- 00-lời Đầu Sách
- 01-pháp Hội Nhân Do
- 02-thiện Hiện Khải Thỉnh
- 03-đại Thừa Chánh Tông
- 04-diệu Hạnh Vô Trụ
- 05-như Lý Thật Kiến
- 06-chánh Tín Hy Hữu
- 07-vôđắc Vô Thuyết
- 08-y Pháp Xuất Sanh
- 09-nhất Tướng Vô Tướng
- 10-trang Nghiêm Tịnh Độ
- 11-vô Vi Phước Thắng
- 12-tôn Trọng Chánh Giáo
- 13-như Pháp Thọ Trì
- 14-ly Tướng Tịch Diệt
- 15-trì Kinh Công Đức
- 16-năng Tịnh Nghiệp Chướng
- 17-cứu Kính Vô Ngã
- 18-nhất Thể Đồng Quán
- 19-pháp Giới Thông Hoá
- 20-ly Sắc Ly Tướng
- 21-phi Thuyết Sở Thuyết
- 22-vô Pháp Khả Đắc
- 23-tịnh Tâm Hành Thiện
- 24-phước Trí Vô Tỷ
- 25-hóa Vô Sở Hóa
- 26-pháp Thân Phi Tướng
- 27-vô Đoạn Vô Diệt
- 28-bất Thọ Bất Tham
- 29-uy Nghi Tịch Tĩnh
- 30-nhất Hiệp Tướng Lý
- 31-tri Kiến Bất Sinh
- 32-ứng Hoá Phi Chân
KINH KIM CANG
GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
ĐOẠN
6
ÂM:
CHÁNH TÍN HY HỮU.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả
hữu chúng sanh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sanh thật tín phủ? Phật
cáo Tu-bồ-đề: Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì
giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật, đương tri
thị nhân bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư
vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, nãi chí
nhất niệm sanh tịnh tín giả, Tu-bồ-đề, Như Lai tất tri, tất kiến thị chư chúng
sanh đắc như thị vô lượng phước đức. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã
tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giảtướng, vô pháp tướng diệc vô phi
pháp tướng. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngã,
nhân, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng tức trước ngã, nhân, chúng
sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã nhân chúng sanh
thọ giả. Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố, Như
Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp.
DỊCH:
CHÁNH TÍN ÍT CO.٠
(Người tin đúng rất ítcó).
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh được
nghe những lời nói và chương cú như thế, sanh lòng tin chân thật chăng? Phật
bảo Tu-bồ-đề: Chớ nói như thế. Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm
năm, có người giữ giới, tu phước, đối với những chương cú này hay sanh lòng tin
cho đây là thật, nên biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật,
ba, bốn, năm đức Phật gieo trồng căn lành mà đã ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức
Phật gieo trồng căn lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh lòng
tin thanh tịnh, này Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được
vô lượng phước đức như thế. Vì cớ sao? Vì các chúng sanh ấy không còn có tướng
ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng
không tướng phi pháp. Vì cớ sao? Vì nếu các chúng sanh ấy, tâm còn chấp tướng là
còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp
ngã nhân chúng sanh thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn
chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi
pháp. Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói
pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.
GIẢNG:
Trong đoạn này đức Phật dạy thêm: Người nào nghe kinh này sanh niềm tin
thì người đó đã có những duyên lành như thế nào. Trước tiên do ngài Tu-bồ-đề
gợi ý, Ngài hỏi Phật rằng: Có những chúng sanh nào được nghe chương cú này sanh
lòng tin chân thật chăng? Những chúng sanh nghe Phật nói những lời� như thế, họ
có tin chăng? Đức Phật xác nhận: Sau khi Phật nhập Niết-bàn khoảng năm trăm năm
có những người biết giữ giới, biết tu phước, ngay nơi kinhKim Cang, họ sanh
niềm tin cho là thật, là đúng thì nên biết người đó không phải chỉ gieo trồng
căn lành ở một, hai, ba, bốn, năm Đức Phật mà đã gieo trồng căn lành ở chỗ ngàn
muôn đức Phật rồi. Qua lời xác định của đức Phật, quí vị kiểm lại xem mình đã
gieo trồng căn lành bao lâu? Nơi bao nhiêu đức Phật?
Đức Phật xác nhận là nếu ngay những lời Phật dạy mà người nào tin quả
quyết đó là thật thì người đó đã gieo trồng căn lành ở chỗ vô lượng ngàn muôn
đức Phật rồi! Như vậy chúng ta có tủi thân là mình mới phát tâm tu hay không? Hay
là chúng ta đã gieo trồng căn lành nơi nhiều chư Phật, nhưng tại chúng ta tu
hành lôi thôi nên bây giờ còn sót lại đây? Hiện nay nếu chúng ta cố gắng tu
nữa, dần dần sẽ có ngày mình đến, chớ không có căn lành thì nghe kinh này không
tin nổi. Ngày nay chúng ta nghe mà tin được và quả quyết là Phật nói đúng chân
lý, đủ niềm tin là đã có căn lành từ lâu rồi. Song đã gieo trồng căn lành ở
nhiều đời chư Phật mà còn lang thang ở đây, thật đáng tủi hổ quá phải không?
Tuy nhiên chúng ta cũng có chút hãnh diện là đã có căn lành chớ không phải mình
là con số không, mà đã có căn lành rồi nếu quyết chí tu, chúng ta có thể tiến
được chớ không đến nỗi phải lui sụt. Do tin như thế, chúng ta có thể cố gắng
tiến tới.
Tiếp theo đức Phật hạ thấp xuống một tầng nữa. Ngài bảo: Giả sử như có
những người nghe lời dạy đây, chỉ sanh một niệm, một niệm thôi, một niệm tin
trong sạch thì người đó sẽ được Phật thấy biết chắc chắn người đó được công đức
vô lượng. Đó là cái thấy biết của Phật như thế chớ không phải Ngài nói suông.
Quí vị có được một niệm tin trong sạch chưa? Nghe lời dạy như vậy mà được một
niệm tin trong sạch đã là công đức vô lượng rồi. Vì cớ sao? Vì những chúng sanh
đó không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Tại sao?
Vì một niệm tin trong sạch là tin rằng nếu chúng ta còn một niệm tức là còn một
chúng sanh chưa độ được. Vậy là còn ngã, còn nhân, còn chúng sanh, còn thọ giả.
Trái lại nếu tất cả chúng sanh được độ vào vô dư Niết-bàn rồi thì tướng ngã,
tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả đâu còn, nên nói không còn những
tướng đó.
Đức Phật lại bảo thêm: Không còn tướng pháp và cũng không còn tướng phi
pháp nữa. Thường trong nhà Phật nói pháp là đúng pháp, phi pháp là không đúng
pháp, cũng như chúng ta nói pháp là phải, phi pháp là quấy, việc phi pháp là
việc tà, việc sai quấy. Pháp và phi pháp, hai tướng đó không còn nữa. Vì cớ
sao? Nếu tâm còn chấp tướng thì còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả. Nếu còn chấp tướng pháp thì cũng còn chấp tướng ngã, nhân, chúng
sanh, thọ giả. Pháp là phải, nếu còn chấp phải thì cũng còn ngã, nhân, chúng
sanh, thọ giả. Thí dụ việc đó là việc phải, tôi làm việc phải hay ai làm việc
phải? Hoặc tôi làm hoặc người làm? Nếu có người làm việc phải thì người đối với
mình tức có nhân là có ngã, trái lại có ngã là có nhân. Thế nên chấp cái phải
là thật thì cũng có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả; chấp cái quấy là thật thì
cũng có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vậy chẳng những chúng ta không chấp vào
cái tướng của tâm niệm mình mà cũng không nên chấp pháp phải và quấy. Có nhiều
khi mình không chấp các tướng mà chấp điều phải điều quấy là thật. Các tướng là
không thật còn điều phải quấy có thật hay không? Phải quấy cũng là cái giả định
của một thời thôi. Tùy theo mỗi thời đặt việc này là phải thì chúng ta thấy nó
phải, đặt việc kia là quấy thì chúng ta thấy nó quấy, chớ đâu có gì là cố định.
Nếu chúng ta chấp có một cái cố định, đó cũng là chấp pháp mà chấp pháp là cũng
còn chấp ngã. Ngã và pháp không tách rời nhau được. Chấp pháp và phi pháp là
chấp pháp; chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả là chấp ngã. Hai cái chấp này
dứt sạch thì mới an lành giải thoát. Thế nên trong đoạn sau, đức Phật bảo: Như
ta thường nói Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc
bè, pháp còn nên bỏ huống là phi pháp.
Thí dụ như chúng ta cho những câu chuyện tầm phào ở thế gian là những lời
nói bậy, là phi pháp, còn những lời dạy trong kinh sách là lời vàng ngọc đúng
pháp. Nhưng chấp phi pháp là thật cũng bệnh, chấp pháp là thật cũng bệnh! Do đó
đức Phật dạy rằng: Lời Phật nói dụ như chiếc bè giúp người qua sông. Khi chưa
qua khỏi bờ mê thì chiếc bè rất quí, khi nương chiếc bè qua đến bờ giác rồi,
chiếc bè có còn giá trị gì nữa không? Trong kinh A-hàm đức Phật ví dụ ở bên này
bờ sông có giặc cướp đuổi hại người, có người chạy tránh giặc cướp, muốn qua bờ
sông bên kia là chỗ an lành, không tai họa. Bấy giờ họ mới chặt tám cây kết
thành bè (tám cây ví dụ cho Bát chánh đạo) rồi nương chiếc bè qua được bên kia
bờ sông. Khi qua đến nơi, người đó bước lên bờ, dĩ nhiên chiếc bè phải bỏ lại. Như
vậy Bát chánh đạo là pháp của Phật nói mà khi đến bờ giác còn phải bỏ huống nữa
là việc phi pháp, điều sai quấy bậy bạ. Song hiện giờ, phi pháp quí vị bỏ được chưa?
Như vậy nếu nói với quí vị thì phải nói thế nào? Phi pháp còn chẳng bỏ huống là
pháp! Phật thì bảo: Pháp còn phải bỏ huống là phi pháp. Quí vị thì trái lại phi
pháp, tức là những chuyện nói xằng nói bậy không có nghĩa gì, còn bỏ không được
huống là pháp, là cái hay, làm sao bỏ nổi! Như vậy chúng ta ngược lại với Phật!
Tóm lại qua đoạn này, trước hết đức Phậtnêu lên người tu hành mà tin được
các lời Phật nói trong kinhKim Cang là đã gieo trồng căn lành sâu dầy rồi. Đoạn
thứ hai đức Phật bảo rằng đúng ra người tin được kinh này thì phải thấy rõ tất
cả tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả đều không thật. Chẳng những bốn tướng
không thật mà phải thấy tất cả tướng thế gian đều không thật và tất cả pháp
phải và không phải cũng đều không thật. Thấy được như vậy người đó mới đúng là
tin kinh này một cách chân chánh. Đây là phá chấp ngã và chấp pháp vì ngã là
giả dối thì pháp cũng là giả dối. Nếu chúng ta biết ngã giả dối nhưng còn cho
pháp là thật, đó cũng là bệnh. Lời Phật nói chỉ có giá trị khi chúng ta còn mê
và khi chúng ta nhờ lời nói đó thoát khỏi mê lầm rồi thì phải bỏ lời đó đi. Quí
vị thấy chỉ có Phật mới dám nói như vậy, chớ ở thế gian chưa có ai dám nói như
thế. Chúng ta thấy rõ giá trị Phật pháp là ở chỗ không để chúng ta kẹt trong
một cái chấp nào. Lời Phật dạy là phương thuốc trị bệnh, bệnh lành thì bỏ
thuốc. Nghe ngôn ngữ phải biết ứng dụng để tu, chớ không nên bám vào ngôn ngữ
cho đó là cứu kính, kiếp kiếp đời đời giữ hoài không bỏ thì vô tình chúng ta bị kẹt.
Đến bờ thì phải bỏ bè, nhưng nếu chưa đến bờ mà vội bỏ bè thì đó là điều hiểm nguy. Thế nên việc quan trọng là chúng ta phải nhận đúng lẽ thật, phải biết mình đang ở vị trí nào, mình là người đến bờ hay là người mới sửa soạn bước xuống bè. Nếu vừa sửa soạn bước xuống bè thì rán kiếm dây ràng bè cho chắc để nhờ nó đưa mình qua sông, còn nếu mình đã đến bờ rồi thì chiếc bè trở thành vô nghĩa, bỏ nó không chút tiếc nuối. Người học đạo phải sáng suốt như thế, chớ đừng lầm lẫn hai vị trí đó, chưa tới bờ mà đã vội bỏ bè, hay đến bờ rồi mà còn giữ chiếc bè; cả hai đều là bệnh, đều lầm lẫn, hiểu vậy là chúng ta hiểu đạo.