CÓ VÀ KHÔNG
Thích Như Điển
LỜI GIỚI THIỆU
(Nhân lần tái bản năm 2020)
Tác phẩm này đã được xuất bản lần đầu vào năm 2000 tại Đức quốc. Đây là một đề tài sâu sắc về sự hiện hữu và nhận thức của con người đối với vũ trụ, thường được nhắc đến không chỉ trong giáo lý Phật-đà, mà còn trong cả mọi nền tư tưởng và triết học, văn học Đông, Tây. Tựu trung ai trong chúng ta cũng từng được nghe, đọc và chiêm nghiệm về đề tài này hằng ngày, nhưng có mấy ai trực nhận được chân tướng? Qua tác phẩm này, tác giả đã đề cập đến một số ý niệm về Có và Không qua những biểu hiện đơn giản ngay trong cuộc sống. Từ những chiêm nghiệm ý nghĩa “có, không” trong tình yêu lứa đôi, tình yêu đất nước, trong hạnh phúc và khổ đau… cho đến quan niệm về “có, không” trong tư tưởng Bát-nhã, trong Trung Quán Luận.
Trong Lời vào sách, tác giả viết:
“Tôi chọn đề tài “CÓ và KHÔNG” để viết lên tác phẩm thứ 29 này cũng có nhiều lý do, nhưng lý do chính vẫn là để cho mọi người hiểu rõ lý vô thường, sanh sanh diệt diệt của vạn hữu mà cố gắng tu hành, cũng như nhận chân ra được đâu là chơn đế và đâu là thế đế, đâu là khổ đau và đâu là an vui tịch diệt v.v... Một tác phẩm mà muốn cho mọi người hiểu hết lý nhân duyên của cuộc đời và vạn hữu thì thật là khó, nhưng mỗi tác phẩm chỉ đóng góp một vài khía cạnh để hội tụ đủ mọi nhân duyên thì tôi cũng mong rằng đây là một tác phẩm nhỏ để góp phần vào những cái siêu việt của vũ trụ qua nhãn quan Phật giáo mà thôi.”
Thiết tưởng, đó cũng là tâm niệm của tác giả khi bỏ công dịch bài kệ của Thiền sư Đạo Hạnh (1072-1127) đời Lý:
有空
作 有 塵 沙 有,
為 空 一 切 空。
有 空 如 水 月,
勿 著 有 空 空。
Hữu Không
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Dịch nghĩa:
Bảo là “có”, thì nhỏ như hạt bụi cũng có,
Bảo là “không”, thì cả thế gian đều không
“Có” và “không” như trăng và nước,
Đừng cho rằng “có và không” là không có.
Đây là bài kệ được rất nhiều người đã dịch ra tiếng Việt. Ví dụ như bản dịch thơ của cụ Phan Kế Bính dưới đây:
Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Thử xem bóng nguyệt dòng sông,
Ai hay không có, có không là gì?
Dịch thơ như vậy đã là quá hay, không thể chê vào đâu được. Nhưng vẫn chưa diễn đạt được ý của thiền sư trong lời nhắn gửi hết sức sâu xa ở câu cuối cùng: “Vật trước hữu không không.” Với bản dịch bài kệ trên bằng thể thơ lục bát Việt Nam, Hòa thượng Như Điển đã làm được điều đó:
Có không
Làm sao có được vi trần,
Có kia cũng chỉ một phần trần sa.
Không kia, không cả Ta-bà,
Mọi nơi, mọi cảnh đều là Chân Không.
Có Không ta chẳng nặng lòng,
Trăng kia, nước nọ cuối dòng cũng không.
Chớ nên dính mắc vào trong,
Có không, không có, đâu vòng tử sinh?
Nhận thức được ý nghĩa chân thật của “có và không” nhưng không “dính mắc”, không “nặng lòng” vì bản thể “có, không” của vạn pháp. Đó chính là điều thi kệ này muốn nói cùng chúng ta.
Viên Giác Tùng Thư xin trân trọng giới thiệu tác phẩm “Có và Không” của Hòa Thượng Thích Như Điển đến với quý độc giả gần xa.
Đức quốc, tháng 8 năm 2020
VIÊN GIÁC TÙNG THƯ
LỜI VÀO SÁCH
__________________________________________________
Tác phẩm thứ 29 này được bắt đầu viết vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng 6 năm 2000, nhằm ngày mồng 6 tháng 5 năm Canh Thìn. Hôm nay trời không đẹp lắm, vì có nhiều cụm mây đen đang phủ kín đó đây phía bên ngoài. Tuy nhiên sau thời công phu khuya như thường lệ cùng với Đại chúng đã ngồi thiền và trì tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm xong, tôi cảm thấy như mình có một sức gia trì mãnh liệt nơi chư Phật và chư vị Bồ Tát; nên sau khi trở lại thư phòng, liền pha trà để uống và bắt đầu viết tác phẩm này.
Tác phẩm này được viết xong ngày nào, tôi chưa rõ; nhưng bao giờ cũng thế, tôi cố gắng hoàn thành trong mùa an cư kiết hạ. Vì lẽ những ngày tháng còn lại trong năm khó mà hoàn chỉnh được một tác phẩm. Nhìn lịch thì thấy mùa an cư đã trôi qua 20 ngày rồi. Nghĩa là tôi chỉ còn lại 70 ngày nữa thôi và trong 70 ngày đó cũng còn lắm công chuyện để phải giải quyết nữa. Mỗi ngày trung bình nếu viết được từ 1 đến 3 tiếng đồng hồ và mỗi tiếng viết tay chừng 4 đến 5 trang thì số lượng không ít cho một quyển sách. Có nhiều vị bảo rằng tôi nên dồn hết tâm lực để viết một tác phẩm thật có giá trị để lại cho đời, nhưng trong khả năng giới hạn của mình và hoàn cảnh cho phép, tôi chỉ làm những gì trong khuôn khổ có được mà thôi. Những tác phẩm có tính cách nghiên cứu sâu sắc hơn, có lẽ phải dành cho thời gian sau này khi tôi có thì giờ nhập thất, không bận bịu với mọi chuyện bên ngoài. Còn bây giờ thật khó có được một cơ hội như thế.
Ai trong chúng ta khi đã cưu mang một đứa con tinh thần mà không mong được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt? Nhưng kết quả của một tác phẩm có nhiều cách nhận xét khác nhau tùy người đọc sách thuộc thành phần nào, khó mà kết luận được. Mỗi năm có những tạp chí, tổ chức ở Mỹ, Đức, Pháp v.v... đều tổ chức bình chọn những tác phẩm văn học hay và những tác phẩm bán chạy nhất. Đó cũng là kết quả của một việc làm đáng hoan nghênh, nhưng văn chương thì luôn luôn có chỗ đứng của nó. Ngoài ra, ngôn ngữ của Phật giáo mang vào đời không phải dễ, nhất là chuyển đạt những tư tưởng về tánh không, trung đạo đến với mọi người, không phải là chuyện dễ thực hiện. Tuy nhiên, cũng có một vài cảm tưởng vui vui khi nghe thiên hạ trích một câu nào đó trong tác phẩm của mình để bình chú, hoặc giả có nhiều bài thơ được nhiều người học thuộc lòng để ngâm vịnh. Như thế, ít ra cũng có một cái gì đó còn sót lại nơi tâm khảm của mọi người. Có thể nói đó là một chút thành công của người viết rồi.
Mới đây có nhiều người gọi điện thoại về chùa bảo rằng: “Con thấy Thầy trên truyền hình đang ngoắc con đó.” Tôi giựt mình hỏi lại: “Trong bối cảnh nào?” Đáp: “Lúc khai mạc Hội Chợ Thế Giới EXPO tại Hannover.” Đây là kết quả của truyền thông, của tin học. Tin tức đến với mọi người thật nhanh và những nhà làm phim làm báo không để lỡ một cơ hội nào để truyền đạt đến với mọi người, kể cả hai phương diện hay và dở. Hôm đó, có lẽ là ngày 31.5.2000, chúng tôi đã đi tham dự lễ khai mạc và khánh thành chùa Bhutan tại khu Messegelände. Ngồi hàng đầu danh dự có 6 vị từ trái kể qua như sau: Vị Đại Sư người Bhutan, Viện Chủ một tu viện lớn tại Paris, Ông Đại Sứ Bhutan tại Thụy Sĩ. Kế đó là ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Bhutan. Bên trái ông là ông Bergmann, Đại diện cho tổ chức EXPO; tiếp theo là tôi và bên trái tôi là vị Chủ Tịch các Hiệp Hội giúp đỡ cho các nước đến tham dự EXPO. Đây là một sự hãnh diện mà cũng là niềm tự hào của Dân Tộc và Đạo Pháp Việt Nam. Tuy chúng ta đang sống tỵ nạn tại xứ người; nhưng với lòng từ bi với giáo lý vị tha của Đức Phật, đem ra đối đãi với tha nhân, nên kết quả là thế đó.
Kế đó vào tối ngày 06.6.2000, tại chánh điện chùa Viên Giác có vị Đại Sư Khenpo Chödrak Rinpoche là Thầy của Ngài Karmapa ở Ấn Độ giảng Bát-nhã cho người Đức nghe. Có nhiều người đến gần tôi nói bằng tiếng Hoa, tiếng Đức và tiếng Anh rằng: “Tôi đã thấy Thầy trên báo Hannoversche Allgemeine vào ngày 3.6.2000, lần này rõ lắm và đặc biệt lắm...” Nguyên là có một nữ ký giả người Đức tại Hannover muốn biết rõ về Phật giáo và cách tọa thiền như thế nào, cũng như đời sống của một Tăng Sĩ ra sao. Do vậy mà tôi đã trả lời tỉ mỉ cho bà ta và bà ta đã viết rất hay; đồng thời cũng có phỏng vấn Giáo sư Baummann đang dạy tại Đại học Bremen cũng như Hannover và một vài vị Phật Tử khác nữa. Lần này nhân EXPO và ngày cuối tuần, mà báo Hannoversche Allgemeine đã đăng cả 3 trang lớn A3 như thế, chắc có ít nhất cũng trên vài trăm ngàn người đọc. Họ đọc để hiểu và để biết ít nhiều về Phật giáo. Do vậy mà một người Đức đã đến tham dự khóa giảng kinh Bát-nhã bằng tiếng Tây Tạng dịch ra tiếng Đức do Ngài Rinpoche, đã bảo với tôi rằng: “Càng ngày người ta càng biết đến chùa nhiều hơn.”
Đúng thật vậy, thêm vào đó có tờ Ursache und Mitwirkung xuất bản vào tháng 5 năm 2000 tại Áo, một quốc gia mà Phật giáo được công nhận là một tôn giáo (offenliches Recht) như những tôn giáo khác từ năm 1982 và mới đây tại Ý vào tháng 3 năm 2000, Phật giáo cũng đã được công nhận như vậy. Giáo sư Riedl sinh trưởng tại Hannover trước Đệ nhị thế chiến, sau đó di cư sang Áo và dạy học ở Đại Học cũng như làm Chủ Nhiệm tờ báo này, đã về lại thăm quê hương cũ và không ngần ngại cho đi một tựa đề lớn trên tờ báo này là: “Hannover, thành phố của Chùa Viện”. Mà thật thế, ngoài chùa Viên Giác ra, tại đây còn chùa Bhutan, chùa Népal, chùa Thái Lan, chùa Lào, chùa Cam Bốt, chùa Tích Lan v.v... Nhưng sau tháng 10 năm 2000 thì các chùa này phải thiên di đi nơi khác, trả lại khoảng trống không gian này cho Messegelände của Hannover để làm những triển lãm khác trong tương lai. Cuộc sống là thế, luôn luôn đổi thay, đâu có gì tồn tại mãi với thời gian, ngoại trừ chân lý!
Trong số báo tháng 5 năm 2000 này, Giáo sư Riedl cũng đã phỏng vấn tôi và với tựa đề đăng trên báo như sau: “Không là thời trang, mà là một chất liệu dưỡng sinh” (nicht Mode, sondern Medikament). Đúng vậy, người Âu Mỹ tin theo Đạo Phật, hay tìm đến với Đạo Phật vì nhiều lý do khác nhau, nhưng lý do quan trọng nhất vẫn là giải quyết những nội kết chất chồng trong con người của họ. Ví dụ như chuyện gia đình, chuyện xã hội, chuyện tâm lý v.v... Do vậy mà họ nghĩ rằng Thiền học sẽ giúp họ lấy lại thế quân bình, nên họ đã theo Đạo Phật. Từ đó có nhiều vị thiền sư đến từ Á Châu đã chiều theo thị hiếu này mà bày ra những phương pháp thiền mới, để giúp người Tây phương thoát hiểm. Hiển nhiên là tốt rồi, nhưng Đạo Phật không dừng ở đó. Điều căn bản của người theo Phật giáo là phải thoát ly sanh tử luân hồi, phải ra ngoài sự đối đãi của tam giới, chứ không phải chỉ xoa dịu, gỡ rối nội kết là đủ. Nếu ai dừng lại ở đó thì chơn lý của Đạo Phật còn xa lắm mới hiểu nổi.
Ngày nay tại Đức này nói riêng, tại Âu Châu hoặc Mỹ Châu nói chung, hiểu Đạo Phật như thế và hiểu Tăng Già trong ấy gồm có cả cư sĩ Phật Tử tại gia nên đã có lắm người miệng thì nói xuất gia, nhưng tâm và thân vẫn còn ở tại gia. Cũng trong tờ Ursache & Mitwirkung này đã tường thuật về một cộng đồng Tăng sĩ của Áo sống chung giữa nam và nữ với một đời sống dễ dãi như vậy. Thích thì đọc kinh, ăn uống và không thích thì tạo nên sự ái nhiễm giữa nam nữ và cuối cùng thì sinh con đẻ cái, để trên mình họ vẫn còn tưởng tượng họ vẫn là một người tu. Một người tu phải là một người độc thân và sống không gia đình (Hauslosigkeit). Nếu vẫn còn gia đình và sống một đời sống không dứt trừ ái nhiễm thì không thể gọi là Tăng sĩ được.
Đức Phật đã chia ra đệ tử của Ngài thành hai hạng: Một là xuất gia, sống không có gia đình, thực hiện giới luật trang nghiêm, do vậy người tại gia mới có nơi chốn tin tưởng mà quy y và đảnh lễ. Còn người tại gia thì có gia đình, có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Không thể có một đoàn thể lẫn lộn giữa người xuất gia và tại gia được. Trường hợp những Tăng sĩ Nhật Bản lại khác. Trước đây họ vẫn có đời sống độc thân, nhưng kể từ năm 1868 khi vua Minh Trị (Meiji) duy tân đất nước Nhật Bản, họ bị bắt buộc phải sống như thế, và khuynh hướng có gia đình này cho đến ngày hôm nay vẫn không giảm mà lúc nào cũng tăng lên và kết cuộc là chùa viện chỉ để cha truyền con nối mà thôi.
Tôi cũng chẳng biết là Đạo Phật của Âu Châu rồi đây sẽ ra sao, nhất là sau khi các vị khai sáng ra nền đạo tại đây quá vãng. Nếu không có những giới luật buộc ràng và không có những vị Thầy theo truyền thống cũ, thì một mai đây, Đạo Phật sẽ biến thể như thế nào? Đành rằng Phật giáo phải thích nghi với phong tục, tập quán và nhất là thời đại, nhưng kết quả cuối cùng của sự đổi mới thì chẳng có. Vì lẽ nếu không có cái cũ thì sẽ không có cái mới được.
Ngày nay Phật giáo đã có mặt khắp năm châu bốn bể, đi đâu cũng được nghe tuyên dương giáo lý Phật-đà. Cho đến nay, dẫu có người khó tính mấy đi chăng nữa, vẫn chưa có ai chống đối một cách mãnh liệt. Vì họ biết rằng Phật giáo là một tôn giáo có lòng từ bi vô lượng, chối bỏ bạo lực và hận thù, lấy tình thương và trí tuệ làm phương châm trong khi thực hành Đạo. Do vậy mà ai ai cũng mến chuộng. Có nhiều chính trị gia nổi tiếng; những tài tử, ca sĩ số một; những cầu thủ đá banh; những giáo sư, bác sĩ v.v... hầu như rất nhiều người đã, đang và sẽ hướng về Phật giáo một cách nhiệt tình. Bằng chứng là mỗi buổi giảng của những vị Đại Sư danh tiếng thì chánh điện và nhà giảng đều chật ních. Mà phải thành thật thừa nhận rằng tri thức của người Đức rất cao. Vì đa phần là dân chuyên nghiệp và dân tốt nghiệp Đại Học nghiên cứu về Phật học. Do vậy, ở những buổi lễ hội chúng ta cũng có thể quan sát tỏ tường hơn. Ví dụ, ở những dân tộc còn kém văn minh thì chú trọng về hình thức ăn uống. Còn người Đức họ ăn món ăn tinh thần nhiều hơn là những món ăn bình thường. Họ chỉ ăn bánh mì đen là chính. Còn tủ sách gia đình của họ về tôn giáo cũng khư khoa học kỹ thuật v.v... tốn rất nhiều tiền, nhưng họ không tiếc tiền khi mua một quyển sách giá trị. Trong khi đó, đa phần người Việt Nam chưa được như thế.
Người Việt chúng ta theo Đạo Phật cũng giống như một vài nước Á Châu khác, chỉ có tính cách truyền thống mà thôi. Vì lẽ cha mẹ, ông bà theo Đạo Phật nên con cháu cứ thế mà theo. Nhưng người Âu Mỹ thì khác, họ phải sáng tạo và có lòng tin vững chãi khi theo một tôn giáo đã chọn. Cũng có thể vì Phật giáo là một tôn giáo mới đối với họ. Khoảng 1.000 hay 2.000 năm sau nữa, Phật giáo tại Âu Mỹ này chắc cũng không khác gì Phật giáo tại Á Châu. Nhưng biết đâu lúc ấy sẽ xuất hiện một tôn giáo mới. Tôn giáo ấy sẽ phổ cập và nhanh hơn gấp năm, gấp mười lần hệ thống tin học ngày hôm nay nữa.
Có và Không - Thích Như Điển (Ấn bản năm 2000)
Có và Không - Thích Như Điển (Ấn bản năm 2020)
Bài đọc thêm:
Triết Học Có Và Không Của Phật Giáo Ấn Độ Thích Hạnh Bình