ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO
(Tăng Quảng Chánh Biên)
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
(trọn bộ - giảo duyệt hoàn tất ngày 26 tháng 11 năm 2006)
QUYỂN THỨ TƯ
(Phần
thứ nhất)
VI. Ký[1]
1. Bài ký về việc nghênh đón chân thân Xá Lợi của Thích Ca Như Lai
(viết giùm)
Trong trần điểm kiếp trước, đức Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Thế Tôn đã sớm thành Chánh Giác, dứt sạch ba đời, trụ trong Tịch Quang, thường hưởng Tứ Đức, vì xót thương chín giới bèn thị hiện thọ sanh, hiện ra tám tướng[2]. Từ lúc mới ra đời cho đến khi nhập Niết Bàn, diễn giảng các pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm, tạo lợi ích khiến cho chúng sanh gieo nhân, hay do thành thục mà bèn được giải thoát. Lục đạo tứ sanh, tam thừa ngũ tánh nghe viên âm liền ngộ đạo, thấy diệu tướng bèn minh tâm, dẫu dùng hết mọi vi trần trong cùng tận thế giới vẫn chẳng thể tính hết được số lượng. Nhưng củi căn cơ đã hết thì lửa ứng hiện cũng tắt, ẩn Tích quy chân, thị hiện diệt độ. Lại nhằm lợi ích cho đời vị lai, bi tâm vô tận, Phật bèn nát thân vàng trượng sáu do Định - Huệ sanh ra thành tám hộc[3] xá-lợi Kim Cang bất hoại. Do vậy, chia đều cho tám nước, mỗi nơi đều dựng tháp báu khiến cho khắp các hàm thức đều được rộng gieo phước điền. Một trăm năm sau, nước Ma Kiệt Đề[4] có vua A Dục[5] cai trị toàn cõi Diêm Phù, oai đức tự tại, hết thảy quỷ thần đều thành bầy tôi, bèn đem xá-lợi được cất giữ bởi ông tổ là vua A Xà Thế, sai quỷ thần dùng bảy báu, các thứ hương làm thành bột, tạo thành tám vạn bốn ngàn tháp báu để cúng dường xá-lợi đặt khắp cả Nam châu (tức Nam Thiệm Bộ Châu). Phàm những nơi nào Phật pháp chưa truyền đến đều lập tháp ở dưới đất [nơi ấy], ở nước Đông Chấn Đán có mười chín chỗ. Khi đại giáo từ phương Tây truyền sang, [những tháp ấy] bèn lần lượt xuất hiện, tức là như Ngũ Đài Sơn, chùa A Dục Vương v.v… Kinh Niết Bàn dạy: “Nếu dùng lòng tin sâu xa cúng dường toàn thân xá-lợi của Như Lai hoặc cúng nửa thân, hoặc cúng một phần tư, hoặc một phần vạn, thậm chí [một phần] nhỏ bằng hạt cải thì phước đức của người ấy so với phước đức cúng dường Phật, không hai không khác!” Bởi lẽ xá-lợi Phật chính là sắc thân Phật, đều do thệ nguyện vô tác, do lòng từ bi đồng thể thị hiện ra. Do vậy, nhân thiên có được [xá-lợi] bèn buồn vui xen lẫn, cạn hết tâm lực cung kính cúng dường.
Khi Như Lai xuất thế, Phước tôi còn đang trầm luân, nay được làm thân người, pháp đã suy vi. Người xưa phải trải qua hiểm trở mà còn lắm người đến cầu chánh pháp; nay đường thủy đường bộ đều thông suốt, dám đâu chẳng đi lễ bái thánh tích, nên vào năm Quang Tự 30 (1904) bèn ngồi thuyền sang Tây viếng thăm Tiêm La (Thái Lan), rồi đến Diến Điện, sau cùng đến Tích Lan (Sri Lanka). Ba nước ấy Phật pháp rất hưng thịnh, Tăng chúng tuy đông nhưng chẳng nấu nướng lấy. Toàn quốc thờ Phật, dâng cơm cúng Tăng. Phàm gặp đúng ngày lễ bái, con buôn đều không họp chợ, cùng đến lễ tháp báu, cùng gieo nhân cho mai sau, hơi giống với quy củ thơm thảo thời đức Phật. Kế đến, viếng Trung Ấn Độ, Già Da, Vương Xá, Hằng Hà, Song Lâm, những nơi thánh tích nổi tiếng đều đến lễ cả. Tiếc cho đời xa, người mất, pháp suy, giáo kém, chẳng nghe được tiếng hàng ma chế phục ngoại đạo, chỉ thấy dấu vết cỏ lấp hoang tàn, tưởng nghĩ thuở trước thật là đau đớn! Trở về đô thành Tích Lan, gặp đúng dịp trùng tu bảo tháp, trong tháp chứa hơn một trăm viên xá-lợi, khẩn khoản xin vài hạt để tạo phước cho người phương Đông chúng ta. Họ nói: “Xá-lợi là phước điền của nước chúng tôi, tháp này do quốc vương dựng, dám đâu trái Phật phạm pháp, làm lợi cho người ngoài!” Do vậy, hằng ngày lễ tháp, cầu Phật thầm gia bị, đau lòng khóc lóc, buồn bã khôn cầm. Mười hai ngày như thế, cảm động tâm họ, bẩm lên quốc vương, vua chấp thuận ban cho mười hai viên.
Được toại tâm nguyện, thật cảm kích ơn Phật, liền trở về Trung Quốc để an trí cho thích hợp. Linh Thạch Am ở Phổ Đà chính là thánh đạo tràng Thiện Tài đến tham phỏng ngài Quán Âm, do vậy bèn lưu lại ba hạt. Giám viện Tịnh Minh bèn dựng phù-đồ (tháp) gỗ để cúng dường. Thỉnh chín hạt cúng dường cho ba chùa Bảo Quang, Long Hưng, Quảng Đức ở Tứ Xuyên. Theo Tây Vực Ký, nước Tăng Già La (Sinhala) chính là nước Sư Tử thời cổ ở trong đại hải, gần Nam Ấn Độ, nay chính là xứ Tích Lan vậy. Phía Đông Nam nước ấy có núi Lăng Già (Lankā), vách núi cao ngất, hang sâu thăm thẳm, chính là chỗ đức Như Lai nói kinh Lăng Già. Xưa kia, em ruột vua A Dục là Ma Hê Nhân Đà La (Mahendra)[6] xuất gia chứng đạo, du hóa nước này, tạo dựng tháp miếu, hưng khởi Phật pháp lớn lao. Tháp này (tức tháp chứa xá-lợi ở Tích Lan) do chính Ngài sáng lập. Xá-lợi của Như Lai thần biến khôn cùng, tế độ u hiển, che chở trời người. Thấy, nghe, chiêm lễ đều gieo nhân phước thọ, cúng dường, cung kính đều cảm quả tôn quý. Mây mê hết sạch, bầu trời chân tánh rạng ngời; sương tội tan, vầng huệ nhật tỏ rõ. Tam giác viên mãn nơi sơ tâm, vạn đức trọn đủ trong đương niệm. Dùng nhân như thế ắt cảm được quả như thế, phàm những ai cùng hàng với tôi xin hãy xét cho lòng ngu thành này.
2. Bài ký lễ rước tượng Thích Ca Như Lai bằng ngọc về điện Tỳ Lô chùa Vạn Niên núi Nga Mi[7]
(viết giùm)
Trộm nghĩ chư Phật xuất thế đều có thời tiết, nhân duyên, Tượng giáo lưu thông trọn khắp mười phương ba đời. Xét nghĩ đức Thích Ca Thế Tôn ta từ trần điểm kiếp trước đã sớm thành Chánh Giác, trụ trong cõi Tịch Quang thanh tịnh, chứng thân Pháp - Báo viên dung, lại vì nghĩ thương xót chúng sanh, bi tâm chẳng bỏ, bèn lập phương tiện giáo hóa ứng tích vô cùng. Con trẻ mong ngóng sâu xa, mẹ hiền bèn đến, vốn bất sanh mà bao lượt thị hiện giáng sanh. Củi căn cơ hết thì lửa ứng hiện bèn tắt; vốn vô diệt mà bao lượt hiện diệt! Thùy tích như thế, theo chiều dọc cùng khắp ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương. Xét nghĩ Bổn cao, Tích rộng, xem ra nguồn sâu, nhánh dài. Xét theo lần thành đạo phen này thì nhằm năm thứ hai đời Châu Mục Vương[8].
Kinh Tạo Tượng Công Đức nói: “Như Lai muốn chỉ dạy đạo hiếu bèn lên cung trời Đao Lợi an cư ba tháng vì mẹ thuyết pháp. Vua Ưu Đà Diên[9] khát ngưỡng Phật bèn dùng tử chiên-đàn (gỗ chiên-đàn tím) tạc hình tượng Phật để hầu hạ cúng dường chẳng khác gì đức Phật. Qua khỏi chín mươi ngày, Phật giáng hạ nhân gian, bảo với vua rằng: ‘Ông là người đầu tiên làm gương tạo hình tượng Phật khiến cho các chúng sanh được đại lợi ích, công đức của ông không ai sánh bằng. Nếu ai dùng các món vàng, bạc, đồng, sắt v.v… chạm trổ, đúc, đắp, vẽ tượng Phật dù là tượng rất bé chỉ bằng ngón tay cái thì trong đời này, người ấy diệt vô lượng tội, được vô lượng phước, đời sau tôn quý, giàu có, tin ưa chánh pháp, lần lượt tu tập cho đến khi thành Phật đạo”. Do vậy, vua quan các nước đều tạo tượng Phật, đến thời vua A Dục tạo nhiều nhất.
Đến khi đại giáo truyền sang Đông, thường có [những chuyện] tượng Phật bằng vàng hay đá nổi trên sông, hay từ biển giạt vào, hoặc đất rung, núi nứt lộ ra tượng Phật được chép trong những truyện ký nhiều đến nỗi khó thể thuật trọn. Đức Thế Tôn cao quý thay! Lòng từ mạnh mẽ trong đời này mà lòng bi thấu tận kiếp vị lai, tuyệt phan duyên (nắm níu) mà ứng khắp lòng cảm của đại chúng; như một vầng trăng in bóng trên ngàn con sông, trụ Chân Tế nhưng ứng khắp quần cơ; như một trận mưa thấm ướt muôn loài cỏ cây. Những kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa được thoát liền làm cho họ gieo, chín muồi, giải thoát. Nên dùng thân tướng nào để độ bèn hiện thân tướng ấy để thuyết pháp. Trời che, đất chở, khó sánh ví được ân ấy, nát xương tan thân chẳng đáp được đức này.
Thanh Phước đại sư xưa đã gieo cội đức, dốc sức tu Tịnh nghiệp, qua Ấn Độ lễ khắp các thánh tích, trở về đi ngang Diến Điện bèn cẩn thận chọn ngọc đẹp, chạm khắc ba bức tượng Phật, thỉnh về Trung Quốc. Pháp thể rạng ngời, trong sạch, diệu tướng trang nghiêm, ngờ rằng chẳng phải do thợ khéo gọt giũa mà là cổ Phật tái lai. Do bổn tự vốn là thánh địa đạo tràng của Phổ Hiền Bồ Tát, các triều đại đều xuống chiếu kiến tạo, tứ chúng quy ngưỡng, tôn sùng; Phật điện cao ngất như núi non, vẻ đẹp nguy nga đua sáng cùng nhật nguyệt. Điện này lại được thập phương thường trụ Tăng chúng vân tập, một dạ tinh tu đạo phẩm, không lúc nào chẳng mở rộng cửa cứu độ. Do vậy bèn thờ một tượng trong đại điện để khắp mọi hàng Tăng - tục cung kính cúng dường. Nên biết tượng này chính là chân thân của Phật, chẳng phải ngọc, chẳng phải đá, vừa là sắc, vừa là không, hãy nên nhất tâm quy mạng, trọn đời dốc lòng thành. Sáng tối như thế, niệm đâu nghĩ đấy. Nếu như nhất niệm ngầm phù hợp ắt sẽ biết mọi tướng lìa tướng, hoặc là lục căn giải thoát, sẽ tự có thể tâm tâm ấn tâm. Từ đấy trở về nguồn cội, trần tiêu, giác tịnh, Ngũ Uẩn không, Ngũ Nhãn trọn đủ, Tam Hoặc đoạn, Tam Đức trọn vẹn. Khi ấy, sóng trào biển Hạnh, mây bủa cửa Từ, Tứ Nhiếp cùng hành, chẳng chấp vào một pháp, lần lượt truyền trì đến tận đời vị lai, khiến cho huệ mạng được thường trụ bao kiếp. Đấy gọi là đệ tử thật sự của Phật, có thể gọi là “biết ân báo ân” vậy.
3. Bài ký về duyên khởi chuyên tu Tịnh nghiệp của Đại Giác Nham Tây Lâm thảo am tại Nam Ngũ Đài Sơn, tỉnh Thiểm Tây
Chân Như pháp tánh chúng sanh và Phật về thể vốn đồng, do mê hay ngộ cách biệt mà khổ - vui khác biệt vời vợi. Vì thế, đức Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, tuy trong trần điểm kiếp trước đã sớm thành Phật đạo, lại vận dụng lòng Bi Đồng Thể, khởi lòng Từ Vô Duyên, chẳng lìa cõi Tịch Quang, thị hiện sanh trong đời trược, xuất gia tu hành, thành Đẳng Chánh Giác, cứu vớt những kẻ mê muội cùng lên bờ giác, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Tùy thuận cơ nghi, khéo khuyên dụ dần dần: Với hàng đại cơ bèn dạy Ngũ Uẩn đều không, sáu trần chính là giác, rốt ráo chẳng lập một pháp, ngay khi đó vạn đức đều hiển lộ trọn vẹn; với kẻ căn cơ nhỏ nhoi thì tùy thuận tiếp dẫn, vì Thật bày Quyền, khiến cho họ vun bồi Phật chủng dần dần để tạo thành nhân duyên đắc độ. Các pháp môn thuận theo căn cơ nói ra như trên tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng đều cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng chân mới thoát được sanh tử. Vì thế bản hoài phổ độ chúng sanh của đức Như Lai chưa được thỏa mãn rốt ráo. Do vậy, ngoài các pháp ra, Ngài lại mở riêng pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chỉ bày thế giới Cực Lạc là quê nhà vốn có, chỉ A Di Đà Phật là vô thượng từ phụ, khiến cho con người phát tâm Bồ Đề trì danh hiệu Phật, dùng tín nguyện sâu cầu sanh Tây Phương. Nếu như khăng khăng vâng giữ, niệm nơi đâu nghĩ tại đó thì do tín nguyện của mình hợp với thệ nguyện của Phật, chúng sanh và Phật khế hợp nhau, bèn cảm ứng đạo giao, trong đời này nghiệp chướng tiêu diệt, phước huệ tăng cao, lâm chung được Phật tiếp dẫn gởi thân nơi sen báu. Những người Hoặc nghiệp đã đoạn bèn dự ngay vào địa vị Bổ Xứ, mau chứng Phật Thừa. Dẫu là hạng phàm phu sát đất, nghiệp lực khắp thân, cũng vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh, khi đã vãng sanh liền thoát khỏi dòng phàm, cao dự hải hội, chẳng mong đoạn Hoặc mà tự đoạn, chẳng mong chứng chân mà tự chứng. Pháp môn này hoàn toàn nương vào Phật lực, ví như kẻ thọt một ngày đi được mấy dặm, nếu ngồi luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương sẽ trong khoảnh khắc đến khắp bốn châu. Đấy là sức của Luân Vương, chứ không phải sức của chính mình; suốt đời tu hành, cố nhiên là như vậy! Dẫu là kẻ tội nặng Ngũ Nghịch, Thập Ác, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu có thể chí tâm niệm Phật sẽ liền được Phật tiếp dẫn.
Ấy là vì Phật xem chúng sanh hệt như con một: Với đứa hiền ngoan tất nhiên thương yêu, nhưng với đứa ngỗ nghịch lại càng thương xót gấp bội. Nếu con hồi tâm hướng về cha mẹ, cha mẹ ắt rủ lòng từ nhiếp thọ. Hơn nữa, tâm tánh của chúng sanh và Phật không hai, do vì mê trái nên khởi Hoặc tạo nghiệp, ngăn lấp bản tâm chẳng thể hiện bày trọn vẹn. Nếu có thể nhất niệm hồi quang thì khác nào mây tan trăng hiện, tánh vốn chẳng mất, trăng vốn sẵn có. Vì vậy tình trần bao kiếp đoạn ngay trong một niệm. Ví như nhà tối ngàn năm, một ngọn đèn [chiếu vào] bèn sáng. Đây chính là pháp nhiệm mầu nhất trong giáo pháp cả một đời đức Phật, là con đường để trên thánh, dưới phàm đều phải theo, là cơ nghi thấu suốt chín giới, phô bày tột bậc bản hoài của Như Lai. Cao quý thay, đẹp đẽ thay! Há thể nghĩ bàn được ư? Đến khi đại giáo truyền sang Đông, Lô Sơn sáng lập liên xã, một người xướng trăm người hòa, không ai chẳng tuân theo. Hơn một ngàn năm trăm năm qua, những người ngầm tu hoặc giáo hóa công khai khó thể kể xiết!
Nêu tên những bậc lỗi lạc thì đời Nguyên Ngụy[10] có ngài Đàm Loan, đời Trần - Tùy có ngài Trí Giả, đời Đường có các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm[11], Phi Tích[12], Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Đại Hạnh. Các vị sư trên đây đạo đều vượt lên bậc Thập Địa, đức chấn động cửu trùng, không pháp nào chẳng thông, nhưng chỉ đề cao pháp này. Đời Tống thì có các ngài Vĩnh Minh, Chiêu Khánh, Tứ Minh, Trường Lô. Ngài Vĩnh Minh dung hội Thiền - Giáo - Luật quy vào nhất tâm, soạn Tứ Liệu Giản để riêng khen ngợi Tịnh Độ. Ngài Chiêu Khánh dùng máu chép kinh Hoa Nghiêm, lập Tịnh Hạnh Xã, những hạng đại thần công khanh đua nhau quy y. Ngài Tứ Minh soạn [Quán Vô Lượng Phật Kinh] Diệu Tông Sao, phô bày lý Quán Đạo đến cùng cực. Ngài Trường Lô vừa tính kết liên xã, bậc Đại Thánh đã ghi danh[13]. Đời Minh có các ngài Sở Thạch, Diệu Hiệp, Liên Trì, Ngẫu Ích, đời Thanh có các ngài Tỉnh Am, Mộng Đông, không vị nào chẳng Tông - thuyết đều thông, giải - hạnh tương ứng, chuyên trọng Tịnh Độ, khuyên khắp mọi người tu trì.
Thời xưa, những vị sư trong Thiền Tông đa số chuyên về ngầm tu, không mấy ai công nhiên hoằng hóa [Tịnh Độ]; từ ngài Vĩnh Minh trở về sau, phần nhiều lưu lại ngôn giáo thiết tha khuyên bảo vãng sanh, như các vị Tử Tâm Tân, Chân Hiết Liễu, Trung Phong Bổn, Thiên Như Tắc v.v… cho đến tể quan, cư sĩ như các ông Lưu Di Dân, Bạch Cư Dị, Văn Ngạn Bác, Dương Vô Vi, Vương Nhật Hưu, Viên Hoằng Đạo, Châu Mộng Nhan, Bành Thiệu Thăng v.v… hoặc kết liên xã để tinh tu, hoặc tạo luận để truyền bá. Những bậc dù thánh hay hiền, dù Tăng hay tục như thế tuy khác thời nhưng đều cùng tiếng, cực lực hoằng truyền, xiển dương. Do vậy, liên phong lừng lẫy mạnh mẽ, phổ biến trong nước lẫn ngoài nước, cuồn cuộn như trăm sông vạn dòng đổ vào biển cả. Ấy là do nơi hội Hoa Nghiêm bậc Pháp Thân đại sĩ sau khi đã chứng bằng với chư Phật còn dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh, trong Quán Kinh hàng Ngũ Nghịch Thập Ác lúc sắp đọa địa ngục, nếu xưng danh hiệu Phật mười tiếng liền được dự vào phẩm cuối. Vì thế, không căn cơ nào chẳng tiếp độ, không pháp nào chẳng gồm thâu. Như trời che khắp, như đất nâng đều, sâm la vạn tượng không gì chẳng trụ trong ấy hoặc có thể vượt ra ngoài được! Thật có thể nói là “chín pháp giới chúng sanh lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần sanh”. Do vậy, hằng sa Như Lai hiện tướng lưỡi rộng dài để xưng dương, tôn túc các tông phát tâm Kim Cang lưu truyền. Nam Ngũ Đài chính là nơi Quán Âm đại sĩ hàng phục rồng độc, hiện thân tỳ-kheo mở mang đạo tràng. Từ đời Tùy đến nay hơn một ngàn ba trăm năm, trong khoảng thời gian ấy do bao lượt tang thương khiến cho những sự tích của các cao nhân đều bị mất mát không cách gì biết được. Đến cuối thời Minh, có lão nhân Tánh Thiên Văn Lý ẩn cư trong Vô Môn Động (thế tục gọi sai là Tương Tử Động). Sau đấy, do vân du đến Hàng Châu, lão nhân trụ tại Hoàng Long Am. Khi ấy, Liên Trì đại sư chưa xuất gia, bèn cùng phu nhân là Thang Thị quy y dưới tòa. Tiếp đó, lại xin xuống tóc với Ngài. Chẳng lâu sau, lão nhân trở về Trường An, ngài Liên Trì trung hưng Tịnh tông, cội nguồn quả thật xuất phát từ đây. Cụ Văn Lý nếu chẳng phải là bậc cao nhân lỗi lạc, há ngài Liên Trì chịu khuất thân dưới tòa, trước sau y chỉ nơi cụ ư? Chuyện này được chép trong bài minh nơi tháp Thái Tố của ngài Liên Trì trong bộ Vân Thê Pháp Vựng. Quán Âm đại sĩ phò tá đức Di Đà độ thoát chúng sanh, núi này lại là nơi bắt nguồn trung hưng Tịnh tông. Vị chủ tể lẫn núi này đều có đại nhân duyên đối với chúng sanh.
Cư sĩ Hạc Niên Cao Hằng Tùng xuất thân từ Giang Tô, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, vừa ra làm quan đã buông bỏ trâm anh[14], tìm học với đủ mọi bậc Tông tượng, phỏng theo Thiện Tài tham học cùng khắp, lễ khắp các danh sơn, đi khắp các nơi giống như ngài Tử Bách, từng đến núi này hai ba lần. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), nhóm họp Tăng chúng đất Tần (Thiểm Tây) tu bổ tháp Phổ Đồng dưới chân ngọn Đại Đài để thập phương Thiền lữ khi chết có chỗ nương về. Lại dựng hai tịnh thất chuyên tu Tịnh nghiệp để mong sao người sống lẫn kẻ thác đều được vãng sanh. Sau đấy, nhân khi Thiền duyệt rảnh rỗi, bèn đến chơi hai đài Linh Ứng và Nhiếp Thân (đài Nhiếp Thân bị thế tục gọi sai là Xả Thân), thấy vách núi cao ngất, cuộc đất bằng phẳng, chợt ngộ ra đời trước đã từng ở chỗ này, bèn đặt tên cho vách đá ấy là Đại Giác. Do vậy, bèn dựng hai gian thảo am chuyên tu Tịnh nghiệp, để xa là noi dấu Lô Sơn, gần là bắt chước Vân Thê, quyết chí quy Tây, vì thế đặt tên là Tây Lâm. Lượng tôi xuất gia tại núi này, từng hầu hương đèn cho Đại Sĩ. Về sau, do tham học với tri thức, vân du các phương. Đến nay đã hơn ba mươi năm, đạo nghiệp chưa thành; do vậy, cứ sống nhờ mãi ngoài biển, không mặt mũi nào quay về quê cũ. Một ngày nọ, cư sĩ từ Trường An đến bảo hãy soạn một bài ghi duyên khởi của pháp môn Tịnh Độ và duyên khởi của núi này cùng thảo am này, tính trước hết in ra chừng bao nhiêu đó bản để người thấy nghe đều nẩy sanh lòng tin, tiếp đó là lập bia đá trong thảo am để lưu lại vĩnh viễn. Do vậy, tôi khôn ngăn vui mừng ghi đại lược, tuy lời lẽ thô vụng, chất phác, không giúp gì được cho pháp đạo, nhưng cũng chẳng thẹn lòng đoái tưởng.
4. Bài ký tự trách lỗi trong việc chép kinh Hoa Nghiêm
(viết thay sư Khoan Huệ)
Lớn lao thay giáo pháp kinh Hoa Nghiêm, xứng pháp giới tánh, nói pháp thường trụ. Nương tâm Chân Như chỉ bày đầy đủ Thể; Lý vượt ngoài hiện tượng, đạo khế hợp hoàn vũ. Tịch lẫn Chiếu hiển lộ trọn vẹn, Năng lẫn Sở cùng mất. Lìa cái giả danh “phàm - thánh”, dứt bặt xưng hô “chúng sanh - Phật”. Châu trong chéo áo, kẻ mê chẳng biết, không thể không trong cái “chẳng thể tu” lại bàn chuyện tu, trong cái “chẳng thể chứng” lại bàn chuyện chứng, cho nên mới có năm mươi hai địa vị theo thứ tự, Tín - Giải - Hạnh - Chứng sâu - cạn, đó gọi là “toàn tánh khởi tu, toàn tu tại tánh”; còn như viên chứng Diệu Giác chẳng qua là khôi phục bản thể! Ngoài bản thể ra, trọn chẳng tăng thêm gì; chỉ là khi Trí Đoạn rốt ráo thì quang cảnh nơi bổn địa được phơi bày triệt để! “Viên mãn Bồ Đề thật ra chẳng có một pháp nào để đắc! Nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân”, chính là nói về ý này vậy! Mười phương chư Phật thành đạo không vị nào chẳng nói pháp này, mười phương Bồ Tát tu hành, không vị nào chẳng nương theo khuôn phép này.
Kinh văn tuy gồm tám mươi mốt quyển, hơn sáu mươi vạn chữ, nhưng đều bao quát hết sạch hằng sa pháp môn, vô biên diệu nghĩa được hiển thị chẳng sót. Toàn bộ Sự chính là Lý, toàn bộ Tu chính là Tánh, toàn thể nhiều chính là một, toàn Tha chính là Tự. Do vậy nói: “Mười đời xưa nay từ đầu đến cuối chẳng lìa đương niệm; vô biên cõi nước tự - tha chẳng cách đầu lông”. Vì thế, được thọ trì đọc tụng kinh này thì núi tội sụp, biển phước rộng sâu; biên chép lưu truyền thì mây mê tiêu, mặt trời huệ sáng rỡ. Huệ tôi đời trước lắm may mắn nên được nhập pháp môn, nhưng nghiệp cũ rất sâu nên chẳng khế hợp đạo. Nghĩ muốn chép đại kinh rất sâu chẳng thể nghĩ bàn này để sám trừ túc nghiệp, được hòa thượng Tịch Sơn, pháp sư Đế Nhàn và các thiện tri thức khuyến khích, khen ngợi, tán trợ, nên được toại nguyện. Chỉ vì ít đọc kinh giáo, chưa hiểu rõ quy củ, tuy thường thắp hương, đốt đèn, chép đâu lễ đấy, nhưng dạng chữ tùy tiện, chưa thật đoan nghiêm, tề chỉnh. Cô lậu quả văn (thấy nghe kém cỏi) có lỗi chẳng biết! Trải hai lượt lạnh - nóng chép được hơn sáu mươi quyển. Một ngày nọ, có vị lão túc[15] trông thấy quở:
- Ông phát tâm chép kinh, toan nhờ đó để sám trừ túc nghiệp, hiển lộ cái mình sẵn có, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, lòng mong mỏi ấy lớn lao chẳng thể nói được, nhưng cẩu thả như thế này thì sao có thể trên cảm ứng Tam Bảo, dưới khế hợp tự tâm, đoạn phiền hoặc, chứng chân thường, sanh về An Dưỡng hầu hạ Đạo Sư? Há chẳng phải là cô phụ một phen khổ công của chính mình cũng như ân đức khen ngợi, giúp đỡ không gì lớn bằng của các Sư ư? Ông hãy lấy Hoa Nghiêm Cảm Ứng Truyện mà đọc đi, sẽ thấy các khuôn mẫu chép kinh tốt đẹp của các vị cổ đức như Đức Viên, Tu Đức v.v… cũng như những lợi ích mà họ đạt được, há chẳng thẹn đến chết ư?
Huệ tôi nghe dạy xong, lòng đau như cắt, tiếc hận sâu xa lúc ban đầu chẳng gặp được vị lão nhân này. Do vậy, bèn nhanh chóng sửa lỗi cũ, dốc kiệt lòng thành, cạn hết lòng kính, tuy vẫn thô vụng như cũ nhưng cung kính cẩn thận tột bực. Nét bút của bộ kinh trước sau không giống nhau, chỉ sợ người đọc thấy lạ, nên bèn thuật bày duyên khởi trách lỗi, cũng mong hết thảy tứ chúng thọ trì đọc tụng hết thảy kinh điển thảy đều cạn hết lòng thành, tận hết lòng kính không coi thường chút nào, như đối trước thánh dung đích thân nghe được viên âm, ngõ hầu tội lỗi của Huệ nhờ đó được tiêu diệt, mà phước huệ của người thọ trì ấy cũng mau được viên mãn!
5. Bi ký về việc trùng tu tháp Thái Tử và xây lan can quanh hồ sen tại Phổ Đà (viết thay sư Liễu Dư)
Nhất niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh và tam thế chư Phật không hai, không khác. Nhưng do từ vô thủy đến nay chưa hề ngộ nên mê chân khởi vọng, trái giác theo trần, ngược ngạo biến Phật tánh thường trụ bất sanh bất diệt này thành cái gốc để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sanh tử. Đức Như Lai thương xót tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp ba căn tùy phần được lợi ích. Lại vì pháp âm có lúc bị gián đoạn nhưng tháp tượng còn mãi cho nên dạy tứ chúng tạo dựng tháp tượng, ngõ hầu [con người] chiêm lễ, gieo lòng thành nơi ấy, trồng thiện căn dần dần. Một phen thấy được thánh dung vĩnh viễn thành hạt giống đạo, dùng đó làm nhân duyên tối thắng để bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp giác, tiêu trừ Hoặc nghiệp, khôi phục tâm tánh vốn có. Phổ Đà chính là chỗ thù thắng ứng tích của Đại Sĩ, là đạo tràng chúc hỗ[16] của các triều đại. Khai sơn từ thời Trinh Minh nhà Lương nhằm đời Ngũ Đại, đến nay đã hơn ngàn năm. Phổ Môn thường khải phát, Tông phong chẳng suy sụp, quả thật là Phật quốc nơi Chấn Đán, là phước địa của vùng Đông Nam. Vào cuối đời Nguyên, có Phù Trung Tín thiền sư đạo cao ngất đời, đức cảm cửu trùng, năm lượt ngồi đạo tràng hoằng khai, xiển dương Tông thừa, vương công, đại thần phần nhiều theo Ngài học đạo. Vào thời Thiên Lịch (1328-1329), Sư trụ trì Phổ Đà. Đến niên hiệu Nguyên Thống (1333-1334), Sư mua đá Thái Hồ[17], tìm thợ khéo nhất tạo một tòa tháp Đa Bảo Phật[18] ở góc Đông Nam chùa. Tháp năm tầng, cao chừng chín trượng sáu thước[19]. Bốn mặt của ba tầng trên cùng đều chạm trổ thánh tượng Phật, Bồ Tát, La Hán, từ dung đẹp đẽ tuyệt vời, nghiễm nhiên như người sống. Tài nghệ khéo léo sướng mắt đẹp lòng người nhìn. Tuyên Nhượng Vương[20] theo Sư học đạo, phát tâm bỏ ra tiền của, vì thế người đời thường gọi tháp này là Thái Tử Tháp.
Đến nay đã hơn 580 năm, năm tháng đã lâu; hơn nữa, do ở giữa biển cả, gió cuốn theo sương muối, mặt trời chói chang, sương giá dữ dội xói mòn các vật, thật dễ bị hư hoại. Do vậy, đỉnh tháp đã sứt, thánh tượng bị tàn khuyết, đá ghép bị rã rời, sắp bị sụp đổ. Trộm nghĩ tiền nhân tạo dựng vốn nhằm gieo phước cho quốc dân, nỡ nào để bị hư nát sụp đổ, dấu xưa cũng như ruộng phước của chúng sanh đều bị biến mất ư? Nhưng do Tăng chúng tiền của lẫn pháp đều nghèo cùng, không cách gì lo liệu được! Tháng Sáu năm Mậu Ngọ (1918), đúng dịp cư sĩ Tích Châu Trần Tánh Lương lên núi, tính lập bi phường (nhà để bia) bên đường, bạn tôi là Ấn Quang cùng với Dư (tức sư Liễu Dư) và Trụ Trì Pháp Vũ là thầy Liễu Thanh đều bảo ông ta: “Ông vốn xưa đã vâng lời Phật phó chúc hoằng hộ Tam Bảo, nay tháp Thái Tử liệu chừng sắp đổ nát, Tăng chúng thẹn không có đức hạnh, khả năng, không cách gì lo liệu, xin đừng tiếc sức lực sửa sang cho. Có lẽ nên gác lại chuyện kia, lấy chuyện sửa chữa tháp này làm việc cấp bách trước”. Ông ta bèn ứng tiếng: “Con đã phát nguyện, tình thế khó thể ngừng giữa chừng được. Nhưng đã được ủy thác, con sẽ nỗ lực thay các thầy quyên mộ hóa duyên, mướn thợ, gắng sức lãnh trách nhiệm”.
Do vậy, bèn giãi bày cặn kẽ tấm lòng ngu thành, nhờ vào phước lực ấy được các vị cựu Đại Tổng Thống là ông Lê [Nguyên Hồng], ông Phùng [Ngọc Tường], và Đại Tổng Thống đương nhiệm là ông Từ [Khiêm] đều bỏ ra tịnh tài để tu bổ Phổ Đà, xướng suất tứ chúng. Khi ấy, những vị tai to mặt lớn đều phát tín tâm, chung sức giúp đỡ. Do vậy, vào tháng Ba mùa Xuân năm nay liền khởi công để tháp Đa Bảo Phật lại được từ đất vọt lên, trước chùa Phổ Tế thường thấy lan can vây quanh ao báu. Lại vỡ đất dựng tháp viện, cất năm gian nhà chánh, bốn gian chái phụ. Phàm những thứ cần dùng thảy đều đầy đủ, cử một vị Đầu Đà tịnh hạnh hầu hạ hương đèn dài lâu. Tri Sự huyện Định Hải là ông Phùng Bỉnh Càn nghe vậy, vui mừng khôn xiết, liền ra sức bảo vệ, có thể nói là xưa có linh căn, chẳng quên lời phó chúc vậy! Từ đây những người vào cửa Phổ Môn trông thấy Đa Bảo, những người tu Tịnh nghiệp thường dạo nơi ao báu. Công đức lợi ích ấy sẽ có cùng thọ lượng với hư không, không ngọn bút nào có thể hình dung cho được! Xây dựng đã xong, bèn thuật duyên khởi, khắc vào đá quý kiên cố để lưu truyền mãi mãi không hư nát.
6. Bi ký sáng lập Bi Phường bằng xi-măng bên đường ven biển và trùng tu Hồi Lan Đình (đình ngăn sóng) tại Phổ Đà (viết thay sư Liễu Dư)
Quán Âm Đại Sĩ thệ nguyện hoằng thâm, từ bi rộng lớn. Trong mười phương vô tận thế giới hiện khắp các sắc thân, tùy cơ thuyết pháp, các kinh Đại Thừa đều chép sự này. Nhưng ứng theo căn cơ phàm phu thị hiện các thân ở cõi này càng nhiều chẳng thể kể xiết, mầu nhiệm chẳng thể lường. Huống chi là ứng khắp trong sáu đường và ứng hiện cho những bậc căn cơ lớn lao vượt ngoài Tam Thừa ư? Nếu chẳng đã viên chứng Pháp Thân sao có được đại dụng như vậy? Cư sĩ Tích Châu Trần Tánh Lương được gội ân Bồ Tát sâu xa, tâm báo ân tha thiết, muốn cho đồng nhân đều cảm niệm sâu xa bèn dựng một tòa Bi Phường bằng chất “thủy nê”[21] bên bờ biển. Đó là vì muốn chỉ cho con người thấy biển khổ vô biên, quay đầu lại chính là bờ, trong biển sanh tử, chỉ có Đại Sĩ đáng để nương cậy. Do vậy, bèn lược thuật chuyện thấm gội ân đức của ông ta, cho khắc vào đá quý kiên cố, mong sao những người thông hiểu đời sau đều cùng sanh tín tâm, cùng được che chở, ngõ hầu từ ngay nơi vọng hiểu rõ chân, tiêu trừ huyễn chấp ta - người, hiểu tâm thấu gốc, chứng Phật Tánh tịch chiếu.
Cư sĩ Tích Châu bẩm tánh trung hậu, thoạt đầu chỉ học hỏi tông chỉ Nho, Đạo, đối với đại pháp của Như Lai và lý tam thế nhân quả còn chưa tin tưởng sâu xa. Phu nhân là bà họ Hồ xưa đã có tín tâm, lễ Phật, tụng kinh, dẫu lạnh nóng, bệnh tật vẫn tu trì chẳng lười nhác. Năm bà ngoài ba mươi tuổi, đứa con đầu không nuôi được, càng nỗ lực hành thiện, chẳng lâu sau lại có mang, sắp đến kỳ sanh nở, liền mắc bệnh nặng, suốt hai mươi chín ngày chẳng ăn uống gì, chẳng nói năng được, chẳng thể trở mình. Vóc gầy như que củi, thân nóng như lửa, danh y bó tay, không còn cơ hội sống sót nữa! Một đêm, phu nhân mộng thấy một bà lão tay cầm mấy cành hoa sen, bảo: “Ngươi do túc nghiệp vướng phải bệnh ngặt này, may đã gieo thiện căn sâu dầy nên ta từ Nam Hải đến an ủi ngươi”, rồi dùng hoa sen phất quanh thân phu nhân, bảo: “Phủi đi nghiệp chướng của ngươi, khéo sanh con ngoan!” Bà liền thấy thân tâm thanh lương, sảng khoái không gì sánh ví được! Do vậy, bèn tỉnh ra, toàn thân mướt mồ hôi, hết sốt, thân yên ổn, vẻ mặt ôn hòa, thật chẳng khác gì người khỏe mạnh. Ngày hôm sau liền sanh được một con đúng vào ngày tốt là ngày mồng Ba tháng Ba. Tuy phải trải qua hai mươi chín ngày sốt nóng, đói khát nhưng thân thể đứa bé đầy đặn, mập mạp, chẳng khác gì do người không bệnh tật gì sanh ra. Đến năm nay, đứa bé ấy đã lên mười. Ôi chao! Lạ lùng thay!
Cư sĩ được nhận đại ân, khác gì chết đi sống lại, xương khô mọc thịt, mới biết những chuyện lợi sanh chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát đã được nói trong kinh Phật đều chân thật chẳng hư dối. Tiếc cho những kẻ câu nệ, hẹp hòi, dùng tri kiến phàm phu múa mồm báng bổ, khinh nhờn, khác gì kẻ vô tri vô thức ngồi đáy giếng nhìn trời, uổng cho đức Đại Bi Chủ phải xót thương buồn bã, nhưng không cách gì cứu độ được! Buồn thay! Do vậy, tâm tin tưởng mười phần khẩn thiết cực độ. Năm ngoái, ông lên núi muốn lập bi phường, bạn tôi là Ấn Quang đem chuyện tháp Thái Tử sắp đổ khuyên ông gác lại chuyện này lo chuyện đó; nhưng tâm ông ta đã phát nguyện, khó thể ngưng giữa chừng. Do vậy, mùa Xuân năm nay cùng khởi công cả hai chuyện cũng như lập tháp viện và dựng lan can quanh bờ ao trước chùa, trùng tu đình hóng mát, phí tổn hơn năm vạn. Tuy cũng xin khắp những vị có tiếng tăm bỏ ra tịnh tài giúp hoàn thành việc lớn lao này, nhưng tháp được cao đẹp, ao được trang nghiêm, nhà bia, đình hóng mát được khang trang, rộng rãi, không tính công chọn thợ, chọn vật liệu, đốc thúc thợ thì [ngoài ra] việc gì cư sĩ cũng phải bỏ ra một khoản tiền lớn một mình lo liệu hòng thành tựu công đức trang nghiêm. Tín tâm hoằng nguyện quả thật đáng kính!
[Danh tánh] các vị thiện sĩ bỏ tiền giúp đỡ đều được chép trên bia trong tháp viện. Nơi đây còn đặc biệt ghi chép tướng một giọt nước trong vô lượng trăm ngàn đại hải ứng hóa của Bồ Tát khiến cho các đồng nhân sanh tâm chánh tín, ai nấy cung kính cúng dường xưng niệm danh hiệu, há nào phải chỉ thường được Ngài gia bị, gặp xui biến thành hên, gặp nạn biến thành chuyện tốt lành mà thôi ư? Nếu có thể dốc cạn lòng thành đến cùng cực thì đoạn Hoặc chứng chân siêu phàm nhập thánh nào có khó gì, tương lai cũng được như Bồ Tát theo chiều dọc suốt cả ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương, hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh vậy! Hơn nữa, Quán Âm đại sĩ chính là vị Cổ Phật trong quá khứ, do tâm đại bi hiện thân trong chín giới, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Chỉ vì chúng sanh căn cơ kém cỏi, không cách gì thấy được bản tướng. Phàm những người được Ngài gia hộ che chở, phần nhiều đều thấy là một bà lão. Ấy là vì thuận theo căn cơ kém cỏi bèn hiển thị tâm tha thiết. Nếu cho rằng Ngài vốn thuộc thân nữ thì đối với đạo thượng đồng hạ hợp của Bồ Tát dẫu có mơ cũng chưa từng thấy được mảy may!
7. Bi ký thuật duyên khởi Vô Trước Lão Nhân sáng lập Thường Minh Am (viết thay thầy Hóa Hoằng)
Chân tông tịch diệt duy tâm sẵn đủ, nhưng diệu đạo viên thông không có người sẽ chẳng thể hoằng truyền được. Hưng khởi phạm sát, mở mang Phổ Môn, bủa mây từ, xối mưa pháp. Nhằm lúc pháp vận đi vào mùa Thu[22], người chấn hưng đạo Thiền sắp bị tuyệt diệt, chỉ có mình tiên sư Vô Trước Lão Nhân của tôi là người như vậy mà thôi! Thầy húy là Lập Sơn, pháp danh Mãn Viên, biệt hiệu Vô Trước. Năm Đạo Quang thứ năm (1825) tức năm Ất Dậu, ngày Hai Mươi Lăm tháng Hạ, thị hiện giáng sanh vào nhà họ Cố ở Kim Sơn, Tùng Giang[23], cha Ngài chính là Phước Bổn Ngộ Công. Năm Sư mười bốn tuổi, thân phụ bèn xuất gia, tâm muốn đi theo, nhưng mẹ còn tại thế nên chẳng được thỏa nguyện. Đến tuổi nhược quan, xin xuống tóc với cha, đến chùa Đại Sùng Phước thọ Cụ Túc Giới. Do giặc đang chiếm đóng Nam Kinh[24] nên chẳng tiện tham học các nơi, bèn trụ tại Phổ Đà hoặc sống ở Tùng Giang, ẩn mình giấu tiếng, không có lòng góp mặt với đời.
Đến năm Canh Ngọ (1870) đời Đồng Trị, bế quan tại Bán Sơn Am, hằng ngày lễ kinh Hoa Nghiêm, tham học khắp hải chúng. Khi ấy, chùa Pháp Vũ điêu tàn đến cùng cực, thiếu người Trụ Trì. Vị tôn túc trong núi là hòa thượng Tín Chân suất lãnh pháp quyến gõ cửa thỉnh Sư [làm Trụ Trì]. Từ tạ không được, phải chấp thuận. Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1872) bèn tấn viện[25], tài sản nhà chùa đơn bạc, chi dụng không đủ, nhà nát, tường xiêu hoang tàn nhức mắt. Sư cảm thương, tự đặt trách nhiệm trùng hưng nhà chùa, tận sức lo liệu, sửa sang, tu bổ, bốn phương đàn tín trải vàng[26] chỉ lo chậm chân. Trong vòng mấy năm, trăm chỗ bỏ phế đều được phục hưng. Tuy chưa hoàn toàn khôi phục được quy mô như cũ, nhưng xét về đại cuộc đã khả quan lắm. Lâu ngày, ý muốn nghỉ ngơi để chuyên tu Tịnh nghiệp, do vậy bèn dựng am tại phía Tây sườn núi Thanh Lương, đề biển là Thường Minh. Ấy chính là dùng ý nghĩa “tâm tánh tịch chiếu viên dung, theo chiều ngang trọn khắp, theo chiều dọc thông suốt” hòng làm cho người khác tu nhân để đắc quả.
Mùa Xuân năm Giáp Thân (1884) đời Quang Tự, Sư thoái ẩn tại am này, quyết chí quy Tây, niệm Phật không để sót. Lại lấy hai thời khóa tụng trong am làm hai thời niệm Phật, dùng đó làm quy định thường hằng vĩnh viễn, nóng - lạnh không gián đoạn, tậu ba trăm hai mươi hai mẫu ruộng lúa, trừ ra một trăm mẫu [làm chi phí cúng tế trong] Vô Trước Từ Đường, những khoảnh ruộng còn lại dùng để nuôi chúng thường trụ niệm Phật. Ngoài ra, các vị như Hóa Khai v.v… dành ra bốn mươi bốn mẫu ruộng để giúp tiền chi dụng cho những vị sư niệm Phật, đều ghi chép tường tận ở phần sau.
Lão nhân thường nói: “Chúng sanh đời Mạt chướng sâu căn độn, chẳng dễ gì thấu đạt lẽ hướng thượng, đại ngộ còn khó huống chi thật chứng! Chỉ có mỗi một pháp Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, lợi - độn gồm thâu, thượng thánh hạ phàm đều nên tu trì. Bởi lẽ pháp này hoàn toàn lấy Quả Giác làm cái tâm trong khi tu nhân, nhân bao trùm biển quả, quả thấu tột nguồn nhân, dùng chính ngay tướng thế gian để thông đạt Thật Tướng, lấy phàm tâm khế hợp Phật tâm. Pháp có thể nhờ cậy để duy trì Phật pháp, giúp cho nền chánh trị của đất nước, cảm động tâm người chỉ có mình pháp này mà thôi! Các ông hãy nên tận lực tuân hành, chớ nên phế bỏ mới chẳng phụ tứ ân, giúp trọn tam hữu. Nếu sau này hàng đương gia (người cai quản am này) phế bỏ quy củ đã thành lập này thì kẻ ấy chẳng phải là đệ tử của ta, hãy nhóm họp pháp quyến lập tức tẫn xuất[27], chớ cho ẩn náu kẻo phụ lòng ta”.
Đến ngày mồng Một tháng Chạp năm Kỷ Sửu (1889), Sư an nhiên thâu thần qua đời, Tăng lạp[28] bốn mươi sáu năm, thọ sáu mươi lăm tuổi. Đệ tử thế độ mấy mươi người, nhưng người nối tiếp được công hạnh của Sư chỉ có mình Hóa Văn. Bọn Hoằng tuy được liệt vào hàng đồ đệ nhưng chưa vào được cửa trong[29], chẳng biết được sở ngộ của Sư, chẳng dám đề cao thầy kẻo đem phàm lạm thánh, cũng chẳng dám hạ thấp kẻo khuất lấp người hiền, đành nêu đại cương ngôn hạnh của thầy để nêu rõ duyên khởi am này (Xét ra Pháp Vũ Tự khai sơn vào năm Vạn Lịch thứ tám đời Minh, đời Thanh trước kia hai lần được sắc kiến, sau loạn Hồng Dương suy bại đến cùng cực, ngài Vô Trước trùng hưng chùa).
8. Bi ký ghi công đức xây giếng Tiên Nhân ở Phổ Đà
(viết thay thầy Giới Như)
Viên Thông đại sĩ bao kiếp thường trụ núi này, bậc tiên nhân vượt ngoài trần gian không lúc nào chẳng sống tại nơi đây. Tuy chưa đến thời Tượng Giáo, phàm tục không thấy được từ dung, nhưng từ chỗ ở của bậc ứng thân, các tiên thật sự luôn được chiêm ngưỡng Phật nhật. Do vậy, An Kỳ Sanh đời Tần, Mai Tử Chân đời Hán, Cát Trĩ Xuyên đời Tấn v.v… đều sống nhờ núi này để tu chân dưỡng đạo. Dòng suối ngọt họ uống được gọi là Tiên Nhân Tỉnh (giếng Tiên Nhân). Đến niên hiệu Trinh Minh đời Lương mới bắt đầu lập đạo tràng, ấy chính là lòng từ rộng lớn của Đại Sĩ, vận lòng trời độ rộng khắp. Dấu cổ của tiên nhân cũng nhờ Phật pháp mà được lưu truyền. Mặt trước giếng ấy gần biển cả, có cái hang đất che bên trên. Từ dưới đất sâu hơn cả trượng, [nước suối] từ dưới vọt lên. Lúc khô hạn nhất suối chẳng giảm, lúc ngập úng nhất cũng chẳng tăng thêm, lúc nóng gắt thì nước lại mát rượi, lúc rét buốt thì nước lại ấm, nước chảy chậm rãi, lừ đừ, nhưng trong lắng, vị ngon ngọt, mướt dịu. Ai tin tưởng uống nước ấy phần nhiều khỏi bệnh trầm kha. Vì thế những người đến chiêm bái núi này từ Mân, Việt, Ngô, Sở[30] đều dùng bình múc nước giếng mang về để làm pháp dược.
Nếu không phải là đại bi pháp thủy từ tâm đại từ bi của Bồ Tát chảy ra, khiến cho người uống vào gần là khỏi tật bệnh, xa là chứng Bồ Đề, sao có thể linh nghiệm sâu xa như vậy được? Cư sĩ Can Hạnh Thôn ở Tứ Minh, lên núi dâng hương, uống nước thấy ngọt, hỏi đến ý nghĩa tên gọi, khen ngợi khôn cùng, liền khẳng khái bỏ ra tiền của, nhờ Nạp Tăng lo liệu dùng đá xây thành giếng và đắp đường quanh giếng. Phía trên dựng một cái khám thờ Đại Sĩ trong ấy, bên trái thờ Long Vương, bên phải thờ An tiên nhân (tức An Kỳ Sanh), muốn cho những người lấy nước sau này hành đạo thanh tịnh, thấu triệt nguồn đáy pháp. Thấy Quán Âm ngay nơi ấy, vun bồi hạt giống Phật cho tương lai. Đề Hồ vào miệng, bệnh tật lìa thân, tâm địa thanh lương, vĩnh viễn không bị nhiệt não bức bách, tiền trình xa rộng, thường được nhân từ, sống lâu, khỏe mạnh. Nạp Tăng tôi quý lòng thành khẩn của ông ta, lược thuật đầu đuôi, tạc vào đá quý kiên cố để bảo cùng những người thông sáng trong tương lai.
9. Bi ký của Trinh Tiết Tịnh Độ Viện thuộc Lưu Trang Trường tại Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô
Phật pháp là pháp chung cho cả chín pháp giới, không một ai chẳng kham tu mà cũng không một ai chẳng thể tu được. Bởi phàm ai có tâm thì không một ai chẳng cùng sẵn có Phật tánh, nhưng do mê chưa ngộ nên đâm ra dùng sức công đức của Phật tánh để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo trải trần điểm kiếp, không thể thoát lìa, há chẳng đáng buồn quá sức ư? Nhưng vì chúng sanh và Phật thể vốn đồng bèn cảm Như Lai xuất thế, soi sáng cho chúng sanh. Do đây, người bỏ tục xuất gia, tận lực tu Định - Huệ, đoạn Hoặc chứng chân, liễu thoát sanh tử không thể kể xiết! Cũng có vị cư trần học đạo, tu chân ngay trong cõi tục, tự chứng Pháp Thân, sanh lên bờ đạo như cư sĩ Duy Ma, Phó Đại Sĩ, Bàng Cư Sĩ v.v… cả nhà tu trì, đều chứng thánh quả. Các vị đại sĩ ấy làm gương cho chúng sanh, đủ biết ai nấy đều có thể tu, hễ tu ắt đều được lợi ích. Do vậy, từ khi pháp được truyền sang Đông Độ, vua quan, dân chúng, khuê các anh hiền chẳng lìa trần lao tu ròng Tịnh nghiệp, đều đích thân thấy được Phật Tánh, đoạn Hoặc chứng chân, cũng như người được cảm ứng đạo giao được Phật tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh lại không biết bao nhiêu mà kể.
Cư sĩ Hạc Niên Cao Hằng Tùng là người Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô, xưa đã trồng cội đức, dốc lòng tin tưởng Phật thừa. Tuổi vừa nhược quan liền hâm mộ chân tu, vứt bỏ trói buộc thế tục, chăm chú nơi sự nghiệp tuyển Phật rộng lớn. Do vậy, bèn đến khắp các tùng lâm, tham học với những bậc tông tượng, hòng nhanh chóng thấu rõ tự tánh, triệt ngộ duy tâm, báo đáp tứ ân, tế độ mọi phẩm. Việc phụng dưỡng cha mẹ giao cho vợ, mấy tháng mới quay về để thăm hỏi. Bà phu nhân tên X… bẩm tánh hiền thục, tận lòng hiếu đạo, dẫu đã kết hôn, nhưng chí hâm mộ thanh tu. Vì thế, cư sĩ không lo thiếu sót tình phụng dưỡng, mà cha mẹ cũng hưởng niềm vui được quấn quít. Nếu không phải do nguyện xưa đã kết, làm sao được như vậy! Đến khi cha mẹ đều khuất, không còn phải lo lắng gì nữa, khác nào hạc nội mây ngàn mặc sức bay nhảy. Do vậy, Ngũ Đài, Nga Mi, Thiên Thai, Kê Túc[31], tất cả mọi chỗ danh sơn thánh đạo tràng, thường đến lễ bái một loạt nữa. Riêng đối với đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ ở Chung Nam[32] lại càng quyến luyến sâu xa, chợt nhận biết đời trước từng trụ tại núi này, đủ thấy nhiều đời nhiều kiếp đã tu Phật đạo từ lâu, chẳng phải chỉ gieo thiện căn tại một đức Phật, hai đức Phật, ba bốn năm đức Phật mà thôi.
Năm Dân Quốc thứ 10 (1921), từ núi Kê Túc trở về nhà trông nom, thấy vợ đã già, cô đơn không nơi nương tựa. Nghĩ đến công vợ thay mình phụng dưỡng cha mẹ nhọc nhằn, thương vợ giữ chí thủ tiết thanh tu, do vậy bèn biến nhà mình thành Trinh Tiết Tịnh Độ Viện. Vì để cho trinh nữ, phụ nữ tiết hạnh sống ở đó chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Tịnh Độ nên đặt tên như vậy. Những bậc hương thân chuộng nghĩa bèn bẩm lên huyện ra cáo thị: Phàm là con cháu họ Cao và nhân sĩ các giới chẳng được can dự, bởi lẽ viện này được tạo dựng bởi tài sản riêng để làm phước, tánh chất khác biệt với những am miếu [thông thường]. Tài sản ban đầu là bao nhiêu đó mẫu, tậu thêm bao nhiêu đó mẫu, tô lợi thu được hằng năm dùng chi tiêu cho cơm áo của người trong viện, căn cứ theo thâu nhập mà thâu nhận người để khỏi bị thiếu hụt. Chi phí sửa chữa, xây dựng đều do bạn bè thân thiết của cư sĩ giúp đỡ. Ba gian nhà chánh dùng làm điện Phật, bên trong thờ tượng ngồi của Tây Phương Tam Thánh để những người sống trong ấy sớm tối lễ tụng hòng tạo tư lương vãng sanh. Hai gian chái hai bên làm chỗ ăn ở của các bà. Những trinh nữ tiết phụ lui tới đều không phân biệt chọn lựa, chỉ cần trường trai niệm Phật, quyết chí vãng sanh, tánh tình nhu hòa, không có các thói ngang ngược, tai ác, chẳng coi trọng trang điểm, chẳng ăn mặn, uống rượu, đoạn tuyệt tình thân thế tục, chẳng du hành bừa bãi thì đều được chấp nhận. Nếu không, nhất loạt chẳng chấp nhận cho cư trú ở đó.
Lại vào mùa Đông, mùa Hạ mỗi năm, nhằm hai dịp Phật Đản[33], liền mời bậc nữ sĩ thông hiểu pháp đến giảng thuyết suốt tuần ngõ hầu đường lối tông chỉ tu tập thảy đều hiểu rõ, chẳng đến nỗi dùng pháp liễu sanh tử để đạt được phước trời người. Đấy chính là thượng hoằng hạ hóa, trọn vẹn đôi bề, do bi thành kính, hai thứ ruộng (bi điền và kính điền) đều đầy đủ. Do vậy, bàn bạc việc này xong xuôi, những bạn bè chuộng nghĩa đều vui thích hỗ trợ, như ông Giản Chiếu Nam, Giản Ngọc Giai, Phan Đạt Vi, Lý Bách Nông, Lê Ất Chân ở Quảng Đông và các vị cư sĩ ở đất Hỗ (Thượng Hải), đều tùy tâm lực, bỏ tiền của giúp đỡ. So với việc giúp đỡ những bà góa thì gần như giống nhau, nhưng về mặt lợi ích cách biệt như trời với đất. Viện nuôi bà góa bất quá chỉ nhằm làm cho họ có chỗ gởi thân, chẳng đến nỗi đói rét, nhưng chỉ ăn no, suốt ngày chẳng chịu dụng tâm, chẳng tụng kinh chú, chẳng kiêng rượu thịt, chỉ nhằm giúp đỡ họ trong đời này, chẳng tính đến chuyện “khi mất đi thần thức sẽ đi về đâu!” Sống trong viện này suốt ngày trì danh hiệu Phật, sớm tối khẩn thiết sám hối, chẳng những lúc sống có chỗ nương gởi, chẳng uổng sống qua ngày, mà còn khiến cho khi mất đi, có chỗ nương về, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. Ý đẹp, pháp lành thật hay đẹp, thật cao quý! Pháp này đã hưng khởi, sau này ắt có bậc thông hiểu pháp nghĩa hành theo để giúp đỡ các bà góa, ngõ hầu bậc trinh tiết anh hiền cùng dự vào Liên Trì hải hội, công đức ấy chẳng thể diễn tả được!
10. Bài ký về tịnh nghiệp trinh hiếu của trinh nữ Trần Thánh Tánh
Chân Như pháp tánh chúng sanh và Phật đồng thể. Do mê - ngộ sai khác mà thánh - phàm khác biệt. Muốn khôi phục tâm tánh sẵn có thì phải đoạn Hoặc nghiệp huyễn vọng. Muốn đoạn Hoặc nghiệp mà không nghiêm trì tịnh giới, tận lực tu Định - Huệ sẽ không thể được! Tận lực tu ba món Giới - Định - Huệ đến khi công thuần thì Vọng Hoặc triệt để tiêu diệt, bổn tâm hiển hiện toàn thể. Ví như mài gương, hết chất bẩn, tánh sáng còn lại. Gương vốn sẵn có tánh sáng, chẳng do bên ngoài mà có, chỉ nhờ vào duyên lau mài mà hiển hiện vậy.
Tuy nhiên, cậy vào tự lực tu hành để đoạn Hoặc chứng Chân, thật chẳng dễ dàng! Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt đứt dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống gì là Tư Hoặc! Vừa đoạn Kiến Hoặc bèn chứng Sơ Quả, dự vào dòng Thánh, vẫn còn phải bảy lần sanh lên trời, bảy lần sanh xuống nhân gian mới đoạn sạch được Tư Hoặc và chứng Tứ Quả. Tuy nói là mười bốn lần sanh tử, nhưng trên trời tuổi thọ rất dài, nên chẳng dễ gì luận bàn năm tháng cho được! Thánh nhân Sơ Quả muốn liễu sanh tử còn khó khăn như thế đó, huống chi phàm phu có đủ Hoặc nghiệp ư? Nếu chứng Tứ Quả thì vĩnh viễn cắt đứt căn bản sanh tử, vượt thoát ra ngoài lục đạo luân hồi. Nếu phát tâm đại bi thì vào đời độ sanh, thừa nguyện thị hiện hạ sanh, chẳng giống như kẻ Hoặc nghiệp đầy dẫy bị nghiệp lực thiện - ác lôi kéo, thăng - trầm trong sáu đường, tự mình không làm chủ được mảy may nào! Nếu không phải là người túc căn sâu dầy sẽ không thể tự lực liễu sanh tử được; chúng sanh đời Mạt sao có thể mong cầu! Do vậy, đức Như Lai đặc biệt mở ra một pháp môn Tịnh Độ, để hết thảy dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Tâm từ bi cứu giúp ấy tột bậc không còn gì hơn được nữa! Pháp tu trì này cũng phải nghiêm trì tịnh giới, tận lực tu Định - Huệ, nhưng phải kèm thêm sanh lòng tin phát nguyện, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương. Tín nguyện chân thật, thiết tha, niệm lực tinh thuần, ngay trong hiện đời cũng có thể chứng thánh, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, dự vào địa vị Bồ Tát, chứng địa vị Bất Thoái. Nếu như căn cơ kém hèn, chưa được như thế, chỉ cần chí tâm niệm Phật thì tâm và Phật khế hợp, cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung ắt được Phật từ tiếp dẫn đới nghiệp vãng sanh. Thậm chí kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện nếu tâm thức chẳng mê, có thiện tri thức dạy niệm Phật, người ấy sanh lòng sợ hãi lớn lao, sanh lòng thẹn hối lớn lao, dẫu chỉ niệm được mấy tiếng rồi liền mạng chung cũng vẫn được cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Được vãng sanh rồi thì vĩnh viễn thoát luân hồi, cao dự hải hội, tấn tu dần dần ắt chứng Phật Quả. Cậy vào tự lực để liễu sanh tử khó khăn như thế đó; cậy vào Phật từ lực để liễu sanh tử dễ dàng như thế này! Phàm những ai có tâm đều có thể niệm Phật, đều có thể vãng sanh. Là trang nam tử có chí khí, quyết chẳng chịu để Chân Như Phật Tánh sẵn có trái nghịch tịnh duyên, ngả theo duyên mê nhiễm, luân hồi bao kiếp trong lục đạo, không thể thoát ra!
Trinh nữ Trần Thánh Tánh vốn là người quê ở huyện Hoài Ninh tỉnh An Huy, cha cô vào độ tuổi trung niên theo đuổi nghề buôn bán ở Cam Tuyền, Dương Châu, bèn dời nhà sang đó, bà mẹ họ Cao. Trinh nữ sanh nhằm năm thứ chín đời Hàm Phong (1859), có ba chị em gái, người chị cả chính là mẹ ông Trương Thiệu Xuân, trinh nữ là con giữa, cùng với cô em đều tự ăn chay từ nhỏ, không ăn mặn. Ấy là sẵn có túc căn. Ba người em trai, lớn nhất là Thọ Thanh, từng được hậu bổ làm tri huyện Giang Tây đời Thanh trước kia. Kế đến là ông Mậu Chi, người em thứ ba là ông Mậu Như, đều theo nghề buôn bán muối. Trinh nữ đến tuổi cài trâm, cha mất, mẹ muốn chọn chỗ giạm hỏi cho, trinh nữ bèn đau đớn khóc lóc, thệ nguyện làm Anh Nhi Tử con gái nhà họ Bắc Cung[34], vứt bỏ trang sức để nuôi mẹ, ở đến già không lấy chồng. Cô em quyết chí xuất gia tu hành, còn trinh nữ thì lập chí ở tại gia hầu hạ mẹ. Mẹ biết chẳng thể thay đổi được chí hướng của con, liền để mặc. Mẹ cô có tật sạch sẽ quá đáng, phàm thức ăn, quần áo, giầy dép, mền gối, giường màn, không thứ nào không thay mới mỗi ngày, dẫu là sàn nhà cũng phải mỗi ngày lau chùi một lần, ba ngày rửa một lần, vì thế chuyện gì giao cho con hầu, vú già làm đều chẳng vừa ý, chỉ có trinh nữ nấu nướng, khâu vá, giặt giũ, rửa ráy mới vừa lòng mẹ mà thôi. Tận lực hầu hạ chăm sóc, chẳng để thiếu sót, hễ rảnh thì tụng kinh lễ Phật, không bỏ uổng ngày tháng. Dẫu nhằm dịp lễ tết cũng chẳng ra khỏi cửa đi chơi, tận tâm hiếu dưỡng, dốc sức tu Tịnh nghiệp đến mức như thế đó, không những đã trọn hết phận gái mà còn thật sự phụng trì Phật pháp. Về sau, cô lại quy y Tam Bảo, thọ Bồ Tát Ưu Bà Di giới, Thánh Tánh chính là pháp danh của cô vậy.
Đến khi mẹ mất, cô đau đớn cùng cực, sau đấy ở nhà người em trai, càng siêng năng tu trì. Mấy năm gần đây, Thiệu Xuân tin Phật ngày càng sốt sắng, cô từng đến thăm cháu mấy lần, mừng vì chí hợp đạo đồng, bèn không trở về nữa. Qua hơn một năm, các em trai phải ép đón về. Không lâu sau, tự biết mình còn ở đời không lâu, do các em trai và em dâu chỉ biết lễ nghi thế gian, đều chẳng hiểu Phật pháp, sợ lúc lâm chung họ thương cảm lưu luyến làm loạn chánh niệm đến nỗi bị mất lợi ích, bèn đến ở ni am của cô em gái để cầu chánh niệm vãng sanh. Không lâu sau, cô thị hiện bệnh nhẹ, gọi Thiệu Xuân và ba người em trai đến, nhờ thỉnh vị Tăng đầy đủ đức hạnh làm lễ thế phát cho cô làm ni cũng như thuyết giới cho, lại dặn sau khi mất nên hỏa táng để không còn sót lại vật gì, xả thân rồi không còn gì để nương náu nữa mới là tốt. Thiệu Xuân chấp thuận, cô liền tắm gội, mặc pháp phục, ngồi ngay ngắn niệm Phật. Thiệu Xuân bảo các vị ni và các ông em trai cùng niệm Phật trợ giúp. Các ông em trai buồn thương không cầm được, Thiệu Xuân tận lực răn nhắc họ đừng làm loạn chánh niệm của cô, các ông em trai đều nén lòng bi thương niệm Phật. Một chập lâu sau, dứt hơi, Thiệu Xuân bảo đại chúng nhất tâm niệm Phật hai tiếng đồng hồ, mặt cô càng thêm rạng rỡ hơn khi còn sống. Sức tu trì cả một đời được thể hiện trong khi ấy, chắc chắn sẽ được vãng sanh Tây Phương. Nếu không, sao có thể đạt được tướng lành như vậy ư? Lúc ấy nhằm giờ Sửu ngày 17 tháng Chạp năm Dân Quốc thứ 10 (1921), thọ sáu mươi ba tuổi. Tuy lúc lâm chung đã xuống tóc làm ni, nhưng chưa được mấy ngày, cũng như vì muốn hiển thị tấm lòng trinh bạch, đức hạnh đẹp đẽ, thủ tiết tận hiếu cả một đời của cô nên gọi là “trinh nữ”.
Mùa Xuân năm nay, Thiệu Xuân đến Phổ Đà lễ Đại Sĩ, thuật cặn kẽ sự việc, xin tôi soạn bài ký để khai phát đức ẩn kín, ánh sáng ngầm của cô. Tôi dựa theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, [xét thấy] Tịnh Nghiệp Chánh Nhân gồm ba điều: Một là hiếu thuận phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp; bốn điều này thuộc điều thiện thế gian. Hai là thọ trì Tam Quy, giữ đủ các giới, chẳng phạm oai nghi, ba điều này thuộc về Giới Thiện. Ba là phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả, bốn điều này thuộc về Huệ Thiện. Hai điều đầu tùy thuộc mỗi người mà thuộc về Đại Thừa hay Tiểu Thừa, nhưng điều này thuộc về Đại Thừa. Trong mười một sự ấy, dù trọn vẹn hay nửa phần, thậm chí chỉ làm được một việc, dùng lòng tín nguyện sâu, hồi hướng Tịnh Độ thì đều được vãng sanh. Huống chi trinh nữ làm được nhiều phần, lại thêm bình sinh chuyên tâm niệm Phật, lẽ đâu chẳng vãng sanh. Cô biết trước thời khắc, sau khi tắt hơi vẻ mặt lại càng thêm rạng rỡ, đủ chứng tỏ điều ấy vậy.
Do đó, bèn đem nguyên do của pháp môn Tịnh Độ và hạnh đẹp trinh hiếu, tịnh nghiệp của cô lược thuật những nét chánh, mong sao những bậc anh hiền trong khuê các và hết thảy thiện tín nghe đến phong cách của cô bèn hưng khởi theo, ai nấy trọn hết bổn phận và tu Tịnh nghiệp, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, càng tu Tịnh nghiệp càng giữ vẹn luân thường, sống thì được thêm tiếng tăm, mất liền gởi thân nơi Tịnh Độ. Trông ra những kẻ chỉ biết Thế Đế, chẳng hiểu Phật pháp, nghiệp thức mênh mang, không nơi nương tựa, uổng có Phật tánh mà mê mất toàn thể, luân hồi trong sáu nẻo, đọa lạc trong tam đồ đến cùng tận đời vị lai trọn chẳng có lúc thoát ra, dẫu hết cả năm cũng không thể nói hết được nổi. Phàm những ai thấy nghe hãy đều nên gắng sức vậy!
11. Bi ký lễ phóng sanh nhằm ngày sinh nhật của bà phu nhân cư sĩ Châu Mộng Pha ở Ô Trình[35]
Một niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh với tam thế chư Phật hoàn toàn chẳng hai, nhưng do mê chưa ngộ nên trải kiếp dài lâu luân hồi trong sáu nẻo mãi mãi không ngừng. Tuy đường lành trời người đem so với tam đồ ác đạo khổ - vui thật khác, nhưng đều tùy thuộc nghiệp lực thiện - ác thường bị luân chuyển. Do vậy, thiện đạo chẳng đáng để nương cậy, ác đạo thật đáng kinh sợ! Há có nên không vun bồi nhân lành, lầm tạo ác nghiệp, ỷ mình mạnh mẽ lấn hiếp kẻ yếu, bắt lấy hết thảy chúng sanh sống dưới nước, trên cạn, trên không trung đem giết hại để ăn uống ư? Trước kia, khi Phật Giáo chưa truyền sang, thánh nhân Nho Giáo đều dùng luân thường thế gian để lập giáo, đối với Phật tánh sẵn có của chúng ta và lục đạo luân hồi thăng trầm chuyển biến cũng như chuyện đoạn Hoặc chứng chân, siêu phàm nhập thánh dù Lý hay Sự đều chưa nêu tỏ. Vì thế, chẳng ngăn cấm giết chóc, nhưng cái tâm bất nhẫn đã được hiển hiện rõ ràng qua những giáo huấn để lại cho đời. Như kinh Thư nói chim, thú, cá, ba ba đều sống vui vẻ, sách Luận Ngữ nói “chỉ câu nhưng không quăng lưới, chỉ bắn chim đang bay, không bắn chim đang đậu”[36], Mạnh Tử nói “thấy sống liền không nỡ nhìn thấy chết, nghe thấy tiếng bèn không nỡ ăn thịt”, kinh Lễ chép: “Chư hầu không có lý do thì chẳng mổ trâu, đại phu không có nguyên do bèn chẳng giết dê, kẻ sĩ không có lý do sẽ chẳng mổ giết chó, lợn, thứ dân không có nguyên do sẽ không ăn đồ ngon quý”. “Đồ ngon quý” chính là thịt vậy! Đủ thấy Nho Tông cũng không phải là không răn cấm chuyện sát sanh, nhưng do giáo hóa phải quyền biến nên chưa thể ngăn cấm vĩnh viễn được! “Phải có lý do mới giết” nên giết chóc ít đi, không có lý do bèn không ăn thịt, nên một năm ăn thịt không được mấy ngày. Về sau, đạo giáo hóa suy sụp, quen thói tàn nhẫn, lấy thịt làm món ăn thường ngày, chỉ mong sao sướng miệng, chẳng nghĩ đến nỗi khổ của loài vật, chẳng đáng buồn ư?
Đến khi Phật Giáo truyền sang Đông, rốt ráo xiển minh thật sự thật lý thường trụ mãi mãi“hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh” và “hễ mê thì sanh tử luân hồi trọn không có lúc ngơi, hễ ngộ thì triệt chứng Niết Bàn, bao kiếp thường trụ” thì mới biết bao nhiêu dị loại đều là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai. Chẳng những không dám giết ăn, mà lại còn nghĩ cách khiến cho chúng được sống yên vui. Do vậy, vua thánh, tôi hiền, triết sĩ, thâm Nho đa phần tuân theo lời Phật giáo huấn, vun bồi lòng nhân, hoặc ăn chay, dứt ăn mặn, hoặc kiêng giết, phóng sanh. Những lời hay hạnh đẹp chép đầy trong sử sách, cũng mong cho người đời sau cùng tu từ tâm, thương những loài vật cùng có Phật tánh, do nhân duyên ác nghiệp phải đọa trong loài súc sanh, ta nay may được sanh trong loài người, nếu chẳng thương xót cứ mặc tình giết hại, khó tránh khỏi đời vị lai sau oan oan tương báo. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Giết thân mạng chúng, hoặc ăn thịt chúng, trải vi trần kiếp ăn giết lẫn nhau, ví như bánh xe xoay tròn, lần lượt lên cao xuống thấp không lúc nào ngưng nghỉ. Trừ [khi đắc] Xa Ma Tha và [khi] Phật xuất thế ra, chẳng thể ngưng nghỉ!” Nhưng đạo Xa Ma Tha[37] thật chẳng dễ đắc, Như Lai xuất thế cũng chẳng dễ gặp, nào dám chẳng học theo tiên hiền, tuân lời Phật dạy. Suy cái tâm sợ chết của chúng ta mà cứu vớt chúng nó đang đợi bị nấu nướng, ngõ hầu tiêu trừ túc nghiệp, vun bồi thiện căn, vĩnh viễn dứt cái nhân sát hại, cùng chứng quả trường thọ.
Cư sĩ Mộng Pha Châu Khánh Vân ở Ô Trình thuộc dòng vọng tộc tại Nam Tầm, ưa thiện, thích bố thí, đời đời tiếp nối đức hạnh, bà nội là Hứa Thái Phu Nhân bẩm tánh từ thiện, phước thọ song toàn, từ năm sáu mươi tuổi đến nay nhằm mỗi dịp sanh nhật đều khuyên các con đừng làm tiệc, mà dùng tiền đó để lo các thiện sự như giúp người nghèo, cứu người hoạn nạn, giúp đỡ bà góa, nuôi trẻ mồ côi, cho quần áo, tặng thuốc… Đức lành lan xa, cả làng đều kính ngưỡng. Đến năm bảy mươi chín tuổi lại dùng 500 quan tiền lập hội Phóng Sanh, các con đều vâng hiểu lòng từ của mẹ, kính cẩn thuật chuyện này, khắc vào bia đá đặt trong từ đường để con cái cháu chắt trong họ và những người được thấy nghe đều phát thiện niệm, tu cái nhân trường thọ.
Cư sĩ cùng người hôn phối đức hạnh là Trương phu nhân đều tận lực tuân thủ gia quy, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, chỉ mang tâm niệm lợi người cứu vật. Nay phu nhân tuổi đã tròn hoa giáp (sáu mươi), cũng muốn vâng tiếp gương lành, bỏ ra năm trăm đồng lập hội Phóng Sanh tại Thu Tuyết Am ở Tây Khê, Hàng Châu để thay thế cho lễ chúc thọ, dù con hay cháu cũng đều có thể tiếp nối chí nguyện người trước hòng đẹp lòng mẹ. Cư sĩ lại muốn dựng một tấm bia ngõ hầu người nghe tiếng đều khởi lòng cùng vãn hồi kiếp vận. Do vậy, bèn đem chuyện này ủy thác cho Quang trần thuật. Quang tự thẹn tài lẫn pháp đều nghèo, không cách gì giúp cho thế đạo được, nhưng một niệm ngu thành chỉ muốn cho người đời cùng phát từ tâm, cùng tu Tịnh nghiệp vãng sanh, sống làm một người chẳng thiếu nợ trong cõi Sa Bà, khi mất dự vào Liên Trì Hải Hội ở Cực Lạc. Do vậy, quên mình hèn tệ, lược thuật đại khái nguyên do kiêng giết phóng sanh và đức hạnh nhiều đời của họ Châu.
12. Bài ký nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của Tuần Cai[38] Tiểu Trúc
Hiếu là đạo không lớn lao nào vượt ra ngoài được, hết thảy các điều thiện không gì chẳng bao trùm, nhưng có điều thiện thế gian và xuất thế gian, đại - tiểu, bổn - tích khác biệt. Đạo hiếu thế gian là hầu hạ, phụng dưỡng cho [cha mẹ] được yên thân, tiếp nối ý chí của người trên để làm đẹp dạ, cho đến lập thân hành đạo để được lưu danh đến tận đời sau. Tuy là lớn - nhỏ bất đồng, nhưng đều thuộc về phương diện sắc thân. Dẫu cho đại hiếu ngút trời, rốt cuộc đối với tâm tánh, sanh tử của cha mẹ chẳng được lợi ích gì! Có thể nói là toàn chạy theo hình tích, chẳng xét đến cái gốc, huống chi sát sanh để phụng dưỡng, cúng tế khiến cho cha mẹ bị oán đối cố kết, nhiều kiếp đền trả chẳng ngơi ư?
Đạo hiếu xuất thế về mặt hình tích thì cũng giống như thế gian: Hầu hạ, phụng dưỡng cho đến lập thân, dương danh; nhưng về mặt cội gốc thì khiến cho cha mẹ huân tu đại pháp của đức Như Lai, [khi cha mẹ] còn sống thì khéo léo khuyên dụ ngõ hầu cha mẹ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Ăn chay thì chẳng tạo sát nghiệp, lại diệt được túc ương; niệm Phật thì ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo. Nếu có thể tin sâu nguyện thiết cầu sanh Tây Phương, ắt đến khi lâm chung được Phật tiếp dẫn, gởi chất nơi chín phẩm sen. Từ đấy siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn lìa các sự khổ chốn Sa Bà, thường hưởng những sự vui nơi Cực Lạc. Cha mẹ đã mất thì thay cha mẹ dốc lòng tu Tịnh nghiệp, chí thành hồi hướng cho cha mẹ. Nếu tâm chân thật, tha thiết thì cha mẹ được lợi ích, nếu chưa vãng sanh sẽ liền có thể được vãng sanh. Nếu đã vãng sanh ắt tăng cao phẩm sen. Đã có thể phát tâm như vậy thì tương ứng với Tứ Hoằng Thệ Nguyện, khế hợp giác đạo Bồ Đề, há nào phải chỉ riêng cha mẹ được lợi ích mà công đức, thiện căn của chính mình, phẩm bậc nơi đài sen lại càng được cao siêu thù thắng hơn, huống chi lại còn lấy thân mình thuyết pháp khiến cho khắp đồng luân đều phát tâm hiếu thuận ư? Đấy mới là thật nghĩa rốt ráo của Hiếu, chẳng phải như thế gian chỉ mong làm lợi cho sắc thân và đời này, hoàn toàn bỏ sót tâm tánh và vị lai chẳng bàn đến!
Do vậy biết Phật giáo lấy Hiếu làm gốc, cho nên kinh Phạm Võng chép: “Hiếu thuận phụ mẫu, sư tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo (đạo tột cùng). Hiếu gọi là Giới”. Trong các giới Giết - Trộm - Dâm đều dạy phải sanh lòng từ bi, sanh tâm hiếu thuận. Trong giới “bất hành phóng cứu” (Không thực hành chuyện phóng sanh, cứu vớt), có câu: “Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta, đời đời kiếp kiếp không lúc nào ta chẳng sanh ra từ họ, cho nên lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta. Giết họ ăn thịt chính là giết cha mẹ ta”. Do vậy, nói: Đạo hiếu của Phật giáo trọn khắp tứ sanh lục đạo, đến tận vô thủy trước, đến tột cùng vị lai sau, nào phải [đạo hiếu thế gian] chỉ biết một thân một đời có thể so sánh được ư? Đã như thế rồi mà chẳng kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, há có còn là đạo hiếu rốt ráo tột bậc không gì hơn được nữa hay sao?
Ông Trương Tử Ấm ở Hàng Thản hiếu thuận khôn nguôi, cha mẹ khuất bóng đã mấy mươi năm, mỗi lần nghĩ đến vẫn còn gạt lệ, do nghĩ đến cha mẹ bèn chuyên niệm danh hiệu Phật, ấy là vì sắc thân của ta đây chính là thân của cha mẹ, ta đã vì cha mẹ niệm Phật, cha mẹ ắt sẽ được Phật nhiếp thọ, ấy chính là hiếu! Đó gọi là “thế gian lẫn xuất thế gian đều vẹn toàn”. Đã có cha như thế ắt có con như thế; con ông là Hinh Cốc khéo hiểu lòng cha, dốc sức tu Tịnh nghiệp, rộng hành các điều thiện, thoạt đầu thỉnh khắp các bậc danh hiền phát huy đức hạnh thủ tiết nuôi con côi của bà nội là bà Phí Thái Nhụ Nhân[39], đức lừng lẫy khắp nữ giới, cho khắc vào tập Tinh Tiết Lục để an ủi tấm lòng trinh linh của bà nội, cũng như xoa dịu lòng thương nhớ hiếu thuận suốt đời của cha. Kế đó, do cha luôn nghĩ nhớ, bèn dựng một cái thất nhỏ, trồng la liệt tùng, trúc, đặt tên là Tuần Cai Tiểu Trúc, trong thất thờ hình bà nội, bốn vách treo đầy những đề vịnh của các bậc danh hiền, để cha thường được thờ phụng hình bóng bà, giữ lòng thành như bà đang còn sống.
Lại vì Tuần Cai Tiểu Trúc bèn cầu tìm đề vịnh của khắp các bậc danh hiền để tỏ rõ lòng hiếu thuận của cha, ngõ hầu cảm phát đồng nhân, phù hợp sâu xa đạo “hiếu thuận cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp” của Quán Kinh. Đã có Tịnh nghiệp chánh nhân, ắt đạt được thật quả vãng sanh. Cha con ông Tử Ấm và các quyến thuộc tuy vẫn sống trong Sa Bà, nhưng quả thật đã là các thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những ai muốn hiếu thuận với cha mẹ trong cõi đời, chẳng thể không lấy điều này làm gương vậy!
13. Bi ký về việc tạo lan can sắt bên đường lên Phật Đảnh Sơn
(viết thay cho Văn Chất hòa thượng)
Viên Thông đại sĩ thệ nguyện hoằng thâm, pháp giới hữu tình đều được bình đẳng nhiếp thọ, Phổ Môn thị hiện trong hết thảy xứ, chân trí không ngằn mé. Danh sơn Bổ Đát ở Đông Nam Hải là chỗ Ngài ứng tích. Do không ngằn mé nên bèn tùy theo hình loại, thí lòng từ bi đồng thể. Do có nơi chỗ nên bèn vượt biển trèo núi, báo đáp ân đức khôn ngằn. Do vậy, bao triều đại đều khâm kính, cả cõi đời cùng tôn sùng. Không ai chẳng muốn cầu chúc mọi người cùng được khỏe mạnh, yên vui để cõi đời thạnh trị, tiêu tai lệ để tạo phước cho lê dân. Vì thế, ba ngôi chùa đứng như thế chân vạc, các am la liệt; chùa nào am nấy đều hoằng đạo Tổ, đều cùng xiển dương Phật tâm. Chỉ riêng chùa Huệ Tế xây nền trên đảnh núi mang tên là Phật Đảnh, quanh co mấy dặm, đường đi xếp bằng đá tảng, vòng vèo cao ngàn nhận[40] khác nào người leo thang lên trời. Mỗi khi đến kỳ dâng hương, người qua lại nhộn nhịp, chân đạp trên đá trơn hết sức nguy hiểm.
Vị trụ trì đời trước là Văn Chánh quyên mộ các đàn tín xây dựng con đường đá khiến cho con đường hiểm trở biến thành khang trang, dù cao vòi vọi, ngút ngàn, nhưng bước nào cũng bằng phẳng, nhưng vì bên đường không có gì ngăn chặn nên qua lại vẫn cảm thấy rờn rợn. Vị đại hộ pháp là ông Chúc Đại Xuân xưa đã gieo cội đức, dốc lòng tin tưởng Phật thừa; đã thế, trong cõi tục, ông ta lại có địa vị trong chánh quyền, hành đạo “tu chân ngay trong cõi tục”, gặp dịp đến đây dâng hương trông thấy tình cảnh ấy, bèn phát đại tâm, cho dựng lan can sắt khắp nơi, khiến cho mọi người đến đây lên đạo tràng viên thông đều đi đường yên ổn, không sợ hãi gì nữa, chẳng mất công cứ mỗi bước lại phải nhìn xuống chân, đắc đại tổng trì, hiểu rõ bậc thềm Phật ở tại ngay nơi ấy, nương theo đường chăng bằng giây vàng, đâu đâu cũng gặp đạo. Từ dưới đất vịn nắm quanh co, đi một mạch lên đến nơi sơn cùng thủy tận, từ đấy nhập vào Phật huệ, tự thấy Quán Âm. Công đức như thế thật giống như sức Phổ Môn Thí Vô Úy, có cùng một Thể - Tướng - Dụng; ắt sẽ do đây nhanh chóng vượt lên Thập Địa, viên mãn Tam Giác, không những thân tâm được yên vui, điều tốt lành nườm nượp xảy đến dài lâu dằng dặc, mà điều mừng vui còn thấu đến tận hậu duệ nữa!
14. Bi ký trùng hưng chùa Tịnh Cư ở Tế Nam[41]
Nơi Thật Tế lý địa trọn chẳng có cái tên chúng sanh và Phật, trong pháp môn tu trì mới có danh hiệu phàm và thánh. Tâm thể vốn vắng lặng, do phiền hoặc nên hôn trược bèn nhanh chóng hiện ra. Vọng tánh vốn không, do giác chiếu nên chân thường riêng tồn tại. Do vậy biết: Bất biến tùy duyên mười giới thăng trầm rất khác; tùy duyên bất biến, Thể - Dụng của nhất tâm không khác. Tâm ấy, lý ấy mọi chúng sanh đều có, nhưng triệt ngộ, triệt chứng chỉ có mình đức Phật. Vì thế, đức Thế Tôn ta thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy cơ thuyết pháp. Với kẻ đại căn bèn chỉ ngay Nhất Chân pháp giới khiến họ vô trụ sanh tâm, cho đến khi đoạn Hoặc chứng chân. Với kẻ căn khí nhỏ nhoi bèn giảng cặn kẽ tam thế nhân quả, khiến họ hướng lành tránh dữ, dùng đó làm phương tiện nhập đạo. Tuy ngàn căn cơ đều được dưỡng dục, pháp không có tướng nhất định, nhưng muôn dòng đều quy hướng, đều đổ vào biển giác. Phàm nói đến đạo “cách vật trí tri, chánh tâm thành ý, tu - tề - trị - bình” thì chẳng khác gì khuôn phép của Nho Giáo, nhưng chuyện “minh tâm kiến tánh, chân cùng, Hoặc tận” thì Nho Giáo chưa thể phát huy được. Bởi lẽ một đằng tùy thuận tình kiến thế gian, một đằng chỉ thẳng vào tâm thể (bản thể của tâm). Nếu xét đến cội gốc thì Linh Sơn, Tứ Thủy ở cùng một đất, Đông Lỗ[42], Tây Trúc thực chẳng phải hai trời. Do vậy, vua quan đời cổ không ai chẳng hoằng dương, hộ trì, những bậc hiền triết thời nay thảy đều nghiên cứu đến cùng tận, bởi lẽ pháp này về mặt ngầm là giúp cho đạo bình trị, về mặt tỏ khiến dân tình yên lành, tiêu họa loạn ngay khi chưa chớm, chứng Phật tánh sẵn có vậy.
Tế Nam là khu vực nổi tiếng của vùng Tề - Lỗ[43], là xứ văn hiến. Nhằm lúc pháp đạo hưng thạnh thời Đường, thời Tống, đã có những ngôi chùa nổi tiếng. Đến nay lâu đời chầy tháng, người mất, giáo suy, bao nhiêu tùng lâm thảy đều suy tàn, dẫu có chùa miếu đều trở thành [tài sản truyền riêng cho] con cháu. Chẳng những hàng Tăng tục nơi địa phương không có cách nào được nghe pháp, ngay cả hàng pháp lữ qua lại cũng không có chỗ nghỉ ngơi. Cư sĩ Đối Phù Phan Thủ Liêm xưa đã vâng lời Phật phó chúc, thừa nguyện tái lai, đọc sách thấu hiểu lý, học đạo yêu người, những chuyện cai trị khéo léo khi xưa của ông đều được lưu truyền nơi bia miệng. Những chuyện tu trì như kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật của ông trong mấy năm gần đây đều khắc vào tâm người. Lòng thành cứu nạn, giúp nghèo, hộ pháp, giúp cho tăng chúng yên trụ của ông thật có thể noi gót Cấp Cô Độc, tiếp nối Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm). Thường nghĩ nhân dân đời mạt như người mù không ai hướng dẫn, lại do nơi tỉnh hội hoàn toàn chẳng có thập phương tùng lâm, nên cao tăng không có duyên đến trụ, chánh pháp không cách gì được hoằng thông; lý nhân quả ba đời, đạo “nhất tâm tạo đủ mọi sự” gần như bị dứt bặt, làm sao cứu vớt thế tục đang bị chìm đắm, đưa dân chúng lên bờ giác cho được?
Vào năm Dân Quốc thứ bảy (1918), ông thương nghị với vị Trụ Trì đã thoái ẩn của am Phổ Tế ở Tế Ninh là ngài Đức Hinh, ngài Đức Hinh bèn sai phương trượng am ấy là Kiến Huệ đến Tế Nam tìm đất, thấy mười mấy mẫu đất thuộc nền cũ của Tịnh Cư Tự ở Đông Quan là nơi có thể lập đạo tràng. Chùa này được lập vào thời Bắc Tống, nay đã thành chốn gò hoang, chỉ còn lại ba gian Phật điện nhưng cũng sắp sụp đổ. Người trông coi chùa muốn tu bổ nhưng khổ nỗi không có sức, gặp đúng lúc thầy Kiến Huệ đem chuyện muốn quyên mộ đất để lập tùng lâm ra nói, người ấy cố nhiên khâm phục đức của ông Phan, ngài Đức Hinh, thầy Kiến Huệ, nên bèn vui vẻ dâng tặng, lại bẩm lên huyện lập giấy tờ để làm bằng chứng. Ông Phan tuổi cao, đã thuộc vào hàng thất thập, bèn lên kinh đô, xin ông phụ tá của Quốc Vụ Tổng Lý (Thủ Tướng) là ông Cận đứng ra đề xướng, ông Cận bèn quyên tặng hai ngàn đồng. Khi ấy, con ông Phan là Phục, giữ chức Tổng Trưởng Tài Chánh, quyên góp khắp trong đất Đàm[44] được tất cả năm ngàn đồng, lại tùy duyên quyên góp được khoảng sáu ngàn đồng nữa, bèn khởi công vào mùa Xuân năm Dân Quốc thứ chín (1920), đến mùa Thu thì hoàn thành. Khi ấy, gặp đúng lúc đốc quân Du Quan là ông Điền Uẩn Sơn đóng quân ở Sơn Tả, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, nên khẳng khái quyên ra một ngàn đồng, cực lực đề xướng, lại còn phái người thay mặt đến trước để phụ đôn đốc, nên mau được hoàn thành.
Trù tính tu bổ Phật Điện, Thiên Vương Điện, mỗi nơi đều ba gian. Vây quanh là Tổ Đường, Già Lam Điện, Phương Trượng, Niệm Phật Đường, Thiền Đường, Trai Đường, Đại Môn (cổng chánh), Khách Đường (nhà tiếp khách), Khách Sảnh (chỗ nghỉ cho khách), Trù Phòng (nhà bếp) v.v… tổng cộng hơn năm mươi gian, tuy chưa đáng gọi lầu cao giăng mắc, điện các vòi vọi, nhưng cũng đã tiến hành tham thiền, niệm Phật, hoằng pháp lợi sanh được rồi. Đến ngày Mười Chín tháng Chín, làm lễ khai quang tượng Phật, thành lập đạo tràng, treo chuông, bản lên, người đèn nhang lễ Phật chen vai, thích cánh, khi đó có chuyện lạ đứa bé con té giếng, được Phật cứu vớt, nằm yên ổn trong nhà. Về sau, có chuyện tốt lành là có một người già cả mắc bệnh lâu ngày không khỏi, nằm mộng thấy có người cho uống nước giếng này liền được lành bệnh. Đến năm Dân Quốc thứ 10 (1921), vùng Tế Ninh hạn hán lớn, ôn dịch tràn lan, mọi người cùng kéo nước giếng này để uống và cầu đảo thì mưa ngọt bèn tuôn xuống khắp nơi, ôn dịch dứt ngay. Do vậy, mọi người đều gọi là Thánh Thủy. Vì thế bèn lập một cái đình bát giác để che giếng, khắc bia ghi lại việc này. Ôi chao! Lạ lùng thay! Lòng thành đến cùng cực thì vàng đá cũng nứt. Đấy là do lòng thành của ông Phan, các thầy Đức Hinh, Kiến Huệ, phát khởi lòng thành của mọi người thành lập đạo tràng này, do lòng thành của mọi người tương cảm nên Phật từ bèn rủ lòng ứng theo, cho nên mới có những chuyện chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đủ chứng tỏ “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt!” Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, cảm ứng đạo giao, giống như đã có hình ắt có bóng, có tiếng ắt có tiếng vang.
Tuy chùa đã thành lập, nhưng Tăng không được nuôi dưỡng thì cũng không thể an cư hành đạo; do vậy, ông Phan lại quyên mộ được một vạn hai ngàn đồng gởi vào công ty Lỗ Phong với lãi suất khởi đầu một phân hai ly, mỗi tháng thu được một trăm bốn mươi bốn đồng, dùng làm tiền ăn uống và chi phí những thứ cần dùng trong chùa, có thể nuôi được hai mươi vị Tăng thường trụ và mười vị Tăng quải đơn[45]. Sau này nếu có bậc đại từ thiện quyên tặng khoản tiền lớn hơn thì sẽ căn cứ theo khả năng mà mở rộng quy mô hơn nữa. Chùa thành lập rồi, hai vị Đức Hinh và Kiến Huệ nối nhau quy Tây; do vậy, bèn thỉnh vị Trụ Trì đã thoái ẩn của Thiên Mục là Năng Hòa Lão Nhân tạm thời chấp chưởng, nay thỉnh hòa thượng Diệu Liên thuộc chùa Hoa Nghiêm ở Duyện Châu[46] làm Trụ Trì.
Việc tu trì trong chùa chuyên chủ Tịnh Độ, không truyền giới, không làm kinh sám thù tạc. Thí chủ có tín tâm đến chùa niệm Phật hoặc đả Phật thất để hồi hướng cho tiên linh hoặc cầu phước thọ thì không cự tuyệt. Do pháp môn Tịnh Độ chính là pháp quy tông kết đảnh của hết thảy các pháp, hạ thủ dễ thành công cao, dùng sức ít lại được hiệu quả nhanh chóng, là vô thượng diệu đạo để phổ độ chúng sanh của Như Lai, quả thật là pháp môn đặc biệt để cả phàm lẫn thánh cùng lên bờ giác. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, tu các pháp môn khác khó thể được lợi ích thật sự, bởi lẽ hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có pháp Tịnh Độ này hoàn toàn nương vào Phật lực. Cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng chân nếu không phải là bậc lợi căn cao nhất thì chẳng thể liễu thoát ngay trong đời này! Nương vào Phật lực, có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dẫu là hạng độn căn thấp nhất cũng có thể đới nghiệp vãng sanh. So sánh hai pháp thì sự khó - dễ, nhanh - chậm khác nào trời với vực. Do vậy, mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, thánh hiền hai cõi phát tâm Kim Cang lưu truyền.
Lược nêu tóm tắt những ý chánh để bảo cùng đồng nhân, nếu ai tin tưởng chắc thật thì lợi ích vô tận. Phương danh của những vị thí tiền của được ghi đầy đủ ở mặt sau bia, nhờ vào công đức này ắt hiện đời phước thọ tăng trưởng, lâm chung được Phật Di Đà tiếp dẫn vậy!
15. Bi ký Vạn Niên Niệm Phật Hội ở Thường Minh Am
Từ nơi phàm tình hiển lộ Như Lai Tạng, dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, dẫn sáu nẻo lên chín phẩm sen, vượt thoát tam giới hưởng tứ đức, trong thời Ngũ Trược lừng lẫy, làm một tông viên mãn ngay trong một đời thì chỉ có pháp Niệm Phật là được như vậy mà thôi! Khi xưa, Lập Sơn Lão Nhân trùng hưng chùa Pháp Vũ suốt mười mấy năm, muốn thoái ẩn nơi tịnh thất để chuyên tu Tịnh nghiệp, nên mới dựng am này, hòng làm chỗ cho chính mình và các đồ đệ gieo tấm lòng thành cho đến hết đời, mong trở về An Dưỡng. Cảnh giới vắng lặng, cách tuyệt cõi trần, quy củ nghiêm túc, không dễ dãi chút nào; chẳng phải là người không tham thế duyên, cam chịu đạm bạc, dốc chí tu trì cầu sanh Tịnh Độ sẽ chẳng thể ở đây được!
Vào năm Tuyên Thống thứ hai (1910) đời Thanh trước kia, nhằm khi sư Liễu Đế làm đương gia, có các cư sĩ Trần Lạc Chi, Cố Thọ Bành v.v… lên núi dâng hương, ở nhờ am này. Trông thấy am quy (quy củ trong am) nghiêm túc, Tăng chúng nghiêm tịnh, xa là tiếp nối được liên xã của Khuông Lô, gần là thừa kế Tịnh tông của ngài Vân Thê. Thầy Liễu Đế lại vì họ giảng cặn kẽ pháp Niệm Phật, sự tuy giản dị, nhưng lý cực viên đốn, độ khắp ba căn, lợi - độn cùng thâu, là tông yếu tối thượng của vô lượng pháp môn trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai. Hết thảy pháp môn, hằng sa diệu nghĩa không gì chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không gì chẳng trở về pháp giới này. Do vậy, vị Tổ của ta là Lập Sơn Lão Nhân dựng lập am này để tiếp độ con cháu.
Bọn họ vừa nghe như vậy bèn phát đại tâm, chọn lựa tập hợp mấy mươi người cùng chí hướng, ai nấy đóng góp bao nhiêu đó tiền, lập ra Vạn Niên Niệm Phật Hội, bắt đầu từ ngày Mười Chín tháng Hai của năm sau cho đến ngày Hai Mươi Lăm là viên mãn, đêm hôm đó làm lễ thí thực để cứu giúp mọi cô hồn, vĩnh viễn lấy đó làm lệ nhất định, chẳng được sửa đổi. Am này đem số tiền thanh tịnh ấy, ngoại trừ phần dùng để làm chi phí trong pháp hội ấy ra, phần còn lại dùng để mua ruộng hết. Hoa lợi thâu được liền dùng để lập pháp hội kế tiếp. Số tiền còn dư thì dùng để giúp chi dụng cho thường trụ. Sợ rằng lâu năm không chứng cớ, bèn khắc vào đá quý kiên cố, ngõ hầu ức vạn năm sau không bị phế bỏ. Sẽ thấy đạo tràng Thường Minh hương đèn ngày càng thạnh, mười phương đàn-việt tín tâm càng nồng, cùng dự Phật hội, cùng niệm danh hiệu Phật, cùng sanh cõi Phật, cùng thành Phật đạo, công đức lợi ích làm sao diễn tả cho được? Những quy củ được ghi tường tận ở phần sau.
16. Bài ký nơi tháp hóa thân của chùa Phổ Tế tại Phổ Đà
Cổ nhân nói: “Tử sanh cũng lớn lắm, há chẳng đau đớn ư?” Trộm nghĩ: Chẳng biết nguyên do, dù có đau lòng nào có ích gì đâu? Phải biết hết thảy chúng sanh theo nghiệp lưu chuyển, thọ sanh trong sáu đường. Sống chẳng biết từ đâu đến, chết chẳng biết đi về đâu. Do tội phước, nhân duyên bèn thăng - giáng, xoay vần luân hồi trọn không lúc nào ngơi. Như Lai thương xót, dạy cho nhân duyên “do Hoặc khởi nghiệp, do nghiệp cảm khổ” và bản thể “thường - lạc - ngã - tịnh, tịch chiếu viên dung”, khiến cho họ biết rõ: Do vô minh nên mới có thân này, tức là sắc thân này hoàn toàn thuộc huyễn vọng, chẳng những Tứ Đại không có mà ngay cả Ngũ Uẩn cũng đều là Không. Đã biết các Uẩn là Không thì diệu lý Chân Như Pháp Tánh Thật Tướng sẽ triệt để phô bày trọn vẹn. Lại sợ có kẻ tình chấp kết chặt chưa thể giải thoát, nên sau khi xả báo bèn dùng lửa thiêu hóa, ngõ hầu người chưa lìa chấp trước sẽ mau lìa được, người đã lìa được bèn mau chứng Pháp Thân, lại còn khiến cho hiện tiền đại chúng ngộ biết thân này chẳng chân thật, dùng ngay cái thân ấy để làm chứng minh. Ấy gọi là “nên dùng thân hóa thành tro, diệt mất dấu tích để độ, bèn hiện thân cháy thành tro, diệt mất dấu tích để thuyết pháp”. Do đây bèn lập ra quy chế hỏa táng, phàm những ai thuộc vào Tăng đồ đều tuân hành.
Nhằm lúc pháp đạo thạnh hành vào đời Đường, đời Tống, những người tại gia thông hiểu đa phần cũng tuân theo, chứ không chỉ riêng Tăng chúng mới vậy. Phổ Đà chính là đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ; Phổ Tế, Pháp Vũ là tùng lâm thập phương cộng trụ, Tăng chúng đến - đi quả thật rất đông. Phàm những vị mất đi đều dùng lửa thiêu hóa, nhưng lò thiêu rất thô sơ, chẳng những tốn nhiều củi đốt, lại còn khiến cho xương bị trộn lẫn với tro đất. Các cư sĩ đương thời túc căn sâu dầy dốc lòng tin tưởng Phật pháp, phát tâm Bồ Đề làm chuyện lợi lạc, bèn phỏng theo cách thức của ngoại quốc, nghiên cứu châm chước sao cho thích hợp, chuẩn bị nhân công, vật liệu, tạo cho hai chùa trước và chùa sau mỗi chùa một lò. Do lò ấy hình như cái tháp, nên gọi là Tháp. Mỗi tháp tốn hơn cả ngàn bạc, có thể nói là công đức chân thật vậy. Tháp vừa dựng xong, gặp đúng lúc có người vãng sanh, chưa đầy ba tiếng đồng hồ đã thiêu sạch sẽ, tro xương đều đựng trong hộp sắt, không bị lẫn lộn với tro đất nữa. Do vậy, đại chúng hoan hỷ, mong khắc vào đá để ghi lại. Minh[47] rằng:
Ban đầu thọ thân là do vô minh, mê cái gốc Chân Như, lầm sanh ái tình, ái tình đã khởi, huyễn chất gá vào, nhận lầm là Ngã, vĩnh viễn chẳng giác. Như Lai thương xót, riêng lập phương tiện, khiến cho kẻ còn, người mất đều lìa Ngã Kiến. Thân còn chẳng được, Ngã từ đâu có? Diệt trọn bốn tướng, Ngũ Uẩn đốn không. Sanh - diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền. Chân Như Pháp Tánh trở về sẵn có. Lìa tướng huyễn vọng, phát tâm Bồ Đề, hồi hướng Tịnh Độ, gần đấng Quang Thọ, nghe pháp, thọ ký, chứng Vô Sanh Nhẫn, nương đại nguyện luân độ cho những kẻ thật đáng thương xót, khiến cho hết thảy cùng sanh Tây Phương, đều trong vị lai làm đấng Pháp Vương.
17. Bài ký nơi tháp hóa thân chùa Pháp Vũ, Phổ Đà
Ngã Chấp của chúng sanh kiên cố khó phá lắm thay! Cái sắc thân này vốn do đất, nước, gió, lửa Tứ Đại hợp thành, nhưng lầm chấp là Ngã, như dầu lẫn vào miến, vĩnh viễn chẳng thoát, đâm ra mê trái toàn thể [chân lý] “Chân Ngã chẳng thuộc Ấm - Giới, chẳng thuộc thánh - phàm”, như gương bị bụi lấp, chẳng thể chiếu soi. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí đều được hiện tiền”. Do vậy biết tâm tánh của chúng sanh ngang bằng chư Phật, nhưng do chấp trước mà chẳng thể thọ dụng, chẳng đáng buồn ư?
Vì thế, đức Như Lai thuyết pháp đủ cách khiến cho chúng sanh biết rõ cái sai từ trước đến nay “nhận lầm Tứ Đại là thân tướng, [tưởng lầm] duyên ảnh của sáu trần là tướng của tự tâm” thì “chân thân thường - lạc - ngã - tịnh, chân tâm tịch chiếu viên dung” bèn tự được hiển hiện toàn thể. Lại do những người chấp chặt thân tướng, căn cơ ám độn cũng khó liễu ngộ thân này là vọng, ngõ hầu chẳng sanh chấp trước, cho nên sau khi xả báo, bèn đem hỏa thiêu, đột nhiên chẳng còn gì nữa. Như thế thì người còn lẫn kẻ mất đều ngộ được cái thân do Tứ Đại giả hợp chẳng phải là thân. Các cư sĩ đương thời từ xưa đã có linh căn, tận lực tu tịnh hạnh, tâm lợi người tha thiết, lòng hộ pháp ân cần. Do từ trước đến nay lò thiêu chưa thích đáng, nay muốn sửa đổi cho tốt đẹp hơn, bèn tinh chuyên nghiên cứu, phỏng theo cách thức của ngoại quốc để sửa đổi, tạo cho Pháp Vũ, Phổ Tế mỗi chùa một lò. Hình cái lò ấy giống như cái tháp nên gọi là Hóa Thân Tháp. Phí tổn tính ra hơn cả ngàn bạc, ý đẹp, cách hay, công đức vô lượng.
Minh rằng: Chúng sanh mê trái chẳng phải Ngã, lại chấp là Ngã, như tằm kéo kén, như con thiêu thân đâm đầu vào lửa. Vốn có Chân Ngã mà chẳng đoái hoài, Tứ Đại huyễn chất lại cứ lầm nhận. Như Lai xót thương, dạy dỗ đủ cách, lại dạy hỏa thiêu, để toàn trí chiếu. Đã biết là vọng bèn hiểu được chân, đắc Vô Ngại Trí, thấy thân vốn có. Nương trí thân ấy hồi hướng Tịnh Độ, được vô lượng thọ, dự vào Bổ Xứ, chẳng lìa An Dưỡng, vào khắp mười phương, khiến khắp kẻ mê trở về quê nhà sẵn có. Do vậy chúng sanh đều khôi phục bản tánh, phước huệ trọn đủ, tiếp nối huệ mạng Phật. Nguyện đem công đức này trao cho khắp tất cả pháp giới hữu tình đều chứng Chánh Giác.
18. Bài ký về chuyện Lý Thái Phu Nhân ở Trấn Hải thắp đèn soi sáng biển
Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh thường quang, tất cả những gì sáng - tối, thông - tắc, xa - gần thảy đều chiếu thấu suốt không sót. Vì vậy, chẳng cần nhờ vào ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc mới thấy được. Hiềm rằng chúng sanh mê muội bản tánh, trái giác hiệp trần, đến nỗi Phật tánh thường quang ấy biến thành phiền não vô minh, chẳng những chỗ tối tăm, ngăn lấp, xa xôi không thấy được, ngay cả những thứ ở gần ngay trước mắt nếu không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc, dù là Thái Sơn vẫn không thể thấy được, huống gì những thứ khác! Do vậy, luân hồi trong biển khổ sanh tử như người mù không ai dẫn đường, trọn chẳng thể thoát ra được! Chẳng đáng buồn ư? Đức Đại Giác Thế Tôn xót thương, nói ra đủ mọi pháp khế lý khế cơ, khiến họ bỏ vọng theo chân, trái trần, hiệp giác, hầu khôi phục Chân Như Phật Tánh sẵn có. Lại sợ kẻ căn cơ hơi kém, trong đời này chưa thể đoạn hết được phiền hoặc, qua một đời sau lại thành mê muội, nên bèn mở ra pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Bất luận trung hạ căn, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha niệm danh hiệu Phật sẽ quyết định vãng sanh, vạn người chẳng sót một ai! Quả thật là vô thượng diệu pháp bậc nhất để phổ độ chúng sanh của đức Như Lai. Ví như ngồi trên chiếc tàu lớn vào trong biển cả, cứu vớt khắp những kẻ chìm đắm cùng lên bờ kia. Có duyên gặp được pháp này thì còn may mắn nào hơn!
Lý Thái Phu Nhân ở Trấn Hải là mẹ của ông Vân Thư, túc căn sâu dầy, hiện đời tu tập tinh thuần, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, rộng hành phương tiện, chẳng những đáng là bậc mẫu nghi nơi khuê các, đức lẫy lừng nữ giới, mà quả thật còn đáng là gương mẫu cho cả xóm làng, tận lực hộ trì thánh giáo. Huyện Phổ Đà nằm bên biển cả, là đạo tràng ứng hóa của Quán Âm đại sĩ, chỗ cao nhất gọi là Phật Đảnh. Lên đảnh núi nhìn xa bốn phía, biển mênh mông tiếp nối trời, quả thật mở rộng cõi lòng, tăng trưởng trí thức. Năm Quang Tự 30 (1904) đời Thanh, tức năm Giáp Thìn, các ông Triệu Phức Trù, Đồ Cảnh Tam tạo một tháp đèn ở nơi ấy để thường thắp sáng mỗi đêm ngõ hầu trừ nỗi hiểm thuyền vỡ vì đi lạc phương hướng. Lại dựng ba gian Phật đường để những ai đến đảnh Diệu Cao Phong này đều trông thấy đức Quán Âm. Thái phu nhân cũng đã quyên tặng bao nhiêu đó tiền; tiếp đó, bà nghĩ: Ngọn đèn này vốn thuộc về Phật quang, chẳng những khiến cho thuyền bè qua lại chẳng đi sai hướng mà còn có thể khiến cho những người từ bốn phía trông thấy từ xa bèn nghĩ nhớ Đại Sĩ. Do vậy muốn cúng dầu đốt đèn nhiều năm. Do tịnh nghiệp chín muồi sẽ quy Tây, cụ bèn dặn dò con là ông Vân Thư vì cụ lo liệu.
Mùa Xuân năm Quý Hợi (1923), những vị thiêng liêng trong núi muốn cho quy mô được mở rộng, lại muốn cho người đời sau cùng được gieo thiện căn bèn nhờ sức thần Chúc Dung[48] thiêu sạch Phật đường đã dựng từ xưa, Tăng chúng chùa Huệ Tế lại quyên mộ kiến tạo, Vân Thư bèn đem số phiếu công trái kỳ hạn bảy năm, giá trị năm ngàn đồng cúng cho chùa Huệ Tế, chỉ định chuyên dùng [số tiền ấy] để chi phí mua dầu thắp đèn nơi tháp hải đăng. Phiếu ấy lợi tức mỗi năm là sáu ly (6%), tính ra tiền là ba trăm đồng, đợi đến khi nào rút thăm được hoàn lại tiền vốn thì sẽ đem tiền ấy giao cho nhà chùa mua ruộng đất, dùng hoa lợi thâu được làm chi phí thắp đèn. Hễ Phật Đảnh còn tồn tại thì đèn ấy chẳng diệt, tâm quang của hiền mẫu hiếu tử cũng nương theo Phật quang chiếu mãi ức vạn năm. Những kẻ trong cõi đời đuổi theo thanh sắc, tiêu vàng như đất, đến nỗi cha mẹ, anh em đều chẳng buồn hỏi đến, nghe phong thái của ông Vân Thư há chẳng thẹn đến chết ư? Do vậy, tôi vui vẻ soạn bài ký, muốn cho hết thảy chúng sanh cùng dùng đèn sáng Phật pháp phá trừ tối tăm phiền hoặc, do đây cùng thoát khỏi biển khổ sanh tử, cùng về quê nhà Cực Lạc, làm con thật sự của đức Di Đà, làm bạn tốt của Đại Sĩ vậy!
19. Bài ký trùng tu tháp viện của ngài Bách Trượng Đại Trí Hoài Hải thiền sư
Từ khi đức Thế Tôn cầm cành hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười, Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn diệu tâm được truyền thừa mãi mãi. Hai mươi tám vị Tổ ở Tây Thiên, sáu vị Tổ ở Đông Độ tâm tâm tương ấn, nên pháp này được thạnh hành, rạng rỡ ở Thiên Trúc lẫn Trung Hoa. Đến thời môn đệ của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, xuất hiện ngài Mã Tổ Đạo Nhất mở ra mối pháp vượt khỏi cách thức thông thường, phương cách tiếp độ căn cơ không ngằn, khéo léo không gì sánh ví được. Đối với những kẻ mê tình liền dạy tâm bổn giác, chẳng lìa đương niệm siêu phàm nhập thánh, như sấm sét rung trời, nghe rồi đều táng thân mất mạng, như cam lộ, Đề Hồ nếm vào [liền giống như] đã chết rồi bèn sống lại, chẳng những đại giáo của đức Như Lai đều hiện rõ chân tâm thường trụ, mà ngay cả sơn hà đại địa cũng hiển lộ diệu thể của đấng Pháp Vương, khiến cho mọi hình mọi sắc trong thế gian đều quy về quang cảnh nơi bổn địa. Với pháp gì, chuyện gì trong khắp cùng vũ trụ cũng thấy chính là đương nhân.
Do vậy, trong đồ chúng của Ngài có tám mươi bốn vị tri thức kiệt xuất, nhưng Hoài Hải thiền sư thật là bậc nhất. Trong lúc vịt trời bay qua, bèn vặn đầu mũi lôi lại[49], quát to một tiếng, tai điếc ba ngày, khác nào tượng vàng gỡ khỏi khuôn, quang minh chiếu khắp, sư tử ra khỏi hang oai mãnh khôn địch, bèn đại khai đạo tràng tuyển Phật tại núi Bách Trượng. Dùng lò luyện “một pháp chẳng lập” đúc thân Phật vạn đức sẵn đủ để tự hành dạy người; Luật, Giáo, Liên (Tịnh Độ) tu trọn vẹn không gián đoạn, một đạo Giới - Định - Huệ cùng hành, tùy cơ thuyết pháp, hoàn toàn chẳng lưu dấu tích, nhưng đoạn văn “linh quang riêng chiếu, thoát khỏi Căn - Trần, thể lộ chân thường, chẳng câu nệ văn tự, tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa được vọng niệm thì chính là Như Như Phật” là thân thiết nhất. Ngài lo lắng sâu xa khi pháp tồn tại lâu ngày sẽ nẩy sanh mối tệ, nên nghiêm cẩn lập ra Thanh Quy để làm khuôn phép ngăn ngừa sẵn, dựa theo giới luật đức Phật đã chế ngõ hầu thích hợp thời tiết, nhân duyên, trở thành khuôn vàng thước ngọc cho các tùng lâm trong thiên hạ, những bậc thầy gương mẫu trong thiên hạ cũng do đây mà được thành lập.
Bản thân Ngài giữ Luật đã nghiêm, mà làm lụng cũng đứng đầu đại chúng. Nếu có chuyện gì ngăn trở không chấp tác (làm lụng) được bèn chẳng ăn, vì thế mới có lời huấn thị: “Một ngày không làm thì một ngày không ăn” răn chúng thật thiết tha! Vì vậy, Ngài mới có câu nói “Chẳng lầm nhân quả” khiến cho kẻ hiểu lầm thốt lời “chẳng rơi vào nhân quả” liền được thoát thân nghiệp báo chồn hoang. Nếu ước trên Thật Tế Lý Thể mà luận thì phàm - thánh, chúng sanh - Phật, nhân - quả, tu - chứng đều chẳng thể được, nhưng bàn trên phương diện pháp môn tu trì thì trên là đức Như Lai đã thành Phật đạo, dưới là chúng sanh đọa trong A Tỳ đều chẳng thể ra khỏi nhân quả được. Hiểu lý tánh nhưng chẳng bỏ sự tu, ấy là Chánh Tri. Chấp lý tánh phế sự tu, bèn thành tà kiến. Sai biệt chừng hào ly liền cách biệt thành Phật và địa ngục! Chủ nhân núi Bách Trượng đời trước[50] muốn cứu vớt những kẻ cuồng huệ đời Mạt khỏi đọa lạc nên chẳng tiếc công hiện thân nêu tỏ quả báo; quả thật đã cùng với Bách Trượng thiền sư đe - búa thành toàn cho nhau, cùng nhau rèn đập, khiến cho những Thiền giả đời sau triệt ngộ lý “chẳng dính dáng nhân quả”, thực hành sự “tu nhân chứng quả”, ngõ hầu rốt ráo triệt chứng, hiển bày trọn vẹn. Hai câu chuyện này thể hiện thâm tâm của ngài Bách Trượng, người học chẳng được lơ là đọc phớt qua vậy.
Núi này thuộc về huyện Phụng Tân, tỉnh Giang Tây, chùa ấy sau khi được ngài Bách Trượng sáng lập bèn được sắc tứ là Thọ Thánh Thiền Tự. Năm Nguyên Hòa thứ chín (814) thời [Đường] Hiến Tông, ngài Bách Trượng thị tịch, thọ sáu mươi sáu tuổi. Năm Trường Khánh nguyên niên (821) đời [Đường] Mục Tông, được sắc phong thụy hiệu là Đại Trí thiền sư, tháp mang tên là Đại Bảo Thắng Luân, tháp cách chùa hai dặm. Từ đời Đường đến nay hơn một ngàn một trăm mấy mươi năm, pháp đạo không gì chẳng hưng - suy. Nhờ có người có khả năng gánh vác pháp đạo làm bậc trụ trì nên chùa tháp được tồn tại mãi, Tông phong vẫn y như cũ. Từ cuối đời Thanh đến nay, mấy phen gặp binh hỏa, lại thêm đói kém, đến nỗi chùa không có bậc cao nhân, tháp viện đổ nát.
Năm Dân Quốc thứ tám (1919), tức năm Kỷ Mùi, chủ chùa là thầy Tự Thành chẳng nỡ để tổ đạo mất tích, liền khẩn khoản thỉnh hòa thượng Tiên Cần làm Trụ Trì, vĩnh viễn biến chùa thành tùng lâm truyền hiền của thập phương. Đến năm Dân Quốc thứ 12 (1923), ngài Tiên Cần giao cho sư Liễu Nhiên. Hai vị đều là bạn thân trong pháp môn, cùng nghĩ tháp viện của Tổ Sư đổ nát khó kham, bèn khởi đầu quyên mộ những người cùng một sắc áo các nơi được bao nhiêu đó tiền bèn tận lực trùng tu tháp điện, hiến điện, tường vây quanh tự viện và tăng liêu đều sửa tốt đẹp hoàn toàn, tổng cộng tốn chừng bao nhiêu đó tiền. Tiền dư bèn đem chuộc lại chừng bao nhiêu đó mẫu ruộng để làm chi phí ăn ở cho tăng chúng trụ trong tháp viện. Phàm suy sụp đến cùng cực sẽ lại khôi phục, bỉ cực ắt thái lai, hai thầy Tiên Cần, Liễu Nhiên trước sau trụ trì núi Bách Trượng chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên. Tháp viện sửa xong, muốn phát huy đạo yếu của ngài Bách Trượng cũng như nguyên do trùng hưng tháp viện bèn sai Quang soạn bài ký. Quang thẹn mình chẳng hiểu Thiền, đành mượn chuyện cũ của ngài Bách Trượng và những chuyện hiện tại kể thẳng vào đây ngõ hầu những bậc hiền triết trong vị lai có cái để khảo cứu, kiểm chứng vậy.
Lại nữa, từ khi đức Thế Tôn nhập diệt đến nay, phàm các chùa miếu không đâu chẳng lấy Phật làm chủ, điện Phật phải được lập ở chánh giữa chùa. Ngài Bách Trượng lập Thanh Quy: Phàm những chuyện chúc ly, chúc thọ[51], Phật Đản v.v… đều tụng kinh trong đại điện, còn khóa tụng sáng tối thì không cần nói đến. Trong Tống Cao Tăng Truyện, chép sai câu “lập Phật điện ở đằng trước, lập pháp đường ở đằng sau” thành “chẳng lập Phật điện, chỉ lập pháp đường”. Ông Dương Đại Niên khi viết lời tựa cho bộ Thanh Quy cũng lập lại cái sai này, chẳng nghĩ nếu không có Phật điện, phàm những lễ chúc ly, chúc thọ v.v… sẽ cử hành ở đâu đây? Chẳng lẽ trong chùa hoàn toàn không có một tượng Phật nào hay sao? Hay là thờ Phật ở điện phụ vậy? Không có tượng Phật nào thì có khác gì ngoại đạo! Tự mình ở chính giữa còn thờ Phật ở điện bên cạnh để cử hành những lễ chúc ly, chúc thọ v.v… có khác gì khinh miệt quốc gia, khinh mạn Phật đâu? Nhưng cái sai lầm rành rành nhất ấy từ đời Tống cho đến Nguyên, Minh, Thanh, gần cả ngàn năm không ai sửa cho đúng khiến cho Bách Trượng thiền sư bị vu báng, miệt thị oan uổng, há chẳng khiến cho người ta đau lòng nhức óc ư? Sách Chứng Nghĩa Ký sửa thành “chẳng lập các điện khác, lập pháp đường trước hết” cũng chẳng trọn câu, vì câu này chỉ nói lên chuyện gấp rút cần làm trước hết, há có thể lấy làm khuôn mẫu cố định vĩnh viễn được ư? Do vậy, tôi bèn nêu sự lý đại lược nơi đây để hậu hiền biết cái sai lầm trong Tống Cao Tăng Truyện và những lời tựa Thanh Quy trong các bộ Đại Tạng khiến cho bản hoài của Bách Trượng thiền sư được thông suốt lớn lao trong cõi Thường Tịch Quang thì may mắn lắm thay!
20. Bi ký công đức xây lại Ngũ Phật Trấn Mãng Tháp tại Tiểu Bạch Lãnh
(Viết giùm)
Đức Đại Giác Thế Tôn xem hết thảy chúng sanh như con một, bởi một niệm tâm tánh của họ vốn không hai, không khác với tam thế chư Phật. Do mê trái nên chẳng những không thể đích thân thọ dụng, mà còn đâm ra dùng sức Phật tánh thường trụ bất sanh bất diệt này để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sáu đường trải trần kiếp lâu xa, không thể thoát lìa. Do vậy, đức Phật bèn thị hiện sanh trong thế gian thành Đẳng Chánh Giác, tùy cơ thuyết pháp khiến cho [chúng sanh] được độ thoát. Ngài cũng tạo nhân duyên đắc độ cho những căn cơ chưa chín muồi cũng như hết thảy chúng sanh trong vị lai. Ấy gọi là “lưu thông kinh giáo, dạy khắp vị lai”. Khi hết thảy sự việc đã xong, Phật liền nhập Niết Bàn, do lòng đại từ bi, hóa lửa tự thiêu, nát Pháp Thân vạn đức trang nghiêm thành tám hộc bốn đấu xá-lợi để chúng sanh lễ bái, cúng dường, tăng trưởng phước điền, gây nhân thành Phật. Do vậy, trên trời trong cõi người, long cung, hải tạng, nơi nào cũng đều được chia xá-lợi, dựng tháp cúng dường.
Phần xá-lợi chia cho nhân gian được chia đều cho tám nước, riêng vua A Xà Thế được tám vạn bốn ngàn hạt, thờ nơi sông Hằng, lập vành đai gươm [vây quanh] để thủ hộ. Một trăm năm sau, chắt của vua tên là A Dục làm vua cõi Diêm Phù, oai đức tự tại, vâng theo lời Phật phó chúc, chấn hưng Phật pháp, đem xá-lợi ấy sai khiến quỷ thần dùng bảy báu, các loại hương làm vữa (chất hồ), trong vòng một ngày tạo ra tám vạn bốn ngàn cái tháp báu. Muốn cho những tháp ấy được phân bố khắp Nam châu, nên tôn giả Da Xá (Yaśa) dùng tay che mặt trời, năm ngón tay phóng quang tỏa ra tám vạn bốn ngàn đạo ánh sáng, sai các quỷ thần mỗi người bưng một tháp đi theo ánh sáng. Ánh sáng chiếu đến đâu là hết thì đặt ở đấy. Phàm chỗ nào Phật pháp chưa truyền đến đều đặt tháp trong đất nơi ấy. Đến sau này khi pháp hóa được lưu truyền đến đó, các tháp sẽ đều theo thứ tự xuất hiện, như những tháp ở chùa Dục Vương, Ngũ Đài v.v…
Ấy là vì chúng sanh đang mê chẳng hiểu rõ lục trần về bản thể chính là Thật Tướng Chân Như, do vậy, bèn khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi nhiều kiếp. Chư Phật lập giáo, chẳng qua chỉ là ngay trong những cảnh giới lục trần bị mê ấy, mỗi mỗi chỉ ra bản thể của những cảnh giới ấy chính là Giả, chính là Không, chính là Trung, khiến họ chuyển mê thành ngộ, hiểu tâm rõ gốc. Do vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: “Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như tánh”. Tam Tổ nói: “Sáu trần chẳng ác, trở về giống với Chánh Giác”. Ông Tô Đông Pha nói: “Tiếng suối chảy chính là tướng lưỡi rộng dài, sắc núi không gì chẳng phải là thân thanh tịnh”. Như vậy, thấy sắc, nghe tiếng đều có thể dùng để hiểu tâm rõ gốc, huống chi kinh do chính kim khẩu của đức Như Lai đã nói và chân thân xá-lợi cũng như hình tượng Phật ư?
Tuy giáo thể của phương này vốn thuộc về nghe tiếng, nhưng nghe pháp được lợi ích cố nhiên chẳng phổ biến thường hằng bằng thấy tướng được lợi ích. Do vậy, tam thế chư Phật không vị nào chẳng dạy con người xây dựng tháp miếu, tạo hình tượng Phật. Bởi lẽ một phen chạm vào mắt thì trong tám thức điền đã gieo được hạt giống thành Phật. Từ đấy, dần dần tăng trưởng, rốt ráo được thành giác đạo. Do vậy, vua thánh tôi hiền các triều đại, những bậc triết nhân thông suốt, đa phần đều xây dựng tháp miếu ở những nơi danh sơn, hoặc cuộc đất tốt đẹp, để người thấy nghe cùng gieo thiện căn. Đấy chính là cội nguồn của tháp miếu ở Chấn Đán vậy.
Tháp Trấn Mãng thuộc Tiểu Bạch Lãnh ở phía Đông huyện Cận, Tứ Minh. Huyện chí và Thiên Đồng Tự Chí đều nói tháp được dựng vào đầu niên hiệu Hội Xương (841-846) đời Đường. Rặng núi ấy có con mãng xà lớn hung hăng mặc sức phun độc, người đi đường bị mắc nạn. Khi ấy, Trụ Trì chùa Thiên Đồng là ngài Tạng Hoán[52], sau khi diệt độ được sắc phong thụy hiệu là Tâm Kính thiền sư, ngài chính là con (đệ tử) của [ngài Linh Mặc ở] núi Ngũ Tiết, là cháu (đồ tôn) của ngài Mã Tổ, vốn là bậc đại sĩ thừa nguyện giáng sanh, những chuyện lạ suốt cả đời Ngài khiến người ta phải kính ngưỡng, Ngài thật sự là thủy tổ chùa Thiên Đồng vậy. Nghe chuyện quái lạ ấy, bèn đến độ thoát. Trước hết, Ngài thí cho rắn ăn để thân nó được an lạc, rồi mới thuyết pháp, cho nó thọ giới, khiến tâm nó khai ngộ cũng như có chỗ nương tựa. Thức ăn Ngài dùng để thí vốn chỉ là thứ bánh mạn đầu có nhân, do sức pháp lực nên hóa thành vô lượng. Những cái bánh rắn ăn không hết đều biến thành đá, đầy khắp trong núi và trên mặt đất, nay gọi di tích ấy là “mạn đầu thạch”, ngoài trắng trong đen, hình dáng rất giống [bánh mạn đầu]. Rắn đã nhận pháp thực, lại được nghe pháp yếu, liền được tiêu trừ nghiệp chướng, thoát lìa thân rắn, Sư bèn theo đúng pháp hỏa thiêu, nhặt lấy xương thừa, vùi bên vách núi, lập tháp lên trên. Tháp có sáu cạnh, bảy tầng, cao hơn mười trượng, bên trong để tượng Phật và các kinh chú, để mong cho mãng xà nương Phật từ lực, mau chứng Pháp Thân. Phàm những loài thuộc dòng giống nó đều chẳng dấy lên khuấy phá nữa. Do vậy, đặt tên tháp là Trấn Mãng Tháp, cũng như mong cho nhân, thiên, quỷ thần chiêm lễ cúng dường gieo nhân Bồ Đề thù thắng, kết thành viễn duyên thành Phật.
Từ đời Đường đến nay đã hơn một ngàn năm, mưa gió vùi dập, sương tuyết xói mòn, nghiêng sụp mất nửa, thế sắp bị sụp đổ hoàn toàn. Phàm những ai trông thấy đều than thở: “Sao hoàn toàn vắng lặng chẳng có ai bảo tồn dấu cổ, khai khẩn ruộng phước vậy!” Cuối đời Thanh, trụ trì chùa Thiên Đồng là ngài Ký Thiền, muốn trùng tu lại, chưa kịp khởi công, đã nhụt chí, quy Tây. Người kế vị là thầy Tịnh Tâm, chí lại càng tha thiết, nhưng do trong chùa quá nhiều công trình [xây dựng] nên chẳng đủ sức lo tới. Trụ trì hiện thời là sư Văn Chất muốn hoàn thành công trình này cho chóng, bèn cùng với thầy Tịnh Tâm dốc sức đồng tâm, ai nấy bỏ ra tiền của và quyên mộ đàn tín giúp cho việc thù thắng này được hoàn thành. Do vậy, Tăng - tục hoan hỷ, tùy sức tán trợ, khởi đầu từ mùa Đông năm Kỷ Mùi tức năm Dân Quốc thứ tám (1919), hoàn thành vào mùa Hạ năm Quý Hợi tức năm Dân Quốc 12 (1923). Qua năm phen nóng lạnh đắp đổi mới lại được thấy bảo tháp từ đất vọt lên, chỉ có điều tháp cũ sáu cạnh, đặc ruột, nay tháp mới tám cạnh, rỗng ruột. Đó là phỏng theo ý nghĩa tướng bạch hào giữa chặn mày của đức Như Lai “có tám cạnh, nhưng rỗng ruột, có đầy đủ quang minh, chúng sanh được quang minh ấy chiếu đến bèn ngay lập tức lìa khổ được vui, gần là sanh vào nhân thiên, xa là dự vào dòng thánh”.
Trên tầng cao nhất thờ tượng Ngũ Phương Ngũ Phật, hàm nghĩa: “Tỳ Lô Pháp Thân thuộc địa vị cao tột trong mười pháp giới, đầy đủ Tứ Trí Bồ Đề”. Lại còn chỉ rõ từ địa vị phàm phu muốn chứng Phật Quả thì phải giẫm đạp trên Thật Địa, tuân tu đạo phẩm, tăng tấn dần dần, đoạn Hoặc chứng chân cho đến khi Trí Đoạn rốt ráo mới có thể triệt chứng thật nghĩa tứ đức Thường - Lạc - Ngã - Tịnh sẵn có của Pháp Thân. Chót tháp đúc bằng đồng theo hình dạng hồ lô, phần dưới cùng để trống chính giữa, bên trong đặt tượng Phật, Bồ Tát và tên các kinh trong Đại Tạng và kinh chú Đại Thừa nhằm biểu thị Nhất Thể Tam Bảo, Tam Đức bí tạng chẳng lìa đương xứ, rốt ráo hiển bày trọn vẹn. Lại nữa, kinh chính là Pháp Thân xá-lợi của Như Lai, tượng là hai thân Báo - Hóa của đức Như Lai, ngõ hầu người chiêm lễ, đi nhiễu quanh, cúng dường, tán thán, trong đời vị lai cùng chứng được công đức Như Lai đã chứng. Hai phần trên cùng và phần giữa của tháp, bên trong đổ đầy cát sạch để trấn đỉnh tháp, tạo thành bảy tầng cấp, cao hơn mười trượng, để làm biểu hiệu lớn lao vòi vọi của giác đạo, làm hướng dẫn tốt lành rạng ngời cho kẻ mê đường. Chung quanh tháp dựng tường cao vây quanh, ngõ hầu những thứ tệ hại, dơ bẩn không xen lẫn vào được, dễ gìn giữ. Đằng trước tháp dựng mấy gian nhà, cử một vị tịnh hạnh đầu-đà, hầu hạ hương đèn mãi mãi. Tổng cộng dùng đến hơn năm vạn bạc, phương danh công đức đều khắc riêng trên đá.
Do công đức này nguyện nền tảng đất nước bền vững mãi mãi, vận nước tốt đẹp, Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển. Phàm những người đề xướng, trông nom, lo liệu, bỏ tiền, góp sức và những người chiêm lễ, thấy nghe trong hiện tại vị lai, cạn lòng thành, hết lòng kính, cúng dường tán thán đều được Hoặc chướng băng tiêu, cát khánh như mây nhóm, giàu, thọ, khỏe mạnh, bình yên thảy đều đạt được, đạo Giới - Định - Huệ đều trọn đủ trong đương niệm, nghiệp tận tình không, thấy được diện mục sẵn có, phước đủ, trí rạng, chứng Pháp Thân thường trụ, sống làm người tự tại trong cõi Sa Bà, chết dự vào hội Liên Trì thanh tịnh. Như vậy mới thỏa được bổn nguyện tạo tháp của hai vị sư Tịnh Tâm, Văn Chất, mà cũng chẳng phụ tấm lòng nồng nhiệt phi thường của đàn tín bỏ tiền của tán thành. Do vậy, bèn thuật bày duyên khởi để khắc vào đá quý kiên cố vậy.
21. Bài ký huấn dụ của Diệu Ngộ Luật Viện ở Kim Lăng
Đại pháp của đức Như Lai lấy Chân Như Thật Tướng làm thể. Thể ấy chúng sanh và Phật đều có, tại Phật chẳng tăng, nơi chúng sanh chẳng giảm; nhưng Phật thì chứng ngộ rốt ráo, còn chúng sanh thì triệt để mê mất, đến nỗi thăng - trầm thật khác biệt, khổ - vui thật sai khác. Đức Như Lai thương xót, tùy thuận cơ nghi, nói đủ mọi pháp khiến họ bỏ vọng theo chân, trái trần hiệp giác. Pháp ấy xét trên đại thể, gồm có năm tông, tức là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Luật là Phật thân, Giáo là Phật ngữ, Thiền là Phật tâm; Phật sở dĩ thành Phật chỉ do ba nghiệp này. Nếu chúng sanh có thể y theo Luật, Giáo, Thiền của Phật để tu trì thì ba nghiệp của chúng sanh sẽ chuyển biến thành ba nghiệp của chư Phật. Ba nghiệp đã chuyển thì Chân Như Thật Tướng sẽ tự chứng đắc được. Phật còn sợ rằng chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, chẳng dễ thành tựu nên dùng Đà La Ni tam mật gia trì để chuyển Thức thành Trí, chuyển phiền não thành Bồ Đề. Lại sợ kẻ căn khí kém cỏi, chẳng thể giải thoát trong đời hiện tại; nếu phải thọ sanh lần nữa khó thể tránh khỏi mê mất, phải sanh tử luân hồi đến cùng tận kiếp chẳng thể thoát khỏi. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ khiến cho trên từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến kẻ tội nhân ác nghịch đều cùng trong đời này vãng sanh Tây Phương, thượng thánh sẽ mau thành Phật đạo, hạ phàm cũng được dự vào dòng thánh. Đấy chính là quy củ rộng lớn vỗ về, dưỡng dục hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới của đức Như Lai.
Tông tuy có năm, nhưng đạo vốn nhất quán, năm tông trọn đủ thì mới có thể tùy cơ hoằng dương một tông, trên mới có thể tiếp nối huệ mạng của Như Lai, dưới mới có thể khải phát cho quần sanh tăm tối. Nếu không, một bánh xe, một cánh làm sao đi xa, bay lên không cho được? Luật là cơ sở của Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Không trì Luật sẽ chẳng đạt được lợi ích thật sự nơi Thiền, Giáo, Mật, Tịnh; như xây lầu cao vạn trượng, nếu nền móng không kiên cố, ắt chưa thành đã sụp. Tịnh là chỗ quy túc của Luật, Giáo, Thiền, Mật, không niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương thì Luật, Giáo, Thiền, Mật đều khó thể rốt ráo; bởi Tịnh Độ chính là pháp môn thành thủy thành chung để mười phương tam thế chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Do vậy, những vị Đẳng Giác Bồ Tát đã chứng bằng với chư Phật trong hội Hoa Nghiêm vẫn còn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương để cầu viên mãn Phật quả; huống gì hết thảy thánh hiền khác và những kẻ phàm phu chưa đoạn Kiến Tư Hoặc ư?
Diệu Ngộ Luật Viện từ trước tới nay luôn lấy việc trì luật, niệm Phật để tu trì. Trụ trì An Tịnh hòa thượng rất sợ hậu nhân quên mất đường lối này thì một phen khổ tâm của người phục hưng viện này là Minh Thiền Lão Nhân bị mất đi, bèn nhờ Quang trình bày đại ý để răn dạy đại chúng trụ tại viện này trong tương lai. Xét ra viện này chính là cổ sát (ngôi chùa cổ) của triều đại trước, vào thời Hàm Phong nhà Thanh đã bị hư nát khó kham. Sau cơn binh hỏa, chỉ còn ba gian nhà rách. Minh Thiền Lão Nhân chẳng tiếc tâm lực phục hưng. Lại được thầy An Tịnh nối chí bèn trở thành một Tịnh nghiệp đạo tràng. Nhưng do [nhà chùa] sản nghiệp không nhiều nên chẳng thể thu nhận đại chúng đông đảo, nhưng khóa tụng sáng tối, tiếng tụng kinh niệm Phật cố nhiên hoàn toàn chẳng khác gì tùng lâm các phương. Vào lúc mới tạo dựng ban đầu, bọn thổ phỉ hay đến khuấy nhiễu, ý toan xâm chiếm, cụ Minh luôn nhẫn nhục nên tiêu trừ được thói dữ. Những kẻ trước kia chiếm đoạt bao nhiêu đất đai của nhà chùa đó, chẳng lâu sau nhà cửa suy bại, chẳng thể giữ được, phải bán cho người khác, người khác cũng chẳng giữ được, lại bán ngược lại cho viện. Do đào kênh ngòi, khai quật được những pháp khí như bát, linh v.v…mới biết là nền đất của đạo tràng được long thần thủ hộ, kẻ chiếm đoạt đều chẳng gặp được chuyện tốt lành, lại phải trả về cho chủ cũ.
Kẻ ngu không biết nhân quả, thường muốn chiếm tài sản nhà chùa, chẳng biết long thiên nổi giận, ngấm ngầm bị chiết phước, tổn thọ, bị tổn hại thật nặng. Luận trên nhân quả thì người đời còn nhẹ, chứ Tăng chúng càng nặng nề hơn. Nhưng người đời có gia đình nên quả báo dễ thấy, chứ Tăng chỉ có một thân, khó thấy được báo ứng. Phàm là Tăng sĩ trụ trong viện này ai nấy đều phải thật sự vì sanh tử, phát tâm Bồ Đề, nghiêm trì giới cấm, dốc sức tu Tịnh nghiệp. Như thế thì sống làm phước điền cho thế gian, mất sẽ dự vào Liên Trì Hải Hội. Nếu không suốt ngày ăn no kềnh, chẳng dụng tâm chút nào thì nhân cách của kẻ đó trở thành hạ lưu. Nếu lại còn phá trai phạm giới, bại hoại cửa Phật sẽ thành quyến thuộc của ma vương, là dòng giống địa ngục. Viện này do tâm lực của hai thầy Minh Thiền, An Tịnh và thí chủ tạo thành, an trụ trong đây chẳng chịu tu trì thì khác nào xâm chiếm thường trụ!
Cổ đức nói: “Một hạt gạo thập phương, to như núi Tu Di, ăn rồi không tu đạo, mang lông, đội sừng đền”. Nếu chỉ vì cái thân, thầm lén trộm cắp, thì khi một hơi thở ra không hít vào được liền đọa ngay vào địa ngục, lửa từ trên đùa xuống, lửa từ dưới bốc lên, trải trăm ngàn kiếp thường bị lửa đốt, không cách gì thoát ra được! Há chẳng rất đáng sợ ư? Trưởng lão An Tịnh đau đáu nghĩ thuở “pháp nhược ma cường” (pháp suy yếu, ma tà mạnh mẽ), muốn khơi dậy tâm tu tập mạnh mẽ của Tăng chúng, muốn tiêu trừ ý niệm xâm chiếm của người thế tục ngõ hầu người ngoài đời thì ngũ phước đều vẹn đủ, tốt đẹp về sau, Tăng chúng thì Tam Học viên minh, chấn hưng tông phong. Vì thế, soạn ra bài ký lưu lại huấn dụ này để mong viện này vĩnh viễn hưng thạnh không bị suy tàn, thường hoằng dương pháp đạo thì pháp giới chúng sanh đều được hưởng lợi ích.
22. Bi ký thuật duyên khởi của con đường Giáp Thọ
Tứ Minh[53] có nhiều quả núi đẹp, nhưng Thái Bạch đẹp nhất. Trường tuyển Phật Thiên Đồng ở ngay trên quả núi này. Từ năm Vĩnh Khang nguyên niên (300) đời Huệ Đế nhà Tây Tấn, tổ sư Nghĩa Hưng kết chòi tranh ở đây tiềm tu, cảm được sao Thái Bạch[54] biến thành một đứa bé trai làm kẻ hầu. Từ đấy, trở thành đạo tràng lớn, vì thế núi này có tên là Thái Bạch, chùa có tên là Thiên Đồng (đứa trẻ nhà trời). Đến đời Đường thì các vị sư như Pháp Duệ, Tâm Kính v.v… hoằng đạo Trực Chỉ của Thiền Tông khiến chùa càng thêm to lớn. Từ đấy về sau, hơn một ngàn ba trăm năm, pháp đạo thường hưng thạnh, tông phong chẳng suy sụp, đến nay vẫn được coi là chùa hàng đầu của nhà Thiền. Ấy là vì đời nào cũng có người gánh vác pháp đạo vậy, thật đúng là “được cuộc đất tối thắng thì mới có thể hoằng dương đạo tối thắng, tạo lập chuyện phi thường ắt phải đợi người phi thường”. Địa linh lẫn nhân kiệt đều hội đủ, đấy là đại nhân duyên chứ không phải ngẫu nhiên!
Từ chùa Thiên Đồng đi theo phía trái chừng một dặm là Linh Lung Nham, thế núi quanh co lạ lùng như khắc, như vẽ, phàm là kẻ tao nhân mặc khách đến chơi nơi đây, không ai chẳng khởi lên ý niệm thoát tục. Từ đây, đi quanh co lên trên, ngang qua một khe suối lớn và một khe suối nhỏ thì đến Bàn Đà Thạch, lên cao nữa là động Ngộ Tâm, ngọn Phi Lai, đài Bái Kinh, động Quán Âm, động Thiện Tài, đường đi độ chừng hai dặm nhưng qua mấy khúc quanh, mắt dõi nhìn ngàn dặm, quả thật như lên Đông Nhạc, lên núi Thái, huống chi dõi nhìn biển cả, trời nước hòa lẫn vào nhau, khiến lòng dạ con người rộng mở, tựa hồ chẳng phải là người trong thế gian nữa! Nhưng con đường ấy chưa được mở mang, đi lên thật khó, rất đáng tiếc nuối!
Cư sĩ Mộng Pha Châu Khánh Vân túc căn sâu dầy, hạnh tu tập hiện đời thanh cao, đời đời tiếp nối đức hạnh, nhiệt tâm làm chuyện công ích. Vào mùa Thu năm Quý Hợi, tuổi đúng sáu mươi, liền đến Thiên Đồng làm các Phật sự để cầu cho ông bà đã khuất cùng sanh về Tây Phương, quyến thuộc hiện đời đều tăng phước thọ. Một bữa, ông đến chơi Linh Lung Nham, thấy cảnh núi đẹp đẽ xinh xắn hết sức thỏa thích, nhưng đường đi trắc trở, quá sức trái ý, bèn khẳng khái phát tâm đắp đường, phó thác cho bạn ông là Phương Bội Thân trông coi, lắng lòng nghỉ hưu để đốc thúc, qua mười tháng bèn hoàn thành. Con đường ấy khởi đầu từ Linh Lung Bồng cho đến động Thiện Tài thì ngưng, độ chừng hơn 150 trượng, phí tổn hơn một ngàn một trăm năm mươi đồng. Lại dựng một tòa nhà đá, phí tổn là bốn trăm đồng, cùng đặt tên cho con đường và tòa nhà đá ấy là Giáp Thọ. Qua khỏi khe suối lớn, con suối bên đường cũng đặt tên là Giáp Thọ.
Trộm nghĩ: Giáp chính là Thủ (đứng đầu), đã gọi là Giáp Thọ thì không còn gì có thể cao hơn được nữa. Do con người sống trăm năm như bóng mặt trời lướt qua khe cửa sổ, lưu lại di tích ấy để đóng góp vào danh sơn ngõ hầu những ai đến đây đều trông thấy sẽ nói: “Các pháp thế gian sanh diệt vô thường, gọi là Giáp Thọ, há liền có thể bất sanh bất diệt hay sao?” Phải biết: Phật pháp không đâu chẳng tồn tại, há có thể lìa pháp thế gian để nói Phật pháp được ư? Nếu thấy biết tòa nhà ấy, đi trên con đường đó thì tòa nhà ấy, con đường ấy chính là Phật pháp bất sanh bất diệt vô thủy vô chung.
Xưa kia, lúc tu nhân, đức Thế Tôn từng trải tóc lót chỗ lầy lội, chỉ vào đó nói: “Chỗ này nên lập một ngôi chùa”. Khi ấy, trưởng giả Hiền Vu cầm cành cây cắm xuống chỗ Phật đã chỉ, nói: “Lập ngôi chùa xong”. Khi ấy chư thiên rải hoa tán thán. Hãy nói xem dựng nhà đắp đường và cắm cành cây dựng chùa là giống hay là khác? Nếu nói là khác thì xưa nay há nào có hai; nếu bảo là giống thì há có nên chê là sanh diệt? Pháp vốn không sanh diệt, sanh diệt là do con người! Người có đủ con mắt thấy được tòa nhà này, con đường này, ắt sẽ ngay khi đó tự thấy được bản lai diện mục của chính mình, ấy tức là Thọ, tột cùng đời vị lai cũng chẳng có cùng tận. Nếu không như thế thì hãy y theo kinh dạy, sanh tín, phát nguyện, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương, ắt nương theo Phật từ lực mau được chứng đắc. Ý nghĩa của chữ Giáp Thọ là như thế đó. Người có đủ con mắt sẽ chẳng cho lời tôi là sai lầm vậy.
23. Bi ký thuật duyên khởi Cư Sĩ Niệm Phật Lâm Liên Xã tại Cửu Giang[55]
Pháp Niệm Phật chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai, quả thật là đạo trọng yếu vô thượng thành thủy thành chung để mười phương tam thế chư Phật trên thành Chánh Giác, dưới hóa độ chúng sanh. Nay [Cư Sĩ] Lâm này được lập ra bắt nguồn từ Viễn Công (tổ Huệ Viễn) kết xã ở Đông Lâm, khởi xướng phong trào niệm Phật. Hơn một ngàn năm sau, cư sĩ Liễu Nghĩa hiểu sâu xa pháp này khế lý khế cơ bèn cực lực đề xướng, trùng hưng liên xã, theo đuổi dấu thơm. Tuy biết mình lẫn người trí huệ cạn mỏng, mê hoặc sâu dầy, nhưng chẳng nề hà, bởi lẽ con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này, nếu cứ tích cực đề xướng sẽ được đồng thanh tương ứng, chẳng cần luận xưa nay khó - dễ! Do vậy, chẳng ngại gian khổ, gắng công tiến hành, chẳng tiếc sức lực, ngõ hầu xa gần trông thấy đều cùng dấy tâm, đề xướng tiến hành cho đến trọn khắp vũ trụ, chứ nào phải chỉ mong ru rú trong một chỗ này mà thôi?
Hoằng dương Phật pháp thì đạo tràng là gốc, thoạt đầu ở nhờ am của người ta, không những không thể duy trì lâu dài, mà cuộc đất còn chật hẹp, tới lui bất tiện. Do vậy, vào năm Quý Hợi bèn biến nhà mình ở thành Niệm Phật Lâm, nguyện lực mạnh mẽ, cứng cỏi, lớn lao, sâu rộng ấy quả thật hiếm có! Nhà ấy bốn tầng, tầng trệt cho thuê làm tiệm bán gạo mỗi năm được hơn hai trăm đồng dùng làm chi phí cho Niệm Phật Lâm. Tầng hai làm nơi tiếp đãi và họp hành. Tầng ba làm đại điện, trong ấy thờ tượng Tây Phương Tam Thánh Tiếp Dẫn để luôn lễ bái, chiêm ngưỡng, ngõ hầu lâm chung dễ được cảm thông. Tầng bốn làm Tịnh Độ Diên Sanh Đường, bày đủ bài vị cha mẹ của những người đã quyên góp ngõ hầu người sống được tăng phước, tăng thọ, người mất được lên thẳng Liên Bang. Lại còn có lầu để làm chỗ xem kinh, tọa thiền.
Cư sĩ đã phát tâm ấy, những người cùng trong liên xã đều kính ngưỡng, ai nấy tùy sức đóng góp: Hoặc là tạo tượng Phật, hoặc trần thiết trang nghiêm và sắm sửa đồ thờ. Phàm những gì cần dùng cho đạo tràng chẳng thiếu thứ gì. Từ đấy, tu trì, giảng diễn đã có nơi, ắt thấy thiện tín nườm nượp đổ tới, xa - gần đều bắt chước theo. Do vậy bèn bỏ phàm tình để liễu Phật tánh, vãn hồi kiếp vận thành thái bình, sống làm bậc hiền thánh, chết dự vào Liên Trì Hải Hội, ngõ hầu chẳng phụ ân Thế Tôn thuyết pháp, thiện tri thức các đời hoằng dương, một phen cư sĩ Liễu Nghĩa tâm đại từ bi bỏ nhà, đề xướng, cũng như chẳng phụ Chân Như Phật Tánh tâm mình sẵn có vậy!
Pháp môn Tịnh Độ lý vốn cực rộng sâu chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tột, đừng nói chi hạng phàm phu sát đất chẳng thể suy lường được, ngay cả hàng Bồ Tát đã chứng Pháp Thân từ lâu cũng chẳng thể biết trọn. Do vậy, khi đức Thế Tôn nói pháp môn này, mười phương hằng hà sa số chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài đồng thanh tán thán khiến cho khắp mọi chúng sanh đều sanh tín tâm, lại còn khen ngợi nồng hậu đức Thích Ca Thế Tôn có thể làm chuyện hy hữu rất khó. Đức Thế Tôn cũng tự nói: “Ta ở trong đời ác ngũ trược, làm chuyện khó như thế này: Đắc Vô Thượng Bồ Đề, vì hết thảy thế gian nói ra pháp khó tin này, thật là rất khó!” Phổ Hiền Bồ Tát dạy Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh, nếu chẳng phải là đạo trọng yếu thành thủy thành chung há có thể được như vậy ư? Vì vậy, ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ quy, vãng thánh tiền hiền ai nấy đều hướng về, như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, như các dòng nước đổ vào biển Đông. Người niệm Phật tin được như thế mà nếu chẳng vãng sanh thì mặt trời, mặt trăng sẽ xoay ngược chiều, trời đất sẽ bị đổi chỗ, há có lẽ ấy chăng? Xin những ai thấy nghe hãy cùng gắng sức lên!
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển thứ tư
Phần 1 hết
[1] Ký: Một thể loại văn xuôi nhằm ghi chép sự việc.
[2] Tám tướng là tám sự kiện được Phật biến hiện trong suốt thời gian Phật thị hiện trong thế gian này :
1. Từ cung Đâu Suất giáng trần. 2. Nhập thai 3. Đản sanh 4. Xuất gia 5. Hàng ma 6. Thành đạo 7. Thuyết pháp 8. Nhập Niết Bàn.
[3] Hộc: Đơn vị đo lường thời cổ, một Hộc là mười Đấu. Một Đấu là mười Thăng
[4] Ma Kiệt Đề (Magadha), còn phiên âm là Ma Già Đà, Ma Yết Đà, Ma Kiệt Đà, Mặc Kiệt Đà, Ma Ha Đà, dịch nghĩa là Vô Hại Quốc, Bất Ác Xứ, Chí Cam Lộ Xứ, Thiện Thắng Quốc, là một trong 16 đại quốc thời Phật tại thế, nay thuộc địa phận của Bihar, thủ phủ là Patna (Hoa Thị thành). Theo Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 8, xứ này rộng hơn năm ngàn dặm, đất đai phì nhiêu, phong tục thuần phác, sùng tín Phật pháp, đa phần tín phụng Đại Thừa Phật giáo, ngoại đạo cũng đông. Vùng phụ cận Hoa Thị Thành hiện còn nền cũ của tháp A Dục Vương, Phật Túc Thạch, Kê Viên Tự, chỗ Phật tu khổ hạnh, chỗ Ca Diếp quy y Phật v.v… Vua Tần Bà Sa La của nước này kiến lập kinh thành Vương Xá (nay là thành phố Rajgir) ở phía Bắc kinh đô cũ, nơi này trở thành chỗ Phật thường thuyết pháp. Đến thời đại vương triều Cấp Đa (Gupta), vua Đế Nhật sáng lập học viện Na Lan Đà (Nalanda), học viện này trở thành trung tâm của Phật giáo Ấn Độ, ngài Huyền Trang từng theo học ở đây.
[5] Vua A Dục (Aśoka), dịch nghĩa là Vô Ưu Vương, còn có biệt hiệu là Thiên Ái Hỷ Kiến Vương (Devānajpriya Priyadraśi), là vua đời thứ ba của vương triều Khổng Tước tại Ma Kiệt Đề, sống vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Vua thống nhất Ấn Độ, là người nhiệt thành ủng hộ Phật giáo. Khi còn nhỏ, hoàng tử rất hung bạo, vua cha không ưa. Đến khi nước chư hầu Taksaśīla làm phản, vua cha liền sai hoàng tử cầm quân đi đánh dẹp với hy vọng hoàng tử sẽ bị loạn quân giết. Nhưng hoàng tử đã dẹp yên phản loạn, lập đại công, thanh thế lừng lẫy. Sau khi cha mất, hoàng tử bèn trở về giết hết 99 người anh em để lên ngôi (tuy vậy, cũng có thuyết cho rằng đây là lời ngoa truyền nhằm phóng đại tính tàn nhẫn của nhà vua). Đã làm vua, A Dục càng bạo ác hơn, tàn hại đại thần, phụ nữ, bá tánh; do vậy dân chúng oán thán gọi vua là Chiên Đà A Dục (Chiên Đà là tiếng gọi hàng tiện dân Ấn Độ, những người này thường làm nghề đồ tể hoặc những nghề bẩn thỉu như thiêu xác, gánh phân v.v…). Vua lấy thành Hoa Thị làm thủ đô, gây chinh chiến liên miên để mở rộng đế quốc, thống trị toàn Ấn Độ và những tiểu quốc xung quanh. Về sau vua được Phật giáo cảm hóa. Theo truyền thuyết, do cuộc viễn chinh xứ Kalinga quá tàn nhẫn, vua động lòng, bèn nhiệt thành tin tưởng Phật giáo, tận lực hoằng dương Phật giáo để chuộc lỗi cũ, nên dân gian lại gọi vua là Đạt Ma A Dục vương (Chánh Pháp A Dục Vương). Năm thứ 17 dưới triều vua A Dục, Tam Tạng kinh điển được kết tập lần thứ ba dưới sự chủ tọa của ngài Mục Kiện Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta-tissa), có hơn một ngàn vị trưởng lão tham dự, chín tháng mới kết tập xong. Vua phái các danh tăng đạo cao đức trọng đi truyền đạo khắp các cõi như Majjhantika, Kasmira, Gadhara, Mahadeva, Mahisakamandala, Rakkhita, Vanavāsi, Yonaka-dhammarakkhita… cho đến tận Tích Lan. Vua cũng cho lập các bia đá ghi chép các huấn dụ hoằng dương Phật giáo, truyền lệnh khoan dung, tôn trọng các ngoại đạo, cho lập các trụ đá đánh dấu nơi đức Phật đản sanh, thành đạo, nhập diệt v.v…
[6] Ma Hê Nhân Đà La (Mahendra), thường được biết theo tên gọi trong tiếng Pali là Mahinda, chính là sơ tổ Phật giáo Tích Lan. Theo Đảo Sử (Mahavamsa), ngài sanh tại xứ Ô Xà Diên (Ujayana) thuộc Tây Bắc Ấn Độ, xuất gia năm 20 tuổi, lễ ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta-Tissa) làm thầy, thọ giới Sa Di với ngài Ma Ha Đề Bà, thọ Cụ Túc với ngài Mạt Xiển Đề, trong khi thọ giới bèn chứng quả La Hán. Ngài đến Tích Lan truyền giáo theo lệnh vua vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Ngài lập Đại Tinh Xá (Mahāvihāra) tại thủ đô A Nậu La Đà Bổ La (Anurādhapura), giảng kinh Bình Đẳng Tâm (Samacitta-suttanta), lập hang đá để yên cư, thiết lập Tăng đoàn và cơ sở Phật giáo cho Tích Lan. Ngài từng triệu tập đại hội Tăng già, công cử trưởng lão A Lợi Đa cầm đầu Tăng đoàn, chú giải Đại Tạng Kinh Nam Truyền. Em ngài là ni sư Tăng Già Mật Đa (Sanghamitrā) đã đem nhánh cây Bồ Đề nơi Phật thành đạo về trồng tại Tích Lan và truyền giới Tỳ Kheo Ni. Anh em Ngài có công truyền bá Phật pháp tại Tích Lan suốt hơn ba mươi năm ròng.
[7] Núi Nga Mi thuộc thành phố Nga Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, chiếm một khoảng đất rộng đến 154 km2. Ngọn cao nhất là Vạn Phật Đảnh.
[8] Châu Mục Vương (Cơ Mãn), tương truyền thọ đến 105 tuổi, làm vua từ năm 960 đến 923 trước Công Nguyên). Như vậy, năm Châu Mục Vương thứ hai là chính là năm 975 trước Công Nguyên.
[9] Vua Ưu Đà Diên (Udayana), thường được gọi là vua Ưu Điền, đôi khi còn được phiên âm là Ô Đà Diên Na, dịch nghĩa là Nhật Tử Vương, hoặc Xuất Ái Vương, vua nước Kiều Thưởng Di (Kauśāmbi) thời đức Phật. Do hoàng hậu dốc lòng tin Phật pháp, vua bèn trở thành bậc đại ngoại hộ. Theo Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 28, khi Phật lên cung trời Đao Lợi an cư ba tháng, vua không thể lễ Phật, buồn bã thành bệnh, quần thần bèn dùng gỗ Ngưu Đầu Chiên Đàn tạc thành bức tượng Phật cao năm thước Tàu (độ 1.6 m), vua mừng rỡ khỏi bệnh. Tương truyền, các tượng Phật được tạc về sau đều lấy tượng vua Ưu Điền đã tạc làm mẫu. Kinh Tạo Tượng Công Đức cũng chép chuyện này.
[10] Nguyên Ngụy chính là nhà Bắc Ngụy (386-534) thuộc thời Nam Bắc Triều. Sử thường gọi là nhà Hậu Ngụy, hoặc Thác Bạt Ngụy, tức triều đại được sáng lập bởi dòng họ Thác Bạt thuộc sắc tộc Tiên Ty (hậu duệ của dân Hung Nô, do sống tại núi Tiên Ty nên gọi là tộc Tiên Ty). Nguyên thủy, dòng họ Thác Bạt sống tại Thiểm Tây và Nội Mông Cổ lập ra nước Đại, sau bị nhà Phù Kiên nhà Tiền Tần thôn tính. Năm 386, Thác Bạt Khuê xưng vương, tái lập nước Đại, đồng thời đổi danh xưng là Ngụy. Gọi là Nguyên Ngụy là vì năm 493, vua đổi họ Thác Bạt thành họ Nguyên. Năm 534, vương quốc này lại bị nội loạn tách thành Đông Ngụy và Tây Ngụy. Dòng họ này có một có một tục lệ tàn khốc là khi nào một phi tần sanh con trai liền bị giết ngay để ngăn ngừa sau này khi con trai được vinh hiển, sẽ phải sắc phong cho mẹ. Nhưng điều này lại dẫn đến nghịch lý là các vua nước Ngụy rất coi trọng nhũ mẫu, dẫn đến những trường hợp nhũ mẫu dùng tình cảm lung lạc nhà vua, nhiễu loạn chánh sự.
[11] Hoài Cảm: Cao tăng Tịnh Độ tông đời Đường, nguyên quán không rõ, thoạt đầu trụ tại chùa Thiên Phước ở Trường An học Duy Thức và Giới Luật, bác thông kinh điển, chưa sanh lòng tin đối với pháp môn Tịnh Độ. Sau yết kiến tổ Thiện Đạo bày tỏ mối nghi được Tổ chỉ dạy, giải nghi, bèn dự vào đạo tràng của Tổ tinh tu niệm Phật. Hai mươi mốt ngày sau vẫn chưa thấy tướng lành, tự hận tội chướng sâu nặng, muốn tuyệt thực chết, bị Tổ ngăn trở. Sư lại tinh thành niệm Phật, ba năm sau cảm được linh nghiệm, thấy tướng ngọc hào sắc vàng, chứng Niệm Phật tam-muội, bèn soạn bộ Thích Tịnh Độ Quần Nghi, nhưng viết chưa xong đã thị tịch, đồng môn là Hoài Chí bèn hoàn tất chí nguyện.
[12] Cao tăng đời Đường, năm sanh năm mất không rõ. Sư oai nghi, kiến thức trác tuyệt, thông hiểu Nho, Mặc, giỏi viết lách, thường nghiên cứu luật nghi, về sau tu Mật Giáo đạt nhiều chứng nghiệm. Năm Vĩnh Thái nguyên niên (765) đời Đường Đại Tông, vâng chiếu cùng các vị Lương Phần v.v… tất cả mười tám người tham dự vào dịch trường của đại pháp sư Bất Không, dịch các bộ Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh, Mật Nghiêm Kinh v.v… Sư còn soạn bộ Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận để tuyên dương Tịnh Độ, Vô Thượng Thâm Diệu Thiền Môn Truyền Tập Pháp Bảo, Thệ Vãng Sanh Tịnh Độ Văn.
[13] Ngài Trường Lô vừa dự định lập Tịnh Hạnh Xã niệm Phật thì mộng thấy Phổ Hiền, Phổ Huệ Bồ Tát xin ghi danh tham dự.
[14] Trâm anh: Trâm là vật dụng có hình như một que dài nhọn, ngày xưa khi đội mão thường búi tóc lên rồi cài trâm qua để giữ cho mão khỏi tuột, Anh là giải mão, vừa giữ cho mão được chặt vừa mang tính cách trang trí.
[15] Lão túc: Lớn tuổi, phẩm hạnh, kiến thức đều cao.
[16] Chúc hỗ: Cầu nguyện, chúc tụng cho hoàng thất, quốc gia, nhân dân được yên ổn, thịnh vượng, sống thọ.
[17] Thái Hồ là hồ lớn thứ ba của Tàu, nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang, hồ rộng đến 2.213 km2, đá ở đây vừa đẹp vừa bền.
[18] Phật Đa Bảo (Prabhūtaratna), dịch âm là Bảo Hưu La Lan, còn dịch là Bảo Thắng Phật, Đại Bảo Phật, Đa Bảo Như Lai. Trong phẩm Hiện Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa, Ngài là vị Phật diệt độ đã lâu, toàn thân xá-lợi được lưu trong bảo tháp, chỗ nào có Phật giảng kinh Pháp Hoa thì tháp Đa Bảo bèn hiện ra trước đại chúng để chứng minh. Theo Pháp Hoa Mạn Đồ La Oai Nghi Sắc Pháp Kinh thì thân tướng Phật Đa Bảo có nhục kế sắc xanh đen, giữa hai chân mày có tướng bạch hào phóng hào quang chiếu sáng hết thảy, thân màu vàng ròng, tay kết Định Huệ Trí Quyền ấn, ngồi xếp bằng trên tòa hoa sen cực lớn. Các sách vở chú giải Mật Tông thường hay coi Đa Bảo Như Lai chính là đức Đại Nhật Như Lai của Kim Cang Giới, còn Thích Ca Như Lai chính là Đại Nhật Như Lai trong Thai Tạng Giới.
[19] Tức là cao 18 m (theo Phổ Đà Sơn Chí)
[20] Tuyên Nhượng Vương chính là Thiếp Mộc Nhi (Temur) con trai thứ tư của Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Togan). Thoát Hoan chính là con trai của Hốt Tất Liệt và là người đã đem quân đánh Việt Nam, bị thất bại nặng nề, nên Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) cấm vĩnh viễn không được về kinh gặp mặt vua cha.
[21] Theo từ điển Từ Hải, “thủy nê” là một vật liệu xây dựng, dịch nghĩa chữ “sĩ-mẫn-thổ” (cement; ta thường gọi là “xi-măng”), đôi khi còn gọi là “dương nê” (bùn Tây, vữa Tây).
[22] Ý nói đạo pháp đi vào giai đoạn suy vi.
[23] Tùng Giang nay chỉ còn là một khu vực hành chánh của Thượng Hải, nằm ngay trên sông Hoàng Phố. Thoạt đầu, vào thời Đường, huyện Hoa Đình được thành lập tại đây, đến đời Minh – Thanh được đổi thành Tùng Giang Phủ. Khi ấy, Tùng Giang Phủ rất lớn, gồm 7 huyện mà Thượng Hải chỉ là một huyện trực thuộc phủ Tùng Giang. Kim Sơn chính là một huyện thuộc phủ Tùng Giang.
[24] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc.
[25] Tấn viện: Khi một vị Sư đến nhậm chức Trụ Trì một ngôi chùa nào thì gọi là “tấn sơn” hay “tấn viện”.
[26] Trải vàng (bố kim): Khi xưa trưởng giả Cấp Cô Độc lấy vàng ròng lót đất để mua khu vườn của thái tử Kỳ Đà nhằm tạo tinh xá cúng dường Phật ở nước Xá Vệ. Do tích này, nghĩa cử bỏ tiền của để kiến tạo đạo tràng tự viện cũng gọi là “bố kim” (trải vàng).
[27] Tẫn xuất (pravrājana): Còn gọi là Diệt Tẫn, Khu Tẫn, Tẫn Phạt, Khu Xuất, Khu Di, Tẫn Trị, hoặc chỉ đơn giản là Tẫn, là một trong những phương pháp xử phạt hàng tỳ-kheo hoặc sa-di phạm giới, tức là gạt bỏ người đó ra ngoài đoàn thể Tăng già đang cùng ở, không cho cùng ở với Tăng chúng. Theo Thập Tụng Luật, quyển 21, người phạm Ba La Di Giới chẳng được thọ Cụ Túc Giới của người xuất gia. Nếu cho thọ thì người truyền giới cũng bị tẫn xuất. Theo Tứ Phần Luật, quyển 17, điều “Tùy Tẫn Sa Di Giới” thì Sa Di bị chúng Tăng trách tội vẫn không sửa lỗi, sẽ bị tẫn xuất. Thiện Kiến Tỳ Bà Sa Luật cũng chép tương tự. Người bị tẫn xuất không được truyền giới cho người khác, không được làm y chỉ sư, không được nhận đồ đệ, không được nhận các vật phẩm cúng dường như y bát, ngọa cụ, tọa cụ, nước rửa chân… Theo Tỳ Ni Mẫu Kinh, quyển 2: “Tẫn Xuất có hai loại Yết Ma: Một là vĩnh tẫn (khai trừ vĩnh viễn), hai là do điều phục nên tẫn xuất. Điều phục nghĩa là trong khi chưa sám hối thì mọi thứ ăn ở, nói năng, hết thảy pháp sự của Tăng chúng đều không được tham dự… Nếu kẻ đó vẫn ương ngạnh không thay đổi, hối hận, thì suốt đời chẳng được tham dự Tăng sự”. Ngoài ra, còn có một hình thức trừng phạt gọi là Mặc Tẫn (brahma-danda), nghĩa là không trò chuyện, không hỏi han đến người bị trừng phạt, coi như người ấy không tồn tại trong Tăng chúng.
[28] Tăng lạp: Số năm tính từ khi xuất gia (có thuyết nói chỉ tính từ khi thọ giới Cụ Túc).
[29] Ý nói không lãnh hội được tâm pháp của thầy.
[30] Mân: Phước Kiến, Việt: Lưỡng Quảng, Ngô: miền Nam tỉnh Giang Tô, phía Bắc tỉnh Chiết Giang, Sở: thuộc địa phận Hồ Nam và Hồ Bắc.
[31] Kê Túc Sơn gồm hai chỗ:
1. Núi Kê Túc (Kukkutapāda-giri) ở Ấn Độ, còn được dịch là Kê Cước Sơn, Tôn Túc Sơn, Lang Túc Sơn, Lang Tích Sơn, thuộc miền Trung nước Ma Kiệt Đề, là nơi ngài Ma Ha Ca Diếp nhập diệt, nằm cách Bồ Đề Đạo Tràng ba mươi hai dặm về phía Bắc. Do ngài Ca Diếp nhập diệt ở đây, để tỏ lòng tôn trọng, người ta chỉ gọi là núi Tôn Túc.
2. Núi Kê Túc nằm ở phía Tây Bắc cách huyện lỵ Tân Xuyên tỉnh Vân Nam hơn 50 dặm, tiếp giáp ranh giới của huyện Thái Hòa và Đặng Xuyên. Hình thế núi trông như đóa sen chín cánh nên còn có tên là Cửu Trùng Nham Sơn. Phía Đông núi có dòng sông Ca Diếp, có một ngọn núi cao vọt, đỉnh núi phía Nam bằng phẳng, ba phía còn lại đều có một nhánh núi trông như cái chân gà có ba ngón, nên gọi là núi Kê Túc. Trên đỉnh núi có hang Ca Diếp, tương truyền ngài Ca Diếp cất giấu y của đức Phật, đợi khi nào Bồ Tát Di Lặc thành Phật sẽ dâng y này lên (trong Đại Di Lặc Thành Phật Kinh, có chép khi Di Lặc Bồ Tát thành Phật, dẫn chúng tỳ-kheo lên núi Kê Túc, dùng thần lực mở núi ra, đánh thức ngài Ca Diếp đang nhập định chờ Phật Di Lặc giáng thế, chúng Tăng hỏi Phật: “Sao lại có con trùng mang hình người mặc y tỳ-kheo?” Phật nói: “Đây không phải là trùng, mà là đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp của Phật Thích Ca”. Ngài Ca Diếp xuất Thiền, dâng y tăng-già-lê lên Phật Di Lặc. Phật nhận lấy, thấy y tăng-già-lê không phủ kín được ngón tay út, bèn than thở: “Chúng sanh thời Phật Thích Ca do ác trược quá nặng nên thân hình quá bé nhỏ”. Dâng y xong, ngài Ca Diếp bèn nhập Hỏa Quang Tam Muội tự thiêu thân, nhập Niết Bàn). Do vậy, núi này được coi là đạo tràng của ngài Ma Ha Ca Diếp.
[32] Chung Nam, còn gọi là Trung Nam, Nam Sơn, hay Thái Ất Sơn, thuộc vào mạch núi Tần Lĩnh, thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây, chạy dài từ huyện Vũ Công đến huyện Giám Điền ở phía Đông. Thật ra Chung Nam Sơn bao gồm các rặng Thúy Hoa Sơn, Nam Ngũ Đài, ngọn núi chính mang tên Lâu Quán Đài. Đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ được nói ở đây chính là đạo tràng thuộc Nam Ngũ Đài.
[33] Tức ngày đản sanh của Phật Thích Ca và ngày vía Phật A Di Đà.
[34] Trong Chiến Quốc Sách, thiên Triệu Oai Hậu Vấn Tề Sứ (Oai Hậu nước Triệu hỏi sứ giả nước Tề), có đoạn: “Triệu Oai Hậu hỏi sứ giả: ‘Nước Tề có Anh Nhi Tử con gái nhà họ Bắc Cung vứt bỏ bông tai, đồ trang sức trên đầu, ở đến già không lấy chồng để nuôi mẹ, nêu gương tận hiếu cho bá tánh. Vì sao mãi đến nay không sắc phong cho cô ta? Như vậy làm sao thống lãnh nước Tề, làm cha mẹ muôn dân cho được!” Về sau, thường dùng điển tích “Bắc Cung chi nữ Anh Nhi Tử” để chỉ những người con gái suốt đời không lấy chồng để phụng dưỡng cha mẹ.
[35] Ô Trình nay thuộc huyện Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang.
[36] Nguyên văn: “Điếu chi bất cương, dặc bất xạ túc”. Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của sách Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích, trang 186, phần Thuật Nhi, sách Luận Ngữ.
[37] Xa Ma Tha (Samatha): Dịch nghĩa là Chỉ, Tịch Tĩnh, Năng Diệt, là một trong bảy tên của Thiền Định, hàm nghĩa nhiếp tâm chẳng để cho ngoại cảnh lay động, xa lìa hết thảy các tán loạn, giữ cho tâm vắng lặng.
[38] Cai có nghĩa là thềm, bậc, nhưng ở đây đặt tên là Tuần Cai với ngụ ý theo điển tích trong kinh Thi, có khúc hát Nam Cai với đại ý “người con hiếu cùng bảo ban nhau, răn dạy nhau phụng dưỡng hiếu thuận cha mẹ”. Như vậy, Tuần Cai có nghĩa là noi gương hiếu thuận, Tiểu Trúc là một công trình xây dựng nhỏ, như một căn nhà nhỏ chẳng hạn.
[39] Thời cổ, vợ quan đại phu gọi là Nhụ Nhân. Đời Minh, Thanh, vợ các quan thất phẩm được gọi là Nhụ Nhân.
[40] Nhận: Đơn vị đo lường thời cổ, một nhận bằng bảy hoặc tám thước Tàu.
[41] Tế Nam là tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Đông, phía Bắc có sông Hoàng Hà, phía Nam dựa vào rặng Thái Sơn. Do thành phố này nằm ở phía Nam con sông Tế Thủy nên có tên như vậy.
[42] Quê Khổng Tử là Khúc Phụ thuộc đất Lỗ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông) nên thường gọi là Đông Lỗ.
[43] Nước Tề, nước Lỗ thời Đông Châu Liệt Quốc đều thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông ngày nay, nên tỉnh Sơn Đông thường gọi là đất Tề hoặc Tề Lỗ.
[44] Đàm: Là tên một nước chư hầu nhà Châu thời cổ, nay thuộc vùng phụ cận của Đông Long Sơn Trấn thuộc thành phố Tế Nam, bị nước Tề diệt vào năm 684 trước Công Nguyên. Do vậy, Tế Nam đôi khi còn được gọi là đất Đàm.
[45] Vị khách Tăng đến nhập chúng trong một ngôi tùng lâm nào đó một thời gian gọi là “quải đơn” (treo giường). Khi cáo từ đi qua nơi khác gọi là “trừu đơn” (rút giường).
[46] Duyện Châu là một huyện của tỉnh Sơn Đông, thuộc địa phận thành phố Tế Ninh. Huyện Duyện Châu này chính là một trong chín châu thời cổ.
[47] Minh: Theo từ điển Từ Hải, Minh là một thể văn thường dùng để khắc trên những đồ vật như chuông, khánh, đá; nhằm biểu thị ý vĩnh viễn ghi nhớ không quên. Minh còn có nghĩa là một thể văn dùng để biểu thị công đức, hoặc răn nhắc chính mình (chẳng hạn Tín Tâm Minh). Thông thường, những bi ký (bài văn viết trên bia), gồm có hai phần: Phần đầu của bi ký, thuật duyên do vì sao lập bia, và phần thứ hai là Minh, nhằm ca ngợi, tán dương một nhân vật hoặc một hành vi nào đó; hoặc thuần túy là cảnh tỉnh. Ở đây, Tổ Ấn Quang dùng chữ Minh theo nghĩa thứ hai.
[48] Chúc Dung là tên vị thần lửa trong Đạo Giáo. Thật ra, theo thần thoại Trung Hoa, Toại Nhân là người phát minh ra lửa đầu tiên, nhưng Chúc Dung lại là người tìm ra cách đánh đá mồi bùi nhùi lấy lửa, nên được Hoàng Đế phong làm quan chủ quản việc lửa, rồi lại phong cho ông trông coi Hành Sơn. Do vậy, Đạo Giáo đã tôn xưng Chúc Dung làm hỏa thần, coi Hành Sơn là đạo tràng của ông.
[49] Đây là một công án Thiền được chép trong Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ Lục (Vạn Tục Tạng, quyển 119, sách số 404), một ngày nọ, Sư theo ngài Mã Tổ ra đi, giữa đường chợt thấy một bầy vịt trời bay ngang, Mã Tổ hỏi: “Cái gì thế?” Sư đáp: “Vịt trời!” Tổ lại hỏi: “Đi về đâu vậy?” Sư đáp: “Bay qua mất rồi!” Tổ liền chụp chót mũi của Sư vặn mạnh, Sư đau quá hét lên thất thanh, Mã Tổ bảo: “Nói bay mất nữa đi!” Nghe lời đó, Sư bèn hoát nhiên đại ngộ, về sau được nối pháp của ngài Mã Tổ.
[50] Con chồn hoang trong công án “dã hồ” trong năm trăm đời trước từng là phương trượng một ngôi chùa tại núi Bách Trượng.
[51] Chúc ly: Lễ chúc tụng hoàng triều khi đất nước có dịp vui mừng khánh hạ chẳng hạn như hoàng tử được sanh ra, thắng trận. Chúc thọ: Lễ cầu nguyện chúc tụng vua, hoàng hậu, thái hậu vào dịp sanh nhật của những người này. Do ân quốc vương là một trong Tứ Ân, nên các tùng lâm ngoài những dịp này vào mỗi nửa tháng đều có lễ Chúc Tán với mục đích cầu nguyện cho đất nước bình yên, được mùa, hoàng triều thịnh vượng.
[52] Ngài Tạng Hoán (790-866), họ ngoài đời là Châu, người huyện Hoa Đình, Tô Châu, xuất gia từ nhỏ, thoạt đầu theo học với ngài Đạo Khoáng, sau qua Tung Sơn thọ Cụ Túc, tham học khắp các chùa thuộc Hồ Sơn. Sau đến Tam Học Thiền Viện tại núi Ngũ Tiết, tỉnh Chiết Giang, gặp Linh Mặc thiền sư, được truyền pháp. Sau khi ngài Linh Mặc viên tịch vào năm 818, Phật giáo Trung Hoa gặp đại nạn Tam Võ, nhiều tự viện bị phá hủy, nhưng Tam Học Thiền Viện vẫn duy trì nhờ nỗ lực không mệt mỏi của ngài Tạng Hoán. Đến thời Hội Xương, Tam Học Thiền Viện lại được trùng hưng mạnh mẽ. Về sau, ngài đến trụ tích chùa Thiên Đồng thuộc thành phố Ninh Ba, đồng thời khai sáng Đông Luật Thiền Viện tại bờ Đông Dũng Giang. Do đức hạnh của Sư, nơi này trở thành một già-lam lớn, sau đổi tên là Thất Tháp Tự. Ngày mồng ba tháng Tám năm Hàm Thông thứ bảy (866), thời Đường, Sư viên tịch, hưởng 77 tuổi, Tăng lạp 57 năm.
[53] Núi Tứ Minh ở phương Tây Nam huyện Cận, tỉnh Chiết Giang, trải dài qua các huyện Từ Khê, Cận, Phụng Hóa, Tân Xương, Tứ Minh, Thượng Ngu, Dư Diêu v.v… Rặng núi này gồm nhiều ngọn cao ngất, nhưng đặc biệt là trên ngọn Phù Dung có bốn cái hang, lúc trời trong, từ dưới nhìn lên trông giống như những vuông cửa sổ được ánh mặt trời, mặt trăng soi qua, nên gọi là Tứ Minh.
[54] Thái Bạch chính là Kim Tinh (Venus), còn được biết dưới những tên khác như sao Hôm, sao Mai, hoặc Trường Canh hay Khải Minh.
[55] Cửu Giang là một thương cảng thuộc miền Tây Bắc tỉnh Giang Tây, nằm ngay trên sông Dương Tử, Lô Sơn thuộc phạm vi thành phố này.