Bài 2: Phép thiền định về sáu thành phần

30/11/20193:45 CH(Xem: 5943)
Bài 2: Phép thiền định về sáu thành phần

THIỀN ĐỊNH
MỘT PHƯƠNG PHÁP BIẾN CẢI TÂM LINH
Đức Đạt-lai Lạt-ma
và Urgyen Sangharakshita
Hoang Phong chuyển ngữ

***

Bài 2

Phép thiền định về sáu thành phần

 

            Tuy nhiên dù các bạn đã phát huy được khả năng nhận thức, khơi động được tất cả các xúc cảm tích cực trên đây (metta/lòng nhân ái, v.v…), biến mình thành một con người hoàn toàn tập trung, thật tích cực, ý thức được trách nhiệm mình, kể cả trở thành một con người hoàn toàn tự chủ - ít nhất cũng trong lãnh vực tâm lý - thì các bạn cũng còn phải trải qua một giai đoạn khác tiếp theo sau đó, vậy giai đoạn này là gì? Đó là cái chết! Dù các bạn đang hưởng hạnh phúc, có một sức khỏe thật tốt - hoặc đã từng trải qua những giây phút tương tự như thế - nhưng rồi các bạn cũng sẽ phải chết. Nói một cách khác là [trong giai đoạn tiếp theo] các bạn phải vượt lên trên sự phân biệt giữa "chủ thể và đối tượng", phải đập tan cái cá thể trần tục (có nghĩa là một cá thể chỉ biết suy nghĩ và hành động dưới sự kiềm tỏasai khiến của các thứ bản năng), dù nó tinh khiếthoàn hảo đến đâu cũng vậy. Do đó phép thiền định chủ yếu trong giai đoạn này là phải hồi tưởng lại sáu thành phần (tạo ra con người của mình là: đất, nước, lửa, khí/ether, không gian và tri thức/consciousness) (xin lưu ý chữ khí trong trường hợp này không phải chỉ có nghĩa là không khi, tức các hình thức vật chất ở thể "hơi" mà còn có nghĩa là các luồng "khí lực" luân lưu trong các kinh mạch của cơ thể).  

            Tuy nhiên cũng có nhiều phép luyện tập khác giúp chúng ta đập tan cái cá thể trần tục đó của mình (dù mình ý thức rõ rệt được nó và dù nó mang tính cách tích cực trên phương diện xúc cảm cũng vậy), chẳng hạn như các phương pháp suy ngẫm về vô thường, cái chết, hoặc thiền định về shunyata (là tiếng Phạn còn được viết là sunyata, tiếng Pa-li là sunnata, có nghĩa là sự "Trống không" của mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc bên trong hay bên ngoài tâm thức cũng vậy. Kinh sách Hán ngữ dịch chữ shunyata là "Không"/ hay "Không Tánh"/ . Đối với Phật giáo tất cả mọi hiện tượng đều "trống không" về sự hiện hữu nội tại hay tự tại, có nghĩa là tất cả mọi hiện tượng không thể tự hiện hữu được bởi chính chúng và tự nơi chúng. Tất cả mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên kết và tương tác với nhau, nói một cách khác là bất cứ một hiện tượng nào cững phải nhờ vào sự kết nối với thật nhiều các hiện tượng khác để hiện hữu, người ta thường gọi các hiện tượng đó là các hiện-tượng "do-điều-kiện-mà-có". Tất cả mọi hiện tượng do đó đều phải lệ thuộc vào nhau, nếu một hiện tượng chuyển động thì tất cả các hiện tượng khác đều phải chuyển động theo. Đó là nguyên tắc vận hành chung của thế giới hiện tượng và cũng là bản chất vô thường của cả vũ trụ. Các ngôn ngữ Tây phương dịch chữ shunyata là emptiness/vacuité, có nghĩa là sự "trống không" hay "trống rỗng" với ý nghĩa là không có một sự hiện hữu nội tại hay tự tại nào nơi mọi hiện tượng. Nếu dịch chữ shunyata là "Tánh Không" thì chữ "tánh" tự nó là một sự nghịch lý, bởi vì nếu các hiện tượng tự chúng chỉ là một sự trống không thì chúng không có cái "tánh" nào cả. Khái niệm hay ý niệm về sự "trống không" trên đây liên hệ mật thiết với khái niệm "vô ngã" hay "không có cái tôi" của con người, Đức Phật tự xưng mình là "tathata" có nghĩa là [một người] "chỉ là như thế" là vì vậy. Đối với các hiện tượng thì dù rất thật thế nhưng phía sau chúng và cả bên trong chúng chỉ là một sự "trống không " mà thôi, không hàm chứa một sự hiện hữu thật sự nào cả. Thiền định về shunyata là để nhận thấy bản chất đó của sự hiện hữu của mình. Cũng xin mạn phép nêu lên một cách giải thích rất đơn giảncụ thể của Đức Đạt-lai Lạt-ma về khái niệm Shunyata như sau: shunyata là con số zero, nếu không có nó thì các con số khác chẳng có nghĩa gì cả), hoặc thiền định về chuỗi trói buộc của các nidana (nidana là tiếng Phạn, có nghĩa là các nút thắt hay mối dây trói buộc một cá thể trong cõi luân hồi. Chuỗi trói buộc đó gồm có 12 nidana tất cả, kinh sách Hán ngữ gọi là "Thập nhị nhân duyên", nói một cách khác là "Mười hai nguyên nhân và hậu quả" trói buộc con người trong thế giới hiện tượng, và đây cũng là một khái niệm ứng dụng từ nguyên lý "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa mọi hiện tượng). Thế nhưng phép thiền định về shunyata (sự trống không) có thể là quá trừu tượng (đối với một số người), nếu không muốn nói là quá trí thức. Sự hồi tưởng lại (thiền định) về sáu thành phần là cách "mang" các thành phần đất, nước, lửa, v.v. tạo ra con người của mình để trao trả lại cho đất, nước, lửa, v.v. của toàn thể vũ trụ, nói một cách khác là tuần tự không chấp nhận đất, nước, lửa, khí, không gian kể cả thành phần tri thức đã được cá thể hóa của mình, là con người của mình. Sự suy ngẫm này là một phép luyện tập cụ thểthiết thực, thích nghi hơn cả trong giai đoạn luyện tập này (tức là sau khi đã phát huy được sự chú tâm và trước khi bước vào giai đoạn phải đối đầu với cái chết). Đây cũng là phép luyện tập chủ yếu nhất giúp đập tan ý niệm về cái cá thể tương đối (relative individuality, tức là "cái tôi" hay cái  cá thể trần tục ") của mình.   

            Chúng ta có thể xem phép luyện tập về sáu thành phần là một cách thiền định về shunyata (sự trống không/Tánh Không) bởi vì nó cũng có thể giúp chúng ta thực hiện được sự trống không của cái cá thể trần tục của mình (worldly individuality, có thể hiểu như là "cái tôi" hay "cái ngã" của mình) - và cũng có nghĩa là giúp chúng ta chết (cái chết của mình là một sự phân tán của sáu thành phần, sự phân tán đó là cái chết của cái "tên gọi" tức là cái tôi của mình và cái "địa chỉ" tức thân xác của mình, đối với thế giới trần tục này, trong khi đó bản chất đích thật của mình chỉ là shunyata). Có nhiều cách dịch khác nhau về chữ shunyata, đôi khi được dịch là sự "trống không" (emptiness), Guenther (Herbert V. Guenter, 1917-2006, là một triết gia Phật giáo người Đức, rất nổi tiếng, thành thạo ít nhất 20 ngôn ngữ khác nhau, từng tu học và giảng dạy triết học Phật giáo tại các đại học Ấn-độ) thì dịch chữ này là "chẳng có gì cả" (nothing/rien). Tuy nhiên chữ shunyata cũng có thể hiểu là "cái chết", bởi vì đấy là cái chết của tất cả những gì nhờ vào các điều kiện mà có (conditioned co-production, xin độc giả hãy liên tưởng đến nguyên lý tương liên/interdependence đã được giải thích trên đây). Chỉ khi nào cái cá thể "do-điều-kiện-mà-có" (conditionned individuality) chết đi thì khi đó cái "Cá-Thể-phi-điều-kiện" (Unconditioned Individuality) - nếu chúng ta có thể gọi như vậy - mới có thể bắt đầu hiển hiện được (cá thể phi-điều-kiện có nghĩa một cá thể đã được giải thoát khỏi thế giới hiện tượng). Trong lúc hành thiền, chúng ta sẽ càng lúc càng lắng sâu hơn [vào bên trong chính mình], do đó chúng ta thường cảm thấy một sự sợ hãi thật to lớn. Trước sự sợ hãi đó nhiều người thụt lùi trở lại, thế nhưng tốt hơn cứ để mình cảm nhận nó. Sự sợ hãi sở dĩ hiện ra là vì chúng ta cảm thấy là mình đang chạm vào shunyata của cái tôi do-điều-kiện-mà-có của mình - nếu có thể nói như vậy - và điều đó cũng có nghĩa là một sự chạm khẽ vào Hiện Thực. Chúng ta cảm thấy sự chạm khẽ đó với shunyata cũng có nghĩa là chạm vào cái chết. Thế nhưng thật ra thì đấy cũng chỉ là cái chết của cái tôi do-điều-kiện-mà-có. Chính vì thế nên nó - tức là cái tôi do-điều-kiện-mà-có - cảm thấy sợ hãi, và cũng có nghĩa là chính mình sợ hãi.        

            Sự hồi tưởng lại sáu thành phần cũng như các phép thiền định về shunyata (sự trống không) đều là các phép thiền định gọi là vipashyana (tiếng Pa-li là vipassana) là các phép thiền định nhằm mục đích mang lại cho mình một sự quán thấy xuyên thấu (sâu xa), trong khi đó các phép thiền định dựa vào hơi thởMetta bhavana (lòng nhân ái hay tình thương yêu vô biên) là các phép thiền định shamatha (tiếng Pa-li là samatha) là thể loại thiền định mang lại sự an bình. Phép thiền định shamatha là cách phát huy và làm rõ nét (làm sáng tỏ) cái cá thể do-điều-kiện-mà-có của mình (conditioned individuality), trong khi đó thì phép thiền định vipashyana sẽ là cách đập tan cái cá thể ấy, hay đúng hơn là giúp chúng ta nhìn xuyên qua cái cá thể ấy (tức là một sự quán thấy xuyên thấu vượt thoát các tấm màn giăng ra bởi các thể dạng khác nhau của cái tôi trần tục, nói một cách khác là các thứ tư duy và xúc cảm đủ loại hiện ra trong tâm thức mình)

 

Phép thiền định quán thấy

           

            Vậy thì điều gì sẽ xảy ra sau khi cái tôi trần tục đã chết? Nếu có thể mượn một cách diễn đạt khác hơn với các cách thường thấy, thì sau khi cảm nhận được cái chết của cái tôi trần tục (worldly self, tức là cái cá thể chi phối bởi bản năng và do điều kiện mà có) thì cái tôi siêu nhiên (transcendent self, tức là cái tôi giải thoát) sẽ hiện ra. Cái tôi siêu nhiên đó sẽ hiện ra giữa trời trong một bầu không gian trống không, và giữa bầu không gian đó chúng ta sẽ trông thấy có một đóa hoa sen hiện ra. Bên trên đóa hoa là một hạt giống mang hình dạng một chữ cái (bằng Phạn ngữ) mà người ta gọi là mantra bija (bija là tiếng Phạn có nghĩa là hạt mầm hay hạt giống, phép thiền định bija là cách phát lên một âm thanh, chẳng hạn như chữ M thì khi phát lên sẽ là Mmmmm..., hoặc chữ Om thì khi phát lên sẽ là Ommmm...  đó là các chữ trong câu chú Om Mani Padme Hum. Các âm thanh đó sẽ kích động các trung tâm khí lực trong cơ thể gọi là "luân xa"/chakra. Phương pháp thiền định dựa vào âm thanh trên đây bắt nguồn từ phép luyện tập Du-già/Yoga, rất phổ biến trong Ấn giáo và Kim cương thừa). Man-tra bija đó sẽ hóa thành một vị Phật hay một vị Bồ-tát rất thật. Đấy là cách luyện tập về sự quán thấy mà chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn dưới đây. 

            Bóng dáng vị Phật hay vị Bồ-tát mà các bạn quán tưởng sẽ hiện ra vô củng rạng rỡtuyệt vời trước mặt mình, thế nhưng thật ra thì đấy chính là các bạn, bóng dáng mới mẻ của các bạn - đúng với những gì mà các bạn sẽ trở thành - tất nhiên là với điều kiện là trước đó các bạn phải để cho mình chết đi (trước khi trở thành một vị Phật hay một vị Bồ-tát mà mình quán tưởng thì trước hết mình cũng phải để cho cái cá thể trần tục của mình chết đi). Sau khi đã thực hiện được trọn vẹn sự quán thấy trên đây, có nghĩa là ít nhất cũng đã đạt được một thể dạng rõ rệt nào đó, thì ngay sau đó chúng ta nên khởi sự tụng niệm câu man-tra: "Om svabhavashuddhah sarvadharmah svabhavashuddho'ham", câu này có nghĩa là: "Om, tất cả mọi sự vật từ bản chất đều tinh khiết, đối với tôi cũng vậy, tôi cũng tinh khiết từ bản chất". Chữ tinh khiết ở đây có nghĩa là sự Trống Không (Emptiness), nhưng cũng có nghĩa là Phi-khái-niệm (Without concept) hay Phi-điều-kiện (Unconditioned), chẳng qua là vì chúng ta không thể nào tái sinh mà lại không bước qua cái chết được (câu này khá khúc triết: tái sinh ở đây là để trở thành một vị Phật hay một vị Bồ-tát, và nếu muốn thực hiện được điều đó thì trước hết phải thoát khỏi các khái niệm và các điều kiện tạo ra cái cá thể trần tục của mình, sự vượt thoát đó là cái chết của cái cá thể trần tục của mình. Nếu cứ khư khư bám víu vào cái cái tôi hay cái cá thể của mình thì không thể nào "thành Phật" được). Một cách vắn tắt người ta có thể bảo rằng nếu không có Mahayana (Đại thừa) thì sẽ không thể nào có Vajrayana (Kim cương thừa) được, tất cả là vì Mahayana chính là yana (yana là tiếng Phạn và tiếng Pa-li, có nghĩa là "cỗ xe", kinh sách Hán ngữ gọi là  "thừa") của shunyata và cũng có nghĩa là sự thực hiện shunyata (câu này khá vắn tắt: Đức Phật thuyết giảng shunyata như là một phương tiện thiền định cụ thể. Vào thế kỷ thứ I-II Đại thừa triển khai phương tiện này và biến nó thành một khái niệm triết học. Kim cương thừa được hình thành muộn hơn vào khoảng thế kỷ thứ VI-VII đã sử dụng khái niệm này như là một chủ đích hay lý tưởng tu tập, biểu trưng cho một cấp bậc cao nhất của phép quán thấy). Chính vì thế mà người bạn thân thiết của tôi là vị Thầy M. Chen (đã có dịp nói đến trong Bài 1), một vị thiền sư sống ẩn dật tại Kalimpong (đông bắc nước Ấn, vùng Darjeeling, dưới chân rặng Hy-mã-lạp-sơn) thường nói: "Khi nào chưa thực hiện được shunyata thì các sự quán thấy của Vajrayana cũng chỉ là một thứ ma thuật tầm thường mà thôi" (thiền định quán thấy là để trở thành một vị Phật hay một vị Bồ-tát, thế nhưng thật ra thì đấy cũng chỉ là một cách giúp mình trở thành shunyata, một sự trống không tuyệt đối của các vị ấy. Nếu bám víu vào những vị mà mình trở thành thì đấy cũng chỉ là một thứ ma thuật mà thôi. Nếu quán tưởng Đức Phật A-di-đà và cảnh giới của Ngài là cõi Tịnh độ và bám víu vào đó thì đấy không phải là phép quán tưởng đúng nghĩa của nó mà chỉ là cách giúp mình tái sinh với cái tôi của mình trong cõi luân hồi).

            Có nhiều phương pháp luyện tập về sự quán thấy khác nhau, thuộc nhiều cấp bậc khác nhau. Hơn nữa cũng có rất nhiều các vị Phật và Bồ-tát cũng như các vị daka (nam thần linh trong Kim cương thừa), dakini (nữ thần linh trong Kim cương thừa), các dharmapala (các vị thần linh bảo vệ Dharma/Đạo Pháp, kinh sách Hán ngữ gọi là Hộ Pháp Thần/护法 ) để người luyện tập có thể quán tưởng tùy theo sở thích và sự mong muốn của của mình. Các phép quán tưởng phổ biến nhất trong Dòng tu Triratna (do nhà sư Sangharakshita thành lập) là các phép luyện tập hướng vào Đức Phật Shakyamuni (Thích-ca-mâu-ni), Đức Phật Amitabha (A-di-đà),  Padmasambhava (một vị thầy thế kỷ thứ VIII, xuất thân từ vùng Swat thuộc Pakistan ngày nay, và cũng là người đầu tiên đã đưa Phật giáo vào Tây Tạng, vị này được người dân Tây Tạng tôn vinh như một vị Phật), Avalokiteshvara (Bồ-tát Quán thế âm), Tara (một vị nữ Bồ-tát, biểu trưng cho thể dạng nữ tính của lòng từ bi), Manjughosha (còn viết là Manjushri, là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi), Vajrapani (một vị Bồ-tát trong Kim cương thừa, có một sức khỏe phi thường và là vị thần linh bảo vệ Đức Phật), Vajrasattva (một vị Bồ-tát khác của Kim cương thừa, biểu trưng cho sự sám hối và tiêu trừ nghiệp chướng), Prajnaparamita (một vị nữ thần biểu trưng cho Trí tuệ Bát-nhã). Mỗi thành viên của Dòng tu Triratna đều có một phép quán thấy riêng và một man-tra liên quan với phép quán thấy ấy, thành viên này tiếp nhận phép quán thấy riêng cho mình vào lúc được thụ phong (còn gọi là lễ "quán đảnh", trong Phật giáo Tây Tạng, người thầy mượn các nghi thức lễ lạc này để "đưa" người đệ tử của mình vào mandala - hay "cảnh giới" - của một vị thần linh làm đối tượng trong phép thiền định quán thấy của người đệ tử của mình). Đối với cá nhân tôi thì tôi vẫn muốn các thành viên kinh nghiệm nhất trong Tăng đoàn phải thành thạo ít nhất hai hoặc ba phép luyện tập về sự quán thấy (quán thấy hai hay ba vị thần linh khác nhau biểu trưng cho các phẩm khác nhau).

            Chủ đích tổng quát của phép luyện tập này có thể nhận thấy rõ rệt qua sadhana (sadhana là tiếng Phạn có nghĩa là "thành đạt") của vị Vajrasattva (là vị Bồ-tát biểu trưng cho sự sám hối và tiêu trừ nghiệp chướng đã đuợc nói đến trên đây). Vajrasattva thật ra là một vị Phật, nhưng hiện ra dưới thể dạng một vị Bồ-tát, mang thân hình màu trắng biểu trưng cho sự tinh khiết. Sự tinh khiết trong trường hợp này có nghĩa là một sự thực hiện đã đạt đến chỗ tối hậu, tức không còn bị ô nhiễm trở lại nữa. Khi nào đạt được thể dạng đó thì các bạn sẽ trở thành tinh khiết từ khởi thủy, một sự tinh khiết không có điểm khởi đầu, một sự tinh khiết từ bản chất, tinh khiết một cách tuyệt đối, một sự tinh khiết thật sâu kín từ bên trong con người của các bạn, một sự tinh khiết không nhờ vào một điều kiện nào cả. Sự tinh khiết đó của các bạn vượt lên trên cả sự phân biệt giữa điều-kiện và phi-điều-kiện. Đấy chính là cách mà các bạn hóa thành Trống Không (Tánh Không). Đối với một người lớn lên trong một nền văn minh ảnh hưởng bởi ý niệm tội lỗi, chẳng hạn như tại các nước Tây phương của chúng ta (các tín ngưỡng độc thần của Tây phương xoay quanh ý niệm tội lỗi, kể cả tội lỗi của tổ tông để lại. Phép rửa tộiđiều kiện và cũng là nghi thức bắt buộc nếu muốn trở thành tín đồ của các tín ngưỡng đó) thì sự khẳng định trên đây (về sự tinh khiết nguyên sinh của con người) nhất định sẽ là cả một sự thần khải (revelation) lớn lao - một sự chấn động to lớn mang tính cách tích cực (người Phật giáo thay vì cảm thấy ngập tràn tội lỗi thì khám phá ra từ nơi sâu kín bên trong chính mình một sự tinh khiết tuyệt đối tức là Phật tính hay Bản thể của Phật. Người tu tập có thể cảm nhận được sự tinh khiết đó nhờ vào phép thiền định. Điều này cho thấy một sự trái ngược với cảm tính tội lỗi và phép rửa tội của các tôn giáo độc thần của thế giới Tây phương).

            Vajrasattva cũng liên hệ đến cái chết (Vajrasattva là vị Bồ-tát biểu trưng cho sự sám hối và tiêu trừ nghiệp chướng nói đến trên đây): không những đối với cái chết tinh thần mà cả thể xác. Sự liên hệ này được nói đến trong  "Quyển sách Tây Tạng về Cái chết" (The Tibetan Book of the Dead), tiếng Tây TạngBardo Thödol, nguyên nghĩa là  "Sự giải thoát nhờ lắng nghe trong khi trải qua thể dạng trung gian  (có nghĩa là lắng nghe những lời chỉ dẫn của một vị lạt-ma ngồi bên cạnh thân xác mà trước kia là của mình, vị lạt-ma giải thích cho mình biết những gì sẽ xảy ra và những gì mà mình cần phải làm trong khi quá trình trung gian đang diễn tiến). Thể dạng trung gianmột thể dạng xảy ra giữa cái chết vật lý và sự tái sinh vật lý. Thế nhưng thiền định tự nó cũng là một thể dạng trung gian, bởi vì trong lúc chúng ta thiền định - đúng nghĩa của nó - thì cũng là lúc mà chúng ta chết. Thật vậy, cái chết vật lý cũng là một thể dạng thiền định, nhưng là một thể dạng thiền định bị ép buộc, một thể dạng samadhi (một thể dạng lắng sâu của tâm thức trong khi thiền định) ngoài ý muốn của mình. Trong cả hai giai đoạn trung gian đó - giai đoạn giữa cái chết và sự tái sinh và giai đoạn lắng sâu trong khi thiền định - chúng ta có thể trông thấy các vị Phật và các vị Bồ-tát, kể cả các mandala của các vị ấy (mandala là tiếng Phạn, có nghĩa là khung cảnh hay bầu không gian, trong trường hợp này thì có nghĩa là  "cảnh giới" của các vị Phật hay các vị Bồ -tát).  Các vị ấy (và các cảnh giới của họ) không phải ở bên ngoài chúng ta mà đúng hơn là sự hiển lộ của Tâm thức đích thật của chính mình, bên trong chính mình, và cũng là sự hiển lộ của Dharmakaya (Thân Đạo Pháp hay Pháp Thân), nhờ vậy chúng ta có thể tự nhận diện chính mình xuyên qua các sự hiển lộ đó - nếu có thể nói như vậy - và đấy cũng chính là cách mà mình tái sinh trong lãnh vực tâm linh, tức là tái sinh trong một thể dạng hiện hữu siêu nhiên (transcendent) (các cõi cao trong số sáu cõi luân hồi, chẳng hạn như các cõi phi hình tướng). Nếu không đủ sức tự nhận diện mình qua các sự hiển lộ đó thì chúng ta cũng sẽ tái sinh, thế nhưng chỉ tái sinh một cách bình thường, có nghĩa là sẽ rơi trở lại với cái tôi (hay cái ngã) do-điều-kiện-mà-có của chính mình trước đây.              

(Đoạn trên đây thật quan trọng, giúp chúng ta hiểu tại sao trong quá khứ cũng như hiện tại nhiều nhà sư Tây Tạng và các thiền sư cao thâm thường viên tịch trong lúc tọa thiền. Trong khi lắng thật sâu vào các thể dạng thiền định thì các vị ấy sẽ cảm nhận được sự hiển lộ của "Tâm thức nguyên sinh của mình" tức là  "Thân Đạo Pháp " của mình và họ tự nhận diện mình xuyên qua các sự hiển lộ đó. Đấy cũng là cách mà họ tái sinh dưới các thể dạng siêu nhiên trong cảnh giới của các thể dạng đó. Chính vì vậynhà sư Sangharakshita cho biết thiền định - đúng nghĩa của nó - cũng là một thể dạng trung gian giữa cái chết và sự tái sinh)


Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
31/10/2010(Xem: 29066)
20/12/2019(Xem: 10069)
18/02/2020(Xem: 7356)
27/06/2021(Xem: 13738)
12/01/2015(Xem: 17344)
28/09/2013(Xem: 53058)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.