Đạo Phật: Con Đường Diệt Khổ (Song Ngữ Vietnamese-English PDF)

29/06/20234:08 SA(Xem: 5813)
Đạo Phật: Con Đường Diệt Khổ (Song Ngữ Vietnamese-English PDF)

 

THIỆN PHÚC
ĐẠO PHẬTCON ĐƯỜNG DIỆT KHỔ
BUDDHISM: THE PATH OF REMOVAL OF SUFFERINGS

Đạo Phật Con Đường Diệt Khổ
PDF icon (4)ĐẠO PHẬT CON ĐƯỜNG DIỆT KHỔ


Copyright © 2023 by Ngoc Tran. All rights reserved.

No part of this work may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying and recording, or by any information storage or retrieval system without the prior written permission of the author, except for the inclusion of brief quotations. However, staff members of Vietnamese temples who want to reprint this work for the benefit of teaching of the Buddhadharma, please contact Ngoc Tran at (714) 778-2832.

 

Mục Lục

Table of Content

 

Mục Lục—Table of Content  
Lời Đầu Sách—Preface    
Phần Một—Part One: Tổng Quan Về Đức Phật & Đạo Phật—An Overview of the Buddha & Buddhism   
Chương Một—Chapter One: Đức Phật Lịch Sử Thích Ca Mâu Ni—The Historical Buddha Sakyamuni   
Chương Hai—Chapter Two: Tóm Lược Về Đạo Phật—A Summary of Buddhism 
Chương Ba—Chapter Three: Thế Giới Ta BàThế Giới Của Chúng Ta Hôm Nay—The Worldly World & Our Modern World  
Chương Bốn—Chapter Four: Nhân Sinh Quan Phật Giáo—Buddhist Outlook on Human Life   
Phần Hai—Part Two: Đạo Phật & Khái Niệm Về Khổ Đau—Buddhism & Aspects of Sufferings 
Chương Năm—Chapter Five: Đức Phật Thuyết Bài Pháp Đầu Tiên Về Con Dường Diệt Khổ—The Buddha Preached the First Sermon On the Path of Removal of Sufferings 
Chương Sáu—Chapter Six: Tổng Quan Về Đạo Phật & Con Đường Diệt Khổ—An Overview of Buddhism & The Path of Removal of Suffering  
Chương Bảy—Chapter Seven: Chân Lý Về Khổ Theo Quan Điểm Phật Giáo—The Noble Truth of Suffering In Buddhist Point of View  
Chương Tám—Chapter Eight: Sự Vân Tập Khổ Theo Quan Điểm Phật Giáo—Accumulation of Suffering In Buddhist Point of View  
Phần Ba—Part Three: Kiếp Người Với Đầy Dẫy Những Khổ Đau Phiền Não—Human's Life With Full of Sufferings & Afflictions   
Chương Chín—Chapter Nine: Kiếp Người Theo Quan Điểm Phật Giáo—Human’s Life In Buddhist Point of View  Chương Mười—Chapter Ten: Kiếp Con Người Trầm Luân Với Ưu Tư Và Khổ Sở—Human Lives Are Circling in Worries and Miseries  
Chương Mười Một—Chapter Eleven: Khổ Đau Phiền Não Trong Đời Sống Gây Ra Bởi Tám Ngọn Cuồng Phong—Sufferings & Afflictions in Daily Life Caused By Eight Mad Winds   
Chương Mười Hai—Chapter Twelve: Khổ Đau Và Nghịch Cảnh Trong Đời Sống Hằng Ngày—Sufferings and Adverse Circumstances In Daily Life
Chương Mười Ba—Chapter Thirteen: Con Người Khổ Đau Phiền Não Vì Cái Gọi Là Ngã Và Ngã Sở—Human Beings Have Sufferings & Afflictions With the So Called “I” and “Mine”  
Chương Mười Bốn—Chapter Fourteen: Kiếp Người Với Đầy Dẫy Nhiều Loại Khổ Đau Phiền Não Khác—Human's Life With Full of Different Kinds of Sufferings & Afflictions 
Phần Bốn—Part Four: Đạo Phật: Con Đường Diệt Khổ—Buddhism: The Path of Removal of Sufferings 
Chương Mười Lăm—Chapter Fifteen: Tu Tập Trong Phật Giáo Dẫn Đến Diệt Trừ Khổ Đau—Cultivations In Buddhism Leading to the Cessation of Sufferings 
Chương Mười Sáu—Chapter Sixteen: Tu Tập Bát Thánh Đạo Là Đang Đi Trên Con Đường Diệt Khổ—Cultivation of the Noble Eightfold Path Means to Tread on the Path of Extinction of Suffering 
Chương Mười Bảy—Chapter Seventeen: Thất Bồ Đề Phần: Những Con Đường Diệt Khổ Tuyệt Vời—The Seven Bodhi Shares: Excellent Paths of Elimination of Sufferings   

Chương Mười Tám—Chapter Eighteen: Tu Tập Bốn Pháp Tinh Cần Giúp Hành Giả Đoạn Trừ Khổ Đau Phiền Não—Cultivation of the Four Right Efforts Helps Practitioners Eliminate Sufferings & Afflictions  
Chương Mười Chín—Chapter Nineteen: Nhổ Bỏ Tất Cả Khổ Đau Phiền Não Bằng Cách Tu Tập Bốn Điều Nên Biết Đủ—To Uproot All Sufferings & Afflictions Through Cultivating the Four Sufficiences 
Chương Hai Mươi—Chapter Twenty: Năm Tiểu Lộ Giúp Hành Giả Diệt Khổ—Five Small Roads That Help Practitioners Eliminate Suffering                   
Chương Hai Mươi Mốt—Chapter Twenty-One: Năm Sức Mạnh Giúp Hành Giả Tiếp Tục Tiến Bước Trên Đường Diệt Khổ—Five Powers That Help Practitioners Continue to Advance on the Way of Elimination of Sufferings    
Chương Hai Mươi Hai—Chapter Twenty-Two: Hành Giả Hành Trình Trên Đạo Lộ Diệt Khổ Với Tứ Niệm Xứ—Practitioners Travel on the Path of Elimination of Sufferings With Four Kinds of Mindfulness    
Phần Năm—Part Five: Phụ Lục—Appendices  
Phụ Lục A—Appendix A: Bốn Cảnh Làm Thay Đổi Cuộc Đời Đức Phật—Four Sights That Changed the Buddha’s Life                                                   
Phụ Lục B—Appendix B: Cứu Độ Chúng Sanh—Salvation of Sentient Beings  
Phụ Lục C—Appendix C: Tu Tập Thu Thúc Lục Căn Trong Những Sinh Hoạt Hằng Ngày—Practicing Sense Restraint in Daily Activities                         
Phụ Lục D—Appendix D: Quân Bình Tham Dục Sẽ Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—To Balance Lust Will Reduce Sufferings & Afflictions                     
Phụ Lục E—Appendix E: Quân BìnhChế Ngự Sân Hận: Con Đường Chấm Dứt Khổ Đau Phiền Não—To Balance and to Subdue Anger: The Path to End Sufferings & Afflictions     
Phụ Lục F—Appendix F: Triệt Tiêu Ngã Chấp Sẽ Dẫn Đến Chấm Dứt Khổ Đau Phiền Não—Elimination of the Attachment to the ‘Self’Will Lead to the End of Sufferings & Afflictions  
Phụ Lục G—Appendix G: Tu Tập Loại Trừ Tập Khí Sẽ Dẫn Đến Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—To Practice to Eliminate Remnants of Habits Will Lead to Reducing of Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục H—Appendix H: Cố Gắng Thiểu Dục Tri Túc Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Be Content with Few Desires and Be Satisfied with What We Have to Reduce Sufferings & Afflictions  
Phụ Lục I—Appendix I: Cố Gắng Đối Trị Tham Sân Si Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Subdue Lust, Anger and Ignorance to Reduce Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục J—Appendix J: Cố Gắng Điều Phục Thân-Khẩu-Ý Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Control the Body-Mouth-Mind to Reduce Sufferings & Afflictions  
Phụ Lục K—Appendix K: Người Phật Tử Nên Luôn Cố Gắng Đi Trên Con Đường Diệt Khổ—Buddhists Should Always Try to Tread on the the Path of the Removal of Sufferings   
Phụ Lục L—Appendix L: Phiền Não: Những Tên Giặc Nguy Hiểm Nhất Trên Đời—Afflictions: The Most Dangerous Robbers in Human Life                    
Phụ Lục M—Appendix M: Ai Trói Mình?—Who Binds Us?   
Phụ Lục N—Appendix N: Đi Với Phật Hay Đi Với Khách Trần?—Walking With the Buddha or With Dust Guests?   
Phụ Lục O—Appendix O: Vượt Thoát Khỏi Nhà Lửa Tam Giới—Escaping the Burning House in the Triple World   
Tài Liệu Tham Khảo —References   

  

 

Lời Đầu Sách

 

Theo Kinh Trung A Hàm hay Kinh Trung Bộ, trong suốt 45 năm thuyết Pháp của Đức Phật, Ngài tuyên bố rõ ràng là Ngài chỉ dạy hai vấn đề: Khổ và Diệt Khổ, ngoài ra Ngài không dạy gì nữa. Ngài khuyến khích các đệ tử của Ngài du hành để thuyết phápgiải thích đời sống phạm hạnh, vì sự triệt tiêu khổ đau phiền não, vì hạnh phúcan lạc của chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi íchhạnh phúc của chư Thiênloài người. Đức Phật nêu rất rõ mục đích thuyết pháp của Ngài là không tranh luận với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác và không cạnh tranh với lý thuyết đối nghịch. Không có sự tranh chấp trong sự thuyết pháp của Ngài. Ngài chỉ trình bày con đường dẫn đến giác ngộgiải thoát khổ đau phiền não. Đức Phật luôn luôn có đầy lòng từ bi với tất cả chúng sanh hữu tình. Cho đến khi nằm nghỉ, Ngài cũng nằm nghỉ với “tâm từ thương chúng sanh.” Ngài có thuyết Pháp cũng chỉ vì tình thương của Ngài đối với chúng sanh mọi loài. Kinh Phật gồm trên 150 bộ, tất cả đều nói lên sự hiểm nguy của sanh tử nên nhắc cho người khác biết những lời Phật dạy chân lý về con đường diệt khổ với hy vọng cuối cùng họ sẽ hiểu và vượt thoát khỏi luân hồi sanh tử.

Trong một đoạn kinh nổi tiếng khác của bộ Trung Bộ Kinh thuộc tạng kinh Pali, sau khi đạt được đại giác, lời tuyên bố đầu tiên của Đức Phật tại vườn Nai là: “Đời chỉ là khổ đau” và “Năm thủ uẩn là khổ đau”. Một lần khác tại thành Xá Vệ, Đức Phật đã lập lại: “Nầy các Tỳ Kheo, Như Lai sẽ giảng cho các ngươi về khổ và gốc của khổ. Hãy lắng nghe, nầy các Tỳ Kheo, thế nào là khổ? Nầy các Tỳ Kheo, Sắc là khổ, Thọ là khổ, Tưởng là khổ, Hành là khổ, Thức là khổ. Nầy các Tỳ Kheo, đó là ý nghĩa của khổ. Và nầy các Tỳ Kheo, thế nào là gốc của khổ? Chính Ái nầy dẫn đến tái sanh, đi cùng với lạc thútham luyến, tìm cầu lạc thú chỗ nầy chỗ kia: đó là dục ái, hữu áivô hữu ái.” Nói cách khác, khổ đau của con người vốn là kết quả của sự sinh khởi của duyên khởi, cũng là kết quả của sự sinh khởi của ngũ uẩn. Và như vậy không phải ngũ uẩn, hay con ngườicuộc đời gây nên đau khổ, mà là sự chấp thủ năm uẩn của con người gây nên đau khổ. Đức Phật diễn tả ba đặc điểm của Khổ trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thứ nhất là khổ vì đau đớn có nghĩa là khi chúng ta bị cảm giác đau đớn thể xác hay khổ sở về tinh thần. Đau đớn về thể xác bao gồm nhức đầu, đau lưng, nhức nhối do bệnh ung thư hay đau thắt tim, vân vân. Khổ sở tinh thần là khi không đạt được điều mà chúng ta mong muốn, khi mất sự vật mà chúng ta ưa thích hoặc khi chúng ta gặp những bất hạnh trong đời. Chúng ta buồn khi nghề nghiệp không thành đạt, chúng ta suy sụp tinh thần khi phải xa lìa những người thân yêu, chúng ta cảm thấy lo âu khi trông chờ tin tức thơ từ của con cái, vân vân. Thứ hai, khổ vì sự đổi thay là khổ do sự biến chuyển hay đổi thay có nghĩa là những sự việc mà chúng ta thường xem là hạnh phúc không bao giờ giữ nguyên trạng như thế mãi, chắc chắn chúng phải biến chuyển theo cách này hay cách khác và trở thành nỗi thống khổ cho chúng ta. Khi chúng ta mua một cái áo mới, chúng ta thích nó vì nó trông lộng lẫy; tuy nhiên, ba năm sau chúng ta sẽ cảm thấy khổ sở hay khó chịu khi mặc lại chiếc áo ấy vì nó đã cũ kỹ rách sờn. Không cần biết là chúng ta thích một người như thế nào và chúng ta cảm thấy sung sướng khi ở cạnh người ấy; tuy nhiên, nếu chúng ta ở bên người ấy lâu ngày chầy tháng thì chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu. Như vậy sự sung sướng không phải là bản chất có sẵn trong cái người mà chúng ta cảm thấy ưa thích, mà nó chỉ là kết quả của sự tương tác trong mối quan hệ giữa chúng ta và người ấy. Thứ ba, khổ vì duyên khởi nói tới hoàn cảnh thân tâm của chúng ta có khuynh hướng khổ đau. Chúng ta cảm thấy khổ sở vì môi trường bên ngoài thay đổi. Thời tiết thay đổi làm cho chúng ta cảm thấy lạnh; bạn bè thay đổi cách cư xử làm cho chúng ta cảm thấy buồn khổ.

Đức Phật mô tả giáo pháp diệt khổ của Ngài giống như một chiếc bè. Ngài dạy, giả thử có một người lữ hành trông thấy một dòng sông rộng lớn. Trong khi đó bên bờ người ấy đang đứng thì nguy hiểm và ghê sợ, trong khi bờ bên kia thì an toàn, bình yên và vắng lặng. Không có cầu mà chẳng có phà để đưa người ấy sang sông, vì vậy người này làm một chiếc bè. Một khi đã qua được bến bờ bên kia, người này nên làm gì? Kéo theo chiếc bè, vật đã từng hữu dụng cho người ấy và bây giờ nó biến thành một trở ngại khiến cho chúng ta khổ đau phiền não, hay bỏ nó đi sau khi người ấy đã sang bờ? Đức Phật bình phẩm, chiếc bè dùng để vượt sông, đừng bám víu vào nó, và giống như chân lý trong giáo pháp của Ngài. Nó không phải là một nỗ lực trí tuệ mà cũng không phải là một tín điều, nhưng chỉ là một điều gì đó được biến thành hiện thực và được trau dồi. Giáo pháp của Đức Phật được diễn tả rất ngắn gọn trong Bốn Chân Lý Cao Thượng, một trong những phương thức được chấp nhận rộng rãi nhất của tư tưởng Phật giáo. Những chân lý này công bố về “khổ” và sự chấm dứt khổ và phản ánh nội dung sự giác ngộ của Ngài. Theo truyền thống, Ngài trình bày những chân lý này trong bài pháp đầu tiên khi thuyết giảng cho 5 người bạn đồng tu cũ ở vườn Lộc Uyển gần thành Sarnath. Bài pháp này được gọi là “Chuyển Pháp Luân,” và nó đã cấu thành một trong những lời giáo huấn căn bản của đạo Phật.

Đối với Đức phật thì toàn bộ lời dạy của Ngài chỉ nhằm để hiểu về Khổ, tính chất bất toại nguyện của mọi hiện hữu duyên sanh, và hiểu về con đường thoát khỏi tình trạng bất toại nguyện nầy. Toàn bộ lời dạy của Đức Phật không gì khác hơn là sự ứng dụng một nguyên tắc nầy. Có thể xem đây là giáo lý tiêu biểu của ba đời chư Phật. Tính chất ưu việt của Bốn Chân Lý Cao Thượng trong lời dạy của Đức Phật, được thể hiện rõ nét qua bức thông điệp của Ngài trong rừng Simsapa, cũng như từ bức thông điệp trong vườn Lộc UyểnĐức Phật dạy rằng mọi vật đều khổ: sanh, lão, bệnh, tử, chia lìa, không thỏa mãn ước muốn, hủy hoại, trạng thái thay đổi liên tục của tất cả các hiện tượng, bất cứ cảm nhận nào, dù sung sướng hay đau khổ đều là “khổ.” Khổ là điều kiện vô thường của vũ trụ tác động trên vạn vật. Ngay cả “cái tôi” hoặc “bản ngã” cũng không có đặc tính vững bền, do bởi trên thực tế nó chỉ là một sai lầm khởi lên từ một khái niệm sai lầm mà thôi. Thuyết “Vô Ngã” này là một trong ba đặc tính của tất cả sự sống cùng với “khổ” là “vô thường.” Theo Phật giáo, khổ phát sinh từ tham ái, tham muốn có nhiều hay có ít, tham muốn sinh tồn hay hoại diệt. Sự tham ái hoặc lòng tham như thế là một phần của chu kỳ được mô tả trong thập nhị nhân duyên: phát sinh từ thọ, lần lượt phát sinh từ xúc, từ lục căn, từ danh sắc, từ thức, từ ý hành, từ vô minh, từ khổ, từ sanh, hữu, thủ, và trở lại ái, cứ như thế mà xoay vòng liên tục trở lại. Một trong những định luật căn bản tự nhiên nổi tiếng trong đạo Phật. Lý Duyên Khởi hoặc Thập Nhị Nhân Duyên đặt nền móng cho Nghiệp, nhân quả, sự thay đổi và tự nguyện và tính cách mà ở đó tất cả những hiện tượng quy ước tồn tại. Nó thường được mô tả là sự khởi đầu với vô minh hoặc mê mờ. Đức Phật đã từng khẳng định với tứ chúng rằng có một sự chấm dứt ‘khổ’ hay sự giải thoát cuối cùngtối cao là sự dập tắt lửa tham, sân và si, việc này xảy ra khi nhân của ‘khổ’ bị loại trừ. Khi người ta hiểu rõDuyên Khởi và những hậu quả của nó được mở lối, khi ấy chuỗi dây xích bị phá và tham ái dẫn đến vòng sinh tử luân hồi bất tận bị đoạn tận và sự diệt khổ đã hoàn tất. Đức Phật gọi chân lý thứ ba là “sự diệt tắt.” Sự kiện này không giống như Niết Bàn. Niết Bàn không phải là quả được tạo bởi nhân: nếu là Niết Bàn, nó tự phát sinh, và nếu nó đã tự sinh; nó không thể đưa ra một phương cách để vượt khỏi những sự bám chặt vào nghiệp và tái sinh. Cuối cùng, đức Phật xác định về những yếu tố trên con đường dẫn đến sự diệt khổ như linh dược được kê toa ra để phục hồi sức khỏe. Bốn Chân Lý Cao Thượng được giải thích bằng cách dùng một hình thức bóng bẩy mang tính y học. Trong đế thứ nhất, thân phận con người được chẩn đoán là khổ. Chân lý thứ hai trích dẫn tham ái, nhân của chứng bệnh này. Chân lý thứ ba tạo nên một triệu chứng tình trạng, chỉ ra rằng có thể hồi phục. Chân lý thứ tư, Bát Thánh Đạo đi đến sự diệt khổ là phương thuốc được kê toa để phục hồi sức khỏe bệnh nhân. Theo lệ thường, người ta cũng kết hợp hình thức hoạt động nào đó với từng chân lý một. Chân lý thứ nhất được ‘hiểu thông suốt.’ Chân lý thứ hai được loại trừ tận gốc: nó đòi hỏi sự khao khát cần được dập tắt. Chân lý thứ ba là cần được chứng nghiệm, để biến thành thực tế. Và chân lý thứ tư cần được trau dồi, “được biến thành hiện thực,” nghĩa là cần được gìn giữtuân thủ. Toàn bộ Phật Pháp có thể được xem như là sự giải thích rộng rãi và tỉ mỉ từ Bốn Chân Lý Cao Thượng mà ra. Và nếu chúng ta tu tập đúng theo những lời dạy nầy của đức Phật thì cuộc sống của chúng ta sẽ ít khổ đau và nhiều hạnh phúc hơn. Nói cách khác, đạo Phậtcon đường đúng dẫn tới sự chấm dứt đau khổ, tu tập Phật Đạo là đang đi trên con đường diệt khổ.

Quyển sách nhỏ có tựa đề “Đạo Phật: Con Đường Diệt Khổ” này không phải là một nghiên cứu thâm sâu về giáo lý của nhà Phật về khổ đau phiền não, mà nó chỉ đơn thuần vạch ra những lời Phật dạy căn bản về khổ và đạo Phật tự nó là con đường diệt khổthể hiện thực được ngay trong kiếp này. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng để diệt khổđạt được hạnh phúc trong cuộc sống này không phải là chuyện dễ dàng, nhưng không vì những khó khăn nầy mà mình không bắt đầu cuộc hành trình. Chúng ta nên bắt tay ngay vào việc tu tập nhằm thiết lập những mẫu mực sống hằng ngày của mình, làm cho đời sống của chúng ta trở nên an lạc, tỉnh thức, và hạnh phúc hơn. Cuộc hành trình từ người lên Phật còn đòi hỏi nhiều cố gắnghiểu biết liên tục. Chính vì thế mà mặc dù hiện tại đã có quá nhiều sách viết về Phật giáo, tôi cũng mạo muội biên soạn tập sách “Đạo Phật: Con Đường Diệt Khổ” song ngữ Việt Anh nhằm phổ biến giáo lý nhà Phật cho Phật tử ở mọi trình độ, đặc biệt là những người sơ cơ. Những mong sự đóng góp nhoi nầy sẽ mang lại lợi lạc cho những ai mong cầu có được cuộc sống an bìnhhạnh phúc.

 

Thiện Phúc

Preface

 

According to the Middle Length Discourses or the Majjhima-Nikaya, in 45 years of preaching the Dharma, the Buddha declared explicitely that He did preach only on Suffering and the End of Suffering, and nothing else. He exhorted His disciples to go forth to preach the Dharma and to explain the holy life for the welfare of the many, for the removal of sufferings and afflictions, for the happiness of the many, out of compassion for the world, for the advantage, for the happiness of the deities and human beings. The Buddha made it very clear that His purpose in preaching the Dharma was not to quarrel with other religious leaders or to compete with antagonistic doctrines. There is no quarrel in His preaching. He just shows the way to enlightenment and liberation from all sufferings and afflictions. The Buddha is always filled with love and compassion for all living beings. Even when He takes a rest, He still wants to spread His love and compassion to other beings. His preaching is only performed out of compassion and love for the world. There are over 150 Buddhist sutras, all of them are talking about the danger of mortalilty, so to preach others about Buddha’s teachings on the truth of the PATH that leads to the cessation of suffering (the way of cure) with the hope that they will eventually understand and be able to escape the cycle of births and deaths.

In another famous passage in the Majjhima Nikaya of the Pali Canon, after the Great Enlightenment, the Buddha declared His first Discourse at the Deer Park: “Life is nothing but suffering” and “The five aggregates are suffering”. At other time in the Sravasti, the Buddha repeated the same discourse: “I will teach you, Bhiksus, pain and the root of pain. Do you listen to it. And what, Bhiksus, is pain? Body, Bhiksus, is pain, feeling is pain, perception is pain, the activities are pain, and consciousness is pain. That, Bhiksus, is the meaning of pain. And what, Bhiksus, is the root of pain? It is this craving that leads downward to rebirth, along with the lure of lust that lingers longingly now here and there: namely, the craving for sense, the craving for rebirth, the craving to have done with rebirth.” In other words, human beings’ suffering is really the result of the arising of Dependent Origination, also the arising of the Five Aggregates. And thus, it is not the five aggregates, or human beings and the world that cause suffering, but a person’s craving for the five aggregates that causes suffering. The Buddha described three main characteristics of Dukkha which we face in our daily lives. First, the suffering of pain occurs whenever we are mentally or physically miserable. Physical suffering includes headaches and scraped knees as well as torment of cancer and heart attacks. Mental suffering occurs whenever we fail to get what we want, when we lose something we are attached to, or when misfortune comes our way. We are sad when our career goal cannot be achieved, we’re depressed when we part from loved ones, we are anxious when we are waiting to obtain a letter form our children, etc... Second, the suffering of change indicates that activities we generally regard as pleasurable in fact inevitably change and become painful. When we first buy a new shirt, we like it because it look gorgeous; however, three years later, we may be suffering or feeling uncomfortable when we wear it because it is old and becomes worn out. No matter how much we like a person and we feel happy when we are with that person; however, when we spend too much time with that person, it makes us uncomfortable. Thus, happiness was never inherent in the person we like, but was a product of the interaction between us and that person. Third, the pervasive compounded suffering refers to our situation of having bodies and minds prone to pain. We can become miserable simply by the changing of external conditions. The weather changes and our bodies suffer from the cold; how a friend treats us changes and we become depressed.

The Buddha likens his teachings that eliminate sufferings to a raft. Suppose, he says, a traveler sees a great expanse of water. The shore he stands on is dangerous and frightening, while the opposite shore offers safety, peace and tranquility. There is neither a bridge to cross nor a ferry to carry him over, so he built a raft. Once on the other shore, what should he do? Drag the raft that had been useful to him and turn it into an impediment that causes us sufferings and afflictions, or let go of it now that he is safely across the water? The raft, the Buddha observes, is for crossing with, not clinging to, and the same is true of his teaching. It is neither an intellectual endeavor nor a creed, but merely something to be brought into being and cultivated. The Buddha’s teaching is most succinctly expressed in the Four Noble Truths, one of the most universally accepted formulations of Buddhism. These Truths proclaim “duhkha” and its cessation, and reflect the content of the Buddha’s enlightenment. According to tradition, he expounded them in his first sermon delivered to his five former companions at the deer park near Sarnath. This sermon is called the “Setting in Motion of the Wheel of Dharma,” and constitutes one of the most basic teaching of Buddhism.

To the Buddha the entire teaching is just the understanding of Dukkha, the unsatisfactory nature of all phenomenal existence, and the understanding of the way out of this unsatisfactoriness. The entire teaching of the Buddha is nothing other than the application of this one principle. This is the typical teaching of the Buddhas of all ages. The supremacy of the Four Noble Truths in the teaching of the Buddha is extremely clear from the message of the Simsapa Grove as from the message of the Deer Park. The Buddha said that everything is “duhkha”: birth, ageing, sickness, death, parting, unfulfilled desires, decay, the state of all phenomena constantly changing, any experience, whether pleasurable or painful, is “duhkha.” Duhkha is the condition of universal impermanence which affects everything. Even the “I” or “Self” has no enduring quality, because in reality it is merely an error arising from false conceptualization. This doctrine of “no-self” is one of three characteristics of all conditioned existence, together with “duhkha” and impermanence. According to Buddhism, suffering arises from craving (literally ‘thirst’; Pali, trishna): craving for sensual pleasure, for having more or for having less, for existence or for self-annihilation. Such craving or greed is part of a cycle that is described as a twelve-linked chain of Dependent Origination: it arises from feeling, which in turn arises from sense-contact, which arises from the six senses, which arise from mind and form, which arise from consciousness, which arises from formations, which arise from ignorance, which arises from suffering, which arises from birth, which arises from becoming, which arises from grasping, which arises from craving, and thus round and round again. One of the most celebrated principles of Buddhism, Dependent Origination underlies Karma, causality, change and free will, and the way in which all conditioned phenomena exist. It is usually described as beginning with ignorance or confusion. The Buddha firmly confirmed his disciples that there is an end to “duhkha”: supreme and final liberation is the “blowing out” of the fires of greed, hatred and delusion that occurs when the cause of “duhkha” is removed. When Dependent Origination is fully understood and its consequences drawn out, when the chain is broken and the craving that leads to endless births and deaths is abandoned, complete and final cessation of “duhkha” is achieved. The Buddha called the third Noble Truth “the Cessation.” This is not identical to nirvana. Nirvana is not an effect produced by a cause: if it were, it would arise dependently, and if it arose dependently, it would not be able to offer a means of escape from the clutches of karma and rebirth. The fourth Noble Truth, the Truth of the Eightfold Noble Path, identifies the factors leading to the cessation of “duhkha”. These eight factors affirm the three essential elements of Buddhist spiritual training, moral conduct, concentration and wisdom. The Four Noble Truths are commonly explained by use of medical allegory. In the First Noble Truth the human condition is diagnosed as being “duhkha.” The Second Noble Truth cites craving as the cause of this malady. The Third Noble Truth make a prognosis about the condition, proclaiming that recovery is possible. The Buddha confirmed elements of the Path to the Cessation of sufferings which is the medicine prescribed to restore the patient’s health. It is also customary to associate some sort of activity with each of the four Truths. The first Truth is to be “fully comprehended.” The second needs to be eradicated: it requires thirst to be quenched. The third Truth is to be realized, to be made into reality. And the fourth is to be cultivated, “to be brought into being,” that is, to be kept and followed. The entire Buddhist Dharma can be seen as an elaboration of the Four Noble Truths. And if we cultivate in accordance with the Buddha's teachings, we are on the way to less suffering and more happiness. In other words, Buddhism is the path leading to release from suffering, cultivation of Buddhist teachings means to tread on the path of removal of sufferings.

This little book titled “Buddhism: The Path of Removal of Sufferings” is not a profound study of Buddhist teachings on sufferings and afflictions, but a book that simply points out basic Buddha's teachings on sufferings and Buddhism itself is the path of removal of sufferings that can be achieved right in this very life. Devout Buddhists should always remember that eliminating sufferings and attaining happiness in this life is not easy, but not because of these difficulties we don’t want to start the journey. We should start to enter right away into practicing and cultivating in order to established daily life patterns, makes our lives more peaceful, mindful, and happy. The journey from man to Buddha still demands continuous efforts with right understanding and practice. Presently even with so many books available on Buddhism, I venture to compose this booklet titled “Buddhism: The Path of Removal of Sufferings” in Vietnamese and English to spread basic things in Buddhism to all Vietnamese Buddhist followers, especially Buddhist beginners, hoping this little contribution will help Buddhists in different levels to understand on how to achieve and lead a life of peace and happiness.
Thiện Phúc








 

                                                                                                

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
22/09/2010(Xem: 127480)
31/05/2014(Xem: 14591)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.