- 01. Lời Tựa
- 02. Giòng Suy Tưởng
- 03. Phong Trào Hiện Sinh Trong Triết Học Đông Phương
- 04. Phản Ứng Của Trí Thức Việt Giữa Cuộc Va Chạm Tư Tưởng Đông Tây
- 05. Phản Ứng Của Tây Phương Với Các Hệ Thống Tư Tưởng Thuần Lý
- 06. Một Cuộc Tự Vượt Trong Tư Tuởng Giới Âu Châu
- 07. Vào Đạo Phật Qua Lối Ngõ Jean Paul Sartre
- 08. Đặt Thân Phận Con Người Trước Cửa Ngõ Giác Ngộ
- 09. Phương Pháp Nhận Thức Của Đạo Phật
- 10. Tiêu Chuẩn Đạo Phật
GIỮA CUỘC VA CHẠM
TƯ TƯỞNG ĐÔNG TÂY
Lối sống
nhập thế cực vi của đạo Nho, lối sống xuất thế vô vi
của đạo Lão, theo gót những đợt xâm lăng của Hán tộc
đã tràn vào đất Việt để làm chủ vùng này. Đạo Nho làm
chủ địa hạt chính trị, đạo Lão vào sâu hơn với người
dân để làm chủ địa hạt tôn giáo. Đặc tính của Nho,
Lão vốn đã chống đối nhau, giờ đây lại càng kình chống
nhau mạnh hơn. Người dân Việt là kẻ mất nước vốn sẵn
thâm thù với đế quốc cai trị, nên được đạo Lão là
nơi trú ẩn để tiêu cực chống với đạo Nho của chính
quyền trong khi nhân dân chưa đủ sức đuổi kẻ xâm lăng
thì thật là hợp tình hợp cảnh quá. Hai lực lượng chính
quyền cực vi, nhân dân vô vi chống đối nhau như vậy thì
luồng tư tưởng Dung hợp của đạo Phật từ Ấn Độ qua
Trung hoa cũng trào vào đất Việt. Đạo Phật vừa có khả
năng nhập thế vừa có khả năng xuất thế, lại vừa là
Đạo của một nước không thù địch với Việt tộc, nên
đạo Phật rất được tôn trọng. Đạo Phật dung hợp với
đạo Lão trong thế nhân dân, rồi nhân đó làm men cho cuộc
giải phóng dân tộc. Đạo Phật và đạo Lão dung hợp với
đạo Nho để trị quốc suốt thời Việt tộc Tự chủ Ngô,
Đinh, Lê, Cuối thời Tiền Lê đạo Phật một lần bị chính
quyền ngược đãi. Khi mà chính quyền ngược đãi lại chính
là lúc đạo Phật được dân yêu và tin sùng nhất. Do đấy
đạo Phật cực phát trong nhân dân để nung khởi thành một
nhà Lý Phật giáo thịnh trị. Cuối nhà Lý đạo Phật bị
một thời đổ dốc đến độ tan loãng; do cách sống bừa
bãi của số tăng sĩ “trốn việc công đi ở chùa”. Đạo
Phật là linh hồn của nhà Lý. Nhưng đạo Phật đã không
giữ nổi phong thái của kẻ lãnh đạo thì tất nhà Lý phải
mất. Tuy nhiên, đến nhà Trần đạo Phật vẫn giữ đúng
vị trí của mình là dung hợp giữa đạo Lão xuất thế và
đạo Nho nhập thế, để duy trì nền văn minh Tam giáo đồng
nguyên: Người dân Việt sống với riêng mình thì tự do tự
tại an nhiên theo đạo Lão. Sống với xã hội thì xử thế
theo đạo Nho. Sống với vũ trụ vạn vật thì hành động
theo đạo Phật.
Lối sống
Phật, Lão, Nho đã nhập vàửo cốt tủy người Việt, cho
đến độ người dân không cần biết tới cả thức thuyết
của các đạo này, không cần phải biết thế nào là Phật,
thế nào là Lão, thế nào là Nho nữa. Cho tới khi Ky Tô giáo
từ Âõu Châu truyền sang, thì người nào theo Ky Tô giáo được
gọi là Đi Giáo, còn lại bao nhiêu là người Đi Lương. Hai
chữ Lương, Giáo đã là biểu hiện của một sự sung đột
trầm trọng trên lĩnh vực tư tưởng, trong thực tế chính
trị, cho tới nay máu của hai bên đã chảy ra khá nhiều rồi.
Lương Giáo ở đây lại còn là đại diện cho hai nền văn
minh Á, Âu nữa. Lương thuộc thành phần bị trị. Giáo thuộc
thành phần thống trị. Bao giờ Lương, Giáo dung hợp nổi
với nhau, không còn chèn ép, lấn át nhau, nước Việt Nam do
đó mà có được sự an bình thịnh vượng, thế giới mới
giao hòa, nhân loại mới bước sang mùa yên vui. Nên cuộc trắc
nghiệm ở Việt Nam hiện nay tuy nhỏ nhưng có giá trị tiêu
biểu cho vận mạng nhân loại đó.
Ky Tô giáo đưa quan niệm Duy Thần vào Việt Nam giữa thời kỳ Nam, Bắc phân tranh. Nhân dân trầm trong cảnh hoan lạc, chính quyền phong kiến Miền Bắc sống trong không khí vua chúa cạnh tranh, sự tranh chấp quyền cai trị, mỗi ngày một quá quắt, nạn kiêu binh hoành hành. Nhân dân hoàn toàn kiệt lực. Các tôn giáo của dân tộc bị đóng khung quá lâu đới, không chuyển hóa kịp trước sự xâm nhập của lý tưởng Duy thần, của nền kỹ thuật thương mãi Âu châu, nên chính quyền chỉ còn biết phản ứng lại bằng sự cấm đoán. Đối với người dân, thứ gì càng bị cấm đoán mạnh bao nhiêu thì họ lại càng thích theo bấy nhiêu. Hơn nữa, tư tưởng chung của nhân loại thời ấy đều chỉ mới đến mức Duy thần, nên các nền đạo học siêu thần của tam giáo trở thành lúng túng. Trước sức phát triển của nền văn minh thương mãi, trước sự phản ứng liều lĩnh của chính trị, trước sự rối bời của tam giáo, một cuộc “tâm tình nổi loạn” bùng lên trong giới nhân văn trí thức. Đặng Trần Côn dùng tình cảm cô đơn của người Chinh phụ để phản đối chiến tranh. Nguyễn Du phác họa bộ mặt sa đọa của xã hội qua kiếp bạc mệnh của nàng Kiều, và cao chót vót là Ôn Như Hầu dùng tình cảm ẩn ức tuyệt vọng của người Cung phi để lên án chế độ phong kiến lạc hậu thối nát. Oán ghét thứ định mệnh khắt khe của ông Trời. Rồi đưa ra trước ánh sáng nhận thức thân phận bi đát tới huyễn sinh của con người, dưới sự ma sát của xã hội, trong vòng huyễn hóa của vũ trụ.
Có thể nói rằng, Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu nhằm đánh thẳng vào trung tâm nhận thức của đạo Nho mạnh nhất. Đạo Nho lấy trời làm gốc vũ trụ, lấy vua làm gốc xã hội, lấy nhân nghĩa làm mực thước sinh hoạt. Thế mà chính nhà vua đã bỏ nhân nghĩa để sống với sự thỏa mãn khoái lạc riêng tư, chôn sống biết bao nhiêu người tài sắc hằng yêu mến khát vọng mình trong cung cấm. Tính cách ích kỷ đó của một vị lãnh đạo xã hội sẽ đưa đến cảnh tan nát nhân quần. Chính Trời cũng đa đoan lắm chuyện, bày ra làm chi những cảnh trêu ngươi khốn khổ. Tạo ra loài người (?) với muôn vẻ tinh anh sắc sảo rồi đày ải người một cách bất nhân. Trời bất nhân. Vua bất nhân. Thì bảo người nhân sao được. Cội rễ của đạo Nho đã bị thối rồi:
“Trên chính
bệ có hay chăng nhẽ
Khách quần
thoa mà để lạnh lùng
Thù nhau
chi hỡi đông phong
Góc vườn
dãi nắng cầm bông hoa đào
Tay tạo
hóa cớ sao mà độc
Buộc người
vào kim ốc mà chơi
Chống tay
ngồi ngẫm sự đời
Muốn kêu
một tiếng cho dài kẻo căm”.
Nàng Cung
phi muốn kêu một tiếng cho dài, Ôn Như Hầu muốn kêu một
tiếng cho dài, tất cả những người thức giác muốn kêu
một tiếng cho dài kẻo căm. Nhưng có nghĩa gì đâu, xã
hội vẫn chen nhau trong vòng danh lợi. Vũ trụ vẫn mặc nhiên
huyễn hóa:
“Mùi phú
quí nhủ làng xa mã
Bả vinh
hoa lừa gã công khanh
Giấc nam
kha khéo bất bình
Bừng hai
con mắt thầy mình tay không
Sân đào
lý đâm bông man mác
Nền đỉnh
chung nguyệt gác mơ màng
Cánh buồng bể hoạn mênh mang
Cái phong ba khéo cợt phưởng lợi danh”
Nàng Cung
phi, Ôn Như Hầu và người thức giác đều cùng nhận thấy
cuộc đời là một bể hoạn mênh mang, nên cũng định pháp
tâm tu theo đạo Phật, để thoát khỏi phiền lụy, khổ đau
cay đắng:
“Mùi tục
tụy đường kia cay đắng
Vui chi mà
đeo đẳng trần duyên
Cái gương
nhân sự chiều chiều
Liệu thân
này với cơ thiền phải nao
Thà mượn
thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất
tình quyết dứt cho xong
Đa mang chi
nữa đèo bồng
Vui gì thế
sự mà mong nhân tình”
Nhưng tu là
phải có căn cơ, tu thì phải có duyên tu, chán đời không
thôi chưa thể tu nổi Nên sự tu xuất gia không thể áp dụng
phổ biến cho mọi người được. Thế thì giải quyết sao
cho những người chưa thể tu nổi đây? Mà chưa tu thì vẫn
nằm trong vòng tục lụy đắng cay, vẫn nằm trong vòng nhân
duyên của tình ái:
“Kìa điều
thú là loài vạn vật
Dẫu vô
tri cũng biết đèo bồng
Có âm dương,
có vợ chồng
Dẫu từ
thiên địa cũng vòng phu thê
Đường
tác hợp trời kia giong ruổi
Lọt làm
sao cho khỏi nhân tình
Thôi thôi
ngoảnh mặt làm thinh
Thử xem
con tạo gieo mình tới đâu”
Nàng Cung
phi, Ôn Như Hầu và người trí thức còn nặng nợ trần duyên
đã từ chối lối tu cửa Thiền, phó mặc phận mình cho lẽ
tự nhiên, để sau một cuộc thăng trầm, thẳng tới độ
cao sang chót vót là được ở trong cảnh hoàng cung diễm lệ,
và trầm tới độ bị chôn sống trong tiêu phòng cô đơn:
“Hạt mưa
đã lọt miền đài các
Những mừng
thầm cá nước duyên mây
Càng lâu
càng lắm mùi hay
Cho cam công
kẻ nhúng tay thùng chàm
Ai ngờ bỗng
một năm một nhạt
Nguồn cơn
kia chẳng tát mà vơi
Thôi đi,
đâu biết cơ trời
Bỗng không
mà hóa ra người vị vong”.
Lúc trầm
mới chính là lúc có nhiều thì giờ, có đủ điều kiện
để cho con người suy nghĩ về thân phận mình nhất. Nàng
Cung phi, Ôn Như Hầu và người trí thức, tiếc rằng sao mình
chẳng biết sớm sống theo Lão Trang để được hưởng cảnh
mộc mạc tự nhiên, đỡ nhiều phiền toái, đỡ bị nôn mửa
trước cảnh đời nhầy nhụa xa hoa:
“Miếng
cao lương phong lưu nhưng lợm
Mùi hoắc
lê thanh đạm mà ngon
Cùng nhau
một giấc hoàng môn
Lau nhau ríu
rít cò con cũng tình
Mình có
biết phận mình ra thế
Giải kết
điều óe ọe làm chi
Thà rằng
cục mịch nhà quê
Dẫu lòng
nũng nịu nguyện kia hoa này”.
Thế nhưng
tất cả đều đã muộn, người tài sắc dễ gì hủy nổi
tài sắc của mình, người trí thức làm sao khạc nhổ nổi
thông minh của mình. Đã mang danh tài sắc thì mình muốn yên,
người để yên cho đâu? Trời để yên cho đâu? Những
gì đã xuất hiện đều là hiện tượng tự nhiên mất rồi.
Dù hiện tượng ấy là hiện tượng tài sắc hay hiện tượng
trí thức cũng vậy. Hơn nữa nếu có từ chối nổi cuộc
sống diêm dúa ý thức, thì liệu có thoát khỏi sự ma sát
tàn bạo của tự nhiên hay không?
“Quyền
họa phúc trời tranh mất cả
Chút tiện
nghi chẳng trả phần ai
Cái quay
búng sẵn trên trời
Mờ mờ
nhân ảnh như người đi đêm
Hình mộc
thạch vàng kim ố cổ
Sắc cầm
ngư ủ rũ ê phong
Tiêu điều
nhân sự đã xong
Sơn hà cũng
huyễn côn trùng cũng hư”.
Tất cả
vạn hữu đều là hư huyễn, đều nằm trong một “định
mện hư huyễn”, định mệnh đó theo nàng Cung phi, theo Ôn
Như Hầu, theo người thức giác không phải do nơi tay, nơi
ý thức sáng suốt của một thượng đế quyền năng mà lại
do nơi tay một chú bé dở hơi trái tính ngược nết:
“Trẻ tạo
hóa đành hanh quá ngán
Chết đuối
người trên cạn mà chơi
Lò cừ nung
nấu sự đời
Bức tranh
vân cẩu vẽ người tang thương
Đền vũ
tạ nhện giăng cửa mốc
Thú ca lâu
dế khóc canh dài
Đất bằng
bỗng rấp chông gai
Ai đem nhân
ảnh nhuốm mùi tà dương”.
Bế tắc
khắp mặt. Thế sự không còn một ngõ thoát cỏn con nào cho
tâm tư và thân phận con người nữa. Cuộc sống và cuộc
đời đã hiện ra trước mắt nàng Cung phi, Ôn Như Hầu và
người thức giác như một giấc mộng khổ đau:
“Kìa thế
cuộc như in giấc mộng
Máy huyền
vi mở đóng khôn lường
Vẻ chi ăn
uống sự thường
Cũng còn
tiền định khá thương lọ là
Đòi những
kẻ thiên ma bách chiết
Hình thì
còn bụng chết đòi nau
Thảo nào
khi mới chôn rau
Đã mang
tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì
nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò
bãi bể nương dâu
Trắng răng
đến thủa bạc đầu
Tử, sinh,
kinh, cụ làm nau mấy lần
Cuộc thành
bại hầu cằn mái tóc
Lớp cùng
thông như đốt buống gan
Bệnh trần
đòi đoạn tâm can
Lửa cơ
đốt ruột dao hàn cắt da
Gót danh
lợi bùn pha sắc sám
Mặt phong
trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân
phù thế mà đau
Bọt trong
bể khổ bèo dầu bến mê.
Mùi tục
lụy lưỡi tê tân khổ
Đường
thế đồ gót rỗ khi khu
Sóng cồn
cửa bể nhấp nhô
Chiếc thuyền
bào ảnh lô xô mặt ghềnh”.