướng Tam-ma-địa, Ly hành tướng Tam-ma-địa, Diệu hành tướng Tam-ma-địa, Đạt chư hữu để tán hoại Tam-ma-địa, Bảo kiên cố Tam-ma-địa, Giải thoát âm thanh văn tự Tam-ma-địa, Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam-ma-địa, Cự xí nhiên Tam-ma-địa, Nghiêm tịnh tướng Tam-ma-địa, Vô tiêu xí Tam-ma-địa, Cụ diệu tướng Tam-ma-địa, Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam-ma-địa, Vô tận hành tướng Tam-ma-địa, Cụ tổng trì Tam-ma-địa, Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh Tam-ma-địa, Tức vi thuận Tam-ma-địa, Ly ái tắng Tam-ma-địa, Vô cấu minh Tam-ma-địa, Cụ kiên cố Tam-ma-địa, Mãn nguyệt tịnh quang Tam-ma-địa, Đại trang nghiêm Tam-ma-địa, Phổ chiếu thế gian Tam-ma-địa, Định bình đẳng tánh Tam-ma-địa, Viễn ly trần cấu Tam-ma-địa, Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam-ma-địa, Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc Tam-ma-địa, Quyết định an trụ chơn như Tam-ma-địa, Ly thân ngữ ý uế ác Tam-ma-địa, Như hư không Tam-ma-địa, Vô nhiễm vô trước Tam-ma-địa. Có vô lượng trăm ngàn Tam-ma-địa như thế. Đó là tướng Đại thừa của Bồ-tát.

Thiện Hiện! Trong đây vì sao gọi là Kiện hành Tam-ma-địa? Nghĩa là khi trụ Tam-ma-địa này, tất cả đều có thể nhiếp thọ hành xứ các định, nên gọi là Kiện hành Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bảo ấn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này có thể ấn hành tướng sai khác của các định. Cho nên gọi là Bảo ấn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Sư tử du hý Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này sẽ du hý tự tại đối với các đẳng trì, nên gọi là Sư tử du hý Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Diệu nguyệt Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, như trăng tròn chiếu khắp các định, nên gọi là Diệu nguyệt Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nguyệt tràng tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể giữ gìn tướng cờ các định, nên gọi là Nguyệt tràng tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhất thiết pháp dũng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể vọt ra khỏi tất cả thắng định, nên gọi là Nhất thiết pháp dũng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quán đỉnh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể quán sát đến đỉnh các thắng định, nên gọi là Quán đỉnh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Pháp giới quyết định Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, quyết định chiếu rõ pháp giới, nên gọi là Pháp giới quyết định Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quyết định tràng tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, quyết định sẽ nắm được tướng cờ các định, nên gọi là Quyết định tràng tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Kim cương dụ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể quật ngã các định mà chẳng bị định kia quật lại, nên gọi là Kim cương dụ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhập pháp ấn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể ngộ nhập khắp tất cả pháp ấn, nên gọi là Nhập quán ấn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đẳng trì vương Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đều được tự tại ở trong trong các định, nên gọi là Đẳng trì vương Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Thiện an lập Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể khéo an lập đối với Đẳng trì vương, nên gọi là Thiện an lập Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phóng quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể khai phát ánh sáng ở các định, nên gọi là Phóng quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Lực chúng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra nhiều lực các định, nên gọi là Lực chúng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đẳng dũng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, khiến cho các thắng định bình đẳng dõng xuất, nên gọi là Đẳng dũng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhập ngôn từ quyết định Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chắc chắnthể nhập định ngôn từ, nên gọi là Nhập ngôn từ quyết định Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đẳng nhập tăng ngữ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, bình đẳng ngộ nhập các định danh giải thích nghĩa lý, nên gọi là Đẳng nhập tăng ngữ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quán phương Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể quán chiếu các định phương, nên gọi là Quán phương Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Trì ấn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể giữ trọn diệu ấn các định, nên gọi là Trì ấn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô vong thất Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không quên mất tướng các định, nên gọi là Vô vong thất Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, khiến cho các thắng định bình đẳng hướng vào như biển cả thu nhận các dòng sông, nên gọi là Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Biến phú hư không Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể biến khắp che chở các đẳng trì như hư không, không lựa riêng chỗ nào, nên gọi là Biến phú hư không Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Kim cương luân Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể trụ trì tất cả thắng định, khiến không tán hoại, như Kim cương luân, nên gọi là Kim cương luân Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô lượng quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ phóng vô lượng tia sáng chiếu khắp các loài hữu tình, khiến chúng nhớ nghĩ đến pháp đã từng lãnh thọ và làm các việc lợi ích lớn, nên gọi là Vô lượng quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô trước vô chướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ xa lìa các sự nhiễm đắm và tất cả chướng ngại, nên gọi là Vô trước vô chướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đoạn chư pháp luân Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ chứng lý vô sanh đối với tất cả pháp, khiến chấm dứt khổ sanh tử chẳng còn tiếp nối nữa, nên gọi là Đoạn chư pháp luân Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Xả bảo Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với tướng các định còn xả bỏ, huống gì các phiền não và tướng các pháp mà lại chẳng bỏ ư? Thế nên gọi là Xả bảo Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Biến chiếu Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ chiếu khắp các định khiến chúng được rực rỡ , nên gọi là Biến chiếu Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bất luyến Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không có sự mong cầu đối với tất cả pháp, nên gọi là Bất luyến Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô tướng trụ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy trong các định có một pháp nào đáng trụ, nên gọi là Vô tướng trụ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bất tư duy Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thì tất cả pháp tâm và tâm sở thấp kém đều không lay chuyển, nên gọi là Bất tư duy Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô cấu đăng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, như cầm đèn sáng soi rõ các định, nên gọi là Vô biên quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô biên quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra đại quang minh chiếu khắp không bờ mé, nên gọi là Vô biên quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phát quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể phát ra quang minh thắng định, nên gọi là Phát quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phổ chiếu Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, lúc nào cũng có thể chiếu khắp các thắng định, nên gọi là Phổ chiếu Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tịnh kiên Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ đạt được tánh thanh tịnhbình đẳng của các đẳng trì, nên gọi là Tịnh kiên Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô cấu quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể trừ sạch cấu bẩn nơi định, cũng có thể chiếu rõ tất cả đẳng trì, nên gọi là Vô cấu quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phát diệu lạc Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể lãnh thọ sự an vui mầu nhiệm của các định, nên gọi là Phát diệu lạc Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Điển đăng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chiếu các đẳng trì như đèn điện sáng, nên gọi là Điển đăng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô tận Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì chẳng thấy có chỗ cùng tận, nên gọi là Vô tận Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ oai quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, oai quang được độc thạnh đối với các đẳng trì, nên gọi là Cụ oai quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly tận Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì lìa hết tất cả, chẳng thấy có chút phần pháp tướng nào, nên gọi là Ly tận Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bất khả hủy Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì không có tỳ vết, nên gọi là Bất khả hủy Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Khai phát Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì hoàn toàn khai phát, nên gọi là Khai phát Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhật đăng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, các định phát ánh sáng chiếu khắp, nên gọi là Nhật đăng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tịnh nguyệt Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, các đẳng trì này như mặt trăng phá đi sự tăm tối, nên gọi là Tịnh nguyệt Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tịnh quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ đắc quả vô ngại giải đối với các đẳng trì, nên gọi là Tịnh quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô động Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, khiến cho các đẳng trì không lay động, không lung lay, không kiêu mạn, nên gọi là Vô động Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phát minh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, khiến cho các cửa định phát ra ánh sáng chiếu khắp, nên gọi là Phát minh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ưng tác bất ưng tác Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chiếu các đẳng trì tất cả việc nên làm, việc không nên làm đều được hiện rõ, nên gọi là Ưng tác bất ưng tác Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Trí tràng tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy được tướng diệu trí của các đẳng trì, nên gọi là Trí tràng tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Kim cương man Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể thông đạt tất cả pháp mà chẳng thấy có tướng tất cả, nên gọi là Kim cương man Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Trụ tâm Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, tâm chẳng dao động, chẳng biến chiếu, cũng chẳng tổn giảm, chẳng nghĩ có tâm ấy, nên gọi là Trụ tâm Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phổ minh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể quán chiếu ánh sáng của các định, nên gọi là Phổ minh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Thiện trụ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể an trụ các đẳng trì một cách khéo léo, nên gọi là Thiện trụ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bảo tích Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ quán các đẳng trì như kho báu, nên gọi là Bảo tích Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Diệu pháp ấn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể ấn chứng các đẳng trì, bằng ấn vô ấn, nên gọi là Diệu pháp ấn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Pháp bình đẳng tánh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chẳng thấy có một phần nhỏ pháp nào xa lìa pháp bình đẳng, nên gọi là Pháp bình đẳng tánh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Xả ái lạc Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, xả bỏ ái lạc đối với tất cả định và tất cả pháp, nên gọi là Xả ái lạc Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Pháp dũng mãn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, tướng của tất cả pháp đều biến mất mà viên mãn hoàn toàn đối với giáo pháp của Phật, nên gọi là Pháp dũng mãn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phiêu tán Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể làm cho các định tan tác các pháp, nên gọi là Phiêu tán Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phân biệt pháp cú Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể phân biệt pháp cú các định một cách khéo léo, nên gọi là Phân biệt pháp cú Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bình đẳng tự tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ được các đẳng trì rất ưa thích tự tướng bình đẳng, nên gọi là Bình đẳng tự tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly văn tự tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không được các đẳng trì ưa thích tướng văn tự, nên gọi là Ly văn tự tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đoạn sở duyên Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ chấm dứt tướng cảnh sở duyên của các đẳng trì, nên gọi là Vô biến dị Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô biến dị Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không chứng được tướng biến dị của các pháp, nên gọi là Vô biến dị Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô phẩm loại Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không đạt được tướng phẩm loại riêng của các pháp, nên gọi là Vô phẩm loại Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhập danh tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ ngộ nhập danh tướng sai khác của các pháp, nên gọi là Nhập danh tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô tướng hành Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với tướng các định đều không thấy chứng đắc, nên gọi là Vô tướng hành Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly ế ám Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể loại trừ sự tối tăm của các định, nên gọi là Ly ế ám Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ hành Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ thấy đủ các hành tướng sai khác của các đẳng trì, nên gọi là Cụ hành Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bất biến động Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy sự biến động của các đẳng trì, nên gọi là Bất biến động Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Độ cảnh giới Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ vượt qua tướng cảnh sở duyên của các đẳng trì, nên gọi là Độ cảnh giới Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly tập chúng đức Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp và tất cả định chẳng đạt được tướng nhóm, vì tất cả pháp không thể nhóm, nên gọi là Ly tập chúng đức Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quyết định trụ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, tuy quyết định trụ các định nhưng biết tướng và cảnh định ấy không thể nắm bắt, nên gọi là Quyết định trụ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tịnh diệu hoa Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì đều được thanh tịnh trang nghiêm nhưng lọng lẫy như diệu hoa, nên gọi là Tịnh diệu hoa Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ giác chi Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thì tu bảy giác chi mau được viên mãn, nên gọi là Cụ giác chi Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô biên biện Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ đạt được biện tài vô biên đối với các pháp, nên gọi là Vô biên biện Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô đẳng đẳng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ được tánh vô đẳng đẳng của các đẳng trì, nên gọi là Vô đẳng đẳng Tam-ma-địa.

Quyển thứ 488
HẾT

08

Vì sao gọi là Phổ siêu nhất thiết Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ vượt qua hết các pháp của hữu tình trong ba cõi, nên gọi là Phổ siêu nhất thiết Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quyết phán nhất thiết Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể quyết định các pháp hữu tình, nên gọi là Quyết phán nhất thiết Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tán do dự Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể làm tan biến hết tất cả do dự đối với các đẳng trì và tất cả pháp, nên gọi là Tán do dự Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô sở trụ Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có chỗ trụ, nên gọi là Vô sở trụ Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhất tướng trang nghiêm Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có một tướng nhỏ nào, nên gọi là Nhất tướng trang nghiêm Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Dẫn phát hành tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể dẫn phát các loại hành tướng đối với các đẳng trì và tất cả pháp nhưng hoàn toàn không thấy có năng và sở dẫn phát, nên gọi là Dẫn phát hành tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhất hành tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì không có hai hành tướng, nên gọi là Nhất hành tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly hành tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì hoàn toàn không có hành tướng, nên gọi là Ly hành tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Diệu hành tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ làm cho hành tướng của các đẳng trì vi diệulìa bỏ các hý luận, nên gọi là Diệu hành tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đạt chư hữu để tán hoại Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đạt được trí thông đạt như thật ngộ nhập các đẳng trì và tất cả pháp. Được ngộ nhập rồi, sẽ thông đạt sự tán hoại của các hữu pháp, khiến chúng không còn chỗ nào sót cả, nên gọi là Đạt chư hữu để tán hoại Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bảo kiên cố Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy Phật, Pháp, Tăng không thể phá hoại được, vì đồng vô tướng, nên gọi là Bảo kiên cố Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì vắng lặng, giải thoát tất cả tướng âm thanh văn tự, nên gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, ngộ nhập các pháp kiến lập (thi thiết) ngữ ngôn, không chấp trước, không ngăn ngại của tất cả đẳng trì, nên gọi là Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cự xí nhiên Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chiếu sáng các đẳng trì với ánh sáng oai nghiêm, nên gọi là Cự xí nhiên Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nghiêm tịnh tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể làm thanh tịnh trang nghiêm tất cả tướng định, nên gọi là Nghiêm tịnh tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô tiêu xí Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy dấu hiệu đối với các đẳng trì, nên gọi là Vô tiêu xí Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ diệu tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thấy diệu tướng các định hoàn toàn đầy đủ, nên gọi là Cụ diệu tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thích quán sát tướng khổ vui của các đẳng trì, nên gọi là Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô tận hành tướng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy hành tướng các định có chỗ tận, nên gọi là Vô tận hành tướng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ tổng trì Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể giữ gìn thắng sự các định một cách bao quát, nên gọi là Cụ tổng trì Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì chánh tánh, tà tánh nhiếp phục các kiến, khiến chúng chẳng khởi, nên gọi là Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Tức vi thuận Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, hoàn toàn không thấy có tướng nghịch và thuận đối với các đẳng trì và tất cả pháp, nên gọi là Tức vi thuận Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly ái tắng Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, hoàn toàn không có tướng thương ghét trong các đẳng trì và tất cả pháp, nên gọi là Ly ái tắng Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô cấu minh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, hoàn toàn không thấy tướng cấu uế và tướng sáng suốt, nên gọi là Vô cấu minh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Cụ kiên cố Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì đều được kiên cố, nên gọi là Cụ kiên cố Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Mãn nguyệt tịnh quang Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì tăng thêm công đức như ánh sáng trăng tròn, làm nước biển tăng thêm, nên gọi là Mãn nguyệt tịnh quang Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Đại trang nghiêm Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì thành tựu các loại vi diệu nhiệm mầu hy hữu, đại trang nghiêm, nên gọi là Đại trang nghiêm Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Phổ chiếu thế gian Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, sẽ soi sáng các đẳng trì và tất cả pháp, làm cho các loài hữu tình đều được khai mở trí hiểu biết, nên gọi là Phổ chiếu thế gian Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Định bình đẳng tánh Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, chẳng thấy sự sai khác giữa định và tán loạn của đẳng trì, nên gọi là Định bình đẳng tánh Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Viễn ly trần cấu Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, có thể diệt trừ được bụi trần của tất cả phiền não, nên gọi là Viễn ly trần cấu Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, không thấy tánh và tướng sai khác giữa hữu tránhvô tránh trong các pháp và tất cả định, nên gọi là Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, phá được các sào huyệt, xả bỏ dấu hiệu đoạn trừ các sự ái lạc mà không bị chấp trước, nên gọi là Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Quyết định an trụ chơn như Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, thường không xả bỏ chơn như thật tướng của các đẳng trì và tất cả pháp, nên gọi là Quyết định an trụ chơn như Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Ly thân ngữ ý uế ác Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, đối với thân, ngữ, ý hoàn toàn vô sở đắc, phá hoại tất cả thân, ngữ, ý xấu, tự tại không chướng ngại trong các đẳng trì, nên gọi là Ly thân ngữ ý uế ác Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Như hư không Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, quán tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, không chướng ngại như hư không mênh mông, nên gọi là Như hư không Tam-ma-địa.

Vì sao gọi là Vô nhiễm vô trước Tam-ma-địa? Vì khi trụ Tam-ma-địa này, quán tất cả pháp đều đồng một tướng, tướng ấy là vô tướng, vô nhiễm, vô trước, nên gọi là Vô nhiễm vô trước Tam-ma-địa.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu .

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát ấy là bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ là gì? Một là thân niệm trụ; hai là thọ niệm trụ; ba là tâm niệm trụ; bốn là pháp niệm trụ.

Thế nào là thân niệm trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội thân, hoặc ngoại thân, hoặc nội ngoại thân, luôn trụ pháp quán thân trên thân, nhưng không câu hữu với tầm và tứ, nhiệt tâm tinh tấn đầy đủ chánh tri, diệt trừ được tham ưu thế gian.

Thế nào là thọ niệm trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thọ, hoặc ngoại thọ, hoặc nội ngoại thọ, tuy trụ quán thọ trên thọ, nhưng không câu hữu với tầm và tứ, nhiệt tâm tinh tấn biết rõ sự tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Thế nào là tâm niệm trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội tâm, hoặc ngoại tâm, hoặc nội ngoại tâm, tuy trụ quán tâm trên tâm, nhưng không câu hữu với tầm và tứ, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Thế nào là pháp niệm trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội pháp, hoặc ngoại pháp, hoặc nội ngoại pháp, tuy trụ quán pháp trên pháp, nhưng không câu hữu với tầm và tứ, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân luôn quán thân trên thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân khi đi như thật biết đang đi, khi đứng như thật biết đang đứng, khi ngồi như thật biết đang ngồi, khi nằm như thật biết đang nằm. Mỗi oai nghi sai khác nơi tự thân đều như thật biết như vậy, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân biết rõ sự qua lại, biết rõ sự nhìn tới nhìn lui, biết rõ sự cúi xuống ngước lên, biết rõ sự co duỗi, mặc Tăng-già-lê, đắp y ôm bát, khi ăn khi uống, khi nằm nghỉ, lúc kinh hành, khi ngồi dậy, lúc nghinh rước, thức ngủ nói năng im lặng, nhập xuất các định đều chánh niệm biết rõ. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trên thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân khi thở vào như thật biết thở vào, khi thở ra như thật biết thở ra, khi hơi thở dài như thật biết hơi thở dài, khi hơi thở ngắn như thật biết hơi thở ngắn. Như thợ quay bánh xe hoặc đệ tử vị ấy, khi lực bánh xe quay lâu như thật biết lực bánh xe lâu, khi lực bánh xe mau như thật biết lực xe mau. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, như thật biết rõ sự sai khác của hơi thở ngắn và hơi thở dài. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các giới sai khác của tự thân, đối với địa giới như thật biết rõ đây là địa giới; đối với các thủy giới như thật biết rõ đây là thủy giới; đối với các hỏa giới như thật biết rõ đây là hỏa giới; đối với phong giới như thật biết rõ đây là phong giới. Như đồ tể giỏi hoặc đệ tử vị ấy, sau khi giết trâu rồi dùng dao thật bén mổ xẻ thân phân làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng như thật biết rõ. Đại Bồ-tát này cũng vậy, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán sát sự sai khác của bốn giới, địa, thủy, hỏa, phong nơi tự thân. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt trừ tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân từ chân đến đỉnh đầu, trong đó đầy dẫy những thứ bất tịnh, bên ngoài nó được lớp da mỏng bao bọc. Tuy được gọi thân này nhưng chỉ gồm các loại tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, máu thịt, gân mạch, xương tủy, tim, gan, phổi, thận, lá lách, mật, bao tử, ruột già, ruột non, phân, nước tiểu, nước mũi, nước bọt, nước giải, nước mắt, mồ hôi, đàm mủ, mỡ chài, mỡ nước, não, ghèn, ráy tai.

Bên trong tràn đầy những thứ bất tịnh này. Như trong kho của các trưởng giả hoặc nông phu, chứa đầy các loại ngũ cốc, gồm: nếp, mè, lúa, đậu, bắp v.v... Người sáng mắt mở kho ra xem biết đúng như thật trong ấy chỉ có nếp, mè, lúa v.v... Đại Bồ-tát này cũng như vậy, quán kỹ tự thân, từ chân đến đỉnh đầu đầy dãy bất tịnh chẳng đáng tham đắm. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi đến gò mả quan sát tử thi bị vứt bỏ, hoặc thây chết đã một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Tử thi chướng sình lên, sắc ngã xanh bầm, da thối rữa, máu mủ lan tràn. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta tánh chất cũng như vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa chứng Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh nhàm chán xa lìa. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả nhìn tử thi bị vứt bỏ, đã một ngày hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày, tử thi bị các loài cầm thú như chim, diều hâu, quạ, kênh kênh, cọp beo, chó sói, chồn v.v... hoặc mổ, hoặc quắp lấy, cắn xé ăn nuốt xương thịt vun vãi. Thấy việc này rồi, tự nghĩ bản tánh thân ta đủ pháp giống như thế. Nếu chưa chứng Niết-bàn cuối cùng cũng như vậy, nên sanh nhàm chánxa lìa. Đó là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, bị chim thú ăn rồi bất tịnh thối rữa, máu mủ chảy lan tràn, phát sanh vô lượng thứ trùng, đủ loại giòi, dơ bẩn hôi thúi hơn chó chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên phát sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, trùng giòi ăn rồi, rả thịt lồi xương, lóng đốt dính nhau, gân buộc máu tràn, chỉ còn thịt bầy nhầy. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế. Nếu chưa chứng Niết-bàn cuối cùng cũng như vậy, nên sanh nhàm chánxa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ đã thành xương vụn, máu thịt cạn khô, chỉ còn những sợi gân dính lại. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa đạt Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên phát sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi vị vứt bỏ, chỉ còn lại xương trắng, trắng tinh như ngọc tuyết kha, các gân mục nát, lóng đốt rời rạt. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, đã thành sắc trắng, đốt xương phân tán, vun vãi khắp nơi. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên phát sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, các xương phân tán khắp nơi, xương bàn chân chỗ này, xương ống chân chỗ kia, xương đầu gối chỗ nọ, xương đùi chỗ khác, xương sống chỗ khác, xương hông chỗ khác, xương ngực chỗ khác, xương vai chỗ khác, xương cánh tay chỗ khác, xương bàn tay chỗ khác, xương cổ chỗ khác, xương hàm chỗ khác, xương má chỗ khác, xương đầu chỗ khác. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, hài cốt ngỗn ngang, gió thổi nắng đốt, mưa chan sương thấm, trải qua năm tháng màu sắc trắng như ngọc tuyết kha. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ gò mả quán sát tử thi bị vứt bỏ, trải qua hơn trăm năm, hoặc hơn ngàn năm chỉ còn bột xương và đất, biến dạng thành màu xanh, có màu như lông bồ câu, hoặc có thứ mục nát ra bột như bụi, trộn lẫn vào đất, khó phân biệt được. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được Niết-bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa lìa. Đó là khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian.

Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, như trụ pháp quán thân trong nội thân sai khác này, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nương vào ngoại thân để quán thân, nương vào nội ngoại thân để quán thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian, tùy theo pháp thích ứng, Bồ-tát đều như vậy cả.

Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào thọ, tâm, pháp, bên trong, bên ngoài để quán thọ, tâm, pháp, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian, tùy theo pháp thích ứng, nói rộng như trên.

Thiện Hiện! Như vậy, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào thân, thọ, tâm, pháp bên trong, bên ngoài để quán thân, thọ, tâm, pháp, tuy quán như vậy nhưng vô sở đắc.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bốn chánh đoạn. Những gì là bốn?

Thiện Hiện nên biết: Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh làm cho chúng chẳng sanh, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần, siêng năng đúng đắn. Đó là thứ nhất.

Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện đã sanh làm cho chúng chấm dứt hẳn, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần đúng đắn. Đó là thứ hai.

Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với pháp thiện chưa sanh làm cho chúng phát sanh, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần siêng năng đúng đắn. Đó là thứ ba.

Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với pháp thiện đã sanh làm cho chúng an trụ và luôn làm tăng trưởng chúng nhiều thêm đến viên mãn, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần siêng năng đúng đắn. Đó là thứ tư.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bốn thần túc. Những gì là bốn?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tập Dục đẳng trì đoạn hành, thành tựu thần túc; nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả. Đó là thứ nhất.

Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Cần đẳng trì đoạn hành, thành tựu thần túc; nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả. Đó là thứ hai.

Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Tâm đẳng trì đoạn hành, thành tựu thần túc; nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả. Đó là thứ ba.

Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Quán đẳng trì đoạn hành, thành tựu thần túc; nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả. Đó là thứ tư.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là năm căn. Những gì là năm?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là năm lực. Những gì là năm?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tập tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bảy chi đẳng giác. Những gì là bảy?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu niệm giác chi, trạch tập pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi; nhưng phải nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, sự diệt trừ, hồi hướng xả.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là tám chi thánh đạo. Những gì là tám?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; nương vào sự xa lìa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là ba pháp môn giải thoát. Những gì là ba?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng đều là không, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát không, còn gọi là không Tam-ma-địa. Đó là môn thứ nhất, các Đại Bồ-tát muốn học Đại thừa nên học trong đó.

Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp vì tự tướng đều là không, nên đều không có tướng, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi là vô tướng Tam-ma-địa. Đó là môn thứ hai, các Đại Bồ-tát nếu muốn học Đại thừa nên học trong đó.

Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán sát tất cả pháp vì tự tướng là không, nên không có sở nguyện, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi là vô nguyện Tam-ma-địa. Đó là môn thứ ba, các Đại Bồ-tát muốn học Đại thừa nên học trong đó.

Thiện Hiện! Đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là mười một trí. Những gì là mười một? Đó là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, như thuyết trí.

Thế nào là khổ trí? Nghĩa là trí dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng sanh. Đó là khổ trí.

Thế nào là tập trí? Nghĩa là trí dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được sự tập khởi nên vĩnh viễn đoạn trừ. Đó là tập trí.

Thế nào là diệt trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được sự đoạn diệt nên tác chứng. Đó là diệt trí.

Thế nào là đạo trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được đạo nên tu tập. Đó là đạo trí.

Thế nào là tận trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tham, sân, si hết. Đó là tận trí.

Thế nào là vô sanh trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được các hữu không còn sanh nữa. Đó là vô sanh trí.

Thế nào là pháp trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được năm uẩn v.v... mỗi mỗi đều có tự tánh riêng. Đó là pháp trí.

Thế nào là loại trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tướng sai khác của năm uẩn v.v... nghĩa là khổ, vô thường, không, vô ngã v.v... Đó là loại trí.

Thế nào là thế tục trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được các hữu tình tu hành có sai khác và biết được danh tướng giống và khác của các pháp v.v... Đó là thế tục trí.

Thế nào là tha tâm trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tâm và tâm sở pháp của hữu tình khác nhưng không phân vân trở ngại. Đó là tha tâm trí.

Thế nào là như thuyết trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tướng tất cả pháp giống như lời nói, tức là trí nhất thiết tướng của Như Lai. Đó là như thuyết trí.

Thiện Hiện! Nên biết mười một trí này là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là ba căn vô lậu. Những gì là ba? Một là vị tri đương tri căn, hai là dĩ tri căn, ba là cụ tri căn.

Thế nào là vị tri đương tri căn? Nghĩa là các bậc hữu học đối với các Thánh đế chưa hiện quán hoàn toàn, chưa đắc Thánh quả nhưng đã có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là vị tri đương tri căn.

Thế nào là dĩ tri căn? Nghĩa là các bậc hữu học đối với các Thánh đế đã đạt được hiện quán, đã đắc Thánh quả có đầy đủ tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là dĩ tri căn.

Thế nào là cụ tri căn? Nghĩa là các bậc vô học hoặc A-la-hán, hoặc các Độc giác, hoặc Đại Bồ-tát đã trụ thập địa, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là cụ tri căn.

Nếu ba căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì phải biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là ba Tam-ma-địa. Những gì là ba? Một là Tam-ma-địa có tầm có tứ, hai là Tam-ma-địa không tầm có tứ, ba là Tam-ma-địa không tầm không tứ.

Thế nào là Tam-ma-địa có tầm có tứ? Nghĩa là Đại Bồ-tát đã xa lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ tịnh lự an trụ đầy đủ. Đó là Tam-ma-địa có tầm có tứ.

Thế nào là Tam-ma-địa không tầm có tứ? Nghĩa là Đại Bồ-tát đạt đến định trung gian giữa sơ tịnh lự và đệ nhị tịnh lự. Đó là Tam-ma-địa không tầm có tứ.

Thế nào là Tam-ma-địa không tầm không tứ? Nghĩa là Đại Bồ-tát từ đệ nhị tịnh lự cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là Tam-ma-địa không tầm không tứ.

Với ba loại này đều dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười tùy niệm. Những gì là mười? Một là tùy niệm Phật, hai là tùy niệm Pháp, ba là tùy niệm Tăng, bốn là tùy niệm giới, năm là tùy niệm xả, sau là tùy niệm thiên, bảy là tùy niệm nhàm chán, tám là tùy niệm tử, chín là tùy niệm thân, mười là tùy niệm hơi thở.

Với mười pháp này nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ v.v... thiện pháp thanh tịnh, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười lực Phật. Những gì là mười?

Thiện Hiện nên biết: Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp nhân quả của tướng xứ phi xứ, đó là lực thứ nhất.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng các loại hữu tình trong quá khứ, hiện tại, vị lai do tạp nghiệp khác nhau mà chịu quả khác nhau, đó là lực thứ hai.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng mọi loại cảnh giới khác nhau của thế gian, đó là lực thứ ba.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ nhiều loại thắng giải chẳng phải một loại thắng giải của tất cả hữu tình, đó là lực thứ tư.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các căn hơn kém của các loại hữu tình, đó là lực thứ năm.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ hành tướng biến hành, đó là lực thứ sáu.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp như căn, lực, giác chi, giải thoát, tịnh lự, đẳng trì, đẳng chí, nhiễm, tịnh, sai khác của các loại hữu tình, đó là lực thứ bảy.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tìnhvô lượng đời trước sai khác, đó là lực thứ tám.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, do thiên nhãn thanh tịnh như thật biết rõ các hữu tìnhvô lượng loại sanh tử sai khác, đó là lực thứ chín.

Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ đã chấm dứt các lậu đạt được tâm vô lậu giải thoát, chứng được tuệ giải thoát vô lậu; ngay trong hiện tại tự xác chứng đầy đủ, có thể chơn chánh biết rõ ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã xong, không còn trở lại đời sống này nữa, đó là lực thứ mười.

Phải biết: Đây là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bốn điều không sợ. Những gì là bốn?

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là người Chánh đẳng giác. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên ma, hoặc những hạng khác trong thế gian dựa vào pháp để vấn nạn, làm cho Bồ-tát phải suy nghĩ bởi lời nói rằng: Pháp này chẳng phải Chánh đẳng giác. Đối với sự vấn nạn đó ta xác nhận đúng đắn nó là vô lý. Đối với sự vấn nạn đó, vì thấy nó phi lý nên được an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn kính, ở giữa đại chúng rống lên tiếng Sư tử chúa, chuyển xe diệu phạm luân. Xe ấy thanh tịnh, chánh chơn Vô thượng, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... không ai có thể chuyển được đúng pháp, đó là điều không sợ thứ nhất.

Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tự xưng ta đã chấm dứt các lậu hoặc. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian dựa vào pháp mà lập nạn và làm cho Bồ-tát suy nghĩ nơi lời nói: Lậu hoặc này chưa được chấm dứt. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn kính, ở giữa đại chúng rống lên tiếng Sư tử chúa, chuyển xe diệu phạm, xe ấy thanh tịnh chánh chơn Vô thượng, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... đều không ai có thể chuyển được đúng pháp, đó là điều không sợ thứ hai.

Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết pháp chướng đạo. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian y pháp vấn nạn, làm cho Bồ-tát suy nghĩ bởi lời nói thế này: Tu tập pháp này không thể ngăn đạo. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được trụ an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn kính, ở giữa đại chúng rống lên tiếng Sư tử chúa, quay xe diệu phạm. Xe ấy thanh tịnh chánh chơn Vô thượng, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... không ai có thể chuyển đúng như pháp được, đó là điều không sợ thứ ba.

Đại Bồ-tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử nói đạo chấm dứt khổ. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian y pháp lập ra sự vấn nạn, làm cho Bồ-tát suy nghĩ bởi lời nói thế này: Tu đạo này không thể chấm dứt khổ được. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được trụ an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn kính, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử chúa, chuyển xe diệu phạm. Xe ấy thanh tịnh chánh chơn Vô thượng, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v... không ai có thể chuyển như pháp được, đó là điều không sợ thứ tư.

Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

 

Quyển thứ 489
HẾT

09

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Những gì là bốn? Một là nghĩa hiểu biết thông suốt; hai là pháp hiểu biết thông suốt; ba là từ hiểu biết thông suốt; bốn là biện hiểu biết thông suốt.

Thiện Hiện! Bốn sự hiểu biết thông suốt này là dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát là mười tám pháp Phật bất cộng. Những gì là mười tám?

Nghĩa là các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bắt đầu từ đêm chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho đến đêm nhập Vô dư y Niết-bàn, ở trong khoảng thời gian này thường không lầm lỗi, không có lời nói hung bạo, không mất chánh niệm, không các thứ tưởng, tâm luôn trong định, luôn chọn pháp để xả bỏ, ý chí không thối lui, tinh tấn không thối lui, niệm không lui, định không lui, tuệ không lui, giải thoát trí kiến không lui.

Trong tất cả nghiệp của thân, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển. Tất cả nghiệp của miệng, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển y. Tất cả nghiệp của ý, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển y.

Trong quá khứ đã khởi lên trí kiến không chấp trước, không ngăn ngại. Ở hiện tại đang khởi lên trí kiến không chấp trước, không ngăn ngại. Ở vị lai sẽ khởi lên trí kiến không chấp trước, không ngăn ngại.

Mười tám pháp Phật bất cộng như thế đều hoàn toàn dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của các Đại Bồ-tát ấy gồm các môn văn tự Đà-la-ni. Những môn văn tự Đà-la-ni nào? Nghĩa là bằng tánh bình đẳng của văn tự, tánh bình đẳng của ngôn ngữđi vào môn các chữ. Thế nào là môn tánh bình đẳng văn tự và tánh bình đẳng ngôn ngữ?

Thiện Hiện nên biết: Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhập môn chữ Suy, ngộ tất cả pháp vốn không sanh.

Nhập môn chữ Lạc, ngộ tất cả pháp xa lìa trần cấu.

Nhập môn chữ Bả, ngộ được giáo lý thắng nghĩa của tất cả pháp.

Nhập môn chữ Giả, ngộ tất cả pháp xa lìa sanh tử, dù tử hoặc sanh đều dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Nhập môn chữ Na, ngộ tất cả pháp xa lìa danh tướng, hoặc danh hoặc tướng đều dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Nhập môn chữ Kha, ngộ tất cả pháp xuất thế gian, vì nhân duyên ái nhiễm nên chẳng hiện tiền.

Nhập môn chữ Đà, ngộ tất cả pháp điều phục, vắng lặng, chơn như, bình đẳng không phân biệt.

Nhập môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp lìa sự trói buộc và cởi mở.

Nhập môn chữ Đồ, ngộ tất cả pháp xa lìa nhiệt não, kiêu căn, uế trược, đạt được sự thanh tịnh.

Nhập môn chữ Sa, ngộ tất cả pháp không quái ngại.

Nhập môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp chấm dứt đường ngôn ngữ.

Nhập môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp chơn như bất động.

Nhập môn chữ Dã, ngộ tất cả pháp như thật chẳng sanh.

Nhập môn chữ Sắc Tra, ngộ tướng chế phục và tướng nhậm trì của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Ca, ngộ tác giả tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Ta, ngộ thời và tánh bình đẳng của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Ma, ngộ tất cả pháp tánh ngã và ngã sở bất khả đắc.

Nhập môn chữ Già, ngộ tánh hành động chấp thủ của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Tha, ngộ tánh chất tất cả pháp chỗ y cứ bất khả đắc.

Nhập môn chữ Xà, ngộ tất cả pháp năng sở sanh khởi bất khả đắc.

Nhập môn chữ Thấp Phược, ngộ tất cả pháp tánh an ổn bất khả đắc.

Nhập môn chữ Đạt, ngộ tánh có thể giữ gìn cõi giới của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Xả, ngộ tánh Xa-ma-tha của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Khư, ngộ tánh bình đẳng như hư không bất khả đắc.

Nhập môn chữ Sàn, ngộ tánh cùng tận của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Tát Đả, ngộ tất cả pháp tánh nhậm trì bất khả đắc.

Nhập môn chữ Nhã, ngộ tất cả pháp tánh năng sở tri bất khả đắc.

Nhập môn chữ Thích Tha, ngộ tánh chấp trước nghĩa của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Ha, ngộ tánh thường làm nhân của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Bạc, ngộ tánh phá hoại của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Xước, ngộ tất cả pháp tánh che đậy dục lạc bất khả đắc.

Nhập môn chữ Táp Ma, ngộ tánh đáng nhớ nghĩ của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Hạp Phạ, ngộ tánh kêu gọi của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Sa, ngộ tất cả pháp lìa sự dõng mãnh.

Nhập môn chữ Kiên, ngộ tánh bình đẳng sâu dày của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Sỉ, ngộ tánh tịch tụ của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Noa, ngộ tất cả pháp lìa sự ồn náo.

Nhập môn chữ Phả, ngộ tất cả pháp khôngquả báo.

Nhập môn chữ Tắc Ca, ngộ tất cả pháp lìa tánh chất chứa.

Nhập môn chữ Dật Ta, ngộ tánh tướng suy lão của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Chước, ngộ tất cả pháp không dấu chân.

Nhập môn chữ Tra, ngộ tánh đuổi bức nhau của tất cả pháp bất khả đắc.

Nhập môn chữ Trạch, ngộ chỗ cứu cánh của tất cả pháp bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Môn chữ Trạch này có thể ngộ nhập vào tận cùng của pháp không. Ngoại trừ những chữ này nếu biểu thị các pháp không thì bất khả đắc. Vì sao? Vì nghĩa các chữ này không thể tuyên thuyết, không thể nêu rõ, không thể viết, không thể chấp thủ, không thể quán sát, vì lìa các tướng.

Thiện Hiện nên biết: Thí như hư không là chỗ quay về của tất cả vật. Những môn chữ này cũng lại như thế, nghĩa không của các pháp đều nhập vào môn này mà được hiển rõ.

Thiện Hiện nên biết: Nhập vào chữ Suy này v.v... gọi là nhập vào môn chữ. Đại Bồ-tát nào đối với môn chữ này, đạt được trí thiện xảo. Đại Bồ-tát ấy đối với các âm thanh, ngôn ngữ được trình bày, được biểu thị đều không quái ngại, đối với tánh không bình đẳng của tất cả pháp đều có thể nắm giữ được hết, đối với các tiếng nói đều được thiện xảo.

Đại Bồ-tát nào có thể nghe và nhập vào môn các chữ này, xác định tướng trạng của nó, xác định câu cú, nghe rồi thọ trì đọc tụng thông thạo, vì người giảng nói, không có sự chấp trước, chẳng mong danh dự lợi dưỡng cung kính. Do nhân duyên này được ba mươi món công đức thù thắng lợi ích. Những gì là ba mươi? Nghĩa là được nghĩ nhớ dõng mãnh, được tàm quý hơn, được sức kiên cố, được pháp chỉ thú, được tăng thượng giác, được thù thắng tuệ, được sự biện tài vô ngại, được môn tổng trì, được không nghi hoặc, được gặp lời thuận không ưa lời trái, không ghét, được an trụ bình đẳng, không phân biệt cao thấp, được dùng lời khéo léo đối với hữu tình, được uẩn thiện xảo, được giới thiện xảo, được xứ thiện xảo, được chơn lý thiện xảo, được duyên khởi thiện xảo, được nhân thiện xảo, được duyên thiện xảo, được pháp thiện xảo, được trí căn thắng liệt thiện xảo, được tha tâm trí thiện xảo, được thần cảnh trí thiện xảo, được thiên nhĩ trí thiện xảo, được túc trụ tùy niệm trí thiện xảo, được sanh tử trí thiện xảo, được lậu tận trí thiện xảo, được xứ phi xứ trí thiện xảo, được vãng lai trí thiện xảo, được oai nghi lộ trí thiện xảo. Đó là ba mươi công đức thù thắng lợi ích.

Thiện Hiện nên biết: Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đạt được môn văn tự Đà-la-ni này. Phải biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Câu hỏi tiếp theo của ông là thế nào thì biết Đại Bồ-tát hướng đến Đại thừa? Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào siêng năng tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ địa này đến địa khác, với mức độ như vậy nên biết các Đại Bồ-tát ấy hướng đến Đại thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:

- Thế nào là Đại Bồ-tát siêng năng tu hành pháp Ba-la-mật-đa từ địa này đến địa khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào biết được tất cả pháp không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Vì sao? Vì tất cả pháp không đi, không đến, không xuất phát cũng không tới đích. Do đó nên các pháp không biến hoại. Đại Bồ-tát này không nhớ nghĩ, chẳng suy tư về địa bắt đầu, tuy tu nghiệp trị địa nhưng chẳng thấy có địa ấy. Đó là Đại Bồ-tát siêng năng tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ địa này đến địa khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Thế nào là Đại Bồ-tát tu nghiệp trị địa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Khi trụ ở địa thứ nhất, các Đại Bồ-tát phải khéo tu trị mười loại thắng nghiệp. Những gì là mười?

Một là dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tịnh thắng ý lạc, vì tướng lợi ích của nó bất khả đắc.

Hai là phải dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng tâm đối với tất cả hữu tình. Vì tất cả hữu tình đều bất khả đắc.

Ba là phải dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị tất cả nghiệp xả, thí. Vì người bố thí, kẻ nhận, vật thí đều bất khả đắc.

Bốn là dùng vô sở đắc làm phương tiện, phải khéo tu trị nghiệp thân cận thiện hữu, vì không chấp trước đối với thiện hữu.

Năm là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp siêng năng cầu Chánh pháp. Vì giáo pháp ấy bất khả đắc.

Sáu là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia. Vì sự xả bỏ gia cư ấy bất khả đắc.

Bảy là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp mến kính thân Phật, vì nhân của các tướng hảo bất khả đắc.

Tám là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp, vì giáo pháp được phân biệt bất khả đắc.

Chín là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu căng, ngạo mạn, vì các pháp hưng thịnh bất khả đắc.

Mười là dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp thường ưa nghe lời chân thật, vì tất cả ngôn ngữ đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ nhất, các Đại Bồ-tát nên khéo tu trị mười thắng nghiệp này, nhờ vậy mà địa thứ nhất mau được viên mãn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ-tát nên tu tậptư duy tám pháp khiến cho chúng mau viên mãn. Những gì là tám?

Một là thanh tịnh giới. Hai là biết ơn trả ơn. Ba là trụ vào năng lực an nhẫn. Bốn là thọ hoan hỷ tối thắng. Năm là chẳng bỏ hữu tình. Sáu là thường khởi đại bi. Bảy là đem tâm kính tin học hỏi, vâng lời, cúng dường sư trưởng như phụng thờ chư Phật. Tám là siêng năng tu tập, cầu Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ-tát, nên chánh tư duy, nên siêng tu học làm cho tám pháp này mau được viên mãn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ-tát nên tinh cần an trụ năm pháp. Những gì là năm? Một là siêng cầu đa văn, thường không nhàm chán pháp đã được nghe, cũng chẳng chấp trước văn tự. Hai là đem tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy giáo hóa rộng rãi nhưng chẳng tự cao. Ba là vì trang nghiêm tịnh độ nên trồng các căn lành, tuy dùng hồi hướng nhưng chẳng tự cao. Bốn là vì hóa hữu tình, tuy không nhàm chán mỏi mệt với sanh tử vô biên nhưng chẳng buông lung. Năm là tuy trụ vào tàm quý nhưng không chấp trước.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ-tát phải thường an trụ năm pháp này không được tạm rời.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ-tát nên thọ trì không bỏ mười pháp. Những gì là mười?

Một là chẳng lìa bỏ chỗ vắng vẻ. Hai là thường thích ít ham muốn. Ba là thường ưa tri túc. Bốn là thường không lìa bỏ công đức Đầu-đà. Năm là thường không lìa bỏ các học xứ. Sáu là phải sanh tâm nhàm chán xa lìa. Bảy là thường ưa phát khởi tâm tương ưng với Niết-bàn. Tám là thường ưa xả bỏ tất cả vật. Chín là bất cứ lúc nào tâm cũng chẳng mê muội. Mười là thường không luyến trước tất cả sự việc.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ-tát nên thọ trì không xả bỏ mười pháp này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ-tát nên xa lìa mười pháp. Những gì là mười? Một là nên xa lìa gia cư. Hai là nên xa lìa Bí-sô-ni. Ba là nên xa lìa nhà keo kiệt. Bốn là nên xa lìa hội chúng tranh cãi tức giận. Năm là nên xa lìa sự khen mình chê người. Sáu là nên xa lìa mười nghiệp đạo ác. Bảy là nên xa lìa tăng thượng mạn. Tám là nên xa lìa sự điên đảo. Chín là nên xa lìa sự do dự. Mười là nên xa lìa tham, sân, si.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ-tát nên xa lìa mười pháp này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ-tát nên viên mãn sáu pháp, nên xa lìa sáu pháp. Thế nào là viên mãn sáu pháp? Nghĩa là nên viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa như bố thí. Thế nào gọi là xa lìa sáu pháp? Nghĩa là nên xa lìa sáu tâm hạ liệt. Những gì là sáu? Một là nên xa lìa tâm Thanh văn. Hai là nên xa lìa tâm Độc giác. Ba là nên xa lìa tâm nhiệt não. Bốn là nên xa lìa tâm thấy người hành khất đến mà không vui, bực bội. Năm là nên xa lìa tâm đã bố thí vật sở hữu rồi luyến tiếc, ăn năn. Sáu là nên xa lìa tâm tìm cách lẫn tránh người đến cầu xin.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sáu pháp đã nói trước, và nên xa lìa sáu pháp nói sau.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ bảy, các Đại Bồ-tát thường nên xa lìa hai mươi pháp, thường nên viên mãn hai mươi pháp.

Thế nào là thường nên xa lìa hai mươi pháp? Một là thường nên xa lìa sự chấp ngã cho đến chấp kiến. Hai là thường nên xa lìa chấp đoạn. Ba là thường nên xa lìa chấp thường. Bốn là thường nên xa lìa chấp tưởng tướng. Năm là thường nên xa lìa chấp kiến. Sáu là thường nên xa lìa chấp danh sắc. Bảy là thường nên xa lìa chấp uẩn. Tám là thường nên xa lìa chấp xứ. Chín là thường nên xa lìa chấp giới. Mười là thường nên xa lìa chấp sự thật. Mười một là thường nên xa lìa chấp duyên khởi. Mười hai là thường nên xa lìa chấp trước ba cõi. Mười ba là thường nên xa lìa chấp tất cả pháp. Mười bốn là thường nên xa lìa chấp đối với tất cả pháp đúng lý và không đúng lý. Mười lăm là thường nên xa lìa kiến chấp y Phật. Mười sáu là thường nên xa lìa kiến chấp y Pháp. Mười bảy là thường nên xa lìa kiến chấp y Tăng. Mười tám là thường nên xa lìa kiến chấp y giới. Mười chín là thường nên xa lìa kiến chấp y Không. Hai mươi là thường nên xa lìa nhàm chán sợ sệt tánh Không.

Vì sao gọi là thường nên viên mãn hai mươi pháp? Một là thường nên viên mãn thông suốt không. Hai là thường nên viên mãn chứng được vô tướng. Ba là thường nên viên mãn biết vô nguyện. Bốn là thường nên viên mãn thanh tịnh ba luân. Năm là thường nên viên mãn sự thương xót hữu tình nhưng không chấp trước hữu tình. Sáu là thường nên viên mãn sự thấy tất cả pháp tánh bình đẳng và ở trong đó không có sự chấp trước. Bảy là thường nên viên mãn sự thấy tánh bình đẳng của tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước. Tám là thường nên viên mãn sự thông suốt chơn lý đưa đến cứu cánh và ở trong đó không có sự chấp trước. Chín là thường nên viên mãn trí Vô sanh pháp nhẫn. Mười là thường nên viên mãn thuyết chơn lý tất cả pháp đồng một tướng. Mười một là thường nên viên mãn sự diệt trừ phân biệt. Mười hai là thường nên viên mãn sự xa lìa các vọng tướng. Mười ba là thường viên mãn sự xa lìa các kiến. Mười bốn là thường nên viên mãn sự xa lìa phiền não. Mười lăm là thường viên mãn sự thiện xảo khi tu chỉ quán. Mười sáu là thường nên viên mãn sự điều phục tâm tánh. Mười bảy là thường nên viên mãn sự vắng lặng tâm tánh. Mười tám là thường nên viên mãn tánh của trí vô ngại. Mười chín là thường nên viên mãn không có sự ái nhiễm. Hai mươi là thường nên viên mãn tùy tâm mong cầu đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật đó mà hiện thân ra.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ bảy, các Đại Bồ-tát nên xa lìa hai mươi pháp trước và thường nên viên mãn hai mươi pháp sau.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ tám, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là thường nên viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình. Hai là thường nên viên mãn du hí thần thông. Ba là thường nên viên mãn sự trang nghiêm cõi Phật cho chính mình, giống như các cõi Phật mà mình đã được thấy. Bốn là thường nên viên mãn phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai phải như thật quán sát.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ tám, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn bốn pháp này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ chín, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là thường nên viên mãn trí căn thắng liệt. Hai là thường nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật. Ba là thường nên viên mãn thường nhập các định như huyễn đẳng trì. Bốn là thường nên viên mãn làm cho thiện căn của các hữu tình được thành thục, mà nhập vào các cõi bằng cách giáo hóa chúng sanh.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ chín, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn bốn pháp này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi trụ địa thứ mười, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn mười hai pháp. Những gì là mười hai? Một là thường nên viên mãn lãnh thọ vô biên đại nguyện không luận nơi nào, tùy theo sở nguyện đều được thành tựu. Hai là thường nên viên mãn trí nghe được các loại âm thanh khác nhau: Chư thiên, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... Ba là thường nên viên mãn biện thuyết vô ngại. Bốn là thường nên viên mãn nhập thai đầy đủ. Năm là thường nên viên mãn sự chào đời đầy đủ. Sáu là thường nên viên mãn gia tộc đầy đủ. Bảy là thường nên viên mãn dòng họ đầy đủ. Tám là thường nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ. Chín là thường nên viên mãn sanh thân đầy đủ. Mười là thường nên viên mãn xuất gia đầy đủ. Mười một là thường nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ-đề đầy đủ. Mười hai là thường nên viên mãn tất cả công đức thành tựu đầy đủ.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ mười, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn mười hai pháp này.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào trụ địa thứ mười rồi, đối với ta thắng pháp đã tu ở các địa trước đều được viên mãn, cùng nói lời thích ứng với các Như Lai không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp tịnh thắng ý lạc?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, tu tập tất cả căn lành thù thắng. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp tịnh thắng ý lạc?

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng với tất cả hữu tình?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, phát bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng với tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xả thí tất cả?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi hành bố thí không có sự phân biệt đối với tất cả hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị tất cả nghiệp xả thí.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thân cận bạn lành?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thấy các thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến chúng tu tập trí nhất thiết trí, liền gần gũi cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, học hỏi Chánh pháp, ngày đêm thừa phụng, tâm không biếng nhác. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thân cận bạn lành.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp siêng năng cầu Chánh pháp?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, siêng năng cầu Chánh pháp Vô thượng của Như Lai, chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp siêng năng cầu Chánh pháp.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dù sanh bất cứ nơi nào, cũng nhàm chán gia cư ồn ào, phức tạp, chèn ép, ngột ngạt như lao ngục, thường vui thích Phật phápxuất gia thanh tịnh, tịch tịnh vô vi, như hư không không ngăn ngại. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp kính mến thân Phật?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào trông thấy hình tướng đức Phật, dầu chỉ một lần, cho đến khi chứng được trí nhất thiết trí, luôn luôn nhớ nghĩ đến Phật. Đó là Đại Bồ-tát khéo dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp kính mến thân Phật.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp?

- Thiện Hiện! Khi Phật còn tại thế và sau Niết-bàn, Đại Bồ-tát vì các hữu tình xiển dương giáo pháp, đầu giữa sau đều thiện, văn nghĩa tinh xảo, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh thanh tịnh. Đó là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Bổn sanh, Bổn sự, Duyên khởi, Thí dụ, Phương quảng, Hy phápLuận nghị. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xiển dương giáo pháp.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu mạn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem tâm cung kính khiêm nhường, chế ngự tâm kiêu mạn. Do đó không sanh vào dòng họ thấp hèn. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu mạn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường ưa thích lời chân thật?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào biết đúng mới nói, lời nóiviệc làm hợp nhau. Đó là Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường ưa thích lời chân thật.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ nhất, các Đại Bồ-tát nên khéo tu trị mười thắng nghiệp này khiến chúng mau viên mãn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thanh tịnh tịnh giới?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không khởi tâm Thanh văn, Độc giác v.v… và các pháp khác như phá giới, ngăn Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát thanh tịnh tịnh giới.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát biết ơnbáo đáp ơn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi hành các hạnh thù thắng của Bồ-tát, được chút ân huệ của người, còn phải đền đáp xứng đáng, huống gì được ơn lớn lại chẳng đáp đền cho tương xứng sao. Đó mới là Đại Bồ-tát biết ơn báo đáp ơn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát trụ năng lực an nhẫn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào, mặc dù tất cả hữu tình đều muốn phá hại, nhưng Đại Bồ-tát không hề có tâm bực tức, làm hại họ. Đó là Đại Bồ-tát trụ năng lực an nhẫn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát cảm nhận sự hoan hỷ thù thắng?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thấy các hữu tình thành thục được hạnh Tam thừa nên thâm tâm vui mừng. Đó là Đại Bồ-tát nhận được sự hoan hỷ thù thắng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát không bỏ hữu tình?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường cứu vớt khắp tất cả hữu tình, làm cho họ xa lìa khổ nạn. Đó là Đại Bồ-tát không bỏ hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường khởi đại bi?

- Thiện Hiện! Khi hành các hạnh thù thắng Bồ-tát, Đại Bồ-tát nào nghĩ: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình, dù nhiều kiếp như vô lượng, vô số cát sông Hằng, ở đại địa ngục chịu nhiều khổ sở nặng nề, hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc chặt, hoặc cắt, hoặc treo, hoặc mài hoặc giã v.v… chịu vô lượng sự thống khổ như thế, đến nỗi khiến các loại hữu tình kia cưỡi xe Như Lai mà nhập Niết-bàn. Cứ như vậy cho đến hết cảnh giới tất cả hữu tình, nhưng tâm đại bi của ta vẫn không lười mỏi. Đó là Đại Bồ-tát thường khởi đại bi.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát đem tâm kính tín các Sư trưởng, thường phụng sự cúng dường như phụng sự chư Phật?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên cung kính, tùy thuận Sư trưởng, nhưng không bị luyến ái. Đó là Đại Bồ-tát đem tâm kính tín các Sư trưởng, thường phụng sự cúng dường như phụng sự chư Phật.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát siêng cầu tu tập Ba-la-mật-đa?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chuyên tâm tu học tất cả Ba-la-mật-đa, chẳng đoái hoài đến các việc khác, vì muốn thành thục tất cả hữu tình. Đó là Đại Bồ-tát siêng cầu tu tập Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ-tát nên tư duy và học khiến cho mau viên mãn tám pháp này.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát siêng cầu đa văn, thường không nhàm chán pháp đã nghe, cũng không chấp trước văn tự?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào phát khởi sự siêng năng tinh tấn nghĩ: Nếu tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong cõi Phật này, hoặc mười phương thế giới đã thuyết giảng Chánh pháp, thì ta sẽ lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu học rốt ráo, không để thiếu sót nhưng không chấp trước văn tự trong đó. Đó là Đại Bồ-tát siêng cầu đa văn, thường không nhàm chán pháp đã nghe, cũng chẳng chấp trước văn tự.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát đem tâm vô nhiễm, thường hành pháp thí, dù mở rộng sự giáo hóa nhưng chẳng tự cao?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì các hữu tình thuyết giảng Chánh pháp, chứ chẳng phải vì đem căn lành này hồi hướng quả Bồ-đề, huống chi cầu những việc khác, tuy giáo hoá nhiều nhưng chẳng buông lung, kiêu căng. Đó là Đại Bồ-tát thường đem tâm vô nhiễm, thực hành pháp thí, dù mở rộng sự giáo hóa nhưng chẳng tự cao.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát vì nghiêm tịnh cõi Phật, nên trồng các căn lành, tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự cao?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tinh tấn dõng mãnh tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, vì muốn thanh tịnh cõi lòng của chính mình và của mọi người, tuy làm như vậy nhưng chẳng tự cao. Đó là Đại Bồ-tát vì nghiêm tịnh cõi Phật nên trồng các căn lành tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự cao.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát vì giáo hóa hữu tình, dù chẳng nhàm chán với vô biên sanh tử nhưng không buông lung, kiêu căng?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì muốn thành thục tất cả hữu tình, nên trồng các căn lành, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cho đến chưa viên mãn trí nhất thiết trí, chưa thành tựu trọn vẹn tất cả Phật pháp, thì dù phải chịu vô biên sanh tử, khổ nhọc nhưng không hề nhàm chán mỏi mệt, cũng chẳng tự cao. Đó là Đại Bồ-tát vì giáo hóa hữu tình, dù chẳng nhàm chán với vô biên sanh tử nhưng không buông lung, kiêu căng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát tuy có hổ thẹn nhưng không chấp trước?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chuyên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì đầy đủ hổ thẹn nên quyết không khởi lên tác ý về Thanh văn, Độc giác, nhưng ở trong đó không được chấp trước, không sanh nhàm chán mà hủy báng. Đó là Đại Bồ-tát tuy có hổ thẹn nhưng không chấp trước.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ-tát nên an trụ năm pháp như vậy, siêng năng, tinh tấn tu tập khiến mau viên mãn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát trụ chỗ vắng vẻ thường không từ bỏ?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuy vượt những bậc của Thanh văn, Độc giác, nhưng thường chẳng từ bỏ chỗ vắng vẻ. Đó là Đại Bồ-tát trụ chỗ vắng vẻ thường không từ bỏ.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường ưa sự thiểu dục?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát không vì bản thân mà mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống chi mong cầu những việc của thế gian và hàng Nhị thừa. Đó là Đại Bồ-tát thường ưa thiểu dục.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường ưa hỷ túc?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chuyên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên không chấp trước các việc khác. Đó là Đại Bồ-tát thường ưa hỉ túc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường chẳng lìa bỏ công đức Đầu-đà?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xét kỹ pháp nhẫn trong giáo pháp thâm sâu của Phật. Đó là Đại Bồ-tát thường chẳng lìa bỏ công đức Đầu-đà.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường chẳng xả bỏ các học xứ?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào giữ vững giới đã học, chẳng dời đổi cũng chẳng chấp thủ tướng của chúng. Đó là Đại Bồ-tát thường chẳng xả bỏ các học xứ.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát rất nhàm chán, muốn xa lìa các dục lạc?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chẳng khởi lòng dục đối với dục lạc hấp dẫn. Đó là Đại Bồ-tát nhàm chán, muốn xa lìa các dục lạc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường muốn phát khởi tâm tương ưng Niết-bàn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào hiểu biết hết tất cả pháp thường không tạo tác. Đó là Đại Bồ-tát thường muốn phát khởi Niết-bàn tương ưng với tâm.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường muốn xả bỏ tất cả vật?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường không chấp thủ nội ngoại pháp. Đó là Đại Bồ-tát thường muốn xả bỏ tất cả vật.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát chẳng mê muội bất cứ lúc nào?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với các thức, tâm an trụ nhưng không chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát chẳng mê muội bất cứ lúc nào.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường không luyến tiếc tất cả sự việc?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào chẳng có tư duy gì về tất cả sự việc. Đó là Đại Bồ-tát thường không luyến tiếc tất cả sự việc.

- Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ-tát phải thường thọ trì không được tạm ngưng đối với mười pháp này.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát xa lìa gia cư?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tánh ưa dạo chơi cõi nước của chư Phật, sanh ở chỗ nào cũng muốn xuất gia, cạo bỏ râu tóc, ôm bình bát, mặc ba pháp y, hiện làm Sa-môn. Đó là Đại Bồ-tát xa lìa gia cư.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa Bí-sô ni?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thường phải xa lìa các Bí-sô ni, không cùng họ ở chung trong khoảng thời gian rất ngắn, chẳng khởi tâm xấu về họ. Đó là Đại Bồ-tát xa lìa Bí-sô ni.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa nhà keo kiệt?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ như vầy: Ta nên vì lợi ích an vui lâu dài cho tất cả hữu tình, khiến hữu tình này nương nhờ phước lực của họ mà cảm được, làm vị thí chủ tốt như vậy, vì thế ở trong đây ta chớ nên keo kiệt, ganh ghét. Suy nghĩ như vậy rồi, vị ấy xa lìa nhà keo kiệt. Đó là Đại Bồ-tát xa lìa nhà keo kiệt.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa hội chúng tranh cãi, tức giận?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ thế này: Hội chúng nào gồm Thanh vănĐộc giác, trong đó nói pháp yếu tương ưng với hàng Nhị thừa, làm cho ta lui mất tâm đại Bồ-đề. Vì thế, ta quyết định nên xa lìa chúng hội ấy.

Lại nghĩ như vầy: Những kẻ hay tức giận tranh cãi ấy có thể làm cho các hữu tình phát khởi sự sân hại, tạo ra nhiều loại nghiệp ác bất thiện. Đối với đường lành còn chống trái huống gì đại Bồ-đề. Vì thế quyết định xa lìa sự tức giận tranh cãi. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa hội chúng tranh cãi tức giận.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự khen mình chê người?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào không thấy có pháp trong, pháp ngoài, xa lìa sự khen mình chê người. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự khen mình chê người.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa mười nghiệp đạo ác?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào suy nghĩ thế này: Đối với cảnh giới thiện như trời, người mà mười điều ác này còn ngăn ngại như vậy, huống gì đối với Thánh đạođại Bồ-đề. Thế nên nhất định ta phải xa lìa chúng. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa mười nghiệp đạo ác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự tăng thượng mạn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào hoàn toàn không thấy có các pháp trong và ngoài đáng để mà phát khởi sự tăng thượng mạn. Vì thế nên quyết định xa lìa sự tăng thượng mạn như vậy. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tăng thượng mạn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự điên đảo?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán các sự điên đảo hoàn toàn bất khả đắc, vì thế nhất định phải xa lìa sự điên đảo. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự điên đảo.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự do dự?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xét thấy sự do dự hoàn toàn bất khả đắc, vì thế nên quyết định xa lìa sự do dự. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa sự do dự.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tham, sân, si?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào hoàn toàn không thấy có tham, sân, si, nên xa lìa ba độc này. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tham, sân, si.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ-tát phải thường xa lìa, không nên gần gũi, tu tập theo mười pháp này.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, vượt qua các bậc Thanh văn, Độc giác v.v... Nếu trụ vào sáu Ba-la-mật-đa này, thì thánh chúng Tam thừa có thể vượt qua năm loại sở tri đến bờ giác. Những gì là năm? Một là quá khứ; hai là vị lai; ba là hiện tại; bốn là vô vi; năm là bất khả thuyết. Cho nên Đại Bồ-tát nhất định phải viên mãn bố thí v.v... sáu pháp Ba-la-mật-đa. Đó là Đại Bồ-tát nên viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Thanh văn?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm Thanh văn thừa chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì nhàm chán sanh tử. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Thanh văn.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Độc giác?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm Độc giác thừa chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì ưa thích Niết-bàn. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm nhiệt não?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khởi nghĩa như vầy: Tâm nhiệt não vì lo sợ sanh tử chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phải xa lìa tâm nhiệt não. Vì sao? Vì sợ sanh tử. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm nhiệt não.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm mỗi khi thấy người nào đến xin sầu não, chẳng vui?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm ưu sầu không vui này chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với từ bi. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm hễ thấy người nào đến xin sầu não, chẳng vui.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm hối tiếc, buồn rầu hối hận đối với vật sở hữu đã cho?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm hối tiếc này chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái nghịch với bản nguyện. Nghĩa là trước đây khi phát Bồ-đề tâm, ta có nguyện: Tất cả vật sở hữu của ta tùy theo mong cầu của kẻ đến xin đều thí cho hết, chẳng để họ thiếu thốn. Thế mà hôm nay đã cho sao còn hối tiếc. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm hối tiếc đối với vật sở hữu đã cho.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm tìm cách lẫn tránh đối với kẻ đến xin?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Tâm lẫn tránh này chẳng phải đạo để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với lời nguyện ban đầu. Nghĩa là trước đây khi phát Bồ-đề tâm, ta có nguyện: Phàm ai đến xin những vật sở hữu của ta, ta đều cho theo nhu cầu của họ, chẳng để họ thiếu thốn. Tại sao hôm nay lại trốn tránh họ. Đó là Đại Bồ-tát nên xa lìa tâm trốn tránh với kẻ đến xin.

Thiện Hiện nên biết: Khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sáu pháp đã nói ở trước, và nên xa lìa sáu pháp đã nói ở sau, nhưng trong đó không có sự chấp thủ.

Quyển thứ 490
HẾT

 

10

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp ngã, cho đến chấp kiến giả?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát quán ngã cho đến kiến giả hoàn toàn chẳng có, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp ngã cho đến chấp kiến giả.Vì sao? Vì tự tánh của ngã cho đến kiến giả bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp đoạn?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tất cả pháp tánh không thể đoạn, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp đoạn. Vì sao? Vì nghĩa của tất cả pháp hoàn toàn không sanh, không đoạn.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp thường?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh tất cả pháp là thường, chẳng có, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp thường. Vì sao? Vì tất cả pháp không sanh, không diệt, chẳng đoạn, thường.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa tưởng tướng?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán pháp tạp nhiễm hoàn toàn chẳng có, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa tưởng tướng. Vì sao? Vì pháp tạp nhiễm tánh nó vốn xa lìa.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp kiến?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không thấy có tự tánh của các kiến, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp kiến. Vì sao? Vì chỗ thấy của các pháp bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp danh sắc?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh của danh sắc hoàn toàn vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp danh sắc. Vì sao? Vì danh sắc chơn thật bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp uẩn?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh các uẩn hoàn toàn vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp uẩn. Vì sao? Vì tánh của pháp tích tụ bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp xứ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh các xứ hoàn toàn vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp xứ. Vì sao? Vì tánh pháp sanh môn bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp giới?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh các giới hoàn toàn vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp giới. Vì sao? Vì tánh pháp trụ trì bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp nghĩa chơn thật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh các nghĩa chơn thật hoàn toàn vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp nghĩa chơn thật. Vì sao? Vì pháp chẳng phải hư dối bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp duyên khởi?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh duyên khởi đều vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp duyên khởi. Vì sao? Vì pháp vô minh v.v... bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp trước trụ ba cõi?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh ba cõi đều vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp trước trụ ba cõi. Vì sao? Vì sự ràng buộc ba cõi bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp tất cả pháp?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh các pháp đều vô sở hữu, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp tất cả pháp. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp chỉgiả dụ, thiết lập đều giống như hư không bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa sự chấp đối với tất cả pháp như lý hoặc bất như lý?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tánh tất cả pháp không có là đúng lý, không đúng lý, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa sự chấp đối với tất cả pháp như lý hoặc bất như lý. Vì sao? Vì các pháp như vậy bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Phật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chỉ biết dựa vào việc thấy Phật thì không được thấy Phật, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Phật. Vì sao? Vì tự tánh chơn như Phật không thể thấy.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Pháp?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chỉ biết dựa vào việc thấy pháp thì không được thấy pháp, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Pháp. Vì sao? Vì tự tánh chơn như của pháp không thể thấy.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Tăng?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chỉ biết dựa vào việc thấy Tăng thì không được thấy Tăng, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Tăng. Vì sao? Vì tự tánh chơn như của Tăng vô tướng, vô vi không thể thấy.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy giới?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chỉ biết tánh tội phước đầy đủ chẳng thật có, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy giới. Vì sao? Vì tội hoặc phước chỉ giả dụ, thiết lập bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Không?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán các pháp là Không, đều vô sở hữu, không thể xem thấy, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa chấp dựa vào việc thấy Không. Vì sao? Vì tự tánh của Không chẳng có, chẳng không, không thể thấy.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa nhàm chán sợ hãi tánh Không?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán tất cả pháp tự tánh đều Không, chẳng phải Không cùng với Không có sự chống trái, cho nên việc nhàm chán sợ hãi đều bất khả đắc, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên xa lìa nhàm chán sợ hãi tánh Không. Vì sao? Vì các pháp tánh, hoặc sự nhàm chán sợ hãi là Không, chẳng có pháp tánh, không nên nhàm chán sợ hãi.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn, thông đạt pháp Không?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp tự tướng đều Không, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thông đạt pháp Không.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn chứng đắc vô tướng?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không suy nghĩ tất cả tướng, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn chứng đắc vô tướng.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn liễu tri vô nguyện?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đối với pháp trong ba cõi, tâm không chỗ trụ, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn liễu tri vô nguyện.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thanh tịnh ba luân?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát viên mãn thanh tịnh mười thiện nghiệp đạo, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thanh tịnh ba luân.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thương xót hữu tình và đối với loài hữu tình không có chỗ chấp trước?

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đã được đại bi và làm trang nghiêm tịnh độ đều không chỗ chấp trước, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thương xót hữu tình và đối với loài hữu tình không có chỗ chấp trước.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thấy tánh bình đẳng đối với tất cả pháp, và không chấp trước những điều trong đó?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không tăng, không giảm và không chấp thủ, không trụ trước những điều trong đó, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thấy tánh bình đẳng đối với tất cả pháp và không chấp trước những điều trong đó.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thấy tánh bình đẳng đối với các loài hữu tình, và không chấp trước những điều trong đó?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với các hữu tình không tăng, không giảm và không chấp thủ, không trụ trước những điều trong đó, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thấy tánh bình đẳng đối với các loài hữu tìnhkhông chấp trước những điều trong đó.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thông suốt rốt ráo đối với pháp chơn thật nghĩa lý, và không chấp trước những điều trong đó?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp chơn thật nghĩa lý, tuy thật thông đạt mà không có chỗ thông đạt, không chấp thủ, không trụ trước những điều trong đó, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thông suốt rốt ráo đối với pháp chơn thật nghĩa lý, và không chấp trước những điều trong đó.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn trí nhẫn vô sanh?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nhẫn nhục với tất cả pháp không sanh, không diệt, không tạo, không tác, và biết rõ danh sắc hoàn toàn không sanh, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn trí nhẫn vô sanh.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không hành hai tướng, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn diệt trừ phân biệt?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có sự phân biệt, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn diệt trừ phân biệt.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa các tưởng?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường được xa lìa tất cả tưởng nhỏ, tưởng lớn và vô lượng tưởng, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa các tưởng.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa các sự thấy?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa các sự thấy của Thanh văn, Độc giác v.v... thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa các sự thấy.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa phiền não?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xả bỏ tất cả sự liên tục của các tập khí phiền não hữu lậu, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn xa lìa phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường được viên mãn khéo léo thực hành pháp chỉ quán?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, thì đây là Đại Bồ-tát thường được viên mãn khéo léo thực hành pháp chỉ quán.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn điều phục tâm tánh?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ở trong ba cõi mà không đắm trước, không lạc thú, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn điều phục tâm tánh.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tâm tánh tịch tĩnh?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nhiếp phục sáu căn, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tâm tánh tịch tĩnh.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tánh vô ngại trí?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành chứng đắc Phật nhãn, đối với tất cả pháp quyết định rõ ràng không chướng ngại, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tánh vô ngại trí.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn không bị ái nhiễm?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với lục xứ xả bỏ hoàn toàn, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn không ái nhiễm bất cứ điều gì.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên tùy tâm ý muốn đến các cõi chư Phật, và hiện thân trong hội chúng của chư Phật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành đạt được thần thông thù thắng, đến các cõi Phật để phụng sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn, và thỉnh chuyển pháp luân, làm lợi ích cho tất cả, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên tùy tâm ý muốn đến các cõi chư Phật, và hiện thân trong hội chúng của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết: Khi chư Đại Bồ-tát an trụ ở địa thứ bảy thì thường nên xa lìa hai mươi pháp trước và nên viên mãn hai mươi pháp sau.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn ngộ nhập tâm hành tất cả hữu tình?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nhất tâm cùng với trí như thật biết khắp hành tướng sai biệt tâm và tâm sở của tất cả hữu tình, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn ngộ nhập tâm hành tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn du hí thần thông?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường du hí các loại thần thông tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì để thân cận cúng dường chư Phật, chứ không sanh vọng tưởngcõi Phật, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn du hí thần thông.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thấy các cõi Phật, và theo chỗ đã thấy mà tự trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ trong một cõi Phật thì có thể thấy mười phương vô biên cõi Phật, cũng có thể thị hiện nhưng thường không sanh ý tưởngcõi Phật. Lại vì thành thục các hữu tình cho nên thị hiện Chuyển luân vương ở khắp Tam thiên đại thiên thế giới để tự trang nghiêm, và có thể xả bỏ mà không chấp trước, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thấy các cõi Phật, và theo chỗ đã thấy mà tự trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai quán sát như thật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát vì muốn lợi ích các hữu tình cho nên đối với nghĩa lý các pháp như thật phân biệt. Như vậy gọi là vì pháp phụng sự cúng dường chư Phật, chơn thật quán sát pháp thân chư Phật, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, và đối với thân Như Lai quán sát như thật.

Thiện Hiện nên biết: Khi Đại Bồ-tát an trụ địa thứ tám thì đối với bốn pháp này thường nên viên mãn.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn trí căn hơn kém?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ trong mười phương Phật, như thật biết rõ các căn hơn kém của tất cả hữu tình, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn trí căn hơn kém.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, để trang nghiêm thanh tịnh tâm hành của tất cả hữu tình và không bị chấp trước, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn các định số nhập đẳng trì như huyễn?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ định đẳng trì này, tuy có thể thành tựu tất cả sự nghiệptâm không dao động đối với các pháp. Lại tu rất thành thục môn đẳng trì nên không cần tạo gia hạnh, mà luôn hiện tiền, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn các định số nhập đẳng trì như huyễn.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tùy theo căn lành thuần thục của các hữu tình mà tự nguyện thị hiện vào trong các cõi để hóa sanh?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát vì muốn thành thục thiện căn thù thắng của các hữu tình theo chỗ thích nghi, để thị hiện thọ sanh vào trong các cõi, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tùy theo căn lành thuần thục của các hữu tình mà tự nguyện thị hiện vào trong các cõi để hóa sanh.

Thiện Hiện nên biết: Khi các Đại Bồ-tát an trụ địa thứ chín thì đối với bốn pháp này thường nên viên mãn.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên tùy theo đại nguyệnnhiếp thọ vô biên xứ và theo sở nguyện của chúng sanh mà giúp họ chứng đắc?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát vì tu sáu pháp Ba-la-mật-đa đã viên mãn, hoặc vì trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, hoặc vì thành thục các loại hữu tình, tùy tâm nguyện mà làm viên mãn không thiếu sót, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn tùy theo đại nguyệnnhiếp thọ vô biên xứ và theo sở nguyện của chúng sanh mà giúp họ chứng đắc.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên tùy theo các loại âm thanh, trí tuệ khác nhau của các loài trời, rồng, quỷ, thần, người chẳng phải người mà thuyết pháp?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu tập thù thắng từ vô ngại giải, khéo biết âm thanh ngôn ngữ khác nhau của hữu tình, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên tùy theo các loại âm thanh, trí tuệ khác nhau của các loài trời, rồng, quỷ, thần, người chẳng phải người mà thuyết pháp.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thuyết pháp biện tài vô ngại?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu tập thù thắng biện tài vô ngại giải, vì các hữu tình diễn thuyết vô tận, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thuyết pháp biện tài vô ngại.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn nhập thai đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tuy thực sự hóa sanh khắp tất cả chỗ, nhưng chỉ vì lợi ích cho hữu tìnhthị hiện nhập thai. Trong quá trình nhập thai, đều thị hiện đầy đủ các điều thù thắng, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn nhập thai đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn xuất thai đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trong khi xuất thai thị hiện các điều hi hữu, thù thắng, làm cho các hữu tình thấy đều hoan hỷ, được lợi ích lớn, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn xuất thai đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sanh trong gia tộc cao quí?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường sanh trong đại tộc Sát-đế-lợi, hoặc đại tộc Bà-la-môn, chỗ bẩm thọ cha mẹ không thể chê trách, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sanh trong gia tộc cao quí.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn chủng tánh đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường sanh trong dòng họ của Đại Bồ-tát thời quá khứ, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn chủng tánh đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chỉ cùng thuần nhất vô lượng, vô số chúng Đại Bồ-tát làm quyến thuộc, ngoài ra không xen tạp các hàng khác, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sanh thân hoàn hảo?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi mới sanh ra, thân đầy đủ các tướng tốt, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên các thế giới chư Phật, đồng thời khiến các thế giới kia biến động sáu cách. Các hữu tình thấy đều lợi lạc an vui, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn sanh thân hoàn hảo.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn xuất gia đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi xuất gia thì vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức chúng vây quanh trước sau, tôn trọng, khen ngợi. Khi đến đạo tràng, cạo bỏ râu tóc, đắp ba pháp y, tay cầm bình bát, làm thầy dẫn đường cho vô lượng, vô biên hữu tình bằng giáo lý Tam thừa cho đến lúc viên tịch, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn xuất gia đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thưòng nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ-đề đầy đủ?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát căn lành thù thắng, nguyện lực rộng lớn, cảm ứng được cội đại Bồ-đề như vầy: Thân cây bằng ngọc lưu ly, gốc bằng vàng rồng, nhánh lá hoa quả đều dùng bảy báu thượng diệu làm thành. Cội ấy cao rộng phủ khắp ba ngàn đại thiên cõi Phật, ánh sáng tỏa khắp hằng hà sa cõi Phậtmười phương thế giới. Các loài hữu tình trông thấy đều được lợi ích, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ-đề đầy đủ.

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thành tựu tất cả công đức?

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ tư lương phước tuệ thù thắng, lại thành thục các hữu tình, và làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thì đây là Đại Bồ-tát thường nên viên mãn thành tựu tất cả công đức.

Thiện Hiện nên biết: Khi Đại Bồ-tát an trụ địa thứ mười, thường nên viên mãn mười hai pháp này.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ-tát khi đã an trụ địa thứ mười rồi, đối với việc tu hành thắng pháp của các địa trước đều được viên mãn, đồng với các đức Như Lai tuyên thuyết không khác?

- Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này đã viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đã viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Đã viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Đã viên mãn pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Đã viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Đã viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Đã viên mãn tám giải thoát, chín định thứ đệ. Đã viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông. Đã viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đầy đủ tất cả trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Lại luôn luôn đoạn trừ sự tương tục của tất cả phiền não tập khí, liền được an trụ Phật địa.

Do đó nên nói: Đại Bồ-tát đã an trụ ở địa thứ mười, đối với việc tu hành thắng pháp ở các địa trước đều được viên mãn, cùng với chư Như Lai tuyên thuyết không khác.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát an trụ ở địa thứ mười hướng đến Như Lai địa như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo thực hành sáu Ba-la-mật-đa, tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đầy đủ tất cả trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Vượt qua Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa và Bồ-tát địa. Lại đoạn trừ hẳn sự tương tục tất cả phiền não tập khí, liền thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, và an trụ Như Lai địa.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát như vậy là an trụ ở địa thứ mười hướng đến Như Lai địa. Như vậy, Thiện Hiện nên biết: Đó là các Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ông có thể hỏi tiếp như vầy: Đại thừa từ đâu ra, và đến an trụ ở đâu.

Thiện Hiện nên biết: Đại thừa từ trong tam giới ra, và đến an trụ trong trí nhất thiết trí. Lại dùng pháp môn bất nhị làm phương tiện cho nên không xuất cũng không trụ. Vì sao? Vì nếu Đại thừa hoặc trí nhất thiết trí, hai pháp như vậy không hợp cũng không tan, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều đồng một tướng gọi là vô tướng. Pháp của vô tướng không xuất không trụ. Vì sao? Vì pháp vô tướng chẳng phải đã xuất đã trụ, chẳng phải sẽ xuất, sẽ trụ, chẳng phải đang xuất, đang trụ.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều không có thể ra ngoài tam giới, cũng không có thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì chơn như, tự tánh chơn như là Không, cho đến cảnh giới bất tư nghì, tự tánh cảnh giới bất tư nghì là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịnh lự, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì cảnh giới đoạn, tự tánh của cảnh giới đoạn là Không; cho đến cảnh giới vô vi, tự tánh cảnh giới vô vi là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn sắc Không cho đến thức Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Sắc Không cho đến thức Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì sắc không, tự tánh sắc Không là Không; cho đến thức không, tự tánh thức Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn nhãn xứ Không cho đến ý xứ Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Nhãn xứ Không cho đến ý xứ Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nhãn xứ Không, tự tánh nhãn xứ Không là Không; cho đến ý xứ Không, tự tánh ý xứ Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn sắc xứ Không cho đến pháp xứ Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì sắc xứ Không cho đến pháp xứ Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì sắc xứ Không, tự tánh sắc xứ Không là Không; cho đến pháp xứ Không, tự tánh pháp xứ không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn nhãn giới Không cho đến ý giới Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì nhãn giới Không cho đến ý giới Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nhãn giới Không, tự tánh nhãn giới Không là Không; cho đến ý giới Không, tự tánh ý giới Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn sắc giới Không cho đến pháp giới Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì sắc giới Không cho đến pháp giới Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì sắc giới Không, tự tánh sắc giới Không là Không; cho đến pháp giới Không, tự tánh pháp giới Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn nhãn thức giới Không cho đến ý thức giới Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì nhãn thức giới Không cho đến ý thức giới Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nhãn thức giới Không, tự tánh nhãn thức giới Không là Không; cho đến ý thức giới Không, tự tánh ý thức giới Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn nhãn xúc Không cho đến ý xúc Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì nhãn xúc Không cho đến ý xúc Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nhãn xúc Không, tự tánh nhãn xúc Không là Không; cho đến ý xúc Không, tự tánh ý xúc Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không là Không; cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn địa giới Không cho đến thức giới Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì địa giới không cho đến thức giới Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì địa giới Không, tự tánh địa giới Không là Không; cho đến thức giới Không, tự tánh thức giới Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn nhân duyên Không cho đến tăng thượng duyên Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì nhân duyên Không cho đến tăng thượng duyên Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nhân duyên Không, tự tánh nhân duyên Không là Không; cho đến tăng thượng duyên Không, tự tánh tăng thượng duyên Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn vô minh Không cho đến lão tử Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì vô minh Không cho đến lão tử Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì vô minh Không, tự tánh vô minh Không là Không; cho đến lão tử Không, tự tánh lão tử Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn cảnh trong mộng, chuyện huyễn hoặc, tiếng vang, hình bóng, ánh sáng, quáng nắng, hoa đốm giữa hư không, thành Tầm hương, việc biến hóa cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì cảnh trong mộng cho đến việc biến hóa đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì cảnh trong mộng, tự tánh cảnh trong mộng là Không; cho đến việc biến hóa, tự tánh việc biến hóa là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bố thí Ba-la-mật-đa Không cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa Không cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa Không, tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa Không là Không; cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không, tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì pháp nội Không, tự tánh pháp nội Không là Không; cho đến pháp vô tính tự tính Không, tự tánh pháp vô tính tự tính Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không, tự tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bốn niệm trụ Không cho đến tám chi thánh đạo Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bốn niệm trụ Không cho đến tám chi thánh đạo Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bốn niệm trụ Không, tự tánh bốn niệm trụ Không là Không; cho đến tám chi thánh đạo Không, tự tánh tám chi thánh đạo Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bốn tịnh lự Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bốn tịnh lự Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bốn tịnh lự Không, tự tánh bốn tịnh lự Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bốn vô lượng Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bốn vô lượng Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bốn vô lượng Không, tự tánh bốn vô lượng Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bốn định vô sắc Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bốn định vô sắc Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bốn định vô sắc Không, tự tánh bốn định vô sắc Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không, tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn tám giải thoát Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì tám giải thoát Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tám giải thoát Không, tự tánh tám giải thoát Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn chín định thứ đệ Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì chín định thứ đệ Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì chín định thứ đệ Không, tự tánh chín định thứ đệ Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn Tịnh quán địa Không cho đến Như Lai địa Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì Tịnh quán địa Không cho đến Như Lai địa Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Tịnh quán địa Không, tự tánh Tịnh quán địa Không là Không; cho đến Như Lai địa Không, tự tánh Như Lai địa Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn Cực hỷ địa Không cho đến Pháp vân địa Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì Cực hỷ địa Không cho đến Pháp vân địa Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Cực hỷ địa Không, tự tánh Cực hỷ địa Không là Không; cho đến Pháp vân địa Không, tự tánh Pháp vân địa Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không, tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn năm loại mắt, sáu phép thần thông Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông Không, tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn mười lực Như Lai Không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì mười lực Như Lai Không cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không, đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì mười lực Như Lai Không, tự tánh mười lực Như Lai Không là Không; cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không, tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không, tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không, tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bậc Dự lưu lại sanh ác thú, bậc Nhất lai lại thường sanh trở lại, bậc Bất hoàn lại sanh cõi Dục, các Bồ-tát lại sanh tâm tự lợi, A-la-hán, Độc giác, Như Lai lại sanh thân đời sau cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bậc Dự lưu lại sanh ác thú cho đến Như Lai lại sanh thân đời sau đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bậc Dự lưu lại sanh ác thú, tự tánh bậc Dự lưu lại sanh ác thú là Không; cho đến Như Lai lại sanh thân đời sau, tự tánh Như Lai sanh thân đời sau là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn bậc Dự lưu Không cho đến Như Lai Không cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì bậc Dự lưu Không cho đến Như Lai Không đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì bậc Dự lưu Không, tự tánh bậc Dự lưu Không là Không; cho đến Như Lai không, tự tánh Như Lai Không là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn danh tự, giả dụ, tưởng tượng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì danh tự, giả dụ, tưởng tượng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tự tánh danh tự, giả dụ, tưởng tượng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng là Không.

Thiện Hiện nên biết: Có người muốn làm cho pháp vô tướng có xuất có trụ, chỉ vì muốn pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi cũng có xuất có trụ. Vì sao? Vì pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi đều không thể ra ngoài tam giới, cũng không thể đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi, tự tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là Không.

Thiện Hiện nên biết: Do các sự kiện này cho nên Ta nói: Đại thừa ra ngoài tam giới, đến an trụ nơi trí nhất thiết trí. Rồi dùng pháp môn bất nhị làm phương tiện nên không xuất, không trụ. Vì sao? Vì pháp vô tướng không động chuyển, cho nên không thể nói có xuất có trụ.

Quyển thứ 491
HẾT

 

11

Lại nữa, Thiện Hiện! Ông lại hỏi: Đại thừa như vậy là trụ ở đâu.

Thiện Hiện nên biết: Đại thừa như thế đều vô sở trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ, là do chỗ trụ của các pháp bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Đại thừa như thế dùng vô sở đắc làm phương tiện để an trụ vô sở trụ.

Thiện Hiện! Ví như chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như cho đến tự tánh cảnh giới bất tư nghì đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như, tự tánh chơn như là Không; cho đến tự tánh cảnh giới bất tư nghì, tự tánh cảnh giới bất tư nghì là Không.

Thiện Hiện! Ví như cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tĩnh, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô nhiễm, cảnh giới vô tịnh, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh giới đoạn cho đến tự tánh cảnh giới vô vi đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh giới đoạn, tự tánh cảnh giới đoạn là Không; cho đến tự tánh cảnh giới vô vi, tự tánh cảnh giới vô vi là Không.

Thiện Hiện! Ví như sắc uẩn cho đến thức uẩn chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc uẩn, tự tánh sắc uẩn là Không; cho đến tự tánh thức uẩn, tự tánh thức uẩn là Không.

Thiện Hiện! Ví như nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ cho đến tự tánh ý xứ đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ, tự tánh nhãn xứ là Không; cho đến tự tánh ý xứ, tự tánh ý xứ là Không.

Thiện Hiện! Ví như sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ cho đến tự tánh pháp xứ đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ, tự tánh sắc xứ là Không; cho đến tự tánh pháp xứ, tự tánh pháp xứ là Không.

Thiện Hiện! Ví như nhãn giới cho đến ý giới chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới cho đến tự tánh ý giới đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới, tự tánh nhãn giới là Không; cho đến tự tánh ý giới, tự tánh ý giới là Không.

Thiện Hiện! Ví như sắc giới cho đến pháp giới chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới cho đến tự tánh pháp giới đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới, tự tánh sắc giới là Không; cho đến tự tánh pháp giới, tự tánh pháp giới là Không.

Thiện Hiện! Ví như nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới cho đến tự tánh ý thức giới đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới, tự tánh nhãn thức giới là Không; cho đến tự tánh ý thức giới, tự tánh ý thức giới là Không.

Thiện Hiện! Ví như nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc, tự tánh nhãn xúc là Không; cho đến tự tánh ý xúc, tự tánh ý xúc là Không.

Thiện Hiện! Ví như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Không; cho đến tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Không.

Thiện Hiện! Ví như địa giới cho đến thức giới chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh địa giới cho đến tự tánh thức giới đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh địa giới, tự tánh địa giới là Không; cho đến tự tánh thức giới, tự tánh thức giới là Không.

Thiện Hiện! Ví như nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhân duyên cho đến tự tánh tăng thượng duyên đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh nhân duyên, tự tánh nhân duyên là Không; cho đến tự tánh tăng thượng duyên, tự tánh tăng thượng duyên là Không.

Thiện Hiện! Ví như vô minh cho đến lão tử chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô minh cho đến tự tánh lão tử đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô minh, tự tánh vô minh là Không; cho đến tự tánh lão tử, tự tánh lão tử là Không.

Thiện Hiện! Ví như cảnh mộng, việc huyễn, tiếng vang, ảnh trong gương, quáng nắng, quáng mắt, hoa đốm, thành Tầm hương, các việc biến hóa như vậy chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh của cảnh mộng cho đến tự tánh các việc biến hóa đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng, tự tánh cảnh mộng là Không; cho đến tự tánh các việc biến hóa, tự tánh các việc biến hóa là Không.

Thiện Hiện! Ví như bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa là Không; cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa, tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa là Không.

Thiện Hiện! Ví như pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp nội Không cho đến tự tánh pháp vô tính tự tính Không đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp nội Không, tự tánh pháp nội Không là Không; cho đến tự tánh pháp vô tính tự tính Không, tự tánh pháp vô tính tự tính Không là Không.

Thiện Hiện! Ví như Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tự tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là Không.

Thiện Hiện! Ví như bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ cho đến tự tánh tám chi thánh đạo đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ là Không; cho đến tự tánh tám chi thánh đạo, tự tánh tám chi thánh đạo là Không.

Thiện Hiện! Ví như bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là Không.

Thiện Hiện! Ví như pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là Không.

Thiện Hiện! Ví như tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ, tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ là Không.

Thiện Hiện! Ví như Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Tịnh quán địa cho đến tự tánh Như Lai địa đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Tịnh quán địa, tự tánh Tịnh quán địa là Không; cho đến tự tánh Như Lai địa, tự tánh Như Lai địa là Không.

Thiện Hiện! Ví như Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Cực hỷ địa cho đến tự tánh Pháp vân địa đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh Cực hỷ địa, tự tánh Cực hỷ địa là Không; cho đến tự tánh Pháp vân địa, tự tánh Pháp vân địa là Không.

Thiện Hiện! Ví như pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là Không.

Thiện Hiện! Ví như năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông, tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông là Không.

Thiện Hiện! Ví như mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh mười lực Phật cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh mười lực Phật, tự tánh mười lực Phật là Không; cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng, tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng là Không.

Thiện Hiện! Ví như pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là Không.

Thiện Hiện! Ví như trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là Không.

Thiện Hiện! Ví như bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú, bậc Nhất lai mà thường sanh lại, bậc Bất hoàn lại sanh cõi Dục, các Đại Bồ-tát lại sanh mà tâm tự lợi, A-la-hán, Độc giác, Như Laisanh thân đời sau chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú cho đến tự tánh Như Lai mà lại có sanh thân đời sau đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú, tự tánh bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú là Không; cho đến tự tánh Như Lai mà lại có sanh thân đời sau, tự tánh Như Lai mà lại có sanh thân đời sau là Không.

Thiện Hiện! Ví như Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu hướng cho đến tự tánh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu hướng, tự tánh bậc Dự lưu hướng là Không; cho đến tự tánh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, tự tánh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là Không.

Thiện Hiện! Ví như danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng, tự tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng là Không.

Thiện Hiện! Ví như vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh các pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi đều không trụ, không phải không trụ. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi, tự tánh các pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi là Không.

Thiện Hiện! Do các điều trên nên Ta nói: Đại thừa tuy vô sở trụ, nhưng dùng pháp môn bất nhị làm phương tiện, có trụ mà không chỗ trụ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Câu hỏi sau của ông là: Ai giải thoát bằng cách tu tập Đại thừa?

Thiện Hiện nên biết: Hoàn toàn không có Đại thừa nào là Đại thừa giải thoát cả. Vì sao? Vì việc tu tập Đại thừa, hay người tu tập theo Đại thừa, do đây, vì vậy, hoặc nơi, hoặc lúc, tất cả như vậy đều vô sở hữu, đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc, cho nên không thể nói có chỗ tu hành, hoặc có người tu hành Đại thừa, do đây, vì vậy, hoặc nơi, hoặc lúc. Do nhân duyên này nên nói không có thừa nào là Đại thừa có thể giải thoát cả. Vì sao? Vì không có thừa nào để giải thoát cả, tất cả pháp hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Ngã là vô sở hữu, bất khả đắc, nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh. Như vậy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sinh, thanh niên, người làm, người thọ cũng vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tĩnh, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô nhiễm, cảnh giới vô tịnh, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhãn xứ cho đến ý xứ đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Sắc xứ cho đến pháp xứ đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhãn giới cho đến ý giới đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Sắc giới cho đến pháp giới đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhãn xúc cho đến ý xúc đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Địa giới cho đến thức giới đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Cảnh mộng, việc huyễn, tiếng vang, ảnh trong gương, quáng nắng, quáng mắt, hoa đốm, thành Tầm hương, các việc biến hóa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú, bậc Nhất lai mà thường sanh lại, bậc Bất hoàn mà lại sanh cõi Dục, các Đại Bồ-tát mà sanh tâm tự lợi, A-la-hán, Độc giác, Như Lai mà lại thường sanh thân đời sau đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, Như Lai đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Các pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Khoảng trước, sau, giữa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp nào trong đây bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh ngã cho đến tánh kiến giả bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh ngã cho đến tánh kiến giả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh chơn như cho đến tánh cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh chơn như cho đến tánh cảnh giới bất tư nghì chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh cảnh giới đoạn cho đến tánh cảnh giới vô vi bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh cảnh giới đoạn cho đến tánh cảnh giới vô vi chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc uẩn cho đến tánh thức uẩn bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh sắc uẩn cho đến tánh thức uẩn chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn xứ cho đến tánh ý xứ bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh nhãn xứ cho đến tánh ý xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc xứ cho đến tánh pháp xứ bất khả đắc, cho nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh sắc xứ cho đến tánh pháp xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn giới cho đến tánh ý giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh nhãn giới cho đến tánh ý giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc giới cho đến tánh pháp giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh sắc giới cho đến tánh pháp giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn thức giới cho đến tánh ý thức giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh nhãn thức giới cho đến tánh ý thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn xúc cho đến tánh ý xúc bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh nhãn xúc cho đến tánh ý xúc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh địa giới cho đến tánh thức giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh địa giới cho đến tánh thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhân duyên cho đến tánh tăng thượng duyên bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh nhân duyên cho đến tánh tăng thượng duyên chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh vô minh cho đến tánh lão tử bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh vô minh cho đến tánh lão tử chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh cảnh mộng cho đến tánh của các việc biến hóa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh cảnh mộng cho đến tánh của các việc biến hóa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp nội Không cho đến tánh pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh pháp nội Không cho đến tánh pháp vô tính tự tính Không chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bốn niệm trụ cho đến tánh tám chi thánh đạo bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bốn niệm trụ cho đến tánh tám chi thánh đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Tịnh quán địa cho đến tánh Như Lai địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh Tịnh quán địa cho đến tánh Như Lai địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Cực hỷ địa cho đến tánh Pháp vân địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh Cực hỷ địa cho đến tánh Pháp vân địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh mười lực Như Lai cho đến tánh mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh mười lực Như Lai cho đến tánh mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú, cho đến tánh Như Lai lại có sanh thân đời sau bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bậc Dự lưu mà lại sanh ác thú, cho đến tánh Như Lai lại có sanh thân đời sau chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của bậc Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh của các bậc Dự lưu hướng cho đến tánh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của bậc Dự lưu cho đến tánh của Như Lai bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bậc Dự lưu cho đến tánh của Như Lai chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh giai đoạn đầu, giữa, sau bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh của giai đoạn đầu, giữa, sau chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, sắc cho đến thức chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xứ cho đến ý xứ trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Sắc xứ cho đến pháp xứ trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn giới cho đến ý giới trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, nhãn giới cho đến ý giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Sắc giới cho đến pháp giới trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, sắc giới cho đến pháp giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn thức giới cho đến ý thức giới trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xúc cho đến ý xúc trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Địa giới cho đến thức giới trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, địa giới cho đến thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Vô minh cho đến lão tử trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, vô minh cho đến lão tử chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tám giải thoát, chín định thứ đệ trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Năm loại mắt, sáu phép thần thông trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bậc Dự lưu hướng cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, bậc Dự lưu hướng cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình trong pháp nội Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy quán các pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc, hoàn toàn thanh tịnh, cho nên không có người Đại thừa xuất trụ. Nhưng dùng vô sở đắc làm phương tiện để Đại thừa từ trong ba đường sanh tử, đến an trụ nơi trí nhất thiết trí, suốt đời vị lai làm lợi ích an lạc cho loài hữu tình, không đoạn, không tận.

Quyển thứ 492
HẾT

 

12

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nói Đại thừa, Đại thừa ấy vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng. Đại thừa như vậy với hư không bình đẳng. Ví như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Như hư không, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy. Như hư không khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Đại thừa như thế tối tôn, tối thắng, cùng với hư không bình đẳng, dung nạp rất nhiều, không động, không trụ, bình đẳng của ba đời, vượt khỏi ba đời cho nên gọi là Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông đã nói. Bồ-tát Đại thừa đủ công đức vô biên như vậy. Thiện Hiện nên biết: Đại thừa của các Đại Bồ-tát là sáu pháp Ba-la-mật-đa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát đó là pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, đại Không, Không Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh (rốt ráo) Không, vô tế Không, tán Không, bản tính Không, tự tướng Không, nhất thiết pháp Không, vô tính Không, vô tính tự tính Không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là tất cả pháp môn Đà-la-ni, đó là: Văn tự Đà-la-ni v.v... vô lượng, vô số pháp môn Đà-la-ni.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đó là: Kiện hành Tam-ma-địa v.v... vô lượng, vô số pháp môn Tam-ma-địa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa của các Đại Bồ-tát là ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, ba môn giải thoát nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng v.v... công đức vô lượng, vô biên thù thắng, nên biết đều là Đại thừa Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ông nói Đại thừa vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng. Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông đã nói.

Thiện Hiện nên biết: Nếu Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giớichơn như, chẳng phải hư vọng, không biến đổi, chẳng điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giớibiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều là tánh không thật, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu sắc uẩn cho đến thức uẩnchơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu sắc uẩn cho đến thức uẩnbiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nhãn xứ cho đến ý xứchơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu nhãn xứ cho đến ý xứbiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, tánh đều không thật, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu sắc xứ pháp cho đến pháp xứchơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu sắc xứ cho đến pháp xứbiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nhãn giới cho đến ý giớichơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu nhãn giới cho đến ý giớibiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu sắc giới cho đến pháp giớichơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu sắc giới cho đến pháp giớibiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nhãn thức giới cho đến ý thức giới là chơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu nhãn thức giới cho đến ý thức giới là biến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nhãn xúc cho đến ý xúc là chơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu nhãn xúc cho đến ý xúc là biến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là chơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là biến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu địa giới cho đến thức giớichơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu địa giới cho đến thức giớibiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nhân duyên cho đến tăng thượng duyênchơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu nhân duyên cho đến tăng thượng duyênbiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu vô minh cho đến lão tửchơn như, chẳng phải hư vọng, không biến dị, không điên đảo, chẳng giả dụ, thiết lập, mà là chơn, là thật, có thường, có hằng, không biến, không đổi, có thật tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu vô minh cho đến lão tửbiến kế sở chấp, là hư vọng, giả hợp, là có dời động, cho đến tất cả đều không thường, không hằng, có biến, có đổi, đều không thật tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tĩnh, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô nhiễm, cảnh giới vô tịnh, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vithật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đathật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạothật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tám giải thoát, chín định thứ đệthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu năm loại mắt, sáu phép thần thôngthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp Cực hỷ địa cho đến pháp Pháp vân địathật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu pháp Cực hỷ địa cho đến pháp Pháp vân địa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bậc Cực hỷ địa cho đến bậc Pháp vân địathật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu bậc Cực hỷ địa cho đến bậc Pháp vân địa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp Tịnh quán địa cho đến pháp Như Lai địa là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu pháp Tịnh quán địa cho đến pháp Như Lai địa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bậc Tịnh quán địa cho đến bậc Như Lai địathật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu bậc Tịnh quán địa cho đến bậc Như Lai địa chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa trên tòa diệu Bồ-đề, trong khoảng thời gian đó mà khởi vô lượng loại tâm là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa trên tòa diệu Bồ-đề, trong khoảng thời gian đó khởi vô lượng loại tâm chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trí Kim cương dụ là thật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì Đại thừa đây chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu Đại Bồ-tát trí Kim cương dụ chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh thì Đại thừa đây vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát dùng trí Kim cương dụ để liên tục đoạn trừ phiền não tập khíthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì trí năng đoạn Kim cương dụ đây không thể đạt được điều kia, đều vô tự tánh đoạn, chứng đắc trí thất thiết trí Vô thượng vi diệu, chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu dùng trí Kim cương dụ để liên tục đoạn trừ phiền não tập khí chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì trí đoạn năng Kim cương dụ đây có thể liễu đạt được điều kia, đều vô tự tánh, chứng đắc trí thất thiết trí Vô thượng vi diệu, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì oai quang diệu đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh thì oai quang diệu đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu việc phóng quang minh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì việc phóng quang minh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không thể chiếu khắp mười phương hằng hà sa số thế giới, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu việc phóng quang minh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh thì việc phóng quang minh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có thể chiếu khắp mười phương hằng hà sa số thế giới, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu, trong suốtthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu, trong suốt chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không thể giáo hóa các hữu tình khắp mười phương vô lượng, vô biên, trăm ngàn ức hằng hà sa v.v… thế giới, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu, trong suốt chẳng phải thật hữu tánh mà là phi hữu tánh, thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ sáu mươi âm thanh vi diệu, trong suốt đều có thể giáo hóa các hữu tình khắp mười phương vô lượng, vô biên, trăm ngàn ức v.v… thế giới, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không thanh tịnh, cũng không chuyển hóa được tất cả thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng phải thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất thanh tịnh, tất cả thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn đều không, có thể như pháp chuyển hóa, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu việc giáo hóa hữu tình của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthật hữu tánh, chẳng phải phi hữu tánh, thì sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng được tôn quí, chẳng được tối thắng, không thể đưa các loại hữu tình kia vào cõi Vô dư y Niết-bàn, không vượt tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Còn nếu việc giáo hóa hữu tình của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thật hữu tánh, mà là phi hữu tánh, thì sự chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đều có thể đưa các loại hữu tình kia vào cõi Vô dư y Niết-bàn, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Do mỗi mỗi nhân duyên như vậy, cho nên nói Đại thừa vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... tối tôn, tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Đại thừa như vậy cùng với hư không bình đẳng. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Ví như hư không Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên, dưới, tất cả phương đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên, dưới, tất cả phương đều bất khả đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, ngay, thẳng, tất cả hình sắc đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, ngay, thẳng, tất cả hình sắc đều bất khả đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, hiển hiện sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, xanh biếc, xanh vàng, xanh nhạt đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, hiển hiện sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, xanh biếc, xanh vàng, xanh nhạt đều bất khả đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Đại thừa cũng vậy, chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng tiến, chẳng lui. Đại thừa cũng vậy, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng tiến, chẳng lui, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng tạp nhiễm, chẳng thanh tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng tạp nhiễm, chẳng thanh tịnh, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không sanh, không diệt, không trụ, không khác. Đại thừa cũng vậy, không sanh, không diệt, không trụ, không khác, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng vô ký. Đại thừa cũng vậy, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng vô ký, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không thấy, không nghe, không ngộ, không biết. Đại thừa cũng vậy, không thấy, không nghe, không ngộ, không biết, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng sở tri, chẳng sở thức. Đại thừa cũng vậy, chẳng sở tri, chẳng sở thức, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng biến tri, chẳng dứt hẳn, chẳng tác chứng, chẳng tu tập. Đại thừa cũng vậy, chẳng biến tri, chẳng dứt hẳn, chẳng tác chứng, chẳng tu tập, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng quả, chẳng pháp quả, chẳng dị thục, chẳng pháp dị thục. Đại thừa cũng vậy, chẳng quả, chẳng pháp quả, chẳng dị thục, chẳng pháp dị thục, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng pháp có tham, chẳng pháp lìa tham, chẳng pháp có sân, chẳng pháp lìa sân, chẳng pháp có si, chẳng pháp lìa si. Đại thừa cũng vậy, chẳng pháp có tham, chẳng pháp lìa tham, chẳng pháp có sân, chẳng pháp lìa sân, chẳng pháp có si, chẳng pháp lìa si, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng đọa Dục giới, chẳng đọa Sắc giới, chẳng đọa Vô sắc giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng đọa Dục giới, chẳng đọa Sắc giới, chẳng đọa Vô sắc giới, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không có sơ phát tâm, không phát tâm lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười. Đại thừa cũng vậy, không có sơ phát tâm cho đến không có phát tâm lần thứ mười, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, không Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có thể đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, Bồ-tát, Như Lai có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, không Dự lưu hướng, Dự lưu quả cho đến Bồ-tát, Như Lai có thể đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, không Thanh văn địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa có thể đắc. Đại thừa cũng vậy, không Thanh văn địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa có thể đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng hữu sắc, chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng vô đối, chẳng hợp, chẳng tan. Đại thừa cũng vậy, chẳng hữu sắc, chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng vô đối, chẳng hợp, chẳng tan, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng thường, chẳng vô thường, chẳng lạc, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng thường, chẳng vô thường, chẳng lạc, chẳng khổ, chẳng ngã, chẳng vô ngã, chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng không, chẳng bất không, chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện, chẳng vô nguyện. Đại thừa cũng vậy, chẳng không, chẳng bất không, chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện, chẳng vô nguyện, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly. Đại thừa cũng vậy, chẳng tịch tĩnh, chẳng bất tịch tĩnh, chẳng viễn ly, chẳng bất viễn ly, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng sáng, chẳng tối. Đại thừa cũng vậy, chẳng sáng, chẳng tối, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng khả đắc, chẳng bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng khả đắc, chẳng bất khả đắc, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng uẩn, xứ, giới, chẳng lìa uẩn, xứ, giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng uẩn, xứ, giới, chẳng lìa uẩn, xứ, giới, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng khả thuyết, chẳng bất khả thuyết. Đại thừa cũng vậy, chẳng khả thuyết, chẳng bất khả thuyết, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Lại như hư không, chẳng có hý luận, chẳng không hý luận. Đại thừa cũng vậy, chẳng có hý luận, chẳng không hý luận, nên nói Đại thừa cùng với hư không bình đẳng.

Do nhân duyên này, nên nói: Đại thừa như thế cùng với hư không bình đẳng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Vì sao? Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc hữu tình, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, tất cả như thế đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tình vô lượng, nên biết hư không cũng vô lượng. Hư không vô lượng, nên biết Đại thừa cũng vô lượng. Hữu tình vô số, nên biết hư không cũng vô số. Hư không vô số, nên biết Đại thừa cũng vô số. Hữu tình vô biên, nên biết hư không cũng vô biên. Hư không vô biên, nên biết Đại thừa cũng vô biên. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì nếu hữu tình vô lượng, vô số, vô biên, hoặc hư không vô lượng, vô số, vô biên, hoặc Đại thừa vô lượng, vô số, vô biên, thì tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tình vô sở hữu nên biết hư không cũng vô ở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc hữu tình, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã vô sở hữu nên biết hữu tình cũng vô sở hữu. Hữu tình vô sở hữu nên biết mạng giả cũng vô sở hữu. Mạng giả vô sở hữu nên biết sanh giả cũng vô sở hữu. Sanh giả vô sở hữu nên biết dưỡng giả cũng vô sở hữu. Dưỡng giả vô sở hữu nên biết sĩ phu cũng vô sở hữu. Sĩ phu vô sở hữu nên biết Bổ-đặc-già-la cũng vô sở hữu. Bổ-đặc-già-la vô sở hữu nên biết ý sanh cũng vô sở hữu. Ý sanh vô sở hữu nên biết thanh niên cũng vô sở hữu. Thanh niên vô sở hữu nên biết người làm cũng vô sở hữu. Người làm vô sở hữu nên biết người thọ vô sở hữu. Người thọ vô sở hữu nên biết người biết cũng vô sở hữu. Người biết vô sở hữu nên biết người thấy cũng vô sở hữu. Người thấy vô sở hữu nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì lần lượt cũng vô sở hữu. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy, hoặc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi lần lượt cũng vô sở hữu. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số vô, vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết sắc uẩn cho đến thức uẩn lần lượt cũng vô sở hữu. Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc sắc uẩn cho đến thức uẩn, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn xứ cho đến ý xứ lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn xứ cho đến ý xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết sắc xứ cho đến pháp xứ lần lượt cũng vô sở hữu. Sắc xứ cho đến pháp xứ vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô biên, vô số lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc sắc xứ cho đến pháp xứ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn giới cho đến ý giới lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn giới cho đến ý giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn giới cho đến ý giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết sắc giới cho đến pháp giới lần lượt cũng vô sở hữu. Sắc giới cho đến pháp giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên, vô sở hữu nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc sắc giới cho đến pháp giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

 

Quyển thứ 493
HẾT

 

13

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn thức giới cho đến ý thức giới lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn thức giới cho đến ý thức giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn xúc cho đến ý xúc lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn xúc cho đến ý xúc, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lần lượt cũng vô sở hữu. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết địa giới cho đến thức giới lần lượt cũng vô sở hữu. Địa giới cho đến thức giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc địa giới cho đến thức giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhân duyên cho đến tăng thượng duyên lần lượt cũng vô sở hữu. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết vô minh cho đến lão tử lần lượt cũng vô sở hữu. Vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc vô minh cho đến lão tử, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa lần lượt cũng vô sở hữu. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba la mật vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo lần lượt cũng vô sở hữu. Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, cho nên biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết tám giải thoát, chín định thứ đệ lần lượt cũng vô ở hữu. Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc tám giải thoát, chín định thứ đệ, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa lần lượt cũng vô sở hữu. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa lần lượt cũng vô sở hữu. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết năm loại mắt, sáu phép thần thông lần lượt cũng vô sở hữu. Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lần lượt cũng vô sở hữu. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng lần lượt cũng vô sở hữu. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai lần lượt cũng vô sở hữu. Dự lưu cho đến Như Lai vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Dự lưu cho đến Như Lai, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Như Lai thừa lần lượt cũng vô sở hữu. Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Như Lai thừa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Đại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Như Lai thừa, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như cõi Niết-bàn có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do nhân duyên này nên nói: Ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Hư không, không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì tất cả pháp không đến, không đi cũng lại không trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc. Do nhân duyên này, nên Đại thừa cũng không có chỗ đến, không chỗ đi, không chỗ trụ có thể đắc. Vì sao? Vì sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc cho đến thức hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xứ cho đến ý xứ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc xứ cho đến pháp xứ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn giới cho đến ý giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.


Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc giới cho đến pháp giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn thức giới cho đến ý thức giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xúc cho đến ý xúc, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của địa giới cho đến thức giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của vô minh cho đến lão tử, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tĩnh, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô nhiễm, cảnh giới vô tịnh, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của tám giải thoát, chín định thứ đệ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của trí nhất thiết, trí đạo tướng, nhất thiế tướng trí không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Bồ-tát, pháp Bồ-tát, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Bồ-đề Phật-đà, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của hữu vi, vô vi, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Do nghĩa như vậy, nên nói cũng như hư không, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy.

Quyển thứ 494
HẾT

 

14

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Như hư không, khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Như vậy cho đến của bình đẳng ba đời vượt khỏi ba đời, cho nên gọi là Đại thừa. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Vì sao? Đời quá khứ, đời quá khứ Không. Đời vị lai, đời vị lai Không. Đời hiện tại, đời hiện tại Không. Ba đời bình đẳng, ba đời bình đẳng Không. Vượt qua ba đời, vượt qua ba đời bình đẳng Không. Đại thừa, Đại thừa Không. Bồ-tát, Bồ-tát Không. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Không, không có các tướng một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, cho đến trăm ngàn v.v… Cho nên, Đại thừa bình đẳng của ba đời, vượt qua ba đời.

Thiện Hiện nên biết: Trong Đại thừa đây tướng đẳng, bất đẳng đều bất khả đắc. Tướng tham, bất tham, tướng sân, bất sân, tướng si, bất si, tướng mạn, bất mạn cũng đều bất khả đắc. Như vậy, cho đến tướng thiện, phi thiện, tướng hữu ký, vô ký, tướng hữu lậu, vô lậu, tướng hữu tội, vô tội, tướng tạp nhiễm, thanh tịnh, tướng thế gian, xuất thế gian, tướng có nhiễm, ly nhiễm, tướng sanh tử, Niết-bàn cũng bất khả đắc. Tướng thường, vô thường, tướng khổ, phi khổ, tướng ngã, vô ngã, tướng tịnh, phi tịnh, tướng tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, tướng viễn ly, bất viễn ly cũng bất khả đắc. Tướng ở cõi Dục, vượt ngoài cõi Dục, tướng ở cõi Sắc, vượt ngoài cõi Sắc, tướng ở cõi Vô sắc, vượt ngoài cõi Vô sắc, các tướng như thế cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong Đại thừa này, tự tánh các pháp bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Sắc uẩn cho đến thức uẩnquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc uẩn cho đến thức uẩnquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc uẩn cho đến thức uẩnquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc uẩn cho đến thức uẩnquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc uẩn cho đến thức uẩnquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xứ cho đến ý xứquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn xứ cho đến ý xứquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Sắc xứ cho đến pháp xứquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc xứ cho đến pháp xứquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn giới cho đến ý giớiquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn giới cho đến ý giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn giới cho đến ý giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giớiquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn giới cho đến ý giớiquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Sắc giới cho đến pháp giớiquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc giới cho đến pháp giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc giới cho đến pháp giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giớiquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc giới cho đến pháp giớiquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Địa giới cho đến thức giớiquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của địa giới cho đến thức giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, địa giới cho đến thức giớiquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giớiquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của địa giới cho đến thức giớiquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Vô minh cho đến lão tửquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của vô minh cho đến lão tửquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, vô minh cho đến lão tửquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tửquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của vô minh cho đến lão tửquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện quá khứ, vị lai, hiện tại đều là Không. Trong Không đó, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Tám giải thoát, chín định thứ đệquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, tám giải thoát, chín định thứ đệquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tám giải thoát, chín định thứ đệquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Tịnh quán địa cho đến Như Lai địaquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địaquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địaquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì Tịnh quán địa cho đến Như Lai địaquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địaquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Năm loại mắt, sáu phép thần thôngquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thôngquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, năm loại mắt sáu phép thần thôngquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thôngquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thôngquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của mười lực Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Thiện Hiện nên biết: Dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Laiquá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của dị sanh cho đến Như Laiquá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, dị sanh cho đến Như Laiquá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì dị sanh cho đến Như Laiquá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của dị sanh cho đến Như Laiquá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.

Vì ngã, hữu tình nói rộng cho đến người biết, người thấy bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Trong bình đẳng, tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ cho đến ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xức cho đến ý xứ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn xứ cho đến tự tánh ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn xứ cho đến tự tánh ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ cho đến pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh sắc xứ cho đến tự tánh pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc xứ cho đến tự tánh pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới cho đến ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn giới cho đến tự tánh ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn giới cho đến tự tánh ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc giới cho đến pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh sắc giới cho đến tự tánh pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc giới cho đến tự tánh pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn thức giới cho đến tự tánh ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn thức giới cho đến tự tánh ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc cho đến ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Địa giới cho đến thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh địa giới cho đến tự tánh thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh địa giới cho đến tự tánh thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhân duyên cho đến tự tánh tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhân duyên cho đến tự tánh tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh vô minh cho đến tự tánh lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh vô minh cho đến tự tánh lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bốn niệm trụ cho đến tự tánh tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bốn niệm trụ cho đến tự tánh tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh Tịnh quán địa cho đến tự tánh Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh Tịnh quán địa cho đến tự tánh Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh Cực hỷ địa cho đến tự tánh Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh Cực hỷ địa cho đến tự tánh Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh mười lực Như Lai cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh mười lực Như Lai cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Lại nữa, Thiện Hiện! Dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Dị sanh cho đến Như Lai trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh dị sanh cho đến tự tánh Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh dị sanh cho đến tự tánh Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.

Vì ngã, hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy bất khả đắc.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tinh cần tu học ba giai đoạn bình đẳng, mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí. Như vậy gọi là tướng Đại thừa ba giai đoạn bình đẳng của các Đại Bồ-tát. Nếu các Đại Bồ-tát nào an trụ trong tướng Đại thừa như vậy, thì vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi lạc hữu tình ở đời vị lai.

Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Nay Như Lai khéo vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết nghĩa Đại thừa như vậy. Đại thừa như vậy tối tôn, tối thắng. Chúng Đại Bồ-tát ở đời quá khứ đã học trong đây mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Chúng Đại Bồ-tát ở đời vị lai sẽ học trong đây mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đời hiện tạimười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới đang học trong đây cũng được chứng đắc trí nhất thiết trí. Cho nên Đại thừa tối tôn, tối thắng, có thể làm nơi nương tựa chơn thật, thù thắng cho trí nhất thiết trí của chúng Đại Bồ-tát.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chúng Đại Bồ-tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại có thể dựa vào Đại thừatinh cần tu học, thì mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi lạc hữu tình nơi đời vị lai. Cho nên Đại thừa tối tôn, tối thắng, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát phải siêng năng tu học.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc trước Như Lai dạy Tôn giả Thiện Hiện vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, sao nay lại thuyết nhiều nghĩa về Đại thừa?

Lúc đó, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay, con nói nhiều nghĩa về Đại thừa, nhưng không lúc nào trái ý Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Từ trước đến nay, ông thuyết nhiều nghĩa Đại thừa đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa không chỗ nào sai trái. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Độc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Độc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tám giải thoát, chín định thứ đệ. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết trí, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thiện Hiện nên biết: Các pháp như vậy đều là thiện pháp, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Độc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết: Đại thừa, Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Sắc uẩn cho đến thức uẩn. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Vô minh cho đến lão tử. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp học, pháp vô học, pháp chẳng phải học, chẳng phải vô học. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Pháp luật Phật thuyết. Sự giác ngộ, Bồ-đề, Niết-bàn. Tất cả như thế đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải bất tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Do nhân duyên này nên từ trước đến nay, ông thuyết nhiều nghĩa Đại thừa đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa không chỗ nào sai trái.

Vì sao? Vì Đại thừa không khác Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác tám giải thoát, chín định thứ đệ. Tám giải thoát, chín định thứ đệ cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, tám giải thoát, chín định thứ đệ, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác năm loại mắt, sáu phép thần thông. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác chơn như của cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp thiện, pháp bất thiện cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp thiện, pháp bất thiện, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp hữu ký, pháp vô ký cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp hữu ký, pháp vô ký, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, pháp hữu vi, pháp vô vi, tánh nó không hai, không hai phần.

Đại thừa không khác uẩn, xứ, giới v.v... Uẩn, xứ, giới v.v… cũng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa, uẩn, xứ, giới v.v… tánh nó không hai, không hai phần.

Thiện Hiện nên biết: Do nghĩa này, cho nên từ trước đến nay ông nói nhiều nghĩa Đại thừa, đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, không chỗ nào sai trái. Vậy, thuyết Đại thừa tức là thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là thuyết Đại thừa. Danh và nghĩa cả hai đều không khác.

Quyển thứ 495
HẾT

 

15

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc.

Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Nhãn xứ cho đến ý xứ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Sắc xứ cho đến pháp xứ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Nhãn giới cho đến ý giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Sắc giới cho đến pháp giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Nhãn xúc cho đến ý xúc vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Địa giới cho đến thức giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Vô minh cho đến lão tử vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát lìa Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.

Như vậy, bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp này, con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ dạy, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh. Cũng như nói ngã v.v... hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, nên hoàn toàn không tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức? Như vậy cho đến những Thanh văn, Độc giác, Đại thừa nào hoàn toàn không sanh, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Con đâu dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh mà dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh.

Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa pháp hoàn toàn không sanh thì không có Đại Bồ-tát thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không ưu sầu, hối hận, tâm kia cũng không kinh hãi, không hỏang hốt, không sợ sệt, nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên gì mà nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc?

Do duyên gì mà nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên? Như vậy cho đến Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên?

Do duyên gì mà nói, Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc? Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc? Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc? Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc?

Do duyên gì mà nói, đối với tất cả pháp này con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa để dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Do duyên gì mà nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh?

Do duyên gì mà nói: Như nói ngã v.v... hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh nên hoàn toàn không tự tánh?

Do duyên gì mà nói, các pháp cũng vậy hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh nên hoàn toàn không tự tánh?

Do duyên gì mà nói, những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh. Như vậy cho đến những Thanh văn, Độc giác, Đại thừa nào hoàn toàn không sanh?

Do duyên gì mà nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa?

Do duyên gì mà nói: Con đâu có thể dùng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh mà dạy dỗ, truyền trao cho Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh?

Do duyên gì mà nói, nếu xa lìa pháp hoàn toàn không sanh thì không có Đại Bồ-tát thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Do duyên gì mà nói, nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như vậy mà tâm không chìm đắm, cũng không ưu sầu, sợ hãi, tâm kia không kinh hãi, không hỏang hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Này cụ thọ! Nay ông nên vì tôi mà diễn thuyết.

Lúc đó, cụ thọ Thiện Hiện trả lời ngài Xá-lợi Tử:

- Thưa Tôn giả! Theo lời ngài hỏi: Do duyên gì mà nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Vì hữu tình vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình vô tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn xứ cho đến ý xứ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Sắc xứ cho đến pháp xứ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn giới cho đến ý giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Sắc giới cho đến pháp giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Địa giới cho đến thức giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Độc giác, Đại thừa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Độc giác, Đại thừa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Độc giác, Đại thừa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì hữu tình cho đến Đại thừa vô sở hữu, Không, xa lìa, không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Chẳng phải hữu tình cho đến Đại thừa vô sở hữu, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Đại thừa Không, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Đại thừa xa lìa, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Đại thừa không tự tánh, có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn sau, có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn giữa, có sai khác.

Xá-lợi Tử! Hữu tình cho đến Đại thừa vô sở hữu. Hữu tình cho đến Đại thừa Không. Hữu tình cho đến Đại thừa xa lìa. Hữu tình cho đến Đại thừa không tự tánh. Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, Đại Bồ-tát trong giai đoạn sau, Đại Bồ-tát trong giai đoạn giữa. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này cho nên tôi nói: Các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Đại thừa đều như hư không. Vì sao? Vì hư không Không, khỏang trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Do trong vô biên đó bất khả đắc nên gọi là hư không. Sắc uẩn cho đến Đại thừa cũng như vậy, giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc uẩn cho đến Đại thừa đều tánh Không. Trong Không, giai đoạn trước, giai đoạn sau, giai đoạn giữa đều bất khả đắc. Cũng do trong vô biên đều bất khả đắc nên gọi là Không.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.

Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Đại thừa, sắc uẩn cho đến Đại thừa tánh Không. Vì sao? Vì trong sắc uẩn cho đến Đại thừa tánh Không, sắc uẩn cho đến Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Cho nên các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Đại thừa, chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Đại thừa tánh Không. Vì sao? Vì trong chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Đại thừa tánh Không, chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Cho nên các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Độc giác, Đại thừa, vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Độc giác, Đại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì lại nói đối với tất cả pháp này, con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa mà dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc đối với sắc bất khả đắc. Sắc đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Thọ đối với thọ bất khả đắc. Thọ đối với sắc, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Tưởng đối với tưởng bất khả đắc. Tưởng đối với sắc, thọ, hành, thức cũng bất khả đắc. Hành đối với hành bất khả đắc. Hành đối với sắc, thọ, tưởng, thức cũng bất khả đắc. Thức đối với thức bất khả đắc. Thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn xứ đối với nhãn xứ bất khả đắc. Nhãn xứ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhĩ xứ bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Tỷ xứ đối với tỷ xứ bất khả đắc. Tỷ xứ đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Thiệt xứ đối với thiệt xứ bất khả đắc. Thiệt xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Thân xứ đối với thân xứ bất khả đắc. Thân xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ cũng bất khả đắc. Ý xứ đối với ý xứ bất khả đắc. Ý xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Sắc xứ đối với sắc xứ bất khả đắc. Sắc xứ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Thanh xứ đối với thanh xứ bất khả đắc. Thanh xứ đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Hương xứ đối với hương xứ bất khả đắc. Hương xứ đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp cũng bất khả đắc. Vị xứ đối với vị xứ bất khả đắc. Vị xứ đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Xúc xứ đối với xúc xứ bất khả đắc. Xúc xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ cũng bất khả đắc. Pháp xứ đối với pháp xứ bất khả đắc. Pháp xứ đôi sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn giới đối với nhãn giới bất khả đắc. Nhãn giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhĩ giới bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Tỷ giới đối với tỷ giới bất khả đắc. Tỷ giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Thiệt giới đối với thiệt giới bất khả đắc. Thiệt giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Thân giới đối với thân giới bất khả đắc. Thân giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới cũng bất khả đắc. Ý giới đối với ý giới bất khả đắc. Ý giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Sắc giới đối với sắc giới bất khả đắc. Sắc giới đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Thanh giới đối với thanh giới bất khả đắc. Thanh giới đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Hương giới đối với hương giới bất khả đắc. Hương giới đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Vị giới đối với vị giới bất khả đắc. Vị giới đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Xúc giới đối với xúc giới bất khả đắc. Xúc giới đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp giới cũng bất khả đắc. Pháp giới đối với pháp giới bất khả đắc. Pháp giới đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc giới cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới đối với nhãn thức giới bất khả đắc. Nhãn thức giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhĩ thức giới bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với tỷ thức giới bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với thiệt thức giới bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Thân thức giới đối với thân thức giới bất khả đắc. Thân thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới cũng bất khả đắc. Ý thức giới đối với ý thức giới bất khả đắc. Ý thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhãn xúc đối với nhãn xúc bất khả đắc. Nhãn xúc đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhĩ xúc bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Tỷ xúc đối với tỷ xúc bất khả đắc. Tỷ xúc đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Thiệt xúc đối với thiệt xúc bất khả đắc. Thiệt xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Thân xúc đối với thân xúc bất khả đắc. Thân xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc cũng bất khả đắc. Ý xúc đối với ý xúc bất khả đắc bất khả đắc. Ý xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Địa giới đối với địa giới bất khả đắc. Địa giới đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Thủy giới đối với thủy giới bất khả đắc. Thủy giới đối với địa, hỏa, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Hỏa giới đối với hỏa giới bất khả đắc. Hỏa giới đối với địa, thủy, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Phong giới đối với phong giới bất khả đắc. Phong giới đối với địa, thủy, hỏa, không, thức giới cũng bất khả đắc. Không giới đối với không giới bất khả đắc. Không giới đối với địa, thủy, hỏa, phong, thức giới cũng bất khả đắc. Thức giới đối với thức giới bất khả đắc bất khả đắc. Thức giới đối với địa, thủy, hỏa, phong, không giới cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nhân duyên đối với nhân duyên bất khả đắc. Nhân duyên đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Đẳng vô gián duyên đối với đẳng vô gián duyên bất khả đắc. Đẳng vô gián duyên đối với nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Sở duyên duyên đối với sở duyên duyên bất khả đắc. Sở duyên duyên đối với nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Tăng thượng duyên đối với tăng thượng duyên bất khả đắc. Tăng thượng duyên đối với nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Vô minh đối với vô minh bất khả đắc. Vô minh đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Hành đối với hành bất khả đắc. Hành đối với vô minh, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thức đối với thức bất khả đắc. Thức đối với vô minh, hành, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Danh sắc đối với danh sắc bất khả đắc. Danh sắc đối với vô minh, hành, thức, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Lục xứ đối với lục xứ bất khả đắc. Lục xứ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Xúc đối với xúc bất khả đắc. Xúc đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thọ đối với thọ bất khả đắc. Thọ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Ái đối với ái bất khả đắc. Ái đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thủ đối với thủ bất khả đắc. Thủ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Hữu đối với hữu bất khả đắc. Hữu đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Sanh đối với sanh bất khả đắc. Sanh đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, lão tử cũng bất khả đắc. Lão tử đối với lão tử bất khả đắc. Lão tử đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa bất khả đắc, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới v.v... Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự bất khả đắc. Bốn tịnh lự đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng bất khả đắc. Bốn vô lượng đối với bốn vô lượng bất khả đắc. Bốn vô lượng đối với bốn tịnh lự, bốn định vô sắc cũng bất khả đắc. Bốn định vô sắc đối với bốn định vô sắc bất khả đắc. Bốn định vô sắc đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ bất khả đắc. Bốn niệm trụ đối với bốn chánh đoạn v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, tám chi thánh đạo đối với tám chi thánh đạo bất khả đắc. Tám thánh đạo đối với bốn niệm trụ v.v… cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Tám giải thoát đối với tám giải thoát bất khả đắc. Tám giải thoát đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Tám thắng xứ đối với tám thắng xứ bất khả đắc. Tám thắng xứ đối với tám giải thoát, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Chín định thứ đệ đối với chín định thứ đệ bất khả đắc. Chín định thứ đệ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Mười biến xứ đối với mười biến xứ bất khả đắc. Mười biến xứ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát vô tướng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát không, vô nguyện cũng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô nguyện bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Năm loại mắt đối với năm loại mắt bất khả đắc. Năm loại mắt đối với sáu phép thần thông cũng bất khả đắc. Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông bất khả đắc. Sáu phép thần thông đối với năm loại mắt cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Mười lực Như Lai đối với mười lực Như Lai bất khả đắc. Mười lực Như Lai đối với bốn điều không sợ v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười lực Như Lai v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất bất khả đắc. Pháp không quên mất đối với tánh luôn luôn xả cũng bất khả đắc. Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả bất khả đắc. Tánh luôn luôn xả đối với pháp không quên mất cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết bất khả đắc. Trí nhất thiết đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí đạo tướng bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp nội Không đối với pháp nội Không bất khả đắc. Pháp nội Không đối với pháp ngoại Không v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, pháp vô tính tự tính Không đối với pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc. Pháp vô tính tự tính Không đối với pháp nội Không v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Chơn như đối với chơn như bất khả đắc. Chơn như đối với pháp giới v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, cảnh giới bất tư nghì đối với cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc. Cảnh giới bất tư nghì đối với chơn như v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Cảnh giới đoạn đối với cảnh giới đoạn bất khả đắc. Cảnh giới đoạn đối với cảnh giới ly v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, cảnh giới vô vi đối với cảnh giới vô vi bất khả đắc. Cảnh giới vô vi đối với cảnh giới đoạn v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ bất khả đắc. Thánh đế khổ đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế tập đối với Thánh đế tập bất khả đắc. Thánh đế tập đối với Thánh đế khổ, diệt, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế diệt đối với Thánh đế diệt bất khả đắc. Thánh đế diệt đối với Thánh đế khổ, tập, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế đạo đối với Thánh đế đạo bất khả đắc. Thánh đế đạo đối với Thánh đế khổ, tập, diệt cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Pháp môn Đà-la-ni đối với pháp môn Đà-la-ni bất khả đắc. Pháp môn Đà-la-ni đối với pháp môn Tam-ma-địa cũng bất khả đắc. Pháp môn Tam-ma-địa đối với pháp môn Tam-ma-địa bất khả đắc. Pháp môn Tam-ma-địa đối với pháp môn Đà-la-ni cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Dị sanh địa đối với dị sanh địa bất khả đắc. Dị sanh địa đối với Chủng tánh địa v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Như Lai địa đối với Như Lai địa bất khả đắc. Như Lai địa đối với dị sanh địa v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa đối với Cực hỷ địa bất khả đắc. Cực hỷ địa đối với Ly cấu địa v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Pháp vân địa đối với Pháp vân địa bất khả đắc. Pháp vân địa đối với Cực hỷ địa v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Dự lưu đối với Dự lưu bất khả đắc. Dự lưu đối với Nhất lai v.v... cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Chánh đẳng giác đối với Chánh đẳng giác bất khả đắc. Chánh đẳng giác đối với Dự lưu v.v... cũng bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với Đại Bồ-tát bất khả đắc. Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, truyền trao cũng bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Đại Bồ-tát dạy dỗ, truyền trao cũng bất khả đắc. Dạy dỗ, truyền trao đối với dạy dỗ, truyền trao bất khả đắc. Dạy dỗ, truyền trao đối với Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các pháp như vậy hoặc ngã, hoặc tự tánh Không của ngã.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này cho nên tôi nói: Đối với tất cả pháp này, tôi dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến tôi dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Quyển thứ 496
HẾT

16

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát chỉ là tên gọi nhất thời.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì sao lại nói các Đại Bồ-tát chỉ là tên gọi nhất thời?

Thiện Hiện đáp:

- Cũng như tất cả pháp chỉ là tên gọi nhất thời. Mười phương ba đời không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Trong tất cả pháp không có tên gọi. Trong tên gọi không có tất cả pháp, chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, tất cả pháp, tên gọi đều vô sở hữu, bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát cũng vậy, chỉ là tên gọi nhất thời, cũng không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ, chỉ là giả tạo. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như sắc uẩn cho đến thức uẩn chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải sắc uẩn v.v... Trong sắc uẩn v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có sắc uẩn v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc sắc uẩn v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như nhãn xứ cho đến ý xứ chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải nhãn xứ v.v… Trong nhãn xứ v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có nhãn xứ v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc nhãn xứ v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như sắc xứ cho đến pháp xứ chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải sắc xứ v.v... Trong sắc xứ v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có sắc xứ v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc sắc xứ v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như nhãn giới cho đến ý giới chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải nhãn giới v.v... Trong nhãn giới v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có nhãn giới v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc nhãn giới v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như sắc giới cho đến pháp giới chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì sắc giới v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải sắc giới v.v... Trong sắc giới v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có sắc giới v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì sắc giới v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc sắc giới v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như nhãn thức giới cho đến ý thức giới chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì nhãn thức giới v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải nhãn thức giới v.v... Trong nhãn thức giới v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có nhãn thức giới v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì nhãn thức giới v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc nhãn thức giới v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như nhãn xúc cho đến ý xúc chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì nhãn xúc v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải nhãn xúc v.v... Trong nhãn xúc v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có nhãn xúc v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì nhãn xúc v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc nhãn xúc v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... Trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v… không có tên gọi. Trong tên gọi không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v… chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như địa giới cho đến thức giới chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì địa giới v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải địa giới v.v... Trong địa giới v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có địa giới v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì địa giới v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc địa giới v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì nhân duyên v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải nhân duyên v.v... Trong nhân duyên v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có nhân duyên v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì nhân duyên v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc nhân duyên v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như vô minh cho đến lão tử chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì vô minh v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải vô minh v.v... Trong vô minh v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có vô minh v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì vô minh v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc vô minh v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa v.v... Trong bố thí Ba-la-mật-đa v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì pháp nội Không v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải pháp nội Không v.v... Trong pháp nội Không v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có pháp nội Không v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì pháp nội Không v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc pháp nội Không v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì chơn như v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải chơn như v.v... Trong chơn như v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có chơn như v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì chơn như v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc chơn như v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì cảnh giới đoạn v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải cảnh giới đoạn v.v... Trong cảnh giới đoạn v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có cảnh giới đoạn v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì cảnh giới đoạn v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc cảnh giới đoạn v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải Thánh đế khổ v.v... Trong Thánh đế khổ v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có Thánh đế khổ v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc Thánh đế khổ v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải bốn niệm trụ v.v... Trong bốn niệm trụ v.v… không có tên gọi. Trong tên gọi không có bốn niệm trụ v.v… chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc bốn niệm trụ v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải bốn tịnh lự v.v... Trong bốn tịnh lự v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có bốn tịnh lự v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc bốn tịnh lự v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như tám giải thoát, chín định thứ đệ chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải tám giải thoát v.v... Trong tám thoát v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có tám giải thoát v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc tám giải thoát v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải pháp môn giải thoát không v.v... Trong pháp môn giải thoát không v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có pháp môn giải thoát không v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc pháp môn giải thoát không v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì Tịnh quán địa v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải Tịnh quán địa v.v... Trong Tịnh quán địa v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có Tịnh quán địa v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì Tịnh quán địa v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc Tịnh quán địa v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì Cực hỷ địa v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải Cực hỷ địa v.v... Trong Cực hỷ địa v.v… không có tên gọi. Trong tên gọi không có Cực hỷ địa v.v… chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì Cực hỷ địa v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc Cực hỷ địa v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như năm loại mắt, sáu phép thần thông chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải năm loại mắt v.v... Trong năm loại mắt v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có năm loại mắt v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc năm loại mắt v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì mười lực Như Lai v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải mười lực Như Lai v.v... Trong mười lực Như Lai v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có mười lực Như Lai v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì mười lực Như Lai v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc mười lực Như Lai v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải pháp không quên mất v.v... Trong pháp không quên mất v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có pháp không quên mất v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc pháp không quên mất v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải trí nhất thiết v.v... Trong trí nhất thiết v.v... không có tên gọi. Trong tên gọi không có trí nhất thiết v.v... chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc trí nhất thiết v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì pháp môn Đà-la-ni v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải pháp môn Đà-la-ni v.v... Trong pháp môn Đà-la-ni không có tên gọi. Trong tên gọi không có pháp môn Đà-la-ni v.v… chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì pháp môn Đà-la-ni v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc pháp môn Đà-la-ni v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Như Thanh văn, Độc giác, Đại thừa chỉ là tên gọi nhất thời. Vì sao? Vì Thanh văn v.v... chẳng phải tên gọi, tên gọi cũng chẳng phải Thanh văn v.v... Trong Thanh văn v.v… không có tên gọi. Trong tên gọi không có Thanh văn v.v… chẳng hợp, chẳng tan, chỉ giả tạo mà thôi. Vì sao? Vì Thanh văn v.v... cùng với tên gọi đều là tự tánh Không. Trong tự tánh Không, hoặc Thanh văn v.v... hoặc tên gọi hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Tên gọi của các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là nhất thời. Do đó nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói, nếu như nói ngã v.v... hoàn toàn không sanh, thì chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.

Xá-lợi Tử! Ngã hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh; cho đến người thấy cũng hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh?

Xá-lợi Tử! Sắc hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh? Thọ, tưởng, hành, thức cũng hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh?

Như vậy cho đến Thanh văn thừa hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh? Độc giác thừa, Đại thừa cũng hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, tại sao phải có sanh?

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu như nói ngã v.v... hoàn toàn không sanh, thì chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Các pháp, tự tánh hoàn toàn không hòa hợp. Vì sao? Vì sự hòa hợppháp tự tánh Không.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào tự tánh đều không hòa hợp?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn tự tánh đều không hòa hợp; thọ, tưởng, hành, thức uẩn tự tánh cũng đều không hòa hợp.

Như vậy, cho đến Thanh văn thừa tự tánh đều không hòa hợp. Độc giác thừa, Đại thừa tự tánh cũng đều không hòa hợp.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường, cũng không tan rã. Vì sao? Vì nếu các pháp chẳng phải thường thì tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào chẳng phải thường cũng không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải thường cũng không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải thường cũng không tan rã.

Như vậy, cho đến Thanh văn thừa chẳng phải thường cũng không tan rã; Độc giác thừa, Đại thừa chẳng phải thường cũng không tan rã.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải thường thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải vui cũng không tan rã. Vì sao? Vì nếu pháp chẳng phải vui thì tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào chẳng phải vui cũng không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Sắc uẩn chẳng phải vui cũng không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải vui cũng không tan rã.

Như vậy cho đến Thanh văn thừa chẳng phải vui cũng không tan rã; Độc giác thừa, Đại thừa chẳng phải vui cũng không tan rã.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải vui thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải ngã cũng không tan rã. Vì sao? Vì nếu pháp chẳng phải ngã thì tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào chẳng phải ngã cũng không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải ngã cũng không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải ngã cũng không tan rã.

Như vậy cho đến Thanh văn thừa chẳng phải ngã cũng không tan rã; Độc giác thừa, Đại thừa chẳng phải ngã cũng không tan rã.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì nếu pháp chẳng phải ngã thì không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! tất cả pháp tịch tĩnh cũng không tan rã. Vì sao? Vì pháp tịch tĩnh tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Pháp tịch tĩnh nào không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn tịch tĩnh không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh không tan rã. Như vậy cho đến Thanh văn thừa tịch tĩnh cũng không tan rã; Độc giác thừa, Đại thừa tịch tĩnh cũng không tan rã. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì pháp tịch tĩnh là không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp cũng không tan rã. Vì sao? Vì pháp viễn ly tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào viễn ly không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn viễn ly không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn viễn ly không tan rã. Như vậy cho đến Thanh văn thừa viễn ly cũng không tan rã; Độc giác thừa, Đại thừa viễn ly cũng không tan rã. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì pháp viễn ly là không tự tánh, nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Vì sao? Vì nếu pháp là không, vô tướng, vô nguyện thì tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Như vậy cho đến Thanh văn thừa là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Độc giác thừa, Đại thừa là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan rã. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì nếu pháp là không, vô tướng, vô nguyện là không tự tánh. Nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Vì sao? Vì nếu pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi thì tánh không chấm dứt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã; thọ, tưởng, hành, thức uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Như vậy cho đến Thanh văn thừa là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Độc giác thừa, Đại thừa là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan rã. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì pháp là thiện, vô tội, vô lậu, ly nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi là không tự tánh. Nếu không tự tánh thì không chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Pháp nào là chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc uẩn chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh nó là vậy; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh nó là vậy. Như vậy cho đến Thanh văn thừa chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh nó là vậy. Độc giác thừa, Đại thừa cũng chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh nó là vậy.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nói tóm lại: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu ký, pháp vô ký, pháp hữu tội, pháp vô tội, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp nhiễm, pháp không nhiễm, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh, pháp sanh tử, pháp Niết-bàn, pháp hữu vi, pháp vô vi. Tất cả pháp như vậy đều chẳng phải thường còn, chẳng phải hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh nó là vậy.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, đều không tự tánh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh. Như vậy cho đến những Thanh văn, Độc giác, Đại thừa nào hoàn toàn không sanh?

Xá-lợi Tử! Bản tánh của tất cả sắc cho đến thức đều không sanh. Vì sao? Vì bản tánh của sắc cho đến thức đều Không, không tạo tác, không sanh khởi. Vì sao? Vì pháp Không, tác giả bất khả đắc. Như vậy cho đến bản tánh của tất cả Thanh văn, Độc giác, Đại thừa đều không sanh. Vì sao? Vì bản tánh của tất cả Thanh văn, Độc giác, Đại thừa đều Không, không tạo tác, không sanh khởi. Vì sao? Vì pháp Không, tác giả bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh. Như vậy cho đến những Thanh văn, Độc giác, Đại thừa nào hoàn toàn không sanh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa?

Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc cho đến thức là Không. Nếu bản tánh của pháp là Không, thì không thể thành lập là sanh, diệt, trụ, dị.

Do nhân duyên này nên nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Vì sao? Vì Không chẳng phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Như vậy cho đến bản tánh của Thanh văn, Độc giác, Đại thừa là Không. Nếu bản tánh của pháp là Không thì không thể thành lập sanh, trụ, dị, diệt.

Do nhân duyên này nên nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa. Vì sao? Vì Không chẳng phải là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Độc giác, Đại thừa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói, làm sao con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh để dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh?

Xá-lợi Tử! Hoàn toàn không sanh tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là hoàn toàn không sanh. Vì sao? Vì hoàn toàn không sanh cùng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không hai, không hai phần.

Xá-lợi Tử! Hoàn toàn không sanh tức là Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát tức là hoàn toàn không sanh. Vì sao? Vì hoàn toàn không sanh cùng với Đại Bồ-tát cũng không hai, không hai phần.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Con đâu dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh để dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói, nếu lìa các pháp hoàn toàn không sanh thì cũng không có Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì pháp hoàn toàn không sanh, Bát-nhã ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát đều không hai, không hai phần.

Xá-lợi Tử! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có sắc cho đến thức. Vì sao? Vì pháp hoàn toàn không sanh, sắc cho đến thức đều không hai, không hai phần. Như vậy cho đến, khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy xa lìa pháp hoàn toàn không sanh mà có Thanh văn, Độc giác, Đại thừa. Vì sao? Vì pháp hoàn toàn không sanh, Thanh văn, Độc giác, Đại thừa đều không hai, không hai phần.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu lìa các pháp hoàn toàn không sanh thì cũng không có Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói, nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như vậy mà tâm không chìm đắm, không ưu sầu, sợ hãi, tâm kia cũng không kinh hãi, không hoảng hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thấy các pháp có ngộ, có dụng; còn quán các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bóng dáng, như quáng nắng, như quáng mắt, như việc huyễn hóa, như thành Tầm hương, chỉ hiện ra như là có mà không thật. Đại Bồ-tát nghe thuyết bản tánh các pháp đều Không, liền vui mừng hớn hở, trong tâm tin tưởng, hỷ lạc sâu xa.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như thế, tâm không chìm đắm, không ưu sầu, sợ hãi, nơi tâm không kinh hãi, không hoảng hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xaquán sát các pháp, thì khi đó Đại Bồ-tát đối với sắc cho đến thức đều vô sở đắc, không thọ lãnh, không chấp thủ, không an trụ, không đắm trước, cũng không thành lậpsắc uẩn cho đến thức uẩn; đối với nhãn xứ cho đến ý xứ, đối với sắc xứ cho đến pháp xứ, đối với nhãn giới cho đến ý giới, đối với sắc giới cho đến pháp giới, đối với nhãn thức giới cho đến ý thức giới, đối với nhãn xúc cho đến ý xúc, đối với với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với địa giới cho đến thức giới, đối với nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, đối với vô minh cho đến lão tử cũng lại như vậy.

Khi ấy, Đại Bồ-tát đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều vô sở đắc, không thọ lãnh, không chấp thủ, không an trụ, không đắm trước, cũng không thành lậpbố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; đối với Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo; đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đối với tám giải thoát, chín định thứ đệ; đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Đối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; đối với Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông; đối với mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; đối với các Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật; đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; đối với cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi; đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng lại như vậy.

Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì khi Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy sắc uẩn cho đến thức uẩn. Như vậy cho đến không thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh Không của sắc, không sanh, không diệt. Tánh Không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt. Như vậy cho đến tánh Không của trí nhất thiết không sanh, không diệt; tánh Không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt.

Bạch Thế Tôn! Sắc không sanh, không diệt tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết không sanh, không diệt tức chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì sắc cho đến thức cùng không sanh, không diệt cũng không hai, không hai phần. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng không sanh, không diệt cũng không hai, không hai phần. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì pháp không sanh, không diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Sắc không hai tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết không hai tức chẳng phải trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Sắc thuộc về pháp không hai; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết thuộc về pháp không hai; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Theo lời Tôn giả nói, nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì quán sát các pháp. Vậy thế nào là Đại Bồ-tát? Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Thế nào là quán sát các pháp?

Thiện Hiện đáp:

- Theo lời Tôn giả hỏi: Sao gọi là Đại Bồ-tát. Xá-lợi Tử! Vì muốn lợi lạc cho các loài hữu tìnhcần cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Đầy đủ sự hiểu biết như thật, tuy biết rõ khắp tướng tất cả pháp mà không bị chấp trước, nên gọi là Đại (Ma-ha-tát).

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì sao Đại Bồ-tát đầy đủ sự hiểu biết như thật, tuy biết rõ khắp tướng tất cả pháp nhưng không bị chấp trước?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tuy như thật biết tướng tất cả sắc mà không bị chấp trước; tuy như thật biết tướng tất cả thọ, tưởng, hành, thức mà không bị chấp trước. Như vậy cho đến, như thật biết tướng tất cả trí nhất thiết mà không bị chấp trước; tuy như thật biết tướng tất cả trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà không bị chấp trước.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những gì gọi là tướng tất cả pháp?

Thiện Hiện đáp:

- Do các tướng trạng của hành được biểu thị như vậy. Nên biết các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là trong, là ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi, những pháp này gọi là tướng tất cả pháp.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Xá-lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng vi diệu, đối với tất cả pháp có thể như thật hiểu biết sự xa lìa những gì đã viễn ly, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Ở đây, đối với các pháp nào mà có thể viễn ly?

Thiện Hiện đáp:

- Ở đây, đối với các uẩn, các xứ, các giới, các pháp duyên khởi đều nên viễn ly, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Có trí tuệ thù thắng vi diệu, đối với tất cả pháp có thể như thật hiểu biết sự xa lìa những gì đã đạt được, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Ở đây, đối với pháp nào mà có thể viễn ly những gì đã đạt được?

Thiện Hiện đáp:

- Ở đây, đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều có thể viễn ly những gì đã đạt được. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều có thể viễn ly những gì đã đạt được, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi tại sao phải quán sát các pháp.

Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát sắc cho đến thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải Không, chẳng phải bất Không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải không tịch tĩnh, chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa. Như vậy cho đến quán sát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải Không, chẳng phải bất Không, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện, chẳng phải tịch tĩnh, chẳng phải không tịch tĩnh, chẳng phải xa lìa, chẳng phải không xa lìa.

Xá-lợi Tử! Đây gọi là quán sát các pháp.

Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải nên quán sát các pháp như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên gì mà Tôn giả lại nói: Sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc cho đến thức, sắc cho đến thức là tánh Không. Trong tánh Không này không sanh, không diệt, cũng không sắc cho đến thức. Do đó, nên nói sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức là chẳng phải sắc cho đến thức.

Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tánh Không. Trong tánh Không này không sanh, không diệt, cũng không trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, nên nói trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Do duyên gì mà Tôn giả lại nói: Sắc cho đến thức không hai, tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai, tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Hoặc sắc hoặc không hai, cho đến hoặc thức hoặc không hai. Như vậy cho đến, hoặc trí nhất thiết hoặc không hai; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc không hai. Như vậy tất cả chẳng hợp, chẳng tan, không sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, gọi là vô tướng. Do nghĩa đó nên tôi nói: Sắc cho đến thức không hai, tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hai, tức là chẳng phải trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Do duyên gì mà Tôn giả lại nói: Sắc cho đến thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, chẳng khác sắc cho đến thức. Vậy, sắc cho đến thức tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khác, không sanh, không diệt; không sanh, không diệt, chẳng khác trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vậy, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là không sanh, không diệt; không sanh, không diệt tức là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó tôi nói: Sắc cho đến thức thuộc về pháp không hai, nên gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thuộc về pháp không hai, nên gọi là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Quyển thứ 497
HẾT

 

17

Lúc Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, như thật quán sát tướng tất cả pháp, thì khi đó Đại Bồ-tát thấy ngã cho đến người thấy không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Cho nên thấy sắc cho đến thức không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy nhãn xứ cho đến ý xứ không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy sắc xứ cho đến pháp xứ không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy nhãn giới cho đến ý giới không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy sắc giới cho đến pháp giới không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy nhãn thức giới cho đến ý thức giới không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy nhãn xúc cho đến ý xúc không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy địa giới cho đến thức giới không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy vô minh cho đến lão tử không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy tám giải thoát, chín định thứ đệ không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy năm loại mắt, sáu phép thần thông không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy dị sanh và pháp dị sanh không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Dự lưu và pháp Dự lưu không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Nhất lai và pháp Nhất lai không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Bất hoàn và pháp Bất hoàn không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy A-la-hán và pháp A-la-hán không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Độc giác và pháp Độc giác không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy Đại Bồ-tát và pháp Đại Bồ-tát không sanh, hoàn toàn thanh tịnh. Thấy chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và pháp chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không sanh, hoàn toàn thanh tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Theo như tôi hiểu nghĩa lời Tôn giả nói thì ngã, hữu tình v.v... hoàn toàn không sanh. Sắc cho đến thức hoàn toàn không sanh. Cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácpháp Như Lai hoàn toàn không sanh. Nếu như vậy thì dị sanh (phàm phu) chịu thọ sanh trong sáu đường không khác nhau. Vậy thì không cần phải Dự lưu đắc quả Dự lưu, không cần phải Nhất lai đắc quả Nhất lai, không cần phải Bất hoàn đắc quả Bất hoàn, không cần phải A-la-hán đắc quả A-la-hán, không cần phải Độc giác đắc quả Độc giác Bồ-đề, không cần phải Đại Bồ-tát vì đắc trí nhất thiết tướng mà tinh cần tu học, để lần lượt chứng đắc năm thứ Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp hoàn toàn không sanh thì tại sao Dự lưu vì quả Dự lưu mà siêng năng tu tập chơn đạo, vĩnh viễn chấm dứt ba kiết sử? Tại sao Nhất lai vì quả Nhất lai mà siêng năng tu tập, vĩnh viễn chấm dứt tham, sân, si? Tại sao Bất hoàn vì quả Bất hoàn mà siêng năng tu tập, vĩnh viễn chấm dứt hạ phần kiết sử, kiến lập năm loại phần vị sai khác? Tại sao A-la-hán vì quả A-la-hán mà siêng năng tu tập, vĩnh viễn chấm dứt thượng phần kiết sử? Tại sao Độc giácĐộc giác Bồ-đề mà siêng năng tu tập pháp duyên khởi để tự giác ngộ? Tại sao Đại Bồ-tát vì cứu độ vô lượng, vô số hữu tình mà siêng năng tu tập hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, thọ nhận vô lượng khổ lớn khó nhẫn? Tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại chuyển pháp luân vi diệu để cứu độ hữu tình?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhận có nghiệp phiền não của dị sanh thừa, phải qua lại trong sáu đường, chịu sự thọ sanh sai khác. Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhận có người nhập vào Thánh đế hiện quán. Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhậnDự lưu đắc quả Dự lưu, cho đếnĐộc giác đắc quả Độc giác Bồ-đề. Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhận có Đại Bồ-tát vì đắc trí nhất thiết tướng, mà siêng năng tu học để lần lượt chứng đắc năm loại Bồ-đề. Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhậnDự lưu, vì quả Dự lưu mà siêng năng tu tập chơn đạo để vĩnh viễn chấm dứt ba phần kiết sử, cho đếnĐộc giácĐộc giác Bồ-đề, mà siêng năng tu tập pháp duyên khởi để tự giác ngộ. Không phải đối với pháp vô sanh mà tôi chấp nhận có Đại Bồ-tát, vì cứu độ vô lượng, vô biên hữu tìnhtu tập hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, thọ nhận vô lượng khổ lớn khó nhẫn. Các Đại Bồ-tát tuy vì loài hữu tình tu vô lượng hạnh khổ khó hành, nhưng trong lúc đó không bao giờ vọng tưởng về khổ hạnh. Vì sao? Vì nếu ở trong khổ hạnhvọng tưởng về khổ hạnh thì hoàn toàn không thể vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm lợi ích lớn.

Tất cả chúng Đại Bồ-tát chỉ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Đối với các hữu tình tưởng như cha, mẹ, anh, em, vợ, con và chính mình. Vì cứu độ họ nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát nào khởi ý niệm như vầy: Như tự tánh ta đối với tất cả pháp, dùng tất cả loại, với tất cả nơi, tất cả thời chỉ cầu điều bất khả đắc. Các pháp trong ngoài cũng lại như vậy, hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc. Nếu trụ ý tưởng này liền không thấy có hạnh khổ khó hành. Do đó có thể vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành và làm lợi ích lớn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp, tất cả hữu tình, dùng tất cả loại, với tất cả nơi, tất cả thời, chỉ cầu điều bất khả đắc, cho nên không bị chấp trước với sự việc ấy.

Xá-lợi Tử! Không phải đối với pháp vô sanh kia mà tôi chấp nhậnNhư Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luân vị diệu cứu độ hữu tình. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả các pháp, tất cả hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, bất khả đắc, nên không có chứng, không có cứu độ, và không có người chứng, không có người được cứu độ.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Ý Tôn giả thế nào? Chẳng lẽ vì chấp thuận pháp sanh nên chứng pháp sanh, hay vì chấp thuận pháp vô sanh nên chứng pháp vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không chấp thuận pháp sanh để chứng pháp sanh, cũng không chấp thuận pháp vô sanh để chứng pháp vô sanh.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Ý Tôn giả thế nào? Chẳng lẽ vì chấp thuận pháp sanh nên chứng pháp vô sanh, hay vì chấp thuận pháp vô sanh nên chứng pháp sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi cũng không chấp thuận pháp sanh để chứng pháp vô sanh, cũng không chấp thuận pháp vô sanh để chứng pháp sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì lẽ nào không có chứng đắc, không có hiện quán ư?

Thiện Hiện đáp:

- Tuy có chứng đắc, có hiện quán, nhưng không do hai pháp này mà chứng. Chỉ tùy theo thế gian mà nói hay trình bày có chứng đắc, có hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa mà có chứng đắc, có hiện quán. Chỉ tùy theo thế gian mà nói hay trình bày có Dự lưu, quả Dự lưu, nói rộng cho đến có chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Chứ chẳng phải trong thắng nghĩa mà có những điều như vậy.

Xá-lợi Tử! Nếu tùy theo thế gian mà nói hay trình bày có chứng đắc, có hiện quánDự lưu v.v... chứ chẳng phải trong thắng nghĩa mà có những điều như vậy, thì sáu đường sai khác cũng tùy theo thế gian mà nói hay trình bày, chẳng phải là thắng nghĩa ư?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì không phải trong thắng nghĩa mà có phiền não nghiệp chướng, quả dị thục, hoặc pháp sanh, pháp diệt, pháp nhiễm, pháp tịnh.

Xá-lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Ý Tôn giả thế nào? Chẳng lẽ vì chấp thuận pháp chưa sanh cho là sanh, hay vì chấp thuận pháp đã sanh cho là sanh ư?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không chấp thuận pháp chưa sanh cho là sanh, cũng không chấp thuận pháp đã sanh cho là sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những pháp nào chưa sanh mà không chấp thuận pháp đó là sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Sắc cho đến thức là pháp chưa sanh. Tôi không chấp thuận pháp đó là sanh. Vì sao? Vì tự tánh nó Không. Như vậy cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là pháp chưa sanh. Tôi cũng không chấp thuận pháp đó là sanh. Vì sao? Vì tự tánh Không.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những pháp nào đã sanh mà không chấp thuận pháp đó là sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Sắc cho đến thức là pháp đã sanh. Tôi không chấp thuận pháp đó là sanh. Vì sao? Vì tự tánh nó Không. Như vậy cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là pháp đã sanh. Tôi không chấp thuận pháp đó là sanh. Vì sao? Vì tự tánh Không.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Ý Tôn giả thế nào? Vì chấp thuận pháp sanh là sanh, hay vì chấp thuận pháp bất sanh là sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không chấp thuận pháp sanh là sanh, cũng không chấp thuận pháp bất sanh là sanh. Vì sao? Vì sanh cùng với bất sanh, hai pháp như vậy chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Do ý nghĩa như thế, nên tôi không chấp thuận pháp sanh là sanh, cũng không chấp thuận pháp bất sanh là sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Theo lời Tôn giả nói. Vậy, pháp vô sanh là trình bày cụ thể tướng vô sanh phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Theo tôi thì pháp vô sanh cũng không thể trình bày cụ thể về tướng vô sanh. Vì sao? Vì pháp vô sanh, tướng vô sanh, hoặc sự trình bày cụ thể, tất cả như thế đều chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng, không thể nói rốt ráo.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp vô sanh mà có ngôn ngữ vô sanh. Vậy, ngôn ngữ vô sanh này cũng vô sanh hay sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đối với pháp vô sanh mà có ngôn ngữ vô sanh, thì ngôn ngữ pháp này và ngôn ngữ đều nghĩa vô sanh. Vì sao? Vì sắc cho đến thức, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Nhãn xứ cho đến ý xứ, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Nhãn giới cho đến ý giới, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Sắc giới cho đến pháp giới, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Địa giới cho đến thức giới, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Vô minh cho đến lão tử, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Thân, khẩu, ý hành, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tất cả vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh Không.

Xá-lợi Tử! Do nghĩa như vậy, nên đối với pháp vô sanh mà có ngôn ngữ vô sanh. Pháp này và ngôn ngữ này đều nghĩa vô sanh.

Xá-lợi Tử! Pháp được thuyết, lời thuyết pháp, người thuyết, người nghe, đều nghĩa vô sanh. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều Không. Trong Không đó, không có nghĩa phát sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử khen ngợi Thiện Hiện:

- Tôn giả là bậc đệ nhất trong những người thuyết pháp, trừ đức Thế Tôn, không ai sánh bằng. Vì sao? Vì Tôn giả tùy theo từng câu hỏi của mỗi pháp mônđối đáp một cách thông suốt, không bị trở ngại.

Thiện Hiện đáp:

- Là đệ tử Phật thì đối với tất cả pháp không để vướng mắcchấp trước. Các pháp tự nhiên đều tùy theo sự gạn hỏi mà đối đáp một cách tự tại vô ngại. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không chỗ y cứ.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Vì sao các pháp hoàn toàn không chỗ y cứ?

Thiện Hiện đáp:

- Vì sắc cho đến thức bản tánh Không, không dựa bên trong, không dựa bên ngoài, không dựa ở giữa hai bên. Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bản tánh Không, không dựa bên trong, không dựa bên ngoài, không dựa ở giữa hai bên.

Xá-lợi Tử! Do nghĩa này, nên tôi nói các pháp hoàn toàn không chỗ y cứ.

Xá-lợi Tử! Khi các Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa thì sắc phải thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức phải thanh tịnh. Như vậy cho đến trí nhất thiết phải thanh tịnh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phải thanh tịnh. Đạo Bồ-đề cũng phải thanh tịnh.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Vì sao Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa đạo Bồ-đề phải nên thanh tịnh?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, mỗi thứ đều có hai loại là thế gianxuất thế gian.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Sao gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian? Sao gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát làm vị thí chủ lớn, có thể bố thí cho tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo khổ, bệnh hoạn, cô đơn, lỡ đường, người đi xin: áo quần, thức ăn, nước uống và những vật cần dùng khác; hoặc có người đến xin con trai cho con trai, xin con gái cho con gái, xin vợ cho vợ, xin chức quan cho chức quan, xin đất đai cho đất đai, xin ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu cho đầu, xin mắt cho mắt, xin tay chân cho tay chân, xin lóng đốt cho lóng đốt, xin máu thịt cho máu thịt, xin da xương cho da xương, xin tôi tớ cho tôi tớ, xin loài vật cho loài vật. Như vậy tất cả mọi thứ đều tùy theo sự mong cầu đều bố thí vật trong ngoài. Tuy làm việc bố thí như vậy mà còn có y cứ vào đó, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta là người cho, kia là kẻ nhận, ta làm thí chủ, ta không xan tham. Ta theo lời Phật dạy nên xả bỏ tất cả, ta thực hành bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi người đó thực hành bố thí đã dùng có sở đắc làm phương tiện, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nghĩ như vầy: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến cho họ đời này, đời sau được an lạc, cho đến chứng đắc Vô dư Niết-bàn. Người kia hành bố thí mà còn chấp trước “tam luân”: Một là tưởng mình; hai là tưởng người; ba là tưởng vật thí.

Do chấp trước “tam luân” này mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian.

Tại sao gọi sự bố thí này là thế gian? Vì tu hành đồng với thế gian, nên không có động lực để vượt khỏi pháp thế gian, như vậy gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào khi hành bố thí, “tam luân” phải thanh tịnh: Một là không chấp ta làm người cho; hai là không chấp kia là người nhận; ba là không chấp sự bố thíquả báo của nó. Đây là Đại Bồ-tát hành bố thí “tam luân” thanh tịnh.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào dùng tâm đại bi làm đầu, tu phước bố thí, bố thí khắp hữu tình, mà đối với các hữu tình đều vô sở đắc. Tùy đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mà trong đó không thấy một chút tướng nào, là do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Vì sao sự bố thí này gọi là xuất thế gian? Vì tu hành không đồng với thế gian, nên có động lực vượt khỏi pháp thế gian. Như vậy gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Sao gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa thế gian cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa? Sao gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh giới cho đến Bát-nhã mà chấp trước vào “tam luân” thì gọi là Ba-la-mật-đa thế gian. Vì tu hành đồng với thế gian, nên không có động lực vượt ra khỏi pháp thế gian. Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh giới cho đến Bát-nhã mà không chấp trước nên “tam luân” thanh tịnh, thì gọi là Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì tu hành không đồng với thế gian, nên có động lực vượt ra khỏi pháp thế gian.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa có hai hạng, là thế gianxuất thế gian. Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa thế gian? Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào khi tu hành bố thídựa vào có sở đắc để thực hành bố thí, lại nghĩ như vầy: Ta có thể điều phục tâm xan tham để thực hành bố thí. Đại Bồ-tát này dựa vào tưởng ngã hữu tình mà bố thí, tuy có xả bỏ tất cả vật sở hữu bên trong bên ngoài, nhưng không gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh giớidựa vào có sở đắc để tu tịnh giới, lại nghĩ như vầy: Ta có thể an trụ công đức nơi hạnh Đầu-đà. Ta có thể điều phục được thân, khẩu, ý. Ta có thể tu hành mười thiện nghiệp đạo. Đại Bồ-tát này dựa vào thấy ngã, thấy hữu tình và thấy các pháp thiện, tuy có thể tu hành các loại tịnh giới và đem cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng đối với quả Bồ-đề cho là thật có, rồi dựa vào các công đức ấy, khen mình chê người, thì cũng không gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành an nhẫn, mà dựa vào có sở đắc để tu an nhẫn, lại nghĩ như vầy: Ta có thể nhẫn nhục, lãnh chịu các việc xấu do tất cả hữu tình đem đến cho ta. Đại Bồ-tát này dựa vào thấy ngã, thấy hữu tình và thấy sự an nhẫn, mặc dầu có thể nhẫn nhục lãnh chịu các việc xấu của người khác tạo, đem căn lành của việc an nhẫn này cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng vì lấy có sở đắc làm phương tiện, nên không gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành tinh tấndựa vào có sở đắc mà tu hành tinh tấn, lại nghĩ như vầy: Ta có thể phát khởi thân tâm tinh tấn, nhiệt tâm tu hành hai thứ tư lương là phước và tuệ. Đại Bồ-tát này mặc dù thường phát khởi thân tâm tinh tấn, nhiệt tâm tu hành hai thứ tư lương là phước và tuệ, tuy được tướng phước tuệthân tâm và được tướng ngã, tướng các hữu tình, cũng được tướng sở cầu Bồ-đề, nhưng do lấy có sở đắc làm phương tiện, nên chưa được gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành tịnh lự, mà dựa vào có sở đắc mà tu tịnh lự, lại nghĩ như vầy: Ta có thể tu hành từ, bi, hỷ, xả, đẳng trì, đẳng chí, tịnh lự, thần thông, ra vào tự tại. Đại Bồ-tát này say đắm các thiền định, mặc dù đem căn lành do chứng đắc thiền định cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng do lấy có sở đắc làm phương tiện, nên chưa được gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã, mà dựa vào có sở đắc để tu hành Bát-nhã, lại nghĩ như vầy: Ta có thể quán sát tất cả pháp Không, đó là sắc Không cho đến thức Không. Như vậy cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng đều là Không. Đại Bồ-tát này lấy có sở đắc làm phương tiện, tuy quán sát tất cả hoàn toàn đều Không, đem căn lành cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phát tâm tùy hỷ tu hành thiện pháp một cách bình đẳng cho mình và người, siêng năng hối hận diệt trừ điều ác mà mình đã làm, cũng siêng năng khuyến thỉnh vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới, chuyển pháp luân vị diệu, độ thoát các hữu tình, thường phát khởi thần thông thù thắng, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, nhưng lấy có sở đắc làm phương tiện, nên chưa được gọi là Bát-nhã xuất thế gian. Như vậy chỉ gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa thế gian.

Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu hành bố thí, dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với ngã, hữu tìnhbố thí v.v... hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu bố thí Ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với ngã, hữu tìnhtịnh giới v.v... hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với ngã, hữu tìnhan nhẫn v.v... hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với ngã, hữu tình, thân tâm tinh tấn, dùng phước tuệ làm tư lương hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với ngã, hữu tình và các tịnh lự đẳng trì, đẳng chí hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả pháp, tất cả hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Vì “tam luân” thanh tịnh nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, thanh tịnh đạo Bồ-đề, đây gọi là Bát-nhã xuất thế gian.

Nếu Đại Bồ-tát nào đem tất cả căn lành như vậy mà cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên biết sự hồi hướng như vậy chính là sự hồi hướng vô thượng, hồi hướng không sai biệt, hồi hướng không gì sánh bằng, hồi hướng không thể nghĩ bàn, hồi hướng không chướng ngại, hồi hướng vô lượng, hồi hướng vi diệu. Như thế gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá-lợi Tử! Sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy, do nhân duyên gì mà gọi là thế gian? Lại do nhân duyên gì gọi là xuất thế gian?

Xá-lợi Tử! Thế gian là, sáu pháp Ba-la-mật-đa kia là thế gian nên gọi là thế gian. Tạo thế gian nên gọi là thế gian. Do thế gian nên gọi là thế gian. Vì thế gian nên gọi là thế gian. Nhân thế gian nên gọi là thế gian. Thuộc về thế gian nên gọi là thế gian. Dựa vào thế gian nên gọi là thế gian.

Xá-lợi Tử! Xuất thế gian là, sáu pháp Ba-la-mật-đa này là xuất thế gian nên gọi xuất thế gian. Vượt ra khỏi thế gian nên gọi là xuất thế gian. Lấy ra khỏi thế gian nên gọi là xuất thế gian. Do lìa thế gian nên gọi là xuất thế gian. Vì ra khỏi thế gian nên gọi là xuất thế gian. Từ thế gian mà vượt ra nên gọi là xuất thế gian. Ra khỏi thế gian nên gọi là xuất thế gian. Dựa vào thế gian mà ra nên gọi là xuất thế gian.

Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy sẽ làm thanh tịnh đạo Bồ-đề.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Những gì gọi là đạo Bồ-đề của các Đại Bồ-tát?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Tám giải thoát, chín định thứ đệ là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Năm loại mắt, sáu phép thần thông là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát.

Xá-lợi Tử! Như vậy, hết thảy vô lượng, vô biên đại công đức, tất cả đều là đạo Bồ-đề của các Đại Bồ-tát.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Công đứcTôn giả đã nói, đó là do oai lực của những Ba-la-mật-đa nào mà thành tựu?

Thiện Hiện đáp:

- Công đức mà tôi đã nói, đó là do oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đathành tựu. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế có thể là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai đều sanh ra từ đây. Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế có thể giữ gìn khắp tất cả thiện pháp; tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai đều an trụ nơi đây.

Xá-lợi Tử! Chúng Đại Bồ-tát ở đời quá khứ tu học rất viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa, đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chúng Đại Bồ-tát ở đời vị lai tu học rất viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa, sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chúng Đại Bồ-tát ở đời hiện tại trong mười phương vô lượng cõi Phật, tu học rất viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa, nay chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, mà tâm không nghi hoặc, cũng không mê muội, thì nên biết Đại Bồ-tát này luôn luôn an trụ như vậy, không bao giờ xả bỏ. Nghĩa là dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường siêng tinh cần cứu độ tất cả hữu tình. Nên biết Đại Bồ-tát này thành tựu tác ý tối thắng như thế, gọi là tác ý tương ưng với đại bi.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào luôn luôn an trụ như vậy, không bao giờ xả bỏ, sẽ thành tựu tác ý tương ưng với đại bi, thì tất cả hữu tình cũng được thành tựu Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng đối với sự an trụ và tác ý này không bao giờ bỏ, nên các Đại Bồ-tát cùng với tất cả hữu tình không khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Lành thay! Lành thay! Lời của ngài nói thật giống y tôi nói, tuy chỉ là gạn hỏi tôi mà tác thành ý nghĩ của tôi. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì hữu tình cho đến người thấy chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Hữu tình cho đến người thấy không thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không thật. Hữu tình cho đến người thấy vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Hữu tình cho đến người thấy là Không, nên biết trụ và tác ý như thế cũng Không. Hữu tình cho đến người thấy viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Hữu tình cho đến người thấy tịch tĩnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tĩnh. Hữu tình cho đến người thấy không giác tri, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không giác tri.

Xá-lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng có, không thật, vô tánh, Không, viễn ly, tịch tĩnh, không giác tri, nên biết trụ và tác ý như thế cũng chẳng có, không thật, vô tánh, Không, viễn ly, tịch tĩnh, không giác tri. Như vậy cho đến Thanh văn, Độc giác, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng có, không thật, vô tánh, Không, viễn ly, tịch tĩnh, không giác tri, nên biết trụ và tác ý như thế cũng chẳng có, không thật, vô tánh, Không, viễn ly, tịch tĩnh, không giác tri.

Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên các Đại Bồ-tát đối với trụ và tác ý như vậy thường không xa lìa, cùng với các hữu tình không khác nhau. Vì tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn Không, nên không khác nhau.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo vì các Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều nương sức oai thần của Như Lai. Nếu có vị nào muốn vì các Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên tuyên thuyết như ông đã thuyết. Nếu Đại Bồ-tát nào muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên theo lời nói của ông mà học. Nếu Đại Bồ-tát nào theo lời dạy của ông mà học Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát này mau đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm an lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Khi cụ thọ Thiện Hiệnđại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì ở tam thiên đại thiên thế giới này biến động sáu cách: Đông vọt lên Tây lặn xuống, Tây vọt lên Đông lặn xuống, Nam vọt lên Bắc lặn xuống, Bắc vọt lên Nam lặn xuống, giữa vọt lên một bên lặn xuống, một bên vọt lên giữa lặn xuống.

Khi ấy, Thế Tôn liền mỉm cười. Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân gì duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Như ở tam thiên đại thiên thế giới, Ta nay vì các Đại Bồ-tát tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bây giờ ở mười phương thế giới vô lượng, vô số, vô biên đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa như Ta đang ở trong tam thiên đại thiên thế giới tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, có mười hai vạn triệu chúng trời, người đông đảo. Đối với tất cả pháp đều chứng đắc Pháp vô sanh nhẫn. Ngày nay ở mười phương thế giới vô lượng, vô số, vô biên đều có vô lượng, vô số, vô biên các loại hữu tình cũng nghe chư Phật kia, vì chúng Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với trong pháp Không đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh lòng tin hiểu sâu xa nên nhiệt tâm tu hạnh Đại Bồ-tát.

Quyển thứ 498A

 
IV. PHẨM THIÊN ĐẾ

01

Lúc bấy giờ, ở ba ngàn đại thiên thế giới này, tất cả Tứ đại thiên vương và các Thiên đế, cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, cùng vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng đồng đến ngồi trong hội chúng. Chư thiên này do các nghiệp thanh tịnhchiêu cảm quả dị thục, hào quang nơi thân tuy phát ra rực rỡ, song so với hào quang của Như Lai thường hiện thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một phần cực nhỏ. Vì sao? Vì trong các hào quang, hào quang của Phật thường phát ra oai lực rực rỡ, hào quang Ngài là tối tôn, tối thắng, tối cao, tối diệu, không thể so sánh, không thể sánh bằng, là vô thượng đệ nhất. Hào quang của Phật che lắp làm mất hẳn hào quang của chư Thiên, giống như ánh sáng trăng rằm mùa thu, che lắp tất cả ngôi sao.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Bây giờ trong ba ngàn đại thiên thế giới này đều có tất cả Tứ đại thiên vương và các Thiên đế, cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng với quyến thuộc đồng vân tập đến chúng hội, muốn nghe Đại đức tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cúi xin Đại đức thương xót chúng tôituyên thuyết.

Bạch Đại đức! Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát? Vì sao Đại Bồ-tát an trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa? Vì sao Đại Bồ-tát phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Thiên chúng các vị nên lắng nghe, khéo tư duy, tôi sẽ nương sức oai thần của Phật, thuận theo ý của Như Lai mà vì các Đại Bồ-tát tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Đại Bồ-tát có thể ở trong pháp đó mà an trụ như vậy, tu học như vậy.

Kiều-thi-ca! Thiên chúng các vị, vị nào chưa phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nay nên phát tâm.

Kiều-thi-ca! Nếu những vị nào đã vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác, thì không thể phát tâm đại Bồ-đề lại nữa. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì vị ấy ngăn cách dòng sanh tử. Trong những vị ấy, nếu vị nào có thể phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Vì các bậc Thắng nhân đều nên cầu thắng pháp. Tôi hoàn toàn không ngăn cản thiện phẩm thù thắng của họ.

Kiều-thi-ca! Ngài hỏi, sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát? Lắng nghe! Lắng nghe! Tôi sẽ nói cho ngài rõ.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc uẩn cho đến thức uẩn, hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc bất tịnh, hoặc Không, hoặc vô tướng, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tĩnh, hoặc viễn ly, hoặc như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên, như ghẻ lở, hoặc nhiệt não, hoặc bức bách, hoặc bại hoại, hoặc mục nát, hoặc biến động, hoặc mau diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng chán, hoặc tai ương, hoặc ngang trái, hoặc có dịch, hoặc có bệnh truyền nhiễm, hoặc không an ổn, hoặc không đáng tin, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới. Tư duy vô minh cho đến lão tử, cũng lại như vậy.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, cho đến hoàn toàn là tập hợp khổ lớn.

Lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt; hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử cho đến tập hợp khổ lớn diệt.

Tất cả đều diệt như thế là vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện, tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là vô ngã, ngã sở, vô tướng, vô nguyện, tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là vô ngã, ngã sở, vô tướng, vô nguyện, tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vivô ngã, ngã sở, vô tướng, vô nguyện, tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; tư duy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; tư duy bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tư duy tám giải thoát, chín định thứ đệ; tư duy pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tư duy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; tư duy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tư duy năm loại mắt, sáu phép thần thông; tư duy mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tư duy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; tư duy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều là vô thường, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện, tịch tĩnh, viễn ly, biến động, mau diệt, không đáng tin, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, an trụ cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, an trụ Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào phát khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, chín định thứ đệ; tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát; tu hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Quyển thứ 498B
HẾT

02

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà quán như vầy: Chỉ có các pháp trợ duyên với nhau, thấm nhuần tăng trưởng, lần lượt biến khắp. Trong đó hoàn toàn không có ngã và ngã sở. Như thật quán sát bất khả đắc.

Lại khởi tâm quán: Các Đại Bồ-tát dùng sự tu tập thiện căn thù thắng, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tu tập tâm thiện căn không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp; tâm hồi hướng không cùng với tu tập tâm thiện căn hòa hợp. Tâm hồi hướng không cùng với tâm Bồ-đề hòa hợp; tâm Bồ-đề cũng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp. Tu tập tâm thiện căn đối với tâm hồi hướng, vô sở hữu, bất khả đắc; tâm hồi hướng đối với tu tập tâm thiện căn cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tâm hồi hướng đối với tâm Bồ-đề vô sở hữu, bất khả đắc; tâm Bồ-đề đối với tâm hồi hướng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát tuy như thật quán các pháp nhưng đối với các pháp hoàn toàn không thấy quán.

Kiều-thi-ca! Đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Bạch Đại đức! Vì sao đối với các Đại Bồ-tát, tu tập tâm thiện căn không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp; tâm hồi hướng cũng không cùng với tu tập tâm thiện căn hòa hợp. Tâm hồi hướng không cùng với tâm Bồ-đề hòa hợp; tâm Bồ-đề cũng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp. Tu tập tâm thiện căn đối với tâm hồi hướng vô sở hữu, bất khả đắc; tâm hồi hướng đối với tu tập tâm thiện căn cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tâm hồi hướng đối với tâm Bồ-đề vô sở hữu, bất khả đắc; tâm Bồ-đề đối với tâm hồi hướng cũng vô sở hữu, bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp:

- Kiều-thi-ca! Đối với các Đại Bồ-tát tu tập tâm thiện căn thì chẳng phải tâm; tâm hồi hướng, tâm Bồ-đề cũng chẳng phải tâm. Không thể dùng phi tâm mà có sự tu tập, hoặc có hồi hướng, hoặc nơi hồi hướng. Không thể dùng phi tâmhồi hướng phi tâm. Tâm cũng không nên hồi hướng phi tâm. Phi tâm không nên hồi hướng đối với tâm. Tâm cũng không nên hồi hướng đối với tâm. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì phi tâm tức là bất tư nghì. Bất tư nghì tức là phi tâm. Cả hai loại như vậy đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng.

Kiều-thi-ca! Tâm không tự tánh, tâm sở cũng vậy. Tâm và tâm sở đã không tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa với hồi hướng tâm. Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát nếu quán như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát.

Lúc ấy, Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo vì các Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng hay khuyến khích các Đại Bồ-tát siêng năng hoan hỷ tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ơn, sao lại không đáp đền. Vì sao? Vì thời quá khứ chư Phật và chúng đệ tử đã vì các Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết sáu pháp Ba-la-mật-đa, bằng cách thị hiện, dạy dỗ, hướng dẫn, khen ngợi, khích lệ, hoan hỷ, an ủi, kiến lập để cho họ được cứu cánh. Khi ấy, Thế Tôn cũng học ở trong đó, nay đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vị diệu, làm lợi ích cho chúng con. Vì vậy, ngày nay con phải theo lời Phật dạy, vì các Đại Bồ-tát mà tuyên thuyết sáu pháp Ba-la-mật-đa, cũng thị hiện, dạy dỗ, hướng dẫn, khen ngợi, khích lệ, hoan hỷ, an ủi, kiến lập, làm cho họ được cứu cánh, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vị diệu đến tận đời vị lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, thì mới gọi là đền đáp được ân đức kia.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Ngài hỏi vì sao Đại Bồ-tát nên an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa? Ngài hãy lắng nghe! Lắng nghe! Tôi sẽ vì ngài mà nói. Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên an trụ vào chỗ chưa từng an trụ.

Kiều-thi-ca! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, sắc uẩn cho đến thức uẩntánh Không. Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát là tánh Không. Hoặc tánh Không của sắc uẩn cho đến thức uẩn, hoặc tánh Không của các Đại Bồ-tát, tất cả như thế đều không hai, không hai phần.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên an trụ như vậy.

Kiều-thi-ca! Nhãn xứ cho đến ý xứ, nhãn xứ cho đến ý xứtánh Không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, sắc xứ cho đến pháp xứtánh Không. Nhãn giới cho đến ý giới, nhãn giới cho đến ý giớitánh Không. Sắc giới cho đến pháp giới, sắc giới cho đến pháp giớitánh Không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, nhãn thức giới cho đến ý thức giới là tánh Không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc cho đến ý xúc là tánh Không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tánh Không. Địa giới cho đến thức giới, địa giới cho đến thức giớitánh Không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, nhân duyên cho đến tăng thượng duyêntánh Không. Vô minh cho đến lão tử, vô minh cho đến lão tửtánh Không. Vô minh diệt cho đến lão tử diệt, vô minh diệt cho đến lão tử diệt là tánh Không. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đatánh Không. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là tánh Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tánh Không. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vitánh Không. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là tánh Không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạotánh Không. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắctánh Không. Tám giải thoát, chín định thứ đệ, tám giải thoát, chín định thứ đệtánh Không. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệntánh Không. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địatánh Không. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địatánh Không. Năm loại mắt, sáu phép thần thông, năm loại mắt, sáu phép thần thôngtánh Không. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngtánh Không. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là tánh Không. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là tánh Không. Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa, Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừatánh Không. Dự lưu cho đến Như Lai, Dự lưu cho đến Như Laitánh Không. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tánh Không. Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát là tánh Không. Hoặc tánh Không của nhãn xứ cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc tánh Không của các Đại Bồ-tát. Tất cả như vậy đều không hai, không hai phần.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên an trụ như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Vì sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ chỗ nào?

Thiện Hiện đáp:

- Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ sắc uẩn, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ trí nhất thiết, không nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ đây là sắc uẩn, không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ đây là trí nhất thiết, không nên trụ đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ sắc uẩn cho đến thức uẩnthường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh, Không, bất Không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh, Không, bất Không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ quả Dự lưu là sự hiển hiện vô vi. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là sự hiển hiện vô vi. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ Dự lưuphước điền đáng nhận sự cúng dường. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Laiphước điền đáng nhận sự cúng dường. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ sơ địa. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ đệ nhị địa cho đến thập địa. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ lúc mới phát tâm rồi nghĩ như vầy: Ta nên viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ta nên viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Ta nên viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ta nên viên mãn tám giải thoát, chín định thứ đệ. Ta nên viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ta tu gia hạnh đã viên mãn, rồi vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Ta đã đắc Chánh tánh ly sanh rồi nên an trụ ở địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát. Ta nên viên mãn năm thần thông của Bồ-tát. Ta trụ năm thần thông của Bồ-tát viên mãn rồi nên du hóa đến vô lượng, vô số cõi Phật để đảnh lễ, chiêm ngưỡng, phụng sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn, lắng nghe Chánh pháp của chư Phật rồi như lý tư duy, để giảng rộng cho người khác. Ta nên trang nghiêm thanh tịnh quốc độ như chỗ ở của mười phương Phật, an lập hữu tình. Ta phải biến hóa quốc độ như chỗ ở của mười phương Phật, an lập hữu tình. Ta phải giáo hóa các loại hữu tình để họ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc đắc Niết-bàn, hoặc ở cõi lành. Ta phải đến vô lượng, vô số cõi Phật thân cận, phụng sự chư Phật Thế Tôn. Lại dùng vô biên hoa hương, chuỗi anh lạc, tràng phan, lọng báu, âm nhạc, y phục, thức ăn, nước uống và các vật dụng khác để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ta phải an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình giúp họ đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không còn thối chuyển. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu năm loại mắt thanh tịnh, đó là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu sáu phép thần thông thù thắng, đó là cảnh trí thông, thiên nhãn trí thông, thiên nhĩ trí thông, tha tâm trí thông, túc trụ tùy niệm trí thông, lậu tận trí thông. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu tất cả pháp môn Tam-ma-địa thù thắng, đối với các đẳng trì, tùy tâm tự tại muốn an trụ. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu tất cả pháp môn Đà-la-ni thù thắng, đối với các tổng trì, sự nghiệp đã làm đều được tự tại. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ để thân được trang nghiêm, khiến cho các hữu tình ai thấy đều hoan hỷ, chiêm ngưỡng không biết nhàm chán, tự thân được lợi lạc. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thông đạt các pháp nhưng không chấp trước, không chướng ngại. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là bậc đệ bát; đây là bậc Dự lưu còn bảy lần sanh trở lại, đây là Gia gia, đây là Nhất gian, đây là bậc Tề thủ cho đến đoạn tận phiền não thọ mạng mới dứt; đây là Dự lưu định không phải là pháp đọa; đây là pháp trung gian vào Niết-bàn; đây là Nhất lai chỉ đến thế gian này một lần dứt trừ hết khổ; đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, qua bờ kia mới được vào Niết-bàn; đây là A-la-hán hướng, đây là A-la-hán quả, quyết vào vô dư Niết-bàn hiện tại; đây là Độc giác, đây là Bồ-tát, vượt hơn địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…, an trụ địa vị Đại Bồ-tát, tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hiểu rõ tất cả pháp, tất cả tướng rồi đoạn trừ hẳn sự tương tục của tất cả tập khí kiết sử phiền não, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, được thành đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đầy đủ oai lực lớn, rồi chuyển pháp luân vi diệu, làm các Phật sự, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, giúp họ chứng đắc Niết-bàn, hoàn toàn an lạc. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta phải khéo tu bốn thần túc, rồi an trụ đẳng trì thù thắng như thế. Do đẳng trì này mà ta tăng trưởng thế lực, để thọ mạng của ta được dài lâu suốt hằng hà sa đại kiếp. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta phải hưởng được tuổi thọ vô lượng, vô biên. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu ba mươi hai tướng, mỗi một tướng này có trăm phước trang nghiêm, hữu tình nào thấy được đều sanh lợi lạc lớn. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta nên thành tựu tám mươi vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp này đều có vô số, vô lượng việc thù thắng hiếm có, hữu tình nào thấy được thì sanh lợi ích lớn. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta phải an trụ một cõi thanh tịnh trang nghiêm, cõi ấy rộng lớn như hằng hà sa thế giới khắp mười phương. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta phải an tọa trên một tòa bằng kim cương, tòa này lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Ta phải ngồi dưới cội Bồ-đề, cây này phải cao rộng, to lớn với nhiều bảo vật quí báu, nơi ấy thường tỏa ra mùi thơm vi diệu tràn khắp, khiến cho người nghe mau chóng diệt trừ tâm tham, sân, si; vô lượng, vô biên thân bệnh cũng được lành. Ai được nghe hương của cây Bồ-đề này thì xa lìa suy nghĩ về Thanh văn, Độc giác, chắn chắn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Không nên trụ ý nghĩ như vầy: Nguyện cho tôi sẽ được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Cõi ấy thật trong sạch, không có các thứ cấu uế. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên trụ ý nghĩ như vầy: Nguyện cho tôi sẽ được cõi Phật thanh tịnh, trong đó hoàn toàn không chấp trước tên gọi, âm thanh của sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh sắc xứ cho đến pháp xứ. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhãn giới cho đến ý giới. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh sắc giới cho đến pháp giới. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh địa giới cho đến thức giới. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh vô minh cho đến lão tử. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh tám giải thoát, chín định thứ đệ. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Thanh văn, Độc giác, Đại thừa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Dự lưu hướng, Dự lưu quả cho đến Bồ-tát, Như Lai. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiểu rõ tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, tên gọi, âm thanh đều bất khả đắc.

Khi các Đại Bồ-tát an trụ ở bậc Bất thối chuyển, cũng thấy các pháp hoàn toàn vô sở hữu, tên gọi, âm thanh đều bất khả đắc.

Kiều-thi-ca! Đây là các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chỗ trụ như vậy mà không có trụ tướng.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tùy theo thật tướng nên trụ mà không nên trụ, vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, phải nên học như vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ như vầy: Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp đều không nên trụ, thì tại sao nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của Xá-lợi Tử liền nói:

- Ý Tôn giả thế nào? Tâm của chư Như Lai thì trụ ở đâu?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tâm của chư Như Lai hoàn toàn vô sở trụ. Vì sao? Vì tâm của chư Phật không trụ sắc uẩn cho đến thức uẩn. Không trụ nhãn xứ cho đến ý xứ. Không trụ sắc xứ cho đến pháp xứ. Không trụ nhãn giới cho đến ý giới. Không trụ sắc giới cho đến pháp giới. Không trụ nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Không trụ nhãn xúc cho đến ý xúc. Không trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không trụ địa giới cho đến thức giới. Không trụ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không trụ vô minh cho đến lão tử. Không trụ cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi. Không trụ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Không trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Không trụ cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Không trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Không trụ bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không trụ tám giải thoát, chín định thứ đệ. Không trụ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không trụ Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Không trụ Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Không trụ năm loại mắt, sáu phép thần thông. Không trụ mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không trụ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Không trụ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Không trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc. Như vậy, Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối với tất cả pháp hoàn toàn vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Lúc đó, cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng đều như vậy. Tuy trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, mà đồng với Như Lai, đối với tất cả pháp tâm vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng đối với sắc uẩn chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ; đối thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết chẳng trụ, chẳng phải không trụ; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì sắc v.v... pháp không hai tướng.

Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tùy theo tướng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên học như vậy.

Bấy giờ, trong hội chúng có các Thiên tử suy nghĩ: Lời lẽ câu chú của các Dược-xoa v.v... nhiều loại khác nhau, tuy ẩn mật nhưng chúng ta còn có thể hiểu rõ được. Tôn giả Thiện Hiện thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mặc dù dùng nhiều lời lẽ chỉ bày rõ ràng, nhưng sao chúng ta lại không hiểu nổi.

Cụ thọ Thiện Hiện biết được tâm niệm của các Thiên tử liền bảo:

- Các vị Thiên tử! Những gì tôi đã nói các vị không hiểu nổi sao?

Các Thiên tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Câu cú và ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xaTôn giả đã nói, đối với chúng tôi thật là khó hiểu.

Cụ thọ Thiện Hiện nói:

- Tôi thường đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, trong nghĩa tương ưng không nói một chữ, các vị cũng không nghe thì lấy gì mà hiểu? Vì sao? Các Thiên tử! Vì trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì văn tự ngôn ngữ hoàn toàn xa lìa. Bởi bì trong ấy người nói, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sâu xa vi diệu, cũng lại như vậy.

Thiên tử nên biết: Như Phật hóa làm một hóa thân Phật. Hóa thân Phật này hóa làm bốn chúng, đều đến hội mà thuyết pháp. Ý các vị thế nào? Trong đây thật có người thuyết, người nghe, người hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không có.

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả pháp đều như huyễn hóa. Nay trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc.

Thiên tử nên biết: Cũng như mộng thấy Phật thuyết pháp cho chúng. Ý các vị thế nào? Trong đây thật có người thuyết, người nghe, người hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không có.

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng. Nay trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc.

Thiên tử nên biết: Giống như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người xoay về một hướng, cùng một lúc cất tiếng ca ngợi Phật, Pháp, Tăng. Ý các vị thế nào? Hai tiếng vang này có thể nghe lẫn nhau? Có thể hiểu lẫn nhau không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không.

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả pháp đều như tiếng vang. Nay trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc.

Thiên tử nên biết: Ví như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của vị ấy ở ngã tư đường, hóa làm bốn chúng và một Như Lai thuyết pháp cho chúng nghe. Ý các vị thế nào? Trong đây có thật người thuyết, người nghe, người hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả pháp đều như nhà ảo thuật. Nay trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc.

Thiên tử nên biết: Do nhân duyên này, đối với trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tôi thường không thuyết một chữ, các vị cũng không nghe, thì lấy gì mà hiểu được.

Khi ấy, các Thiên tử lại nghĩ như vầy: Trong nghĩa thậm thâm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, Đại đức Thiện Hiện tuy dùng nhiều phương tiện nói rõ, muốn chúng ta dễ hiểu, nhưng nghĩa lý kia sâu xa lại càng sâu xa hơn, vi tế lại càng vi tế hơn, khó có thể lường được.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các vị ấy liền bảo:

- Thiên tử nên biết: Sắc uẩn chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Vì sao? Các Thiên tử! Vì tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn đều chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Như vậy, cho đến trí nhất thiết chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Vì sao? Các Thiên tử! Vì tự tánh trí nhất thiết, tự tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế.

Các Thiên tử lại nghĩ: Trong pháp được thuyết Đại đức Thiện Hiện không trình bày sắc uẩn, cũng không trình bày thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Vì sao? Vì tánh sắc uẩn v.v... đều không thể thuyết. Như vậy cho đến không trình bày trí nhất thiết, cũng không trình bày trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh trí nhất thiết v.v... đều không thể thuyết.

Trong lúc thuyết pháp, Đại đức Thiện Hiện không trình bày Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, và tất cả Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Vì sao? Vì tánh Dự lưu hướng v.v... đều không thể thuyết. Trong lúc thuyết pháp, Đại đức Thiện Hiện cũng không trình bày ngôn ngữ, văn tự. Vì sao? Vì tánh của ngôn ngữ, văn tự đều không thể thuyết.

Cụ thọ Thiện Hiện biết các Thiên tử đang nghĩ về pháp, liền bảo họ:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ý nghĩ của các vị, sắc uẩn cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, văn tự ngôn ngữ đều không thể thuyết. Cho nên đối với trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, không có người thuyết, không có người nghe, cũng không có người hiểu. Do đó, đối với các pháp các vị phải tùy theo lời nóitu hành nhẫn nhục vững chắc.

Thiên tử nên biết: Các vị muốn chứng, muốn trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, cần phải nương vào pháp nhẫn này mới có thể chứng đắc và an trụ. Như vậy, Thiên tử! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt được cứu cánh rốt ráo, nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nói, không nghe, không hiểu này, luôn luôn siêng năng tu học, không nên tạm lìa bỏ.

Các Thiên tử lại nghĩ: Nay Đại đức Thiện Hiện muốn vì hữu tình nào mà thuyết những pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền nói:

- Thiên tử nên biết: Nay tôi muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng mà tuyên thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì như vậy thì người nghe đối với việt thuyết pháp cũng không nghe, không hiểu, không chứng.

Các Thiên tử hỏi lại:

- Người thuyết, nghe và pháp được thuyết đều thấy như huyễn, như hóa, như mộng sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các vị đã nói. Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn nên pháp thuyết cũng như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hóa nên pháp thuyết cũng như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng nên pháp thuyết cũng như mộng.

Thiên tử nên biết: Ngã cho đến người thấy đều thấy như huyễn, như hóa, như mộng. Sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng thấy như huyễn, như hóa, như mộng. Cho đến Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng thấy như huyễn, như hóa, như mộng.

Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Bạch Đại đức! Nay Đại đức chỉ nói ngã cho đến Bồ-đề thấy như huyễn, như hóa, như mộng. Vậy Đại đức cũng nói thấy Niết-bàn như huyễn, như hóa, như mộng sao?

Thiện Hiện đáp:

- Nay tôi chỉ nói ngã cho đến Bồ-đề thấy như huyễn, như hóa, như mộng. Cũng nói Niết-bàn thấy như huyễn, như hóa, như mộng.

Thiên tử nên biết: Giả sử có pháp cao hơn Niết-bàn, tôi cũng nói là thấy như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Vì việc huyễn, hóa, mộng cùng với tất cả pháp cho đến Niết-bàn, tất cả đều không hai, không hai phần.

Bấy giờ, các Đại Thanh văn, cụ thọ Xá-lợi Tử, Đại Mục-kiền-liên, Chấp Đại Tạng, Mãn Từ Tử, Đại Ca-đa-diễn-na, Đại Ca-diếp-ba v.v... và vô lượng trăm ngàn Đại Bồ-tát cùng hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đaTôn giả đã thuyết thậm thâm như vậy, khó thấy, khó hiểu, tịch tĩnh, vi diệu, chẳng phải chỗ suy nghĩ, vượt lên cảnh giới suy nghĩ, tối thắng nhất thì ai có thể tin hiểu, lãnh thọ được?

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch với các Đại Thanh văn và các Đại Bồ-tát:

- Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, có thể lãnh thọ và tin hiểu sâu xa. Lại có vô lượng A-la-hán đã thấy Thánh đế, đối với các pháp sâu xathể đạt tận nguồn gốc, sở nguyện đã viên mãn, các lậu hoặc chấm dứt, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể tin hiểu, lãnh thọ.

Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ nhơn v.v… ở trong thời quá khứ vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức Phật, thân cận, cúng dường, phát thệ nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, trí tuệ thông minh, được sự giúp đỡ của bạn lành, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng có thể tin hiểu, lãnh thọ. Vì sao? Vì những vị như vậy đối với pháp, phi pháp đều không phân biệt. Nghĩa là không dùng Không, bất Không phân biệt với sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt Không, bất Không. Không dùng hữu tướng, vô tướng phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt hữu tướng, vô tướng. Không dùng hữu nguyện, vô nguyện phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt hữu nguyện, vô nguyện. Không dùng tịch tĩnh, bất tịch tĩnh phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt tịch tĩnh, bất tịch tĩnh. Không dùng viễn ly, bất viễn ly phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt viễn ly, bất viễn ly. Không dùng sanh, bất sanh phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt sanh, bất sanh. Không dùng diệt, bất diệt phân biệt sắc cho đến thức; cũng không dùng sắc cho đến thức phân biệt diệt, bất diệt.

Như vậy cho đến không dùng Không, bất Không phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt Không, bất Không. Không dùng hữu tướng, vô tướng phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt hữu tướng, vô tướng. Không dùng hữu nguyện, vô nguyện phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt hữu nguyện, vô nguyện. Không dùng tịch tĩnh, bất tịch tĩnh phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt tịch tĩnh, bất tịch tĩnh. Không dùng viễn ly, bất viễn ly phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt viễn ly, bất viễn ly. Không dùng sanh, bất sanh phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt sanh, bất sanh. Không dùng diệt, bất diệt phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi; cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt diệt, bất diệt.

Do nhân duyên này nên những vị như vậy đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa đều có thể tin hiểu và thọ trì.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thật là thậm thâm, khó thấy, khó hiểu, tịch tĩnh, vi diệu. Chẳng phải chỗ suy nghĩ, vượt lên cảnh giới suy nghĩ, tối thắng đệ nhất. Trong đó thật không có người có thể tin hiểu, lãnh thọ. Vì sao? Vì trong đó không có pháp có thể hiển thị. Đã thật không có pháp có thể hiển thị nên người tin hiểu, thọ trì cũng bất khả đắc.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đâu phải trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến pháp tương ưng với tam thừa là pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Vô thượng thừa cho đến đạo Bồ-tát nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, từ lúc phát tâm ban đầu lần lượt đến phát tâm lần thứ mười, gọi là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. An trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tám giải thoát, chín định thứ đệ. Hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho đến việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của các Đại Bồ-tát. Đó là đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát phải siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ sanh mà thường thọ hóa sanh, không thối chuyển thần thông, có thể tự tại du hý, khéo thông đạt vô lượng pháp môn. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thường cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện mà gieo trồng các cội công đức, được thọ trì Chánh pháp của chư Phật, cho đến thường nhớ nghĩ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn ở thắng định xa lìa tâm rối loạn. Do nhân duyên này mà đắc biện tài vô ngại, biện tài không đoạn tận, biện tài ít sai lầm, biện tài thích ứng, biện tài nhanh nhẹn, biện tài diễn thuyết nghĩa vị phong phú, biện tài khéo léo đệ nhất thế gian.

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Tôn giả nói. Trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Cho đến pháp tương ưng ba thừa, cho đến việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của Bồ-tát, cho đến chứng đắc tất cả biện tài khéo léo đệ nhất thế gian.

Xá-lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, những gì đã thuyết đều dùng vô sở đắc làm phương tiện. Vậy thì pháp nào ở đây dùng vô sở đắc làm phương tiện?

Thiện Hiện đáp:

- Ở đây, ngã cho đến người thấy dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc cho đến thức dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn xứ cho đến ý xứ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc xứ cho đến pháp xứ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn giới cho đến ý giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc giới cho đến pháp giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn thức giới cho đến ý thức giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn xúc cho đến ý xúc dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, địa giới cho đến thức giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhân duyên cho đến tăng thượng duyên dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, vô minh cho đến lão tử dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, tám giải thoát, chín định thứ đệ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, năm loại mắt, sáu phép thần thông dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, Dự lưu hướng, Dự lưu quả cho đến Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên gì mà trong giáo pháp thậm thâm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến pháp tương ưng với ba thừa dùng vô sở đắc làm phương tiện?

Do nhân duyên gì mà trong giáo pháp thậm thâm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến đạo Bồ-tát nhiếp thọ các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến phát tâm lần thứ mười, dùng vô sở đắc làm phương tiện?

Do nhân duyên gì mà trong giáo pháp thậm thâm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của các Đại Bồ-tát, cho đến chứng đắc tất cả biện tài khéo léo đệ nhất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Do pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, nên đối với trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến pháp tương ưng với ba thừa đều dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Xá-lợi Tử! Do pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, nên đối với trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến đạo Bồ-tát nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm cho đến phát tâm lần thứ mười dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Xá-lợi Tử! Do pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, nên đối với trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến các việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của các Đại Bồ-tát, cho đến tất cả biện tài khéo đệ nhất thế gian đều dùng vô sở đắc làm phương tiện. Vì sao? Vì tất cả pháp đều Không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc.

Quyển thứ 499
HẾT

 

03

Lúc bấy giờ, trời Đế ThíchTứ đại thiên vương trong ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến trời Sắc cứu cánh đồng nghĩ như vầy: Tôn giả Thiện Hiện đã thừa hành thần lực của Phật mà vì chúng Đại Bồ-tát rưới trận mưa pháp lớn. Do thế nay chúng ta nên cúng dường, mỗi vị hãy hóa ra các loại hoa vi diệu của cõi trời, để rải cúng dường Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các Đại Bồ-tát và Bí-sô tăng, Tôn giả Thiện Hiện với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Nghĩ như vậy rồi trời Đế Thích và các vị trời liền hóa ra hương hoa vi diệucõi trời đem rải cúng dường.

Khi ấy, nhờ thần lực của Phật, hoa ở khắp hư không trong ba ngàn đại thiên thế giới này biến thành đài hoa trang nghiêm thù thắng vi diệu, lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới.

Cụ thọ Thiện Hiện thấy việc như vậy, liền nghĩ: Nay hoa rải ở chỗ chư Thiên là điều chưa từng thấy. Hoa này thù thắng vi diệu, chắc chắn không phải sanh ra do đất nước cỏ cây, mà do sự hóa hiện từ tâm chư Thiên.

Lúc đó, trời Đế Thích biết suy nghĩ của Thiện Hiện, liền nói với Thiện Hiện:

- Hoa đã rải đây thật chẳng phải do đất nước cỏ cây sanh ra mà là do tâm của chư Thiên hóa hiện vậy.

Thiện Hiện nói với trời Đế Thích:

- Hoa này không sanh tức chẳng phải hoa.

Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Chỉ hoa này là không sanh, còn các pháp khác cũng vậy chứ?

Thiện Hiện đáp:

- Không phải chỉ hoa này là không sanh. Các pháp khác cũng không sanh. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Vì sắc cũng không sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh. Đây đã không sanh tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Vì sao? Vì pháp không sanh xa lìa các hý luận, không thể trình bày là sắc v.v...

Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Vô minh cho đến lão tử. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Dự lưu hướng, Dự lưu quả, cho đến Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đềc của chư Phật. Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phải nên biết như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ thầm như vầy: Trí tuệ của Tôn giả Thiện Hiện thật là thâm sâu, chỉ thuyết pháp tánh mà không bỏ giả danh.

Đức Phật biết ý nghĩ đó, liền nói với Đế Thích:

- Kiều-thi-ca nghĩ đúng vậy. Trí tuệ của cụ thọ Thiện Hiện thật là thâm sâu, chỉ thuyết pháp tánh mà không bỏ giả danh.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Thiện Hiện đối với những pháp gì chỉ thuyết pháp tánh mà không bỏ giả danh?

Bấy giờ, Phật dạy trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Sắc cho đến thức chỉ là giả danh, giả danh như vậy nhưng không rời pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chỉ thuyết pháp tánh của sắc v.v... mà giả danh của sắc v.v... như thế không bị hoại. Vì sao? Vì pháp tánh của sắc v.v... không hoại, không phải không hoại. Cho nên, việc thuyết pháp của Thiện Hiện cũng không hoại, không phải không hoại. Như vậy cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nên biết như vậy.

Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với các pháp như thế, chỉ thuyết pháp tánh mà không bỏ giả danh.

Khi ấy, Thiện Hiện nói với Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Phật thuyết, các pháp có mặt đều là giả danh. Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đã biết tất cả pháp chỉgiả danh, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Khi các Đại Bồ-tát học như thế, thì không phải đối với sắc mà học; cũng không phải đối với thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Đại Bồ-tát này không thấy sắc có thể ở trong đó mà học; cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể ở trong đó mà học. Như vậy cho đến đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nên biết như vậy.

Trời Đế Thích lại hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát trong lúc học không thấy sắc, cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức; cho đến cũng không thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Thiện Hiện đáp:

- Kiều-thi-ca! Sắc, sắc là tánh Không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức là tánh Không. Cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giáctánh Không.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát do nhân duyên này mà trong lúc học không thấy sắc cho đến thức. Không thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì sắc Không không thể được nên thấy sắc Không; sắc Không không thể được nên học sắc Không. Như vậy cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không không thể được nên thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không không thể được nên học Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát không học nơi Không, thì Đại Bồ-tát này là học nơi Không. Vì sao? Vì không thể phân hai.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát không học nơi sắc Không, cho đến không học nơi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không, thì Đại Bồ-tát này là học nơi sắc Không, cho đến là học nơi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không. Vì sao? Vì không thể phân hai.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát dùng không thể phân hai làm phương tiện, đối với việc học sắc Không, cho đến dùng không hai làm phương tiện đối với việc học chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Không, thì Đại Bồ-tát này có thể dùng không hai làm phương tiện, học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Học cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Học tám giải thoát, chín định thứ đệ. Học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Học Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Học mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Học ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ. Học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Học tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Học Dự lưu hướng, Dự lưu quả, cho đến Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Học Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể dùng pháp không hai làm phương tiện, học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì Đại Bồ-tát đó có thể dùng pháp không hai làm phương tiện để học vô lượng, vô số, vô biên, làm thanh tịnh Phật pháp không thể nghĩ bàn.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể dùng pháp không hai làm phương tiện, thì Đại Bồ-tát đó có thể học vô lượng, vô số, vô biên, làm thanh tịnh Phật pháp không thể nghĩ bàn. Và Đại Bồ-tát đó không vì sắc tăng mà học, không vì sắc giảm mà học, cho đến không vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tăng mà học, không vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảm mà học. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì sắc cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không thể phân hai.

Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát nào không vì sắc tăng mà học, cũng không vì sắc giảm mà học, cho đến không vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tăng mà học, cũng không vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảm mà học, thì Đại Bồ-tát này không vì nhiếp thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học. Như vậy cho đến, không vì nhiệp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học; cũng không vì hoại diệt tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì nhiếp thọ, hoại diệt đều không thể phân hai.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Khi các Đại Bồ-tát học như vậy, sao lại không vì nhiếp thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học; cho đến không vì nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Xá-lợi Tử! Khi các Đại Bồ-tát học như vậy, không vì nhiếp thọ sắc mà học, không vì hoại diệt sắc mà học; cho đến không vì nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát khi học như vậy, không vì nhiếp thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học; cho đến không vì nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học?

Thiện Hiện đáp:

- Khi các Đại Bồ-tát học như vậy, không thấy có sắc có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, cũng không thấy người có thể nhiếp thọhoại diệt. Cho đến không thấy có tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, cũng không thấy người có thể nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và có thể hoại diệt. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì pháp của sắc v.v... hoặc năng, hoặc sở, nội, ngoại đều Không, bất khả đắc.

Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào không thấy các pháp là có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, cũng lại không thấy người có thể nhiếp thọhoại diệt, mà học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này mau chóng thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế mau chóng thành tựu trí nhất thiết trí ư?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thì mau chóng thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đối với tất cả pháp, không vì nhiếp thọ, không vì hoại diệt mà chỉ vì phương tiện.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đối với tất cả pháp, không vì nhiếp thọ, không vì hoại diệt, chỉ vì phương tiện thì làm sao có thể thành tựu trí nhất thiết trí?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy sắc cho đến thức là sanh, diệt, thủ, xả, nhiễm, tịnh, hợp, tan, tăng và giảm. Cho đến không thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là sanh, diệt, thủ, xả, nhiễm, tịnh, hợp, tan, tăng và giảm. Vì sao? Vì sắc cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không tự tánh, hoàn toàn bất khả đắc.

Như vậy, Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp đều không thấy sanh, diệt cho đến tăng, giảm. Vì lấy điều không học, không thành tựu mà làm phương tiện để tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì có thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

- Bạch Đại đức! Các Đại Bồ-tát nếu muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cầu ở đâu?

Xá-lợi Tử đáp:

- Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát nếu muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cầu học ở phẩm Thiện Hiện đã nói ở trước.

Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Có phải nhờ thần lực của Tôn giả làm chỗ nương tựa, hộ trì, khiến cho Xá-lợi Tử nói như vậy không?

Thiện Hiện đáp:

- Kiều-thi-ca! Không phải nhờ thần lực của tôi làm chỗ nương tựa, hộ trì, khiến cho Xá-lợi Tử nói như vậy đâu.

Trời Đế Thích lại hỏi:

- Vậy nhờ thần lực của ai làm chỗ nương tựa, hộ trì, khiến cho Xá-lợi Tử nói như vậy?

Thiện Hiện đáp:

- Chính nhờ thần lực của Phật làm chỗ nương tựa, hộ trì, khiến cho Xá-lợi Tử nói như vậy.

Trời Đế Thích nói:

- Tất cả pháp đều không chỗ nương tựa, hộ trì, như vậy làm sao nói là nhờ thần lực của Phật làm chỗ nương tựa, hộ trì, khiến cho Xá-lợi Tử nói như vậy.

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói. Tất cả pháp không chỗ nương tựa, hộ trì, cho nên Như Lai chẳng có thể nương tựa, hộ trì, chẳng làm chỗ nương tựa, hộ trì. Chỉ vì thuận theo pháp thế gian nên nói làm chỗ nương tựa, hộ trì.

Kiều-thi-ca! Tức không nương tựa, hộ trì, Như Lai bất khả đắc. Viễn ly không nương tựa, hộ trì, Như Lai bất khả đắc. Không nương tựa, hộ trì, trong chơn như Như lai bất khả đắc. Trong Như Lai, không nương tựa, hộ trì, chơn như bất khả đắc. Không nương tựa, hộ trì, trong pháp tánh Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, không nương tựa, hộ trì, pháp tánh bất khả đắc.

Kiều-thi-ca! Tức Như Lai và sắc bất khả đắc. Viễn ly Như Lai và sắc bất khả đắc. Trong sắc, chơn nhưNhư Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, chơn như và sắc bất khả đắc. Trong sắc và pháp tánh, Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, sắc và pháp tánh bất khả đắc. Như vậy cho đến Như Lai cùng với trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Viễn ly trí nhất thiết tướng, Như Lai bất khả đắc. Trong trí nhất thiết tướng và chơn như, Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, trí nhất thiết tướng và chơn như bất khả đắc. Trong pháp tánh và trí nhất thiết tướng, Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, pháp tánh và trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Vì Như Lai cùng với sắc chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly sắc chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với sắc, chơn như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly sắc, chơn như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với sắc, pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly sắc, pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như vậy cho đến Như Lai cùng với trí nhất thiết tướng chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với trí nhất thiết tướng, chơn như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng, chơn như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với trí nhất thiết tướng, pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng, pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan.

Kiều-thi-ca! Tôn giả Xá-lợi Tử đã nói những lời kia là đối với tất cả pháp chẳng gần, chẳng xa, chẳng hợp, chẳng tan. Nhờ thần lực của Như Lai mà làm chỗ nương tựa, hộ trì, dùng không nương tựa, hộ trì làm chỗ nương tựa, hộ trì.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Lúc trước ngài hỏi các Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cầu ở đâu.

Kiều-thi-ca! Việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là không nên cầu sắc, không nên cầu xa lìa sắc. Như vậy cho đến không nên cầu trí nhất thiết tướng, không nên cầu xa lìa trí nhất thiết tướng. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì hoặc sắc, hoặc lìa sắc, cho đến hoặc trí nhất thiết tướng, hoặc lìa trí nhất thiết tướng, hoặc Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc cầu tất cả pháp chẳng hợp, chẳng tan như thế, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Vì sao? Vì việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là chẳng phải sắc, chẳng phải xa lìa sắc. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng. Chẳng phải sắc, chơn như, chẳng phải xa lìa sắc, chơn như. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chơn như, chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng, chơn như. Chẳng phải sắc, pháp tánh, chẳng phải xa lìa sắc, pháp tánh. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, pháp tánh; chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng, pháp tánh. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả pháp như thế đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do vô sở hữu, bất khả đắc cho nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là chẳng phải sắc, chẳng phải xa lìa sắc. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng. Chẳng phải sắc, chơn như, chẳng phải xa lìa sắc, chơn như. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chơn như, chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng, chơn như. Chẳng phải sắc, pháp tánh, chẳng phải xa lìa sắc, pháp tánh. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, pháp tánh, chẳng phải xa lìa trí nhất thiết tướng, pháp tánh.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Tôn giả Thiện Hiện:

- Việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa, là vô lượng Ba-la-mật-đa, là vô biên Ba-la-mật-đa. Các vị Dự lưu sẽ đắc quả Dự lưu trong việc học này. Các vị Nhất lai sẽ đắc quả Nhất lai trong việc học này. Các vị Bất hoàn sẽ đắc quả Bất hoàn trong việc học này. Các vị A-la-hán sẽ đắc quả A-la-hán trong việc học này. Các vị Độc giác sẽ đắc quả Độc giác Bồ-đề trong việc học này. Các Đại Bồ-tát có thể giáo hóa hữu tìnhtrang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề trong việc học này.

Thiện Hiện nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì sắc rộng lớn nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng rộng lớn. Cho đến trí nhất thiết tướng rộng lớn nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng rộng lớn. Vì sao? Vì giai đoạn trước, sau, giữa của sắc cho đến trí nhất thiết tướng đều bất khả đắc, nên gọi là rộng lớn. Do sự rộng lớn kia nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng là rộng lớn.

Kiều-thi-ca! Sắc vô lượng nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô lượng. Cho đến trí nhất thiết tướng vô lượng, nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng sắc cho đến trí nhất thiết tướng không thể đắc. Giống như lượng của hư không cũng bất khả đắc. Sắc v.v... cũng vậy, nên nói vô lượng. Kiều-thi-ca! Hư không vô lượng nên sắc v.v... cũng vô lượng. Sắc v.v... vô lượng nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô lượng.

Kiều-thi-ca! Sắc vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên. Cho đến trí nhất thiết tướng vô biên, nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên. Vì sao? Vì sắc cho đến trí nhất thiết tướng ở trong hay ngoài đều bất khả đắc. Giống như hư không ở trong hay ngoài đều bất khả đắc. Sắc v.v... cũng vậy, nên nói vô biên. Kiều-thi-ca! Hư không vô biên nên sắc v.v... cũng vô biên. Sắc v.v... vô biên cho nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Trời Đế Thích hỏi:

- Vì sao sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp:

- Sở duyên của trí nhất thiết trí vô biên, nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Sở duyên của pháp giới vô biên, nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Trời Đế Thích hỏi:

- Vì sao sở duyên của pháp giới vô biên, nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp:

- Pháp giới vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên pháp giới cũng vô biên. Pháp giới, sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Chơn như, sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Trời Đế Thích hỏi:

- Vì sao chơn như, sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp:

- Chơn như vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên chơn như cũng vô biên. Chơn như, sở duyên vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Hữu tình vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên.

Trời Đế Thích hỏi:

- Vì sao hữu tình vô biên nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp:

- Ý ngài thế nào? Nói hữu tình, vậy hữu tình ấy là chỉ cho ý niệm của pháp nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Đại đức! Hữu tình, hữu tình ấy chẳng phải là khái niệm của pháp, cũng chẳng phải là khái niệm của phi pháp. Chỉ là giả lập khách danh, thuộc về tên gọi tạm thời, thuộc về tên gọi không thật, thuộc về tên gọi không có nhân duyên.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Vậy, theo ý ngài, trong kinh bát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này là hiển thị thật có hữu tình không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Đại đức! Không có!

Thiện Hiện hỏi:

- Trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, đã không hiển thị thật có hữu tình nên nói vô biên. Vì ở trong hay ngoài, nó đều bất khả đắc. Kiều-thi-ca! Ý ngài thế nào? Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua hằng hà sa số kiếp đã nói danh tự của các hữu tình. Trong đây có hữu tình, có sanh, có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Đại đức! Không có! Vì sao? Vì bản tánh các hữu tình vốn thanh tịnh. Từ xưa đến nay vô sở hữu.

Thiện Hiện bảo:

- Do điều này nên tôi nói hữu tình vô biên, cho nên việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát cũng vô biên. Kiều-thi-ca! Do nhân duyên này nên biết, việc học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát phải nói là rất to lớn, vô lượng, vô biên.

 
V. PHẨM HIỆN BẢO THÁP

01

Bấy giờ, trong hội chúng, trời Đế Thích v.v... và chư Thiên ở cõi Dục, Phạm thiên vương v.v... và chư Thiên ở cõi Sắc, cùng với Thiên nữ, thần Y-xá-na đồng lúc ba lần cất cao tiếng xướng:

- Lành thay! Lành thay! Đại đức Thiện Hiện thừa hành thần lực của Phật, làm chỗ nương tựa, hộ trì, khéo léo vì chúng tôi, thế gian, trời, người mà phân biệt, khai thị pháp tánh vi diệu, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như lời dạy mà tu hành, không bao giờ xa lìa thì chúng con sẽ cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen người đó giống như đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Trong lời dạy sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thật là không có pháp có thể đắc, nghĩa là trong ấy không có sắc có thể đắc; không có thọ, tưởng, hành, thức có thể đắc. Như vậy cho đến không có trí nhất thiết có thể đắc, cũng không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Tuy không có các pháp có thể đắc như thế nhưng có thể trình bày Thánh giáo ba thừa, đó là Thánh giáo của Thanh văn, Độc giácVô thượng thừa.

Bấy giờ, Phật bảo chư Thiên:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các vị nói. Trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tuy các pháp không sắc v.v... có thể đắc, nhưng có thể trình bày Thánh giáo ba thừa. Vậy, nếu Đại Bồ-tát nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể như lời dạy tu hành không bao giờ xa lìa. Các vị chư Thiên v.v… đều phải đến đó thành tâm cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, giống như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì trong giáo pháp sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tuy rộng nói có Thánh giáo ba thừa, nhưng Như Lai hoàn toàn bất khả đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với tám giải thoát, chín định thứ đệ có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa tám giải thoát, chín định thứ đệ có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với mười lực Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa mười lực Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc. Chẳng phải Như Lai cùng với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Chẳng phải Như Lai xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc?

Chư Thiên nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào đối với tất cả pháp, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhiệt tâm tinh cần tu học bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể luôn luôn tu hành, không bao giờ xả bỏ. Vì vậy, các vị phải nên đến đó thành tâm cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen Đại Bồ-tát ấy giống như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Chư Thiên nên biết! Vào thời xa xưa, khi Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Ta ở ngã tư đường, tại kinh đô Liên hoa vương, thấy Phật Nhiên Đăng, liền cầm năm cành hoa sen cúng dường Ngài và trải tóc lấp bùn để cầu nghe chánh pháp cốt yếu. Ta dùng vô sở đắc làm phương tiện nên không xa lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cho đến trí nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cho Ta, Ngài dạy: Thiện nam tử! Ở đời vị lai, trải qua vô số kiếp, trong Hiền kiếp của thế giới này, con sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Bạc-già-phạm và tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, độ thoát vô lượng chúng sanh.

Lúc ấy, chư Thiên đều bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thật là hi hữu, làm cho chúng Đại Bồ-tát mau chóng nhiếp thọ trí nhất thiết trí. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên đối với sắc cho đến thức không giữ, không xả. Như vậy cho đến, đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không giữ, không xả.

Lúc bấy giờ, đức Phật quán sát thấy bốn chúng hòa hợp, và chúng Đại Bồ-tát, chúng trời Tứ đại thiên vương, lần lượt cho đến chư Thiên trời Sắc cứu cánh đều đến tập hợp trong hội chúng, đồng làm chứng minh. Thế Tôn liền giao phó cho trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát, Bí-sô, Bí-sô-ni, Ổ-ba-sách-ca, Ổ-ba-tư-ca, các Thiên tử, các Thiên nữ, thiện nam, thiện nữ v.v… không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, vì người khác mà tuyên thuyết rộng rãi thì nên biết đối với những vị này, tất cả ác maquyến thuộc của chúng không thể hại được. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… này khéo an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện của sắc, cho đến khéo an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện của trí nhất thiết tướng. Không thể dùng Không mà hại được Không, không thể dùng vô tướng mà hại được vô tướng, không thể dùng vô nguyện mà hại được vô nguyện. Vì sao? Vì các pháp như vậy hoàn toàn không tự tánh. Hoặc người hại, hoặc người bị hại, hoặc thời gian, hoặc nơi chốn, hoặc việc não hại đều bất khả đắc.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v..., người chẳng phải người (nhơn phi nhơn) v.v… đều không thể hại được. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v... này biết dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì các hữu tình thường tu tập từ, bi, hỷ, xả, nên tất cả người chẳng phải người không thể làm não hại được.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... này hoàn toàn không bị các việc hiểm ác ngang trái làm tổn thương, cũng không bị chết oan. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v... này thường tu tập bố thí Ba-la-mật-đa đối với các hữu tình đúng lý giúp đỡ, giáo dưỡng vậy.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Trong ba ngàn đại thiên thế giới, nơi có Tứ đại thiên vương, cho đến trời Quảng quả, vị nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chưa từng được lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, đều phải không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, thì các thiện nam, thiện nữ v.v... này như ở nhà trống, hoặc ở nơi hoang giả, ở đường nguy hiểm và ở chỗ nguy nạn, sẽ không sợ hãi đến nỗi rợn tóc gáy. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v... này không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu tập pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Khi ấy, chúng trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh v.v... ở ba ngàn đại thiên thế giới đều chấp tay bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp, thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không để cho tất cả tai họa não hại. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v... này tức là Đại Bồ-tát. Nhờ Đại Bồ-tát này khiến các hữu tình dứt hẳn các đường hiểm ác: địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, A-tu-la v.v...

Nhờ Đại Bồ-tát này khiến chư Thiên, người, Dược-xoa, rồng v.v... dứt hẳn tất cả tai nạn ngang trái, bệnh tật, nghèo cùng, đói khát, lạnh nóng v.v...

Nhờ Đại Bồ-tát này mà chư Thiên, người, A-tu-la v.v… đoạn tận các việc bất như ý, cư trú ở đâu cũng không có giặc giã, và tất cả hữu tình đều đem lòng từ đối xử với nhau.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian có mười thiện nghiệp đạo. Hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Hoặc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Hoặc Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc tám giải thoát, chín định thứ đệ. Hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có đại tộc Sát-đế-lợi, đại tộc Bà-la-môn, đại tộc Trưởng giả, đại tộc Cư sĩ, vua các nước nhỏ, Chuyển luân thánh vương và các quan thần giúp việc.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có các Đại Bồ-tát thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phậttu tập các hạnh Bồ-tát thù thắng.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vị diệu, cứu độ chúng sanh vô lượng.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên thế gian mới có ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên chúng con, trời, A-tu-la, rồng, Dược-xoa có đại thế lực và người chẳng phải người v.v... luôn luôn theo hộ trì, cung kính các Đại Bồ-tát này, không để cho tất cả tai họa ngang trái tổn hại. Vì các vị ấy đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ đúng lý, viết chép v.v... các việc đó không bao giờ gián đoạn.

Bấy giờ, Phật bảo các vị trời:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các vị nói. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường xuyên ở trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp. Các vị nên biết các thiện nam, thiện nữ v.v... này tức là Đại Bồ-tát.

Nhờ Đại Bồ-tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn đường ác, cho đến Tam bảo xuất hiện trên thế gian cùng với các hữu tình làm lợi ích lớn. Vì vậy các vị trời, rồng, thần có đại thế lực và người chẳng phải người v.v... thường cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, siêng năng hộ trì Đại Bồ-tát này, ngăn chặn tất cả tai họa ngang trái não hại. Nếu các vị cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, hộ trì Đại Bồ-tát như vậy, thì nên biết đó là cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, hộ trì Ta và tất cả mười phương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì vậy các vị tất cả trời, rồng, Dược-xoa, thần, tiên, A-tu-la v.v... thường nên theo Đại Bồ-tát này để cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, hộ trì, đừng để tất cả tai họa ngang trái não hại vị ấy.

Các vị nên biết: Giả sử Thanh văn, Độc giác cùng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ví như lúa, mè, tre, lau, lùm rừng v.v... không có một khoảng trống nào, rồi có thiện nam tử, thiện người nữ v.v… đối với bậc phước điền kia mà dùng vô lượng vật báu đẹp thượng diệu, để cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen hết một đời mình. Lại có người ở trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen một Đại Bồ-tát mới phát tâm không xa lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa, đem công đức trên so sánh với phước đức này thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một phần cực nhỏ. Vì sao? Vì không nhờ Thanh văn, Độc giác thừa mà có Đại Bồ-tát, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiệnthế gian. Chỉ nhờ Đại Bồ-tát mới có Thanh văn, Độc giác và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiệnthế gian. Vì vậy các vị trời, rồng có thế lực lớn và người chẳng phải người v.v... thường nên ủng hộ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen Đại Bồ-tát này, đừng để tất cả tai họa ngang trái não hại vị ấy. Các vị! Do việc làm này mà phước đức luôn luôn được an lạc ở trong trời, người, cho đến chứng đắc Niết-bàn cứu cánh, làm lợi ích lớn mãi đến tận đời vị lai.

Bấy giờ, trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là điều kỳ lạ, hiếm có. Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp, giữ gìn, thể hiện sự lợi ích thù thắng của các pháp này, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, đều thân cận phụng sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn. Đối với các thiện căn thù thắng tùy theo đó mà hân hoan, an lạc. Nhờ cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen chư Phật, liền được sanh trưởng ở chỗ chư Phật, mau chóng lãnh thọ chánh pháp, được thành tựu viên mãn, cho đến khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không bao giờ quên mất chánh pháp đã được nghe và giữ gìn. Vì vậy, dòng họ được viên mãn, thân mẫu được viên mãn, thân phụ được viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, ánh sáng viên mãn, mắt tai viên mãn, âm thanh viên mãn, Đà-la-ni viên mãn, Tam-ma-địa viên mãn. Lại đem sức phương tiện thiện xảo nên biến thân như Phật.

Lại dùng năng lực, từ thế giới không có Phật này đến thế giới không có Phật khác, phương tiện thiện xảo nên hóa ra thân Phật, thuyết giảng, khen ngợi về bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thuyết giảng, khen ngợi về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Thuyết giảng, khen ngợi về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thuyết giảng, khen ngợi về cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Thuyết giảng, khen ngợi về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thuyết giảng, khen ngợi về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thuyết giảng, khen ngợi về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thuyết giảng, khen ngợi về tám giải thoát, chín định thứ đệ. Thuyết giảng, khen ngợi về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thuyết giảng, khen ngợi về Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Thuyết giảng, khen ngợi về Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Thuyết giảng, khen ngợi về năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thuyết giảng, khen ngợi về mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thuyết giảng, khen ngợi về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thuyết giảng, khen ngợi về tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Thuyết giảng, khen ngợi về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thuyết giảng, khen ngợi về Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Lại dùng năng lực thiện xảo, vì các hữu tình tuyên thuyết Chánh pháp, tùy theo căn cơgiáo hóa họ trong giáo pháp ba thừa, khiến họ giải thoát hẳn sanh, lão, bệnh, tử, chứng nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Hoặc lại cứu vớt các khổ ở đường ác, để họ hưởng thọ sự an lạc, vi diệu ở trong cõi trời, người.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thật là hi hữu. Nếu ai có thể giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thì là giữ gìn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng. Cũng giữ gìn đầy đủ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, và tất cả Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Đức Thế Tôn bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu có ai có thể giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thì giữ gìn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến tất cả Đại Bồ-tát hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Quyển thứ 500

HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/06/2017(Xem: 17597)
07/06/2010(Xem: 88123)
07/06/2010(Xem: 76773)
11/03/2017(Xem: 47986)
25/02/2015(Xem: 9380)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.