Chương Bốn: Thiền Trong Đời Thường

10/10/201012:00 SA(Xem: 31084)
Chương Bốn: Thiền Trong Đời Thường

THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông 2003

Chương 4
THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG

I- THIỀN TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH THUẬN NGHỊCH:

Vì Thiền không xa rời sự sống, nên Thiền cũng muôn màu muôn vẻ theo sự sinh động của dòng sống luân lưu. Người sống với bản tâm chân thật biết ứng xử linh hoạt tùy hoàn cảnh tùy đối tượng, không theo một khuôn mẫu cố định nào.

Ngày xưa có hai ngôi đền Thiền, mỗi đền có một chú tiểu hầu cận. Một lần, thiền sinh ở ngôi đền phương bắc gặp thiền sinh phương nam giữa đường, bèn hỏi:

- Huynh đi đâu vậy ?
Thiền sinh phương nam đáp:
- Đôi chân nầy đưa đến đâu, tôi đi đến đó.

Thiền sinh bắc không biết nói sao, về trình lại sư phụ. Sư phụ bày : “Nếu lần sau nó nói vậy, con hãy hỏi lại : Nếu không có chân thì huynh đi đến đâu?”
Hôm sau hai chú gặp nhau, thiền sinh bắc hỏi lại câu trên, nhưng chú kia lại trả lời:
- Gió cuốn đi đâu, tôi đi đến đó.
Thiền sinh bắc lại bí, về cầu cứu sư phụ, được chỉ dạy : “Con hỏi lại: nếu không có gió, huynh đi đâu?”
Không ngờ lần gặp sau, thiền sinh nam lại đáp một cách đơn giản:
- Tôi đi chợ.(11)

Câu chuyện trên cho thấy rõ sự khác biệt giữa hai người. Thiền sinh phương nam sống với tâm Thiền nên ứng xử một cách linh hoạthồn nhiên. Thiền sinh bắc thì sắp dặt trước với sự hỗ trợ của thầy, nhưng vì không có vốn thật của mình, nên không thể đối phó kịp thời. Như thế, vốn sống thật sự là do tâm mỗi người lưu xuất, không nhờ sự giúp đỡ tiếp sức của một ai, và hiện thực thế nào thì ứng cơ tiếp vật thế ấy.

1- Trong đau khổ–nghịch cảnh:

Theo quan niệm của người xưa, có ba mức độ ở ẩn: Tiểu ẩn là tu hành trong tu viện; Trung ẩn là sống đời tục gia cư sĩ; Đại ẩn là làm quan trong triều. Môi trường tự viện ít náo động, tăng ni sống theo tinh thần lục hòa cộng trụ; ấy là ngôi nhà chung êm đềm ấm cúng, là môi trường tốt cho sự tu tập. Nhưng hoàn cảnh quá thuận tiện nên người tu ít được thử thách, ít được rèn giũa nghị lực và ít có điều kiện phát huy khả năng đối phó với ngoại trần; cho nên gọi là Tiểu ẩn. Đời sống gia đình nhiều ràng buộc hệ lụy, phải lo toan nhiều bề cho cuộc sống bản thânquyến thuộc, phải lo toan nhiều bề cho cuộc sống bản thânquyến thuộc. Phải làm tròn nghĩa vụ với xã hội và đất nước. Nếu người tu được trong hoàn cảnh này là có đạo lực khá, tu có kết quả lại càng khá hơn, vì thế là Trung ẩn. Đặc biệt nhất là trường hợp người giữ chức vụ cao trong triều đình, trong chính phủ. Quyền lực càng lớn, trách nhiệm càng nặng nề, một quyết định ban ra làm ảnh hưởng biết bao người. Công việc dồn dập và căng thẳng mà có thể tu được thì vị ấy quá siêu xuất, tu hành mà ngộ lại càng kỳ tuyệt, nên gọi là Đại ẩn.

Những người luyện khinh công, đầu tiên đào một hố sâu dưới đất, đổ đất vào ống quần và buộc túm lại cho người nặng thêm, tập nhảy từ hố lên mặt đất. Lần lần hố đào sâu hơn, đổ cát nặng hơn. Khi tập thuần thục, trở lại trang phục bình thường, người ấy có thể nhảy rất cao. Đây là cách luyện võ trong nghịch duyên. Người tu chúng ta cũng thế, đôi khi hoàn cảnh khó khăn giúp ta tiến nhanh trên đường đạo, vì đây là cơ hội để ta phát huy trí sáng tạo, khả năng ứng phó, và cũng là thước đo định lực của mình. Nhà Thiền quan niệm, tu không phải trốn chạy nghịch cảnh mà là dũng cảm đương đầu với mọi tình huống; là trong mọi cảnh ngộ đều biểu hiện sức tự chủ kham nhẫn; là thể hiện sự tự do tự tại trước những ràng buộc của tiền trần. Trong đời, nhiều lúc bình thường ta thấy tâm thanh tịnh an lạc, ta nghĩ mình tu có kết quả. Nhưng khi gặp việc không hay xảy đến, những kiết sử lâu nay ngủ ngầm bỗng sống dậy, phát tác; vỡ lẽ ra rằng, ta vẫn còn tâm thị phi nhân ngã, vẫn còn nguyên là phàm phu với mọi nỗi phiền não khổ đau. Cho nên, chúng ta cần duy trì sức cảnh giác liên tục, phát hiện ngay những vọng niệm từ lúc mới manh nha. Câu chuyện sau đây đáng để chúng ta suy gẫm : Có một chàng thanh niên nghèo khổ, cha mẹ không còn, vợ con không có. Nghe nhà vua ban chiếu chống giặc ngoại xâm, chàng hăng hái gia nhập quân ngũ. Nhờ chiến đấu dũng cảm, chàng lập nhiều công trận, được vua phong làm quan. Một thời gian sau lại có giặc, chàng phụng mệnh vua lãnh quân đi dẹp, nhưng đánh trận nào thua trận ấy. Nhà vua tức giận, triệu chàng về hỏi nguyên do. Chàng thật thà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ, ngày xưa hạ thần là kẻ vô gia cư vô nghề nghiệp, không có gì để mất, nên không sợ chết; do vậy vào chỗ quân địch như chỗ không người. Ngày nay được bệ hạ ban cho phẩm lộc, hạ thần thấy mình là quan trọng, đâm ra sợ chết, vì thế không còn tinh thần chiến đấu nữa”.

Bài pháp đầu tiên Đức Phật dạy tại Lộc UyểnTứ Diệu Đế, trong đó Khổ đế được đặt lên hàng đầu. Trong Phạn ngữ, Dukkha ngoài nghĩa Khổ còn có nghĩa là Bất toàn, bất như ý, Vô thường ... Tựu trung, con người có tám điều khổ chính: Sanh-Già-Bệnh-Chết-Cầu mong không thành tựu-Thương mà phải xa lìa-Ghét mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng. Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều lời thơ rất hay diễn tả nỗi khổ của kiếp người. Ngay từ phút đầu làm quen với cuộc sống, có phải em bé đã biết khổ nên mới cất tiếng khóc chào đời, như Nguyễn Công Trứ đã tự hỏi:

Thoạt sinh ra thì đà khóc choé
Trần có vui sao chẳng cười khì ?

Khi lớn lên, trải qua nhiều phen thăng trầm vinh nhục, con người thấy rõ việc đời mình có khác gì việc của trăng :

Tuy là soi khắp mọi nơi
Khi mờ khi tỏ, khi vơi khi đầy.
(Nguyễn Đình Chiểu)

vất vả đua tranh với đời suốt kiếp, cuối cùng sẽ còn lại những gì ngoài những nếp nhăn trên trán và hố thẳm trong tâm hồn ?

Nếu chỉ dừng lại nơi phạm vi ý thức về sự khổ, chúng ta có cái nhìn bi quan yếm thế về cuộc đời. Đạo Phật với tinh thần tích cựctôn trọng sự thật, nhận chân về cái khổ nhưng còn đi xa hơn, biết rõ nguyên nhân của khổ, cách thoát khổ và kết quả cuối cùng của việc làm ấy. Nhìn chung, khổ là do tập khí chấp ngã quá nặng. Chấp ngã thô là Phân biệt ngã chấp, có tính chất nông cạn trên mặt ý thức; chấp ngã tế là Câu sanh ngã chấp, rất khó nhận diện và khó tẩy trừ. Tập khíthế lực hùng mạnh vô biên, làm chuyển động bánh xe luân hồi, lôi cuốn con người vào guồng máy sanh tử không cách nào thoát khỏi, nếu không biết đường tu. Chính vì chấp ngã nên ta thích khen sợ chê, thích sướng sợ khổ. Ta thương người nhưng muốn người ta thương phải là sở hữu của riêng ta; nên khi xa người, ta lại như Hàn Mặc Tử :

Làm sao giết được người trong mộng,
Để trả thù duyên kiếp bẽ bàng.
 Một thi sĩ có bốn câu thơ sau đây :
Không đau khổ lấy chi làm chất liệu
Không buồn thương sao biết chuyện con người
Không nghèo đói làm sao thi vị hoá
Không lang thang sao biết gió mưa nhiều.

Đau khổ là chất liệu của cuộc sống, vì nhờ đau khổ con người mới có kinh nghiệm trên trường đời, mới thức tỉnh tìm cách thoát khổ. Trong bốn châu nhân gian, chỉ có cõi Diêm-phù-đề là Nam-thiệm-bộ-châu, nơi chúng ta đang ở là có đủ điều kiện tu hành; trong khi Bắc-câu-lô-châu quá sung sướng, người ở đó không có cơ hội thức tỉnh. Mặc khác, nhờ những khi mưa nắng dãi dầu, ta mới hiểu rõ nỗi khổ của người nghèo khó. Nếu suốt đời chỉ sống trong nhung lụa, luôn được thành công đắc ý, làm sao ta thấm thía sự bần cùng thất chí của kẻ khác, làm sao thông cảm được tội lỗi của người? Cho nên sự từng trải đủ mùi đắng cay của cuộc sống cũng là một điều kiện phát khởi tình thương và lòng bao dung đối với đồng loại.

Nhưng có khi nào ta tự hỏi : những cảnh thuận nghịch vui buồn ấy có phải do từ bên ngoài đưa đến? Cũng cùng một cảnh giới, sao bậc đạt đạo luôn an lạcchúng ta lại thấy phiền não khổ đau? Cùng một buổi chiều trên sông, người vui cho là êm đềm thơ mộng, người buồn lại cảm thấy cô đơn trống vắng : “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thi hào Nguyễn Du đã có nhiều kinh nghiệm sống, nên diễn tả thật sâu sắc tâm trạng con người. Tất cả hoàn cảnh trên đời đều do tâm ta vẽ vời hết thảy; và nếu ta có sự an lạc nội tâm, ta có thể trực diện với mọi tình huống, giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề. Nguyễn Công Trứ khi còn hàn vi, dù trong cảnh nghèo cùng cực vẫn thi vị hoá cuộc sống của mình :

Ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch,
Người quân tử ăn chẳng cầu no.
Đêm năm canh ngon giấc ngáy pho pho,
Thời thái bình ngủ thường mở cửa.

Đến khi làm quan lại thăng trầm nhiều nỗi, có lúc tột đỉnh là Tể tướng, có khi bị giáng xuống làm lính thú, ông vẫn bình thản bảo rằng: “ Lúc làm Tể tướng ta không cho đó là vinh, thì khi làm lính sao gọi là nhục?”. Đôi lần thấm thía mùi đời, ông cũng đã cay đắng thốt lên :

Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Nhưng những lúc khủng hoảng ấy cũng qua đi, ông trở lại con người thật của mình, bằng lòng với những gì đang có, bởi vì hạnh phúc hay đau khổ cũng chỉ ở nơi mình.Cho nên:

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.(12) 
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

Một tài danh khác của nền văn học Việt Nam, Cao Bá Quát, lại không có cái nhìn về cuộc đời khoáng đạt như vậy. Ôâng nổi tiếng về văn chương thi phú, nhưng cũng nổi tiếng về tính kiêu căng, như có lần tuyên bố : “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, mình ta chiếm hai bồ; một bồ là của anh ta, bồ còn lại chia cho hết thảy thiên hạ”. Nhậm chức Giáo thọ tại huyện Quốc Oai, một nơi không phải nhỏ, ông không cam phận nghèo:

Biết nhàn ấy là nhàn,đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
Nhà trống ba gian, một thầy một cô một chó cái,
Học trò dăm đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.

Thất chí, hận đời, ông theo giặc làm loạn, và chấm dứt cuộc đời trên pháp trường, để lại cho đời những câu thơ tự trào và một bài học về phong cách sống :

Ba hồi trống dục, mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa, bỏ mẹ đời!
Biết nhàn ấy là nhàn,đợi nhàn bao giờ mới nhàn.

Chúng ta hiểu thực chất của cuộc đời là khổ, không phải để buông xuôi phó mặc dòng đời đưa đẩy, mà phải dùng trí tuệ để giải quyết mọi công việc, để chiến thắng mọi nghịch cảnh một cách hiệu quả nhất. Nhờ công phu thiền tập, biết thiểu dục tri túc nên gặp khó khổ, ta có sức định tĩnh để vượt qua; ta không mất nhiều thời giờ lo cho cái ăn cái mặc, dành tâm trí giải quyết việc lớn của đời mình. Chánh niệm trên từng biến chuyển của thân, trên từng vận hành của tâm và trên từng đổi thay của cảnh, ta thấy rõ tất cả đều như huyễn.Tất cả đều như huyễn, nghĩa là tuy huyễn mà vẫn ở trong Như tánh, do vậy ta được bình an trước mọi cảnh ngộ, dù xấu nhất, và đặc biệt trước sự tráo trở của lòng người. Ví như lúc ta giàu có, nhiều người nhờ vả kính trọng; khi ta nghèo, họ ngoảnh mặt khinh khi. Ta vẫn là ta, sao có lúc được trọng có lúc bị khinh? –Ấy là do họ khinh trọng cái nghèo giàu của ta, chứ con người thật tuyệt đối trong ta có gì dính dáng? Vả lại, trong đời người đâu phải lúc nào cũng an ổn hạnh phúc, ngay Đức Phật còn chịu nạn kim thương mã mạch, huống gì là phàm phu chúng ta. Đã mang thân năm uẩn thì phải gặp những cảnh ngộ thuận nghịch vui buồn khác nhau, vì đó là bản chất của cuộc đời. Trong Luận Bảo Vương tam muội, Đức Phật dạy Mười điều tâm niệm là cách đối phó với những hoàn cảnh khó khổ. Tu không phải là trốn chạy chính mình để tìm an ủi nơi ngoại duyên, nơi người khác- mà cũng không thể chạy trốn được. Người tu phải gan dạ trực diện với nỗi khổ trong tâm, với tình huống khó khăn bên ngoài; chánh niệm soi rọi từng ngõ ngách của tâm thức và thực trạng của hoàn cảnh, để cuối cùng chuyển hoá.

Mặt khác, hành giả tu Thiền phải trực diện với những phút giây cô đơn. Một mình đối diện với chính mình, ta mới có cơ hội thấy lại con người thật từ muôn thuở. Chúng ta thường sợ sự cô đơn trống vắng, lúc nào cũng muốn có bạn bè, người thân bên cạnh; nhất là khi có chuyện đau buồn, phải tìm người để tâm sự hoặc tìm những thú vui tạm bợ để giải khuây. Nếu gặp bạn tốt, có trí tuệ đạo đức, ta có thể khuây khỏa hay được góp ý để giải quyết vấn đề. Nhưng nếu gặp bạn không tốt, không có trí tuệ thì nỗi đau ấy lại càng nhân lên, đôi khi bị xúi dục làm điều càn quấy. Cho nên, thiền tậpchánh niệm trên những nỗi buồn niềm đau ấy, là nhận rõ bản chất không thật của chúng và thực hiện sự chuyển hoá, chứ không phải tô đậm thêm nỗi đau khổ đã có. Người tu đúng theo chánh pháp, càng ngày càng thấy bình an tươi mát, và có thể đứng vững trước mọi thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Những bậc đạt đạo, khi đã nhận ra và sống hoàn toàn với lẽ thật tuyệt đối, sẵn sàng thỏng tay vào chợ, lăn lộn trong sáu nẻo luân hồi làm lợi ích cho chúng sanh. Tâm thênh thang không hình tướng nên bụi trần không thể bám, như mưa gió bão bùng cỡ nào cũng chẳng hề dính dáng đến hư không.

2- Trong hạnh phúc-thuận cảnh:

Tuy đau khổ là bài hoïc cần thiết cho con người, nhưng không ai không muốn mình hạnh phúc. Mỗi người quan niệm về hạnh phúc theo suy nghĩ tưởng tượng của mình, theo hoàn cảnh mình đang sống; nhưng tựu trung, ít ai bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Người nghèo muốn giàu, người giàu muốn giàu thêm; người có thứ nầy mong được thêm thứ khác. Họ cứ phóng tâm theo một ngày mai không thực, chẳng biết ngày mai ấy liệu có đến không; mà dù có đến, họ lại tiếp tục mơ về một ngày mai khác với những điều kiện tiêu chuẩn cao hơn. Tất cả đều do lòng tham, và tham chính vì vô minh mà có.

Cũng vì vô minh, con người tự chui vào lưới ngũ dục, cho đó là hạnh phúc, là cứu cánh của đời mình, gọi đó là Thú đau thương, dù đau thương nhưng vẫn thú vị, vẫn cám dỗ không cùng. Nhiều người biết tứ đổ tường là những thứ cần lánh xatác hại rất lớn cho bản thân và cho xã hội, nhưng vẫn nhắm mắt lao vào. Đây là do tập khí thúc đẩy, khiến họ cảm thấy hạnh phúc trong những đam mê ấy. Chư Phật nhìn thấy chúng sanh lặn hụp trong ngũ dục một cách say sưa, chẳng khác nào đám côn trùng chui rúc trong phân rác, thấy rất tội nghiệp nên tận tình cứu vớt không hề mệt mỏi.

Một triết gia Tây phương nói: “Hạnh phúc là cái gì khi bạn đuổi bắt thì nó vuột khỏi tầm tay; nhưng khi bạn dừng lại thì nó cùng với bạn”. Có ý niệm truy đuổi tìm cầu tức không bằng lòng với hiện tại, như kẻ thả mồi bắt bóng, tìm đến bao giờ mới thấy hạnh phúc. Biết dừng lại tức ổn cố được tâm, không dính mắc với trần cảnh bên ngoài, biết vui với những gì mình đang có, ta sẽ thấy hạnh phúc tại hiện tiền. Có lần, Đức Phật đã khuyên những người dân Kalamas: “Hãy dùng trí tuệ như tấm gương soi lại chính mình, xem còn tham lam sân hận không. Khi tham lam sân hận không còn trong tâm ta thì niềm hạnh phúc an lạc hiện bày”. Ta hiểu rằng đau khổ là do mình tự tạo, nên không huân tập những hạt giống tham lam sân hận là những yếu tố phá hoại hạnh phúc. Thiền sinh chúng ta có quyền hoạch định tương lai, vạch chương trình cho cuộc sống, nhưng làm sao không để tham sân chi phối, không đánh mất thực tại sinh động, đó là cái khéo của mỗi người. Có chủ trương tu là không nghĩ đến tương lai, không màng đến mọi chuyện bên ngoài. Chủ trương ấy e là tiêu cực không tưởng. Thiền sinh cần nhịp nhàng theo dòng sống đang vận hành, cần phù hợp với đà tiến hoá của xã hội; quan trọng là ở chỗ biết phản quan tự kỷ, chánh niệm tỉnh giácan trú nơi đương xứ. Khi đạt đến mục đích mà không mục đích, ấy mới là sự minh triết đời đời, là bình an vĩnh cửu, là hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc ấy không đến từ bên ngoài, không phụ thuộc vật chất, không có tính cách nhất thời, mà do từ nội tâm an định, có tính vĩnh cửusiêu việt thọ tưởng. Thọ là cảm giác, Tưởng là hy vọng tưởng tượng. Chỉ trong trạng thái thiền định ta mới vượt thoát mọi cảm thọ đối đãiquan niệm hình dung, và hạnh phúc vĩnh cửu ấy là cảnh giới của riêng hành giả tự thầm nhận biết.

Lão Tử nói : “Vinh nhục phải đều sợ”. Khi vinh hiển, được nhiều người xưng tụng, nếu ta thấy đó là hạnh phúc thì lỡ khi bị sỉ nhục, ta sẽ đau khổ vô cùng. Chúng tacông phu, quán chiếu thân tâm cảnh đều không thật, sự vinh nhục cũng như những chiếc áo khoác bên ngoài, thì bất cứ lời khen chê nào, bất cứ tình huống nào ta đều phải tỉnh giác. Không kiêu mạn khi được tôn vinh, không buồn đau khi bị hạ nhục; một bề ta sống với bản tâm thênh thang thanh tịnh, từng bước thảnh thơi trước mọi biến đổi thuận nghịch của dòng đời.

Chúng ta đang từng bước điều phục con trâu tâm, nên dễ choáng ngợïp trước những niềm vui sướng bất ngờ. Ví như một người thân tưởng đã mất bây giờ gặp lại; được thăng chức tăng lương trước thời hạn; con cái báo tin vui đã đỗ đạt thành danh hay vừa hạ sanh quý tử; hoặc hôm nào đó đẹp trời, Thần tài gõ cửa mang cho ta một phần thưởng độc đắc nằm mơ cũng chưa thấy... Nhưng rồi, sự vui sướng ấy cũng qua mau khi xung quanh ta còn nhiều bộn bề chưa giải quyết; hoặc bất hạnh hơn, chính cái hạnh phúc trước đó lại đưa đến cho ta những hệ luỵ khó lường, cũng như tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. Chúng ta đã thấy nhiều trường hợp được của bất ngờ, đâm ra tiêu xài phung phí, hoặc tranh chấp tiền bạc gây cãi vã, thậm chí sát hại nhau. Có người được đề bạt lên một chức vị cao, có quyền thế sanh ra hủ hoá, phạm tộicuối cùng thân bại danh liệt. Cho nên, không có đạo đức dẫn đường, bất cứ cám dỗ nào của ngũ dục cũng làm con người sa ngã; và người biếùt tu càng phải cảnh giác trước những viên đạn bọc đường ấy.

II- SỐNG THIỀN:

Theo tinh thần nhập thế của đạo Phật, hành giả tu Thiền cần hòa nhập vào hơi thở của cuộc sống. Vừa làm tròn những trách nhiệm đối với thế gian, vừa khéo sống với “con người thật” của chính mình, ấy gọi là Sống Thiền.

Chúng ta sẽ xét đến những trách nhiệm đối với bản thân, với người khác, và cả với môi trường sinh thái, mà một thiền sinh chân chánh phải biết xác định và đảm đương.

 1- Trách nhiệm đối với bản thân:

Phương pháp công phu và những điều kiện làm nên phong cách của một hành giả tu Thiền, chúng ta đã khảo sát trong chương Con đường Thiền tập. Ở đây, chúng ta bàn đến vài vấn đề cần thiết để hoàn thiện đời sống của thiền sinh, làm sao để vừa phù hợp với trào lưu tiến hoá của xã hội, vừa không đánh mất bản sắc riêng của mình.

Trước tiên, chúng ta phải tự xác định cho mình một lý tưởng. Người có lý tưởng mới sống hết mình với cuộc đờitính cách riêng vẫn lung linh tỏa sáng, nói theo từ hiện đại là hòa nhập mà không hoà tan. Hermann cho rằng: “Giá trị mỗi người tùy thuộc vào lý tưởng của người ấy cao hay thấp”. Có người mang hoài bão học hành đỗ đạt, thành người có ích cho xã hội; người có nguyện ước phụng vụ, trọn đời hy sinh cho những người nghèo khổ hay nạn nhân chiến tranh; người mang lý tưởng cách mạng nhân sinh, tạo dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng. Khi đã có lý tưởng, phải trung thành với lý tưởng ấy đến cùng, vì nếu thối lui là ta đã bội bạc chính mình. Thiền sinh chúng ta chọn lý tưởng cao siêu, theo chân Phật-Tổ trên đường Giác ngộ-Giải thoát, vì ta biết ngũ dục lạc thế gian không phải là nơi nương tựa đời đời. Sự hưởng thụ dục lạc không bao giờ thực có thỏa mãn, như người uống nước muối, càng uống càng khát. Chúng thật tạm bợ mong manh như lửa đom đóm, chỉ có ánh sáng mãnh liệt và vĩnh viễn là tánh giác sẵn đủ mới là nơi hướng đến của đời mình.

Tuy nhiên, không đắm luyến ngũ dục không có nghĩa là lãnh đạm với thế gian. Chúng ta vẫn có cảm xúc, nhưng xúc cảm ấy được tịnh hóa. Ta vẫn yêu thương mọi người mọi vật nhưng tình thương yêu không có tính cách chiếm hữu, mà bình đẳng và vong ngã. Đây là tiền đề của lòng từ bi, tinh thần của đạo Phật, vì nếu chủ trương dửng dưng với mọi nỗi khổ của người, thì đạo Phật đâu có ích lợi gì đối với cuộc sống. Tổ Bá Trượng có một câu nổi tiếng, sau thành chủ trương chung của nhà Thiền : “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”(Một ngày không làm, một ngày không ăn). Sự lao động chân tay vừa tạo sinh kế, vừa giúp cơ thể khoẻ mạnh, chịu đựng nắng gió hơn người có nếp sống tĩnh tại; nhưng mục đích chính là giúp thiền sinh không chìm vào trạng thái tịch mặc, xa rời cuộc sống.

Công phu thiền tập nặng về tự lực, nếu ta không tự giúp mình thì không ai có thể giúp được ta. Thầy bạn chỉ là người dẫn đường và hỗ trợ ta trong công phu, chứ không thể thay ta cất bước. Khi nào còn có một ý niệm tựa nương là ta chưa được hoàn toàn tự do tự chủ. Người thế gian thường tựa nương vào tiền bạc danh vọng, vào gia đình bạn bè; người tu tựa nương vào Thầy-Tổ, vào huynh đệ, vào cảnh giới an lạc của tâm. Nhưng hễ còn tựa nương là còn chấp ngã, có ta là chủ thể, có người và cảnh là đối tượng. Hòn bọt không còn chỗ nương vào mặt biển mới thật sự hòa nhập vào đại dương bao la. Hòn bọt năm uẩn cũng vậy, khi buông tận gốc rễ mọi chấp trước, kể cả ý nghĩ ta không nương tựa, ta mới thể nhập trọn vẹn vào pháp giới. Phải buông tay cho chết một lần, từ đó mới có cuộc tái sinh.

Khi tụng kinh Kim Cang, Ngài Phó Đại sĩ cảm tác một bài kệ :

Tảo trừ tâm ý địa
Danh vi Tịnh độ nhân
Vô lượng phước dữ trí
Tiên khả ly tham sân.
Trang nghiêm tuyệt năng sở
Vô ngã diệc vô nhân
Đoạn thường câu bất nhiễm
Vĩnh thoát xuất phiêu trần.

Nghĩa :

Quét sạch đất tâm ý
Gọi là Tịnh độ nhân
Chẳng kể phước cùng trí
Trước hãy lìa tham sân.
Trang nghiêm bặt năng sở
Không ngã cũng không nhân
Đoạn thường đều chẳng nhiễm
Vĩnh thoát chốn dương trần.

Chánh nhân của cảnh giới thanh tịnh an lạc ở ngay tâm ta, khi mọi ý niệm vọng tưởng đều bị quét sạch, nhất là ý niệm tham và sân. Trên bước đầu tu tập, chúng ta phải chiến đấu với sự quyến rũ của ngũ dục, nhất là tài và sắc, gây nên những xung đột nơi tâm khiến ta đôi khi vô cùng đau khổ. Nếu khônglý tưởng và không rõ lý nghĩa nhiệm mầu của Đạo, ta rất dễ nản chí sa ngã. Đối với người bình thường, khi lòng tham nổi lên, họ có thể bằng mọi giá thỏa mãn cho được sự đòi hỏi ấy. Người có quyền thế tiền bạc hoặc mưu trí càng có nhiều phương tiện thực hiện những tham vọng của mình. Và nếu lòng tham không được đáp ứng, kẻ có phước và trí ấy càng dễ sân hận, dễ bề mưu hại người khác. Cho nên Ngài Phó Đạo Sĩ nhấn mạnh, chẳng kể người có phước hay trí, trước tiên phải lìa tham sân mới có thể tiến bước trên đường đạo. Và khi bặt mọi ý tưởng phân biệt nhị biên, ấy là lúc vĩnh viễn thoát khỏi mối ràng buộc của phiền não sanh tử.

Theo tinh thần Phật giáo phát triển, Bồ-tát từ Sơ trụ đến Đẳng giác gồm 41 quả vị; trong khi vô minh lại gồm 42 phần. Mỗi quả vị, các Ngài phá được một phần vô minh. Chẳng hạn, Bồ-tát Sơ tín dứt kiến hoặc tức cái thấy sai lầm; Bồ-tát Thất tín dứt tư hoặc là những tư dục vi tế. Cho đến Bát-Cửu và Thập tín mới dứt trần sa hoặc tức những tập khí phiền não thô bên ngoài. Đạt địa vị Đẳng giác, các Ngài đã phá 41 phần vô minh; còn phần vô minh cuối cùng, mãi đến Diệu giác tức Phật quả mới hoàn toàn diệt sạch, mới thể nhập trọn vẹn tự tánh, thấu suốt ánh sáng Thiên Chân. Chúng ta thấy đó, việc dứt hẳn vô minh, sạch hết tập khí đâu phải chuyện sớm chiều đơn giản, cho nên phải biết tận dụng thời giantâm lực cho việc lớn của đời mình. Chúng ta không phí thời giờ vào việc hý luận huyền đàm, vào những buổi ngồi quán nước hay những nơi giải trí vô bổ. Nói thế không phải chúng ta hoàn toàn đả phá những thú vui thế gian, nhất là đối với người cư sĩ còn phải tiếp xúc ngoại giao với người ngoài. Quan trọng là ở chỗ ta biết dừng lại đúng lúc, tự làm chủ thân tâm để không bị lôi cuốn vào ngoại duyên trần cảnh. Con người rất yếu đuối, dễ chìu uốn theo bản năng, tâm trộm lại thường dối gạt, nên thiền sinh cần luôn luôn cảnh giác công phumọi nơi mọi lúc. Chính trình độ công phu thiền tập mới làm nên nhân cách của một thiền sinh. Khi chúng ta thấy rõ thân tâm cảnh đều hư dối thì không có gì đắm luyến. Khi chúng ta nhận ra và hằng sống với con người thật, con người mà không có gì não hại được, ta vượt thắng những nỗi sợ ngàn đời, kể cả sợ chết. Cuộc đời ngẫm cho cùng chỉ là quán trọ, mà chúng ta là những lữ khách một đêm. Dù quán nghèo hay khách sạn sang trọng, cũng chỉ là nơi nghỉ chân tạm thời cho kẻ lữ hành, trước khi tiếp tục con đường thiên lý. Chúng ta tu, không phải lúc nào cũng có thể tiến lên phía trước, có điều là khi vấp ngã phải biết đứng đậy bước đi. Làm thế nào trong cuộc sống phàm tục mà ta dần dần xa rời bản năng thú tính, ngày càng thẳng tiến trên con đường hướng thượng đạo đức. Điều này phụ thuộc vào công phuý chí của mỗi người.

Sách Đại học Nho giáo viết: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Đạo của Đại học ở chỗ làm sáng cái minh đức, ở chỗ thân dân và ngừng nơi chí thiện. Minh đức là đức tốt của công phu thành ý, chính tâm, tu thân và tề gia. Muốn thành ýchính tâm, đầu tiên phải Cách vật, theo nghĩa của đạo Phật là không dính mắc ngoại trần khởi niệm tham sân si; sau đó là Trí tri tức thấy biết như thật. “Tại minh minh đức” trước ở bản thân, sau đối với gia đình; đến bước thứ hai là Thân dân tức xem mình và người không khác, nên luôn làm tròn trách nhiệm đối với người. Cuối cùng là ngừng ở nơi Chí thiện, luôn thành thật với chính mình, tự tu và giáo hoá người cùng tu để tất cả thuận theo thiên lý nhân tình. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy : “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng sát hại, tu thập thiện nghiệp, là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”. Đây chính là những bước căn bản khởi đầu của người tu. Thiếu căn bản đạo đức nầy, chúng ta không thể làm người tốt trong đời, đừng nói chi người hiểu đạo của Đại học hay muốn thành Phật tác Tổ.

Chúng ta thường có hai quan niệm đối kháng nhau: Có người cho rằng mình đã nắm được yếu lý nhà Thiền, cứ theo đó mà sống, tùy duyên tiêu nghiệp cũ thì việc thể nhập tự tánh chỉ trong tầm tay. Họ nghĩ mình là bậc thượng căn thượng trí, nghe giảng lời Phật lời Tổ mỗi mỗi đều thông suốt, nên tưởng có thể “một nhảy vào liền đất Như Lai”. Họ không biết rằng đó chỉ là cái hiểu hời hợt trên mặt ý thức, có dính dáng gì với cái sống chân thật. Bởi vì “Pháp ấùy, không phải chỗ suy nghĩ biện biệt mà đến được” (Kinh Pháp Hoa), nên thiền sinh chúng ta cần nhớ rằng “Hạ thủ công phu tu Thiền rất sợ nhận thần thức làm Phật sự” (Thiền sư Thiên Cơ-Truyền Gia Bảo). Một cực đoan khác là mang mặc cảm tự ty hoặc mặc cảm phạm tội. Họ cho mình nghiệp chướng sâu dày, trần tục đầy tội lỗi, tu đến bao giờ mới gột sạch phiền não vô minh; từ đó sanh chán nản ngã lòng, hoặc sa vào dị đoan mê tín, phó thác đời mình cho thánh thần ma quỷ. Thật ra, tâm tàm quý rất cần thiết để chúng ta biết phục thiện, không tái phạm điều xấu ác. Nhưng nếu chấp chặt vào đó để dày vò não loạn thân tâm, thì lại làm trở ngại cho công phu. Chúng ta là kẻ phàm tục, không ai không có tội lỗi; ngay lúc mới sanh là đã có nghiệp đời trước, nghiệp dẫn mới thọ sanh. Bởi vì còn nghiệp, nên ta phải phấn đấu để chuyển và dừng nghiệp, không chỉ tu để cầu phước báo nhơn thiên. Chúng sanhcõi Trời vui sướng cùng tột, thọ mạng dài lâu, nhưng khi hết phước lại sa vào khổ xứ. Chỉ khi nào ra khỏi nhà Tam giới, ta mới chấm dứt nỗi khổ truyền kiếp là cái khổ sanh tử, mà Thiên Chúa giáo gọi là “Tội tổ tông truyền”.

 2- Trách nhiệm đối với gia đình

Một số thiền sinh có phước duyên, sống trong cảnh gia đình hòa thuận, biết đạo đức; và hay hơn, cùng tu theo một pháp môn. Đây là một thuận lợi lớn, không phải ai cũng gặp được. Nhờ vậy, thiền sinh cùng gia đình sách tấn nhau, chỉ bảo nhau trong công phu hành trì, nên có cơ hội tiến nhanh trên đường đạo. Tâm mỗi người được thanh tịnh an lạc, gia đình càng hạnh phúc ấm êm, từ đó tạo một ảnh hưởng tốt đẹp đến bạn bè và hàng xóm.

Nhưng phần đông gia đình lại không được thụân lợi như thế. Có người là Phật tử thuần thành mà bạn đời hoặc con cái lại không hiểu đạo. Một số thanh thiếu niên có khuynh hướng nổi loạn, ưa phản kháng tất cả những gì thuộc nề nếp gia phong. Do không định hướng cho tương lai, họ có thể bị bạn bè lôi cuốn vào những đam mê hưởng thụ. Họ cho rằng đi chùa tụng kinhlỗi thời, chỉ dành cho người già bệnh hoặc chán đời thất chí. Gặp con cái bị sa ngã như thế, bậc phụ huynh có công phu tu Thiền càng phải tế nhị khéo léo, trầm tĩnh giải quyết dần từng giai đoạn. Trước tiên, chúng ta không bao giờ bắt buộc người thân phải tu theo mình- điều có thể gặp ở một số thiền sinhtư tưởng gia trưởng phong kiến. Sự tu hành phải là tự nguyện, đôi khi bắt buộc thúc ép lại gây phản ứng nghịch, người thân chúng ta đâm ra ghét chùa sợ pháp, vô tình tạo tội phỉ báng Tam bảo. Chúng ta cũng không nên nghĩ mình có bổn phận “độ” cho người thân, phải bằng mọi cách chuyển hoá lôi kéo họ; mà nên nghĩ rằng, mình tu hành còn kém cỏi, chưa đủ đạo lực để ngườiø thân tin theo. Chúng ta nên tinh cần giữ gìn cấm giới, chăm sóc yêu thương gia đình hơn, ngọt ngào dịu dàng hơn để người thân cảm nhận rằng, sự tu hành làm chúng ta được an lạc và biết thương yêu. Bằng thân giáo, chúng ta chứng minh cho gia đình mình thấy rõ ý nghĩa đời tu rất cao siêu, chứ không phải tầm thường như họ đã tưởng. Việc ứng xử trong gia đình, việc giáo dục con em thâït ra rất khó khăn, nhất là khi ta muốn hướng người thân theo chánh đạo; nhưng gia đình cũng chính là một trường học, người thân là những vị thầy dạy ta tính kham nhẫn, chịu đựng và giúp ta rèn luyện, thử thách định lực của mình.

Một vấn đề khác, nhiều thiền sinh nghĩ rằng phải ăn chay trường mới có thể tu Thiền; có khi bắt buộc gia đình phải ăn chay theo mình, hoặc không muốn sửa soạn bữa ăn hàng ngày nữa. Điều nầy dễ làm mất hạnh phúc gia đình khiến người thân của chúng ta sanh tâm ác cảm đối với Đạo. Thật ra, ăn chayphương tiện tránh sát sanh, trưởng dưỡng lòng từ bi đối với loài vật. Ăn chay cũng đơn giản và ít tốn kém, lại phù hợp với hệ tiêu hoá của con người, với hàm lượng chất bổ dưỡng không thua gì cá thịt. Tuy nhiên, ăn chay không phải là điều kiện bắt buộc của thiền sinh. Ngày xưa, Đức Phật và các Thánh đệ tử vẫn dùng ngũ tịnh nhục; hiện nay, các vị tu sĩ Nam tông vẫn không đặt vấn đề ăn chay là thiết yếu, vì khi khất thực, ai cúng dường thế nào các Ngài cũng đều hoan hỉ nạp thọ. Cho nên, nếu khôngđiều kiện trường trai, chúng ta có thể ăn chay kỳ 2,4,6 hoặc 10 ngày mỗi tháng. Có điều là khi trong nhà có tổ chức kỵ giỗ, tiệc mừng..., nếu không thể nấu món chay thì chỉ nên mua thịt cá làm sẵn, mang về chế biến. Chúng ta nên tránh mua các con vật còn sống, tự giết hay nhờ người khác giết, lại nấu nướng đủ món rồi dâng cúng ông bà tổ tiên. Những người sống thỏa mãn vị giác trong nhất thời mà làm người đã khuất phải mang nghiệp bất thiện, ấy là không hợp đạo lý.

Về nghề nghiệp, thiền sinh chúng ta nên chọn những nghề lương thiện và không hại người hại vật; nhất là nghề mua bán chất độc hại, đồ tể hay mua rẻ bán đắt, thì nên tránh. Nếu từ trước, gia đình đã lỡ theo nghề ấy, chúng ta cần tìm cách chuyển đổi dần dần, sao cho không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và phải có sự đồng tình của mọi người. Thật sự, cuộc sống lứa đôi có vô vàn vấn đề phức tạp, mỗi gia đình lại là một thế giới khác nhau. Tuy nhiên, nguyên tắc chung là chúng ta cần hài hòa, trầm tĩnh và khéo léo sao cho người thân của chúng ta hoan hỉ tự nguyện sống đạo đức, dù họ có theo pháp tu của mình hay không. Chúng ta hãy tự chuyển hoá mình trước; khi ta tu có kết quả, thể hiện bên ngoài bằng sự an lạc thanh lương, tự nhiên những người xung quanh sẽ dần dần tin tưởng tu theo. Một gia đình thiện hiền lại sẽ ảnh hưởng tốt đến các gia đình lân cận, không sớm thì muộn. Đây là sự liên hệ hỗ tương, như cổ đức đã nói :

Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương.
Tạm dịch:
Một người tạo phước ngàn người hưởng
Một cây hoa nở vạn cây thơm.

Một số thiền sinh thắc mắc : Chúng ta tinh cần công phu, giữ gìn cấm giới, thúc liễm thân tâm miên mật; thế tại sao nhiều lần chúng ta vẫn gặp chuyện không may, vẫn bị người nói xấu làm hại, vẫn bị mất mát buồn đau trong gia đình? Trong những trường hợp ấy, thái độ của chúng ta phải thế nào mới đúng?

Đây là những vấn đề rất thiết thực và gần gũi với tất cả mọi người, kể cả người xuất gia. Nếu chúng ta không có chánh kiến chánh tín, sẽ rất dễ chao đảomất lòng tin nơi chánh pháp; và nếu khôngtrình độ thiền tập, ta khó lòng giữ vững tinh thần để vượt qua những trận cuồng phong thử thách nầy. Gọi là “thử thách”, không phải có một đấng quyền năng nào đặt bày những điều xui rủi xem ta tu hành đến đâu; cũng không phải vô duyên vô cớ mà người khác tính chuyện làm hại ta, xem ta đối phó thế nào. Hiểu và tin sâu nhân quả, ta biết rằng mọi chuyện trên đời, không có gì không do nhân duyênthành tựu. Nhân quả lại trải dài qua ba thời quá khứ - hiện tại - vị lai. Cho nên, những oan trái đời trước đã kết thành quả đời nầy khiến chúng ta nhận lãnh, mà nếu không biết tu hành tạo phước, có thể nghiệp quả ấy càng nặng nề hơn nhiều. Biết vậy, chúng ta đón nhận chúng với thái đôï kham nhẫn và định tĩnh, sáng suốt giải quyết vấn đề; đồøng thời động viên giải thích cho người thân hiểu rõ bản chất của sự việc. Trong đời học sinh, chúng ta phải trải qua biết bao kỳ thi để được lên lớp, vượt cấp, tốt nghiệp. Nơi trường đạo cũng thế, thỉnh thoảng chúng ta cũng phải “thi” mới hiểu mức độ tu học của mình. Mạnh Tử nói : “Người nào sắp lãnh một trọng trách thiêng liêng, trước tiên phải nhọc công khổ trí, đói khát, thất bại. Có như vậy, người ấy mới có cơ hội rèn luyện ý chí, sự nhẫn nại và phát huy tài năng”. Chúng ta không dám tự đảm đương một “trọng trách thiêng liêng”, nhưng vì mỗi thiền sinh phải là một cán bộ tâm linh, nên nếu không thể chan rải sự bình an phúc lạc cho nhiều người, thì ít nhất cũng phải làm cho gia đình mình được hạnh phúc. Ngày xưa, ở Trung Hoa có ba người đàn bà trinh thục đảm đang, giúp chồng dạy con tài giỏi đến đôï lập thành cơ nghiệp của nhà Châu, kéo dài 800 năm. Đó là Thái Khương, mẹ của Thái Ba, Trọng Ung, Quý Lịch; Thái Nhậm, mẹ Văn Vương và Thái Tự, mẹ Vũ Vương, Châu Công. Đến bây giờ, người Trung Hoa vẫn dùng từ Thái Thái để gọi các Lão phu nhân trong gia đình quyền quý, có thể là khởi đầu tên của ba vị ấy chăng? Những thiền sinh nữ chúng ta, khéo đảm đang việc nội trợ, giáo dục con cái thế nào cho vừa phù hợp đạo lý vừa nhịp nhàng theo thời đại, ấy mới là hành Thiền đúng tinh thần nhập thế của đạo Phật.

Một vấn đề lớn khác cũng cần đặt ra: ấy là chữ Hiếu đối với cha mẹ. Kho tàng văn chương Việt Nam từ xưa đến nay đã nói rất nhiều về hiếu đạo, xem như chuẩn mực đạo đức làm người. Đạo Phật cũng rất tôn vinh chữ Hiếu, xem tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Thiền sinh chúng ta, ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ về vật chấttinh thần, còn cần chăm lo về đời sống tâm linh cho tứ thân phụ mẫu. Nếu các Người còn khoẻ mạnh, căn cơ thích hợp, ta hướng dẫn phương pháp hành thiền theo tông chỉ. Nếu các Người đã già yếu hoặc không thích tọa thiền, ta khuyến khích việc trì danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà... Tất cả những phương tiện Phật dạy để nhiếp tâm đều là chánh pháp, sự lựa chọn pháp tu nên uyển chuyển tùy duyên. Khi cha mẹ có bệnh hoặc hấp hối, chúng ta vì các Người mà bố thí, cúng dường, chí thành sám hối những nghiệp tội đã gieo; đồng thời nhắc nhở Người tinh chuyên giữ chánh niệm hoặc niệm Phật. Chúng ta đem lời Phật dạy trong Tâm kinh Bát-Nhã, nói cho các Người thấy rõ thân năm uẩnhư dối không thật, từ đó biết những vật sở hữu cũng nay còn mai mất; để các Người không đắm luyến thân và tài sản, con cháu, có thể an nhàn ra đi.

Lúc cha mẹ còn sinh tiền, chúng ta làm tròn hiếu đạo theo tinh thần Phật giáo, thì trong tang lễ, chúng ta dứt khoát không theo sự đua đòi khuôn sáo của người thường. Không cần những nghi lễ phức tạp tốn kém, đặc biệtsát sanh để cúng tế và chiêu đãi hoặc đốt vàng mã, hình nhân ... Huynh đệ đồng tu đến phúng điếu, nếu có thời gian nên tụng kinh Kim Cang, không thì ba biến Bát-Nhã. Khi thỉnh quý thầy đến tụng niệm, tang gia phải thay phiên hầu kinh lễ bái; phẩm vật cúng dường phải thanh tịnh, tinh khiết. Nói chung, mọi lễ nghi đều chú trọng ở sự thành tâm thành ý, còn phần hình thức thì tùy hoàn cảnhthực hiện

 3-Trách nhiệm đối với huynh đệ đồng tu:

Tục ngữ Việt Nam có câu : “Học thầy không tày học bạn” hay “ Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Bạn đạo rất cần thiết cho chúng ta trên bước đường đầu tu tập, nhất là những nơi xa Thầy-Tổ. Nếu có điều kiện, huynh đệ nên cùng sinh hoạt trong một Đạo tràng, có nội quy và nội dung tu học theo yếu chỉ Thiền tông. Nếu khôngđiều kiện, vài thiền sinh có thể lập một nhóm nhỏ cùng hành trì, thỉnh thoảng về các Thiền viện trong tông môn để được quý Thầy chỉ dạy, sách tấn.

Một số thiền sinh công phu lâu năm, nghe băng giảng và nghiên cứu kinh sách khá nhiều, cho rằng mình có thể tự tu, không cần sinh hoạt chung với huynh đệ. Họ sợ rằng khi tiếp duyên xúc cảnh, khi làm việc Phật sự trong Đạo tràng, họ sẽ khó thúc liễm thân tâm, sẽ không có thời giờ lo cho riêng mình. Ý nghĩ ấy mới nghe cũng có lý, vì ngày xưa, các vị Thiền sư khi đã kiến tánh, phải cần một thời gian ở ẩn nơi rừng núi u tịch để bào mòn tập khí, thể nhập trọn vẹn tự tánh thanh tịnh. Tuy nhiên, hoàn cảnh của chúng ta ngày nay khác các Ngài nhiều lắm, nếu không khéo nhận định, chúng ta dễ mắc sai lầm. Thứ nhất, ngày xưa các Ngài ở ẩnhoàn toàn sống nơi hoang vắng, tự cung tự cấp, một mình làm bạn với chính mình; bây giờ chúng ta chỉ tránh gặp huynh đệ trong Đạo tràng nhưng vẫn bươn chải hàng ngày để lo sinh kế, như thế không thể gọi là “tránh duyên”. Thứ hai, các Ngài là những bậc pháp khí trong tông môn, có ý chí xuất trần, tâm Bồ đề kiên cố, trí tuệ siêu tuyệt, nên dù một mình một bóng cũng vẫn không có gì não hại lay chuyển được; trong khi chúng ta là những người phàm tục, dễ chán nản, dễ vấp ngã; nếu không có bạn bè kịp thời khuyến khích sửa chữa, ta khó lòng vững tiến trên đường đạo. Một yếu tố quan trọng và quyết định, là các Ngài đã thật sự kiến tánh trước khi bảo nhậm, do Tôn sư ấn chứng bằng cách này hay cách khác; chúng ta đôi khi mới hiểu đạo lý trên mặt nhận thức, mới thầm tin mình có tánh giác, đã vội tưởng lầm mình đến đỉnh cuối. Rắn hoá rồng có thể nào dễ dàng như thế được ư?

Chúng ta cũng biết, một chiếc thuyền nhỏ chở một vài người, nhẹ nhàng lướt trên sông nhanh hơn nhiều so với chiếc thuyền lớn cồng kềnh, chứa hàng trăm người. Nhưng khi đối mặt với biển cả, gặp sóng to gió dữ thì liệu lá thuyền con kia có đủ sức cập bến an toàn? Đạo tràng cũng như chiếc thuyền lớn, tuy chậm nhưng chắc chắn hơn và có thể nhiêu ích được cho nhiều người. Môi trường đồng đạo là môi trường thuận lợi để chúng ta cùng thực hành những lý thuyết đã học, là nơi ta giúp nhau rèn giũa khắc phục nhược điểm, và cũng là nơi ta có cơ hội phước huệ song tu. Đạo tràng chính là trường học lý tưởng đối với những thiền sinh hiểu rõ và làm đúng trách nhiệm của mình. Vì sao nói như thế ?

Trước tiên, sinh hoạt tập thể giúp ta mài mòn tập khícủng cố định lực, nhất là tập khí chấp ngã. Nhiều thiền sinh là trụ cột trong gia đình, người nói tiếng quyết định trong mọi lĩnh vực của đời sống nên dễ cống cao ngã mạn. Sinh hoạt với huynh đệ, không thể nổi nóng bất kỳ lúc nào, có khi phải tập nhũn nhặn với người nhỏ tuổi đời nhưng lớn tuổi đạo hơn mình. Dần dần ta biết lắng nghe, ngã chấp giảm bớt, trầm tĩnh sáng suốt hơn. Đây là những đức tính cần thiết của người biết đạo.

Nhà Phật có từ “kiến thủ”, sự chấp chặt vào kiến thức của mình cho là đúng đắn hợp lý nhất, không thừa nhận ý kiến nào khác. Sự cố chấp nầy làm ta tự mãn, không chịu thua kém ai; từ đó sanh ra bất hòa với huynh đệ. Nhà bác học Newton nói: “Những điều ta biết chỉ là một giọt nước, những điều ta chưa biết là cả đại dương”. Triết gia vĩ đại Socrate cũng bảo rằng : “Tôi biết tôi không biết gì cả”. Người khôn càng học càng thấy mình dốt, càng tu càng biết mình còn dở. Pháp môn của chúng ta là Thiền- Giáo song hành, công phu thiền tập chứng minh cho lý nghĩa của kinh sách, ngược lại lời kinh càng soi sáng cho đường lối công phu, cho nên ta không ngại khi nghiên tầm kinh điển. Chúng ta nghe đọc kinh sách không phải qua một lần là đủ, vì khó thể thẩm thấu hết lý nghĩa sâu sắc trong lời dạy của Phật-Tổ; vả lại, sự hiểu biết vấn đề cũng ngày một nâng cao theo mức độ công phu. Cho nên, nếu tự mãn cho ta hiểu nhiều biết rộng hoặc công phu đã đến trình độ thượng thừa, không cần thầy bạn nữa, thì ta đã tự ngăn lấp bước tiến của mình trên đường đạo. Những bậc Hiền bước vào Sơ quả Tu-Đà-Hoàn, đã kiến đạo, vẫn còn 7 lần sanh tử; đến Tam quả A-Na-Hàm, không trở lại nhân gian nhưng vẫn còn vào cõi Tứ thiền thiên của Trời Sắc giới. Đức Phật gọi các vị ấy là Bậc hữu học tức còn cần học thêm; chỉ đến Tứ quả A-la-hán mới được xem là Bậc vô học. Chúng ta chưa từng vào Sơ quả, có thể cho mình học đã đủ sao?

Một dạng khác của ngã tướng, là tu hành mà muốn người khác biết, nên đến đâu cũng bàn thiền bàn đạo; hoặc chú trọng viêïc dụng công trên hình tướng nên tìm cách tọa thiền trước đám đông, hay so sánh công phu của mình với huynh đệ. Những điều nầy vô tình làm tổn phước và gây mất cảm tình trong tập thể. Phải nên dụng công mà không có ý dụng công, càng không để người khác biết mình đang dụng công. Dụng mà không dụng mới là dụng công đúng nghĩa. Người làm đúng như thế sẽ có một phong cách riêng, rất tự nhiên mà toát ra vẻ tự tại tươi mát. Vả lại, nếu ta âm thầm công phu, không khoe khoang tự mãn, thì những lời khen chê không ảnh hưởng gì đến ta; còn nếu tự cho mình quan trọng hơn người, thì khi có ai xúc phạm, ta sẽ vô cùng đau khổ tức giận. Thiền sư Đức Sơn, sau khi ngộ đạo đã nói: “Sự học hiểu tích lũy giống như sợi tóc so với hư không”. Ngài Đức Sơn, một bậc tài trí hơn người, sở trường giảng kinh Kim Cang hay đến nỗi thời nhơn tôn Ngài là Chu Kim Cang, nhưng khi nhận ra tự tánh mới biết sở học bác lãm ngày xưa chỉ là sợi tóc so với tánh giác trùm khắp chiếu soi. Người tu cần luôn thấy sự học sự tu của mình còn kém cỏi, như thế mới có tinh thần cầu thị. Tu là cả một quá trình thanh lọc và chuyển hoá tự thân, thời gian lâu xa không tính kể, không phải chỉ ngày một ngày hai đã vội thỏa mãn dừng lại.

Trong buổi sinh hoạt, nếu có vị Thầy hướng dẫn thường kỳ là tốt nhất. Nếu không được như thế, huynh đệ cần nương tựa nhau, giúp đỡ nhau với tinh thần hòa ái. Đạo tràng là nơi để chúng ta sống trong tập thể, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Đây cũng là nơi để ta có dịp hành hạnh bố thí. Thỉnh thoảng tổ chức cuộc hành hương cúng dường các tự viện, người khá giả hỗ trợ người kém hơn để ai cũng được gặp Thầy-Tổ, ấy là bố thí ngoại tài. Những buổi tổ chức dùng cơm chánh niệm hoặc những việc Phật sự khác, ta nguyện gánh vác việc nặng nhọc, đỡ tay cho huynh đệ già yếu, ấy là bố thí nội tài. Người có chút ít kết quả trong công phu hoặc nghe đọc một đoạn tâm đắc, lúc pháp đàm diễn đạt lại cho mọi người cùng hưởng lợi ích, đó cũng là hình thức bố thí pháp. Đạo tràng cũng tạo cơ hội để mọi người tập nói trước công chúng; vì có nhiều người tuy có công phu khá, có điều hay muốn trình bày nhưng không dám, ngại người khác chê cười. Trong tình huynh đệ thân ái, chúng ta có thể khuyến khích bạn ta phát biểu, dần dần khắc phục nỗi sợ đám đông; đó có thể gọi là bố thí vô uý. Đặc biệt hơn, chúng ta tu Thiền thường quán chiếu vạn pháp đều không thật có, huynh đệ trong tông môn cùng với ta không hai không khác, nên tuy làm mọi việc cho Đạo tràng mà với tinh thần vô ngã, theo lý nghĩa Bố thí Ba-La-Mật của Bồ-tát Đại Thừa.

Những thiền sinh có chức trách trong Đạo tràng, nên ý thức đây là phương tiện, là cơ hội để ta phục vụ huynh đệ tốt hơn. Trách nhiệm càng cao, ta càng phải công phu miên mật để huynh đệ tin tưởng noi theo, để có kinh nghiệm hướng dẫn người khác hành trì, và nhất là để có định lựctrí tuệ giải quyết mọi vấn đề đối nội lẫn đối ngoại. Tu có kết quả, ta san sẻ cho huynh đệ sự bình an tươi mát, ta dung nhiếp được mọi người nếu họ có sở thích tương đồng về pháp tu. Ta sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến đóng góp, phản bác để xây dựng, củng cố và phát triển Đạo tràng, nhưng tiếp thu có chọn lọc và có lập trường kiên định khi ta biết hướng đi của mình là đúng. Chúng ta cũng không thể mong tất cả mọi người đều đồng tình, ủng hộ mình, nhất là trong những thời gian đầu mới thành lập; bởi vì mỗi người đều có nhận xét riêng, quan niệm riêng về một vấn đề, quan trọng ở chỗ chúng ta biết dung hòa ý kiến trên tinh thần tương thân tương ái và một lòng vì tông môn, vì tập thể chứ không ích kỷ cho riêng mình.

Có hai loại người khó tu: người duy lý và người có tình cảm bi lụy. Người hoàn toàn sống bằng lý trí thường khô khan, thích cô độc, lại hay lý luận xét nét nên khó hòa đồng với người khác. Ngược lại, người dạt dào tình cảm thì ít sáng suốt, không trầm tĩnh, khó giữ vững lập trường. Thiền sinh nên quân bình giữa tình và lý, nhất là đối với huynh đệ đồng tu. Thiền tập là sự chiến đấu không khoan nhượng và không gián đoạn với chính bản thân mình, nhưng đối với người thì bao dung độ lượng. Tất cả chúng ta đều là phàm phu với đầy dẫy phiền não tập khí, ta chưa hoàn hảo thì không thể đòi hỏi người khác không mắc lỗi lầm. Ngay đối với những vị tu sĩ, cũng đang trong tiến trình vượt khó, có lúc thất bại trong công phu, không phải lúc nào cũng là mẫu người lý tưởng. Nếu ta chỉ thấy khuyết điểm của người mà không thấy lỗi mình, thì sự tự tri của ta còn quá yếu. Sự chấp đúng có khi làm khổ mình khổ người, vì mạt vàng tuy quý nhưng khi rơi vào mắt cũng thành bệnh. Có tâm độ lượng bao dung, ta mới sống trong tập thể một cách hòa hợp thoải mái, mới thấy những cái hay tiềm ẩn của người khác để học hỏi. Nhiều thiền sinh than rằng mình cảm thấy lạc lõng, cô đơn trong tập thể, lại gặp nhiều sự chống đối khi mình phát biểu ý kiến hoặc đề nghị một điều gì. Thiền sinh ấy nên phản quan soi xét mọi hành vi của thân miệng ý, nên dũng cảm nhìn nhận và sửa chữa những khuyết điểm mình đang có, nên song hành giữa việc mình làm và những điều mình chỉ bảo cho người. Quan trọng hơn cả, thiền sinh ấy nên biết rằng, mình cô đơn là vì mình không có lòng độ lượng khoan thứ, không trải lòng ra sống với người, không biết nghĩ đến lợi ích của người khác. Lý nhân quả rất kỳ diệu, có thểâ chứng minhgiải thích tất cả mọi sự vật hiện tượng, kể cả những uẩn khúc trong tình cảm con người.

 4-Trách nhiệm đối với xã hội và môi trường sinh thái:

Con người chúng ta trải qua quá trình luân hồi từ vô thủy, đã bao lần lên xuống sáu nẻo tử sinh. Thân quyến chúng ta, nhân lên vô số kiếp, không thể dùng trí óc thường tình mà tính nổi. Có thể nói, chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ bà con của chúng ta, và đều bình đẳng cùng nhau ở tánh giác sẵn đủ. Vì thế, tình thương rộng khắp chúng ta trang trải đến muôn người muôn vật là điều tự nhiên phải có.

Nhà Phật đề cập đến Tứ điền, bốn loại ruộng phước mà mỗi người đều phải gieo những hạt giống thiện lành: Ân điền, lòng tri ân đối với cha mẹ; Kỉnh điền, lòng quý kính đối với Tam bảosư trưởng; Nghĩa điền, tình nghĩa đối với bạn bè, người thân; Bi điềntâm từ bi đối với muôn loài. Thiền sinh chúng ta biết tất cả pháp thế gian đều hư dối, nhưng không phải vì vậy mà quay lưng trước sự đau khổ mất mát của người khác. Ta hiểu rằng những việc làm vì lợi ích cho người là hữu vi hữu tướng, không thể so sánh với công đức vô lượng của người nhận ra bản tâm; nhưng không vì vậychúng ta không tạo phước. “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”. Tuy lý nghĩa uyên áo của Đạo không dính một mảy trần, nhưng trong lục độ vạn hạnh, không có một pháp nào ta không thực hiện. Đó là tinh thần Trung đạo, lý sự viên dung. Đạo đức người tu trước tiên phải biểu hiện bằng lòng từ bi đối với muôn loài chúng sanh, cho nên phải làm người tốt trước khi trở thành người đắc đạo.

Công phu tu Thiền, chúng ta không thể nào quên chánh niệm tỉnh giác, mỗi hành vi, mỗi lời nói ở bất cứ nơi nào, ta đều biết rõ việc mình đang làm, để không gây tổn hại cho mình và cho người khác. Đi trên đường, ta tôn trọng luật giao thông, không phóng nhanh vượt ẩu thì không tự gây ra tai nạn và có thể phản ứng kịp thời trước những tình huống bất ngờ. Đến chỗ đông người ta luôn chánh niệm tỉnh giác, tự nhiên toát ra một phong cách khiến mọi người kính mến; bằng ái ngữ đồng sự ta có thể hòa đồng với tất cả trong tình huynh đệ, không phân biệt địa vị, tôn giáo. Ta không dùng lời phô trương truyền bá pháp tu của mình, nhưng nhìn kết quả tu tập qua tác phong cử chỉ, người khác có thể tin tưởng tu theo. Có chánh niệm, ta có thể ngăn ngừa những tội lỗi mới chỉ manh nha trong tư tưởng, nên dù ở bất cứ ngành nghề nào, ta cũng phục vụ mọi ngươì tận tình chu đáo và ảnh hưởng tốt đến nhân viên dưới quyền. Bản thân ta làm những việc nhỏ như không xả rác bừa bãi, không hút thuốc nơi cơ quan, bệnh viện..., ta mới có thể giáo dục con em và học trò mình ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng, hưởng ứng phong trào sạch và xanh của thành phố, trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc... Có chánh niệm, ta không bị cám dỗ bởi những món lợi bất chánh, nên làm cán bộ nhà nước, ta không sách nhiễu phiền hà dân chúng; làm người buôn bán, ta không mua một bán mười, gạt gẫm người tiêu dùng; là thầy thuốc, ta hết lòng cứu chữa bịnh nhân theo đúng y đức; là luật sư, ta không vì tiền mà bào chữa kẻ tội phạm cho trắng án, đổ tội cho người vô can... Đức Phật dạy : “Nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm tỉnh giác, trừ thế tham ưu”. Luôn chuyên tâm cần mẫn, chánh niệm tỉnh giác, thiền sinh vượt thoát những tình cảm thương ghét thị phi đối với mọi việc trên đời.

Ngày nay, một số nước phương Tây đã có luật bảo vệ thú nuôi và động vật hoang dã. Việt-Nam ta đã ban hành luật cấm săn bắt thú rừng, nhất là các loài được ghi vào sách đỏ, nhưng một số loài vật vẫn còn là những món đặc sản của từng vùng. Nhiều con đường trong các thành phố lớn trở nên nơi thu mua và tiêu thụ chim thú, kéo theo các tệ nạn say xỉn, đâm chém, trở ngại giao thông...; chưa kể hậu quả các loài thiên địch bị giết hại như mèo, rắn, chim, khiến nạn chuột và sâu bọ lộng hành. Cho nên, vui say trong chốc lát nhưng đôi khi để lại những tác hại nặng nề cho môi trường, cho xã hội; mà nếu khôngđạo lý, không tỉnh giác, ta không ý thức được đầy đủ.

Tuy nhiên, chúng ta có khi tự hỏi : Nếu đạo Phật cấm sát sanh, thì những người làm nghề liên quan đến sinh mạng đều có tội cả chăng? Ví như đao phủ hành quyết kẻ tử tội; người đồ tể, làm nghề đánh cá săn bắt; nhân viên y tế diệt ruồi muỗi; nông dân phun thuốc trừ sâu... tất cả đều phạm giới sát, có phải như vậy không? Thật ra, giới sát sanh chỉ được áp dụng chặt chẽ với người xuất gia, còn người cư sĩ thì tùy hoàn cảnh mà châm chước. Chủ yếu, cư sĩ tại gia không được giết người và giết những con vật lớn, còn những loài vật nhỏ như gà vịt tôm cá ... thì hạn chế bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Mặt khác, khi chọn lựa giữa một bên là công lý hoặc lợi ích cho con người và bên kia là tội phạm hay sinh mạng loài vật, tất nhiên ta phải đứng về phía nào trọng hơn. Đây là trường hợp của những người lính bảo vệ đất nước, người thực thi lệnh hành quyết, người hành nghề y dược... Riêng những người đánh cá hoặc những người liên quan đến sát sanh làm thức ăn, cũng có thể quy y thọ giới, nhưng dần dần nên tìm cơ hội chuyển nghề. Nông dân khi phun thuốc, cần chú ý những nguyên tắc cơ bản đã được chỉ dẫn để tránh tai nạn ngộ độc thức ăn cho người tiêu dùng.

Người Trung Hoa có một câu chế giễu những ai ưa lo chuyện thiên hạ: “Kỷ nhân ưu thiên”, người nước Kỷ lo trời sập. Chuyện trời đối với người xưa có thể là xa vời không thực tế; nhưng trong thời hiện đại, khi những bước tiến đột phá của khoa học đã kéo vũ trụ đến gần con người và biến trái đất trở thành mái nhà chung, thì mọi người chúng ta đều phải đóng góp cho tương lai của toàn nhân loại. Xem bản tin Thời sự, nhiều lần ta thấy những cảnh cháy rừng, lũ lụt, hạn hán, làm thiệt hại không sao tính kể. Nguyên nhân đôi khi chỉ rất nhỏ như một điếu thuốc chưa được dập tắt vứt trên lá khô; hoặc lớn hơn là nạn chặt phá rừng đầu nguồn, hiệu ứng nhà kính do khí thải, tầng Ozone bị thủng do sản phẩm của công nghiệp lạnh... Tất cả sự tàn phá thiên nhiên, đảo lộn môi trường sinh thái đều do sự ích kỷ, lòng tham lam sân hận của con người. Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững, tức Hội nghị về môi trường, khai mạc ở Nam Phi vào tháng 9/2002, đã bàn về trách nhiệm đối với hành tinh của tất cả các nước, nhất là các nước phát triển. Mọi người có cơ hội nhìn lại mình trong mối liên hệ chằng chịt với muôn loài và với môi trường xung quanh, thấy rõ rằng không ai có thể sống tách biệt khỏi cộng đồng nhân loại. Thiền sinh chúng ta càng biết rõ, ngay một niệm khởi lên, dù mắt thường không thấy, nhưng cũng đã phóng ra một lực ảnh hưởng đến xung quanh. Định lực của ta càng mạnh, ảnh hưởng của niệm càng lớn. Cho nên, khi tọa thiền, chúng ta nên phát khởi tâm từ bi lúc bắt đầu nhập và xả thiền, góp phần tịnh hoá không gian mình đang sống.

Hiến chương Liên Hiệp Quốc được mở đầu bằng lời tuyên bố : “Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm trí con người, và cũng từ trong tâm trí con người mà sự bảo vệ hòa bình được thiết lập”. Lời nói nầy có khác gì lời Phật dạy trong kinh Pháp cú : “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Chính do tâm mà con người gây tội lỗi, cũng do tâm mà sám hối tạo nghiệp thiện lành. Vào thế kỷ 19, nhà Bác học gốc Serbia tên Nicolas Tesla đã chế tạo thành công một máy phát cao tần, theo nguyên lý tập trung nguồn năng lượng của sóng vô tuyến, có thể tác động lên tầng điện ly bao quanh trái đất. Đầu thế kỷ 21 nầy, các nhà khoa học đã áp dụng thành tựu ấy vào việc chế tạo một vũ khí phòng thủ và tấn công, có thể hủy diệt toàn bộ đại lục Âu- Á trong chớp mắt. Chúng ta còn nhớ vào thế kỷ 20, hai quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki đã giết hại bao nhiêu sinh mạng, và bao nhiêu người còn mang di chứng cho đến ngày nay? Thế kỷ 21 là thế kỷ của khoa học hiện đại, của nền kinh tế tri thức, nhưng cũng là thế kỷ của chiến tranh khủng bố, của thiên tai dịch họa, nếu những người có trách nhiệm không được đạo đức soi đường. Thiền sinh chúng ta, càng có địa vị cao quyền lực lớn, càng phải chăn giữ con trâu tâm, không cho hung hăng hoang dã. Mỗi người phải là một chiến sĩ phụng sự hòa bình, tùy khả năng và cương vị của mình trong xã hội.

 5- Trách nhiệm đối với Đạo pháp:

Một trách nhiệm rất quan trọng mà thiền sinh không bao giờ được quên lãng, ấy là trách nhiệm đối với Đạo pháp. Đức Phật dạy : “Sư tử trùng thực sư tử nhục”, chỉ có người trong đạo mới làm Đạo pháp suy đồi, cũng như chỉ có trùng trong thân sư tử mới ăn thịt được sư tử. Câu nầy có ý nghĩa rất sâu xa. Chúng ta mang danh con Phật, nếu không giữ đúng tư cách Phật tử, không tu hành theo chánh phápphóng túng buông lung, dị đoan mê tín ..., thì chính ta đã làm suy yếu đạo Phật. Thiền sinh cần luôn tâm niệm mình có trách nhiệm lớn đối với Đạo, là gạch nối giữa Phật phápthế gian pháp để luôn luôn suy xét bản thân, sửa đổi thân tâm ngày càng hoàn thiện. Những khi ta chiêm nghiệm về cuộc đờicon người trong yên tĩnh, những lúc thân tâm vận hành dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của chánh niệm, ta sẽ biết cách sống tốt đẹp, hợp đạo lý. Đối với người xuất gia, kỷ luật trong tự việntrợ duyên cần thiết cho sự điều phục thân tâm, vì tập khí nhiều đời cùng với những cám dỗ của tiền trần luôn lôi kéo ta tạo nghiệp. Người tu không phải chẳng làm gì cả mới gọi là yên tu, mà là phải quân bình giữa tu- học và làm việc; tu để có đức, học để có tài và làm việc để rèn luyện ý chí, như thế mới tròn hạnh tự giác-giác tha.

Nhà Phật thường truyền tụng hai câu kệ :
Vị trước ca sa hiềm đa sự
Trước đắc ca-sa sự cánh đa.
 Tạm dịch:
Chưa mặc ca-sa ngại việc nhiều
Mặc ca-sa rồi việc chẳng thiếu.

Trước khi xuất gia, ta tưởng các vị tu sĩ như những người nhàn rỗi nhất, hạnh phúc nhất; nên khi nào thất chí tuyệt vọng hoặc muốn trốn tránh nợ đời, ta nghĩ đến việc vào chùa. Đó là những động cơ không chính đáng, nên khi trở thành tu sĩ, có điều gì không như ýthối chí muốn hoàn tục. Người xuất gia càng phải làm nhiều việc hơn, chịu kỷ luật chặt chẽ hơn, tu hành nghiêm cẩn hơn. Những vị lãnh đạo tự viện vừa lo cuộc sống hằng ngày, dạy dỗ tăng chúng, vừa hướng dẫn Phật tử và làm mọi Phật sự bên ngoài. Tất cả đều vì bổn phận nối truyền mạng mạch Phật pháp. Người tu cũng ăn không ngồi rồi, nhưng là không phiền não và rồi việc tử sanh. Chúng ta muốn ăn không ngồi rồi như thế, phải tinh tấn học và làm, làm và tu, không phí thời gian vào những việc vô bổ như đọc truyện nhảm, xem phim, du lịch...

Chúng ta biết, Đức Phật vì tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não của chúng sanh, mới thi thiết tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trị. Tất cả những lời dạy của Ngài đều là chánh pháp, và Phật tử tùy trình độ sở thích mà chọn lựa pháp tu thích hợp cho mình. Chúng ta tu theo yếu chỉ Thiền tông, không vì vậy mà cho rằng chỉ có Thiền Đốn ngộ mới là pháp môn cao siêu kỳ tuyệt. Mỗi loại thuốc thích hợp với một bệnh, và chỉ có bệnh nhân được chữa lành mới đánh giá chính xác, không kể thuốc ấy đắt hay rẻ, sử dụng phức tạp hay đơn giản. Thuốc ấy cũng chỉ hay với người nầy, chưa chắc hay với người khác. Pháp tu là thuốc trị tâm bệnh, ta không thể áp đặt việc hành trì cho tất cả mọi người. Nhất là ca tụng pháp môn của mình, chê bai pháp khác, ấy là việc không nên làm đối với một thiền sinh chân chính. Tất cả người tu theo lời dạy của Đức Phật, một lòng quy hướng Tam bảo, đều là con Phật; tất cả những vị tu sĩ đều là sứ giả Như Lai; tất cả ngôi Già lam thanh tịnh đều là đất Phật. Chúng tatrách nhiệm lễ bái cúng dường các ngôi tự viện, làm mọi Phật sự với khả năng, góp phần xây dựng và phát triển Giáo Hội. Ngoài ra, những khi chính quyền địa phương phát động phong trào từ thiện hay đền ơn đáp nghĩa, chúng ta nên tích cực tham gia với tư cách một công dân tốt. Kinh nghiệm cho thấy, những tự viện hay Đạo tràng có sự liên hệ chặt chẽ với Giáo Hội và địa phương, sẽ được nhiều thuận lợi trong sinh hoạt. Đây cũng là quy luật tất yếu, không nằm ngoài lý nhân quả. Chính trong cuộc sống thường tục mà ta mở rộng tấm lòng đối với mọi người, thì dù không mong cầu, tự nhiên ta cũng gặp điều tốt đẹp.

Thiền sư Đạo Giai nói: “Muốn biết khi chết được tự tại không, chỉ xem hiện tiềntự do không”. Tự do không phải mặc tình buông thả muốn làm gì thì làm. Tự do là vẫn sống trong khuôn khổ đạo đức mà không thấy mình bị ràng buộc, vẫn theo đúng lề lối của xã hội mà không đánh mất mình, vẫn hòa mình với trần thế mà không dính mắc với mọi cám dỗ của ngũ dục. Tâm không vướng bận tiền trần, siêu vượt mọi ý niệm phân biệt thị phi nhơn ngã, hành giả giải thoát khỏi phiền nãotự tại trong cuộc tử sinh.

Con người khổ sở vì làm con thuyền muốn tìm một bến hứa ở tương lai, nên cứ mãi lênh đênh trên biển đời vô tận. Nhất là trong thời đại thực dụng chạy đua với thời gian, mỗi phút là mỗi suy tính làm sao kiếm thật nhiều tiền, không có dịp quay trở về chính mình và mở lòng ra với người, mỗi người như con ốc thu mình vào vỏ. Chính cái thực dụng của đời sống kinh tế thị trường; những biến động của xã hội do chiến tranh, thiên tai, khủng bố; sự suy sụp đạo đức của một số thanh thiếu niên, là những tác động tiêu cực ảnh hưởng ngược lại đến cá nhângia đình. Bởi vì nhân thể là một chỉnh thể, cá thểcộng đồngliên hệ hỗ tương, nên nếu mỗi người biết cách thăng hoa đời sống tâm linh, hòa hợp với tự nhiên và với cộng đồng, thì xã hội sẽ được ảnh hưởng theo chiều hướng tốt. Thiền sinh chúng ta là nhà khoa học tâm linh, thực nghiệm nội dung tu và sống ngay trên thân tâm của chính mình. Nội dung ấy bao gồm thiểu dục tri túc, nâng cao sức khoẻ thể chấttinh thần, lao động có hiệu quả bằng trình đôï và khả năng sẵn có; và đặc biệt hơn cả, là chánh niệm tỉnh giác, an trú trong hiện tại.

Thật sự, cái thực tại đầy sống động nhưng bất động mới là Niết-bàn thường trụ. Đức Phật khi nói pháp, bất động trong hiện tại nên mới bảo : Như Lai thuyết pháp; các Thánh đệ tử nghe pháp, an trú trong hiện tại nên gọi Như thị ngã văn. Tất cả chúng ta an trú trong hiện tại, phát hiện những điều kỳ diệu trong cuộc sống bình thường nầy, ấy là Hiện pháp lạc trú, danh từ Phật dạy trong kinh A-Hàm. Hiện pháp là thực tại hiện tiền, lạc trú là niềm vui vững chãi. Và khi ta nhận ra thể tánh thanh tịnh, miên mật sống với bản tâm, ta sẽ thản nhiên trước mọi hoàn cảnh thịnh suy thuận nghịch, mọi biến chuyển của cảnh vật và lòng người. Dòng nước pháp từ Linh Sơn qua Tào Khê đến ngày nay vẫn còn lưu nhuận, lý tưởng giác ngộ giải thoát của người tu chúng ta không bao giờ biến đổi, cho dù sông cạn đá mòn:

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ !
Nho gia có câu : “Thuận thiên giả dĩ tồn, nghịch thiên giả dĩ vong”. Sống thuận theo thiên lý, hồn nhiên xứng với tự tánh thì tồn tại, còn dối gian với mình với người là nghịch ý trời, sớm muộn gì cũng tiêu vong. Con người đạo đức phải biết sống vì người, quên bớt lợi ích cá nhân để phục vụ cho hạnh phúc của cộng đồng. Tin sâu nhân quảvận hành của thiên tính, càng quên giả thân thì càng sống thuận với chân thân. Những gì ta có hôm nay, từ bản thân đến những sở thuộc, đều không vĩnh viễn thường còn. Cho nên sống ở đời quan trọng là biết ân tình ân nghĩa, biết cư xử cho hợp lòng người. Thiền sinh biết đạo vừa miên mật trong pháp tu, vừa vun bồi hạnh phúc cho gia đình, vừa làm tròn trách nhiệm đối với quốc gia, xã hội. Những trách nhiệm ấy, nếu chúng ta thực hiện vẹn toàn, tức chúng ta đã góp phần làm Phật pháp xương minh, bởi vì phụng sự chúng sanhcúng dường chư Phật. Biết sống đúng sống đẹp như thế, ta có thể an nhàn không hối tiếc khi lìa đời, như một nhà văn đã nói: “Lúc sinh ra, ta khóc trong khi mọi người đều cười. Làm sao khi ta nhắm mắt, ta cười trong khi mọi người đều khóc”.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
30/08/2014(Xem: 27460)
27/06/2018(Xem: 12172)
25/06/2018(Xem: 11730)
04/12/2012(Xem: 55559)
17/06/2016(Xem: 8847)
14/10/2010(Xem: 77801)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.