ĐẾN và ĐI
Nguyễn Thế Đăng
Đời người là những chuyến đến và đi, đi và đến. Nhìn toàn bộ một đời người, chuyến đến đầu tiên là sanh ra, đến với đời sống này (sanh) và chuyến đi cuối cùng ra khỏi đời sống này là chết (tử).
Để hiểu bản chất căn bản, sâu xa của những cuộc đến đi, của chuyến đến đầu tiên (sanh) và chuyến đi cuối cùng (tử), chúng ta đọc, tư duy và thiền quán (Văn, Tư, Tu) chương II Quán Đến-Đi trong Trung Luận của Bồ tát Long Thọ (Nagarjuna, khoảng thế kỷ 2-3) do ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch ra tiếng Hán. Trong khi dịch bản tiếng Hán ra tiếng Việt, chúng tôi có khảo cứu thêm bản dịch từ tiếng Sanskrit của học giả Vũ Thế Ngọc (Triết học Long Thọ) và The Philosophy of the Middle Way của David J. Kalupahana.
Chúng ta cần chú ý đến từ Quán, quán sát (examination) trong tất cả các chương của Trung Luận, bởi vì Trung Luận không chỉ là lý luận, mà là quán sát tất cả mọi hiện tượng để nhìn thấy trực tiếp tánh và tướng của chúng là Không.
Quán Đến - Đi là Chương II của Trung Luận, nói về câu thứ tư của bài kệ Bát Bất mở đầu Trung Luận: “Không đến cũng không đi” (Bất lai diệc bất xuất).
1. Đã đi thì không còn có đi
Chưa đi cũng không có đi
Lìa đã đi và chưa đi
Lúc đang đi cũng không có đi.
Lúc đang đi là “khứ thời”. Luận nói về quán sát sự đi, chuyển động đi trong tương quan với thời gian, ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu sự đi quyết định nằm trong quá khứ thì hiện tại không có sự đi. Nếu sự đi chưa xảy ra, nằm ở tương lai thì hiện tại không có sự đi, “đang đi”. Còn nếu sự đi đang xảy ra trong hiện tại thì hiện tại chỉ có thể xác định bằng quá khứ và vị lai. Đã đi không có, chưa đi cũng không có, thì hiện tại “đang đi” cũng không có, vì không thể xác định.
Sự đang đi phụ thuộc vào thời gian. Không có thời gian thì không có đang đi. Và ngược lại thời gian cũng phụ thuộc vào đang đi, không có đang đi thì không có thời gian. Đang đi và thời gian lệ thuộc vào nhau để tạm thời hiện hữu, quan sát kỹ thì chúng rỗng không, không có tự tánh. Chúng là tánh Không.
“Đã đi, chưa đi, đang đi” là thời gian và sự đi tạo ra không gian. Luận nói không có sự đi nghĩa là không có không gian. Thời gian và không gian do tâm thức con người nghĩ tưởng ra thì không có, ngay đó là giải thoát.
2. Nơi có chuyển động ắt có sự đi
Trong đó có lúc đang đi
Chẳng cần dựa vào đã đi, chưa đi,
Thế nên lúc đang đi thì có đi.
Đây là câu phản biện của người hỏi: có chuyển động là có đi, sự đang đi này không cần phải nương dựa vào thời gian.
3. Làm sao nơi đang đi
Mà thường có pháp đi
Nếu lìa ngoài pháp đi
Đang đi chẳng thể có được.
4. Nếu nói khi đang đi là có chuyển động
Người ấy bèn có lỗi
Lìa chuyển động đi mà có đang đi
Thì ‘đang đi’ lại đi riêng một mình.
5. Nếu đang đi mà có chuyển động
Bèn có hai cái đi
Một gọi là đang đi
Hai là chuyển động đi.
6. Nếu có hai cái đi
Bèn có hai chủ thể đi
Vì lìa chủ thể đi
Pháp đi chẳng thể có được.
7. Nếu lìa chủ thể đi
Pháp đi chẳng thể có được
Đã không có pháp đi
Sao có được chủ thể đi?
Pháp đi hay sự đi gồm có ít nhất là hai phần nương dựa nhau: một là chủ thể đi, hai là chuyển động đang đi. Chủ thể đi không thể đi một mình nếu không có chuyển động đang đi. Và ngược lại chuyển động đang đi không thể có nếu không có chủ thể đi.
Hai yếu tố phải nương dựa vào nhau, duyên sanh lẫn nhau, mỗi cái đều không có hiện hữu tự thân nội tại, nên đều vô tự tánh, đều là tánh Không. Tánh Không là không có chuyển động đang đi và chủ thể đang đi. Hai cái này tạo ra không gian, hai cái ấy không có nên không gian cũng không có. Và không gian không có thì thời gian cũng không có.
Trung Luận không phải để lý luận về những sự kiện ‘khách quan’ bên ngoài, mà áp dụng sự quán chiếu trên chính cuộc đời của mỗi người. Sự quán chiếu này đưa người ta đến giải thoát khỏi ảo tưởng về không gian và thời gian, gọi là thể nghiệm tánh Không.
8. Chủ thể đi chẳng có đi
Chủ thể không đi cũng chẳng đi
Ngoài chủ thể đi, chủ thể không đi
Không có chủ thể đi thứ ba.
9. Nếu nói chủ thể đi có đi
Làm sao có nghĩa ấy?
Nếu lìa ngoài pháp đi
Chủ thể đi chẳng thể có được.
10. Nếu chủ thể đi có đi
Bèn có hai loại đi
Một là ‘chủ thể đi’ đi
Hai là ‘pháp đi’ đi.
11. Nếu nói ‘chủ thể đi’ đi
Người ấy ắt có lỗi
Vì lìa ngoài sự đi có chủ thể đi
Mới nói chủ thể đi có đi.
Chủ thể đi hay người đi có hai phần phải dựa vào nhau: một là chủ thể, hai là hành động đi. Chủ thể thì không có sự đi trong đó và sự đi thì không có chủ thể trong đó. Hai cái chẳng dính dáng gì với nhau, nói theo kinh Đại Bát Nhã, “chẳng phải hợp, chẳng phải lìa”. Lìa nhau, đứng một mình cũng vô nghĩa mà hợp lại cả hai cũng vô nghĩa.
12. Không có chỗ phát khởi trong đã đi
Không có chỗ phát khởi trong chưa đi
Không có chỗ phát khởi trong đang đi
Vậy trong nơi nào có chỗ phát khởi?
13. Chưa phát khởi thì không có đang đi
Cũng không có đã đi
Không có phát khởi nơi đang đi và đã đi
Thì chưa đi làm sao có chỗ phát khởi?
14. Không có đã đi, không có chưa đi
Cũng không có đang đi
Tất cả không có phát khởi
Vì sao lại phân biệt.
Xét về chỗ phát khởi, chỗ bắt đầu thì sự đang đi bắt đầu ở đâu? Bắt đầu trong quá khứ, hiện tại hay vị lai? Quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ có khi có sự đi, sự đi chưa có thì đâu là quá khứ, hiện tại, vị lai?
Ngược lại, chỉ có sự đã đi, đang đi và sẽ đi khi có quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ, hiện tại, vị lai chưa vận hành thì chỗ bắt đầu của sự đi là ở đâu?
Sự đi và thời gian không có chỗ bắt đầu, không ở đâu cả: “Không có đã đi, không có chưa đi, cũng không có đang đi, tất cả không có bắt đầu, vì sao lại phân biệt”. Không có sự bắt đầu ở đâu cả, không có sự bắt đầu của sanh tử ở đâu cả, quán sát thấu suốt được điều này, người ta sẽ giải thoát khỏi sanh tử, khỏi nhận thức và cái thấy sai lầm của mình.
Quán sát tánh Không của thời gian và sự đi không phải là cái gì ở ngoài mình mà chính là những vọng tưởng của mình, ‘thời gian của tôi, sự đi của tôi’. Quán sát để thấy không có thời gian bắt đầu của đời mình, không có sự bắt đầu đi của mình, người ta được giải thoát. Giải thoát khỏi những vọng tưởng “phân biệt” tạo ra thời gian và sự đi - đến của cuộc đời làm người.
15. Người đi thì chẳng trụ (đứng yên)
Người không đi cũng chẳng trụ
Lìa ngoài người đi và người không đi
Làm sao có người thứ ba trụ?
16. Người đi nếu thường trụ
Làm sao có nghĩa ấy
Còn nếu thường lìa sự đi
Thì người đi chẳng thể có được.
17. Đi và chưa đi không trụ
Đang đi cũng không trụ
Vậy pháp đi và dừng trụ
Đồng nghĩa với sự đi.
Đoạn này nói về tương quan giữa đi (khứ) và đứng (trụ). Không thể có đi nếu không có đứng và cũng không thể có đứng nếu không có đi.
Người đi thì chẳng đứng yên, điều này có thể hiểu theo lý luận thường nghiệm, nhưng “người không đi cũng chẳng trụ” là thế nào. Có vài quán sát để thấu hiểu điều này.
- không đi không có nghĩa là trụ.
- người không đi, “chủ thể đi không thể có được” (câu 9). Chủ thể đi không có thì nói đi hay đứng đều vô nghĩa.
Đi, chưa đi, đang đi đều không trụ, mà “người đi thì chẳng trụ”, nên “pháp đi và trụ, đồng nghĩa với sự đi”, nghĩa là đồng nghĩa với sự đi không có thật. Tất cả sự đi và dừng đều không trụ, tất cả đi và dừng đều trống không, đều là tánh Không.
Quán sát đời người dù chuyển động hay không chuyển động, đều không có chỗ trụ (vô sở trụ). Ở tầm vĩ mô là thân thể, tài sản, thế giới, cho đến một ý tưởng và một khoảnh khắc của ý tưởng, một hạt bụi đều không có chỗ trụ, không có sự đi, không có đã đi, chưa đi, đang đi. Khi ấy tâm con người trở thành bao la, trùm khắp, không trung tâm, sáng tỏ như tánh Không bao la, sáng tỏ, trùm khắp, không trung tâm.
18. Pháp đi tức người đi
Sự ấy ắt chẳng đúng
Pháp đi khác người đi
Sự ấy cũng chẳng đúng.
19. Nếu nói trong pháp đi
Tức đó là người đi
Như vậy thì người làm và nghiệp được làm
Sự ấy ắt là một.
20. Nếu nói trong pháp đi
Có khác với người đi
Thì lìa người đi có đi
Lìa đi có người đi
21. Đi, người đi là hai
Thành ra pháp một - khác
Nếu hai cái đều chẳng thành
Làm sao sẽ được thành đi, người đi?
Pháp đi tức là người đi thì chẳng đúng. Nhưng pháp đi khác người đi thì cũng chẳng đúng. Nếu nói trong pháp đi có người đi thì cũng phải nói người làm ra nghiệp (hành động) và nghiệp (hành động) được làm ra là một.
Nếu người làm ra hành động có tự tánh và hành động được làm ra có tự tánh và nếu cả hai là một thì nghiệp ấy chẳng bao giờ tịnh hóa được, mãi mãi dính với người làm. Và nghiệp nhân này chẳng thể nào sanh ra nghiệp quả. Còn nếu cả hai là khác thì không thể gọi là nghiệp vì không thuộc về ai cả.
Nói pháp đi là một với người đi là sai, mà nói khác nhau cũng sai. Bởi vì cả hai đều vô tự tánh, chẳng phải một, chẳng phải khác.
Một - khác không thể thành, nhưng không có một - khác thành, làm sao có pháp đi và người đi?
Quán sát nơi cuộc đời mỗi người, trong sự đi có người đi hay không? Trong người đi có sự đi hay không? Người đi, người hành động (làm nghiệp) là một hay là khác với sự đi, với hành động? Thấy được “các pháp chẳng đến nhau, chẳng hợp, chẳng lìa” như Kinh Đại Bát Nhã nói, người ta sẽ giải thoát ngay trong việc đi đứng nằm ngồi hàng ngày.
22. Nhân đi, biết có người đi
Nhưng chẳng thể dùng cái đi này
Vì trước không có pháp đi
Nên không có ‘người đi’ đi.
23. Nhân đi, biết người đi
Nhưng chẳng thể dùng cái đi nào khác
Vì trong một người đi
Không thể có được hai việc đi.
Do sự đi, sự chuyển động mà biết có người đi, nhưng chẳng thể dùng sự đi, sự chuyển động này để biết có người đi. Vì trước đã chứng minh không có pháp đi, không có sự chuyển động nên người đi không thể có.
Lại không thể dùng cái đi nào khác để biết có người đi, vì trong một người đi không thể có hai cái đi.
Ở đây chúng ta gặp lại xác quyết “chẳng phải một cũng chẳng phải khác” (Bất nhất diệc bất dị) trong bài kệ Bát Bất mở đầu của Trung Đạo, và cũng thường thấy trong các kinh Đại thừa.
Đi và người đi không thể được chứng minh là hiện hữu thật sự, độc lập, vững chắc. Chúng như huyễn, như mộng. Trung Luận đã ba lần đưa các hiện hữu về như huyễn như mộng, là một tính cách của tánh Không. Chẳng hạn trong chương Quán Điên Đảo: 8. Sắc thanh hương vị xúc
Và pháp, thể sáu thứ
Đều Không, như sóng nắng, như mộng
Như thành Càn thát bà.
9. Trong sáu thứ như vậy
Đâu có tịnh, bất tịnh
Giống như người huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương.
24. Quyết định có người đi
Không thể dùng ba thời đi
Không quyết định có người đi
Cũng không thể dùng ba thời đi.
25. Pháp đi là định hoặc bất định
Người đi, không thể dùng ba thời
Thế nên đi, người đi
Chỗ đi, đều không có.
Muốn quyết định, xác định người đi là thật có thì phải xác định ba thời đi, nhưng ở trên đã nói không thể xác định ba thời đi. Muốn xác định hay bác bỏ thật có người đi cũng không thể được vì không thể xác định ba thời đi. Ban đầu không có nhân là sự đi, thì cũng không có quả là sự đến.
Xác định là có, bác bỏ tức nói không có, cả hai nền nằm trong Tứ cú (Bốn câu), có, không, vừa có vừa không, không có không không. Tánh Không vượt thoát cả bốn câu này, vượt ngoài ý thức lý luận.
Sự quán sát triệt để hiện tượng đi đưa chúng ta đến cái thấy tánh Không: không có sự đi và đến, người đi và đến, chỗ đi và đến. Cái thấy ấy xóa tan mọi kiến chấp, mọi vọng tưởng đã dệt nên hiện hữu sanh tử khổ đau. Cái thấy tánh Không chính là giải thoát: không có thời gian và không gian giả tạo che chướng nữa.
Áp dụng vào ý tưởng: không có sự đi và đến của một ý tưởng, không có một ý tưởng đi và đến, không có chỗ đi và đến của một ý tưởng. Người ta sẽ giải thoát khỏi sự đè nặng, ám ảnh của những ý tưởng khi nhận biết bản tánh của những ý tưởng là tánh Không.
Chỉ có tánh Không mới thấy được tánh Không. Sự quán sát tánh Không trở thành chính cái nhìn thấy của tánh Không sáng tỏ và vô ngại. Cái nhìn thấy của tánh Không sáng tỏ và vô ngại này thấy mọi sự, thân thể, nhà cửa, người khác, thế giới là tánh Không và mọi sự trong đời sống hàng ngày là sự biểu lộ của tánh Không.
Để kết luận, chúng ta trích một đoạn nói về cái quán thấy thật tướng của chúng sanh, Phật, thế giới, và ba cõi, trong Phẩm Thấy Phật Bất Động (Aksobhya) Kinh Duy Ma Cật:
“Bấy giờ Thế Tôn hỏi ngài Duy Ma Cật: “Khi ông muốn thấy Như Lai, thì ông xem thấy như thế nào?”
Cư sĩ Duy Ma Cật thưa: “Thế Tôn, như con tự xem thấy thật tướng của thân như thế nào, con xem thấy Phật cũng như thế. Con xem thấy Như Lai quá khứ chưa từng đến, tương lai không đi đâu, hiện tại cũng chẳng trụ. Con không xem thấy sắc, không xem thấy sắc như, không xem thấy tánh sắc, không xem thấy thọ, tưởng, hành, thức, không xem thấy thức như, không xem thấy tánh thức. Chẳng phải nơi bốn đại mà khởi, đồng với hư không. Không chứa trong lãnh vực các căn, siêu vượt khỏi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Không ở trong ba cõi, vốn lìa khỏi ba nhiễm ô tham sân si, hằng thuận với ba môn giải thoát. Đầy đủ ba minh, cùng với vô minh bình đẳng. Không một không khác, không đây, không kia. Chẳng phải tướng, chẳng phải giữ tưóng. Không bờ này, không bờ kia, không giữa dòng, mà giáo hóa chúng sanh. Xem thấy tịch diệt mà chẳng vĩnh viễn diệt mất. Không đây, không kia, không nương đây, không nương kia. Không phải chỗ lấy trí mà biết, không phải chỗ lấy thức phân biệt được. Không tối, không sáng. Không danh, không tướng. Không mạnh, không yếu. Chẳng sạch, chẳng dơ. Không ở nơi chốn, không lìa nơi chốn. Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.
“Không chỉ, không nói. Không bố thí, không keo kiệt. Không giới, không phạm. Không nhẫn, không sân. Không tinh tấn, không biếng lười. Không định, không loạn. Không trí, không ngu. Không thật, không dối. Không đến, không đi. Không ra, không vào. Tất cả con đường ngôn ngữ dứt”.
- Từ khóa :
- Đến và Đi