Những bài pháp thoại trong ba tháng an cư (9)

06/09/20153:43 SA(Xem: 14022)
Những bài pháp thoại trong ba tháng an cư (9)

blank

 

13- Ngày thứ 13 (Bài thứ 9).

- Chiều ngày 28/6/ÂL    

minh duc trieu tam anhThầy lìa bỏ gia đình lúc 29 tuổi, cùng tuổi với Thái tử Sĩ-đạt-ta xuất gia, mới đó mà nay đã 72 xuân thu rồi. Suốt hơn 40 năm tu học, hầu như là thầy ít có thì giờ để nghỉ ngơi. Lúc nào cũng công việc, công việc... Lúc nào cũng làm việc. Thầy không có sự nhàn nhã, thảnh thơi như một số tu sĩ khác. Càng tuổi lớn, công việc càng bề bộn, càng nghe trên vai nằng nặng. Tuy nhiên, thầy chưa hề có hạnh nguyện gì to tát. Một thời gian, lao động cúp cuốc rau trái để kiếm cơm. Một thời gian, làm việc nhiều lãnh vực khác nhau để tồn tại cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Một thời gian nghiên cứu, viết lách gì đó là do nhu cầu dạy học, sau thành thói quen, sở thích. Tạo dựng vườn cảnh, hội hoạ, thư pháp, thơ văn gì đó để giải trí, sau thành thói quen, sở thích. Thầy đã in trên dưới 30 đầu sách, ấy là thành quả. Chúng ta hôm nay đã có cơ sở chùa viện với quy mô cả hằng chục công trình lớn nhỏ, ấy là thành quả. Chúng ta đã có vườn rừng trên 60 ha với cây cối hoa cỏ sầm uất, xanh mát, tươi thắm bốn mùa, ấy là thành quả. Tuy nhiên, thành quả lớn lao nhất, có ý nghĩa nhất đối với thầy không phải là sách, là chùa, là vườn cảnh, là thơ văn, là thư pháp hay là rừng mà chính là Con Người. Là các thế hệ chư sư sống với thầy từ 10 đến 15, 17 năm trở lại đây, trước thì không đáng kể. Một số sư vì hoàn cảnh nên đã về đời rồi, hiện có gia đình ổn định, khá tốt; khi có dịp họ trở về thăm chùa, và tình thầy trò, huynh đệ vẫn như thuở nào. Trong số các sư lớp lớn tuổi, thì vài ba vị đã khá vững vàng, đi trụ trì chùa này chùa khác. Số còn lại hôm nay, kể cả đang học ở nước ngoài nữa cũng gần 50. Điều đáng mừng hơn nữa, là trong số chư sư ấy, thầy chưa thấy ai hư đốn, hư đốn với nghĩa bỏ quên mục đích phạm hạnh để chạy theo danh lợi phù phiếm. Nói tóm lại, là chưa biết sau này chư sư thành tựu thế nào; hay, dở, tốt, xấu, được hay không được như thế nào... nhưng nay đang cùng nhau tu học, đang cùng tập thiền như thế này, thật là hoan hỷ, đại hoan hỷ!

Vậy là những viên gạch đầu tiên thầy đã đặt để làm nền móng rồi. Thầy đã già, sẽ không còn sống được bao lăm nữa. HKST sau này như thế nào là nhờ vào thế hệ của các con, tăng, ni cũng như chúng điệu trẻ trung hôm nay. Nó tồn tại hay không tồn tại, nó phát triển hay lụi tàn đều là ở trong bàn tay, trái tim và khối óc của các con; nói rõ hơn là ở nơi tâm và trí của các con. Thầy sắp hết nhiệm vụ và bổn phận ở đây rồi. Thầy cũng đã làm việc khá nhiều rồi, đến một lúc nào đó thì cái thân cũng mỏi mệt, và cái trí chắc cũng kém minh mẫn đi.

Bây giờ thầy sẽ nói đến 5 điều kiện - là 5 yếu tố quyết định để HKST tồn tại và phát triển, các con hãy ghi nhớ:

Thứ nhất, sống hiền lành và tử tế; huynh đệ hoà hợpthương yêu nhau.

Thứ hai, một số phải có pháp học vững chắc, học thật chứ không phải học giả. Có thể có vài ba tiến sĩ thứ thiệt có bằng cấp với thiên hạ. Có vài ba người đi chuyên sâu Abhidhamma, Pāḷi, Sanskrit, Hán...

Thứ ba, phải có khả năng ngôn ngữ, nói và viết được tiếng Anh, Thái, Miến...

Thứ tư, là lực lượng nhân sự phục vụ nhiều lãnh vực khác nhau: Ngoại giao, nội vụ, tri sự, tri khách, tri viên, nghiên cứu, giáo thọ, tri luật, thư viện, trang Web., văn hoá, nghệ thuật...

Thứ năm, là phải có pháp hành.

4 điều kiện đầu thì thầy đã chuẩn bị, đã khuyến khích, đã sắp đặt cách đây hơn 10 năm về trước. Hiện đang còn thiếu sót nhiều. Và sẽ còn tiếp tục nhiều năm nữa mới có khả năng có nhân sự tương đối để phục vụ những nhu cầu đa dạng trong tương lai. Điều kiện thứ 1 và thứ 5 là quan trọng nhất. Đây chính là tình thương yêu huynh đệ, là nội lực tâm linh, là năng lực cần phải tiếp lửa thường xuyên.

3 điều kiện khác (2,3,4) rất quan trọng để tồn tại và đi qua thời đại mới, nhưng nếu khôngđiều kiện 1 và 5 thì cũng giống như xây lâu đài trên cát hoặc đưa đến lủng củng, bất hoà. Người tài giỏi cách mấy nhưng không có tu học nghiêm túc, không có pháp hành thật sự thì theo thầy, chỉ phát triển hình thức “hoa màu” với thế gian cho vui thôi. Ngược lại, có điều kiện thứ 1 và 5 mà không có 3 điều kiện kia cũng không sao cả; vẫn là một đệ tử chơn chánh của đức Phật; vẫn yêu thương nhau, vẫn tồn tại vô danh, âm thầm nhưng vững chãi giữa những biến động của cuộc đời.

Mùa An Cư năm nay, thầy muốn để trọn 3 tháng để thầy trò ta cũng tập thiền là vì vậy. Thiền địnhthiền tuệ phải là hơi thở và sự sống của chúng ta mới tồn tạian định đúng chánh pháp được.

HKST này, mai này, tuỳ thuộc vào các con đó. Và các con phải biết thương yêu nhau, phải có pháp hành trong đời sống của một tu sĩ, ấy là mệnh lệnh tối hậu giữa buổi tăng tàn, pháp mạt nầy!

- Tối ngày 28/6/ÂL

Có một số người muốn nghe về 10 bức tranh chăn trâu của Thiền tông để có thêm kiến thức về thiền học Đông độ mà thầy đã hứa hôm trước; cũng được, thầy sẽ nói bây giờ.

Nếu tranh của Đại thừa là bắt đầu chưa chăn (chưa tu), mới chăn (mới tu), chịu phép (quy, giới)... thì tranh của Thiền tông thì bắt đầu tìm trâu, thấy dấu chân trâu, thấy con trâu... Bây giờ tuần tự như thế này, hãy nghe đây.

Như lần trước đã nói, tất cả chúng sanh thường có cái tâm hoang dã, tương tự con trâu hoang dã nên ai cũng phải bắt đầu đi tìm trâu. Có người con trâu lạc chỗ bán buôn dối trá lật lường, có người lạc giữa chốn quan trường cân đai hệ luỵ, có người lạc giữa cõi thị phi điên đảo, có người lạc giữa dặm bụi mịt mù tầm cầu lợi danh phù phiếm, có người lạc giữa nghĩa tình trần ai bạc bẽo... Đủ thứ, lạc khắp mọi nơi; và chưa bao giờ biết được cái tâm mình ở đâu.

Đi tìm trâu, bức tranh thứ nhất, có nghĩa là đi tìm cái tâm của mình xem nó rong ruổi phương nào?

Tìm trâu thì phải tìm cho ra cái dấu chân trâu, phải không? Đây là bức tranh thứ 2: Dấu con trâu để lại. Lần theo dấu chân trâu là tìm được trâu. Cũng vậy, từ khi tâm ta không biết lang thang về đâu, bây giờ khi tập thiền, kéo tâm trở về với hơi thở, cũng tương tợ thấy dấu chân trâu vậy. Tâm là cái biết, lấy cái biết thường trực để nắm bắt hơi thởtìm ra dấu chân trâu, rồi thấy trâu - bức tranh thứ 3! Và thấy được con trâu rồi, có nghĩa là được trâu - bức tranh thứ 4! Khi tìm được trâu rồi thì làm thế nào nữa, gã chăn trâu làm sao? Là phải chăn trâu - bức tranh thứ 5! Chăn trâu thì phải xỏ mũi, buộc giàm cho chắc ăn, nếu không nó xổng mất. Từ đây, gã chăn trâu phải cận thận dẫn nó đi, vì nó có thể quay bên này, quay bên kia để ăn lúa mạ xanh non hai bên vệ đường. Cái xanh non mơn mởn của sắc thanh hương vị xúc đó! Đây là giai đoạn trì giới, ngăn giữ những hành vi xấu ác bản năng có từ thân khẩu. Cũng tương tự vậy, khi tập thiền, bắt được hơi thở rồi thì phải thường xuyên chăn giữ, nó sẽ nhảy bậy không biết lúc nào! Chỗ này Thiền tông nói là đôi khi con trâu phải bị đập đánh, canh chừng luôn khi với quyết tâm dõng mãnh để điều phục nó.

Giữ giới một thời gian thì nó yên, nó không quấy quá nữa. Con trâu đã một bề ngoan ngoãn rồi, đi theochăn trâu như bóng không lìa hình. Nắm bắt hơi thở cũng yên rồi, chính là giai đoạn tứ đã thuần thục. Tứ đối trị với nghi, với phân vân, lưỡng lự, do dự, bất quyết... nên thân, tâm đều đã ổn định, con trâu đã chịu phép, đã thuận thảo đi theo người chăn rồi. Bây giờ gã chăn trâu bắt đầu cỡi trâu về nhà; và cỡi trâu về nhà là bức tranh thứ 6 của Thiền tông: Hình ảnhmục đồng ngồi vắt vẻo thổi sáo trên lưng trâu. Và Thiền tông bảo cỡi trâu về nhà là đem tâm về chỗ ban sơ nên gã mục đồng có vẻ vui vẻ lắm, khi thì thổi sáo, khi thì ca hát líu lo...

Cũng vậy, nhưng theo cách nói của Theravāda thì về nhà là theo lộ trình thiền định: Tứ thuần thục thì phỉ phát sanh. 5 cái phỉ hay hỷ mà có rồi thì nóng nảy, khó chịu, bực bộinguyên nhân phát sanh sân - sẽ yên lặng. Hỷ có mặt thì sân không có mặt. Và hỷ chính là vui vẻ , vui sướng nhưng không thổi sáo, không ca hót líu lo như Thiền tông; mà hành giảdễ chịu, thích thú nhưng không dính mắc nó, hãy để cho nó tự ra đi.

Sau giai đoạn cỡi trâu về nhàquên trâu còn người, bức tranh thứ 7. Ý Thiền tông nói đây là giai đoạn thấy tâm không thật cho nên nói quên trâu”; tiếp theo đó, bức tranh thứ 8, thấy người không thật nên người cũng quên luôn:Trâu, người cùng quên!”. Tuy nhiên, theo tôi, đây vẫn là lộ trình thiền định. Khi hỷ đã thuần thục rồi thì lạc phát sanh, thấm đẫm trong nội tâm sự an bình vững chắc, tâm không còn buông lung phóng dật, chạy nhảy leo chuyền, vọng tưởng chuyện quá khứ, vị lai nữa. Sau lạc cận hành định, rồi an chỉ định, yên lặng các dục. Đây mới là “trâu, người cùng quên!” Lúc ấy chỉ còn là dòng chảy bhavaṇga, như một giấc ngủ ngon 2, 3 tiếng hoặc cả đêm mà không mộng mị!

Bức tranh thứ 9 là Trở về nguồn cội”, ý nói là tâm đã trở về cõi ban sơ, với trăng nước, cây cối, hoa lá, muôn chim, muôn bướm tự nhiên như nhiên giữa thế giới con người cùng vạn vật. Theo tôi, đây lại là giai đoạn bước sang tuệ giác. Và đây là tuệ minh sát, tuệ như chơn như thực trong thế giới duyên sanh đang là. Cũng trăng, cũng nước, cũng cây cối, hoa lá, muôn chim, muôn bướm, tự nhiên như nhiên giữa thế giới con người cùng vạn hữu. Nó bước qua tư duy lý tính, biện biệt, phân tích nhĩ ngã. Nó nhìn mọi sự mọi vật với tuệ trong sáng, khách quan, không đan xen quan niệm, quan điểm, sở tri cùng nhận thức chủ quan, cục bộ. Bản giác đã trở về với tánh giác, tánh giác đã trở về với bản giác cội nguồn. Nói sao cũng được.

Bức tranh thứ 10 là hình ảnh một nhà sư đi vào chợ trộn lẫn với thế tục với một đứa trẻ treo con cá sau vai – nên gọi là Thõng tay vào chợ”, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đây là hình ảnh, theo cái nhìn của Phật giáo Theravāda thì nó rất phản cảm”. Vì theo Nam tạng, các vị sư xuống đời hoằng pháp độ sinh, như đức Phật và chư thánh phàm tăng từ quá khứ, hiện tại hay vị lai, họ không dám vào chợ một cách trần trụi, trộn lẫn với đời như thế được. Họ thường có giới, có định, có tuệ trên mọi lộ trình du hoá...

Thầy kể chuyện 10 bức tranh ấy cho các con nghe để tăng kiến thức Thiền học Đông độ, nhưng tuyệt đối đừng có “hành trạng” theo nó, nguy hiểm lắm. Như họ nói: “Mang bầu vào chợ, chống gậy về  nhà, hàng rượu hàng cá, dạy cho thành Phật hết!” Biết bao nhiêu tu sĩ thời bộ Thiền Luận vừa ra đời, đã bắt chước “thõng tay vào chợ”, vào chợ buông tay như thế mà sinh ra nhiều loại thiền sư rất bụi bặm, rất không giống ai!

Hôm nay thầy nói chuyện hơi dài những thời lượng thiền vẫn không thay đổi. Bây giờ ngồi thở đi, xem con trâu hồi nãy giờ nó chạy đi đâu rồi, giàm nó lại, bắt nó lại!

14- Ngày thứ 14

- Ngày 29/6/ÂL

(Ngày này, buổi sáng chư vị tỳ-khưu tập trung tụng giới bổn Pāṭimokkha tại chùa Thiền Lâm. Chiều tối sám hối tại chùa, cho giới đến sa-di, sa-di-ni và giới tử học tu).

15- Ngày thứ 15, 16 (công việc đột xuất), 17 (chủ nhật, trì bình), 18, 19, 20, 21 (công việc xây dựng).

MỤC LỤC

Ghi chú riêng:
Phần tô mầu là do người phụ trách post bài thực hiện để độc giả dễ đọc.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
18/12/2015(Xem: 18629)
16/01/2016(Xem: 15362)
06/10/2016(Xem: 15324)
17/12/2016(Xem: 24906)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.